Theo khoảng thời gian khôi phục của triều đại Meiji vào năm 1868, Chính phủ mới đã
thúc đẩy một cách nhanh chóng tiến trình công nghiệp hóa. Mitsutis và Sumitomos, và những
nhóm doanh nghiệp mới khác như Mitsubishi đang rất khát vốn, trong khi đó nguồn vốn của
họ không có khả năng đáp ứng, vì vậy họ đã quay sang vay mượn từ thị trường vốn bên ngoài.
Những nhóm công ty này đã thành lập một tập đoàn mới để gia tăng nguồn vốn tài trợ cho vài
hoạt động mạo hiểm mới của mình và hình thành nên một tổ chức quản lý những nhóm công
ty theo hình kim tự tháp. Ở ngọn của mỗi nhóm công ty này là một công ty liên doanh của
những nhóm còn lại (sau này là một tập đoàn chính), là nhóm được xem như là một công ty
mẹ nắm quyền kiểm soát một vài tập đoàn nhà nước. Những tập đoàn này đến lượt nó, m ỗi tập
đoàn này lại nắm quyền kiểm soát những tập đoàn nhà nước khác và mỗi tập đoàn khác này lại
kiểm soát những công ty nhà nước khác nữa.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị về xây dựng mô hình tập đoàn và cơ chế quản lý hoạt động ngân hàng trong tập đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều sâu, công nghệ thẻ chuyển sang áp dụng tiêu chuẩn
EMV, nhiều dịch vụ gia tăng của thẻ thanh toán đã được triển khai. Đặc biệt tháng 11/2007,
thị trường thẻ Việt Nam đã chứng kiến một sự kiện đột phá đó là việc đạt được thỏa thuận kết
nối giữa hai hệ thống thẻ thanh toán lớn nhất Việt Nam (Công ty chuyển mạch tài chính Quốc
25
gia Việt Nam BanknetVn và Công ty Smartlink) để tạo ra một hạ tầng kỹ thuật chấp nhận thẻ
với 4500 máy ATM và hơn 2 vạn thiết bị đọc thẻ POS. Năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg về việc triển khai trả lương qua tài khoản là bước tích cực về
mặt chính sách có tác dụng thúc đẩy dịch vụ thẻ phát triển.
Thứ tư, năm 2007 tiếp tục chứng kiến xu hướng hợp tác cùng phát triển giữa các TCTD
và giữa TCTD với các doanh nghiệp thông qua thiết lập các liên minh, liên kết, đối tác chiến
lược hoặc thỏa thuận hợp tác toàn diện. Các NHTM Việt Nam thu hút được sự quan tâm lớn
của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Nhiều định chế tài chính lớn đã trở thành cổ
đông lớn, cổ đông chiến lược hoặc đối tác chiến lược của các NHTM, đồng thời đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản trị, hiện đại hoá công nghệ và phát triển dịch vụ
ngân hàng của các NHTM Việt Nam.
1.2. Minh họa cho rủi ro tiềm ẩn thực tế
Thông qua các qui định rành buộc ta thấy ngân hàng nhà nước rất thận trọng trong việc
cấp giấy phép thành lập ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế lại có nhiều vấn đề phái sinh
không lường trước được như:
Vấn đề bảo mật thông tin
Một ngân hàng có nguồn gốc tập đoàn có dám từ chối cung cấp cho các công ty thành
viên tập đoàn các thông tin mật mà nó đang nắm giữ về các đối thủ cạnh tranh của chính các
công ty nội bộ đó? Liệu luật pháp đã có qui định chặt chẽ về vấn đề này chưa?
Chính sách ưu đãi và việc phân bổ sai lệch nguồn tài nguyên tín dụng
Mặc dù Luật các tổ chức tín dụng hiện hành đã dự liệu các hạn chế cho vay để bảo đảm
an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng nhưng làm sao có thể kiểm soát được các mối
quan hệ tham gia vốn chằng chịt trong một tập đoàn, nơi mà công ty mẹ góp vốn vào công ty
con, công ty con sinh ra công ty cháu, và đến lượt nó, công ty cháu, về mặt luật pháp, hoàn
toàn có thể hùn vốn vào một công ty con khác do chính công ty “bà ngoại” của mình lập ra?
Hay như một cách lách luật khác cũng rất phổ biến hiện nay là thông qua thị trường liên
NH. Ví dụ: NH của tập đoàn A vì lý do nào đó không cho A vay được thì chuyển tiền (dưới
hình thức tiền gửi) tại NH khác để NH này cho vay hộ; hay như chuyển vốn cho vay khách
26
hàng của nhau với mục đích đảo nợ không để phải phân vào nhóm nợ xấu và trích lập dự
phòng rủi ro; hoặc chuyển vốn cho nhau để “lách” các quy định của NHNN về các tỷ lệ đảm
bảo an toàn trong hoạt động của TCTD…
Với cách làm này thử hỏi NHNN sẽ kiểm tra như thế nào? Và hậu quả để lại ra sao?
Điển hình, trong năm 2007, có 10 NH từ 20% đến trên 80% dư nợ cho vay là sử dụng vốn từ
liên NH đã dẫn tới tình trạng căn thẳng vốn vào đầu năm 2008. Vấn đề có thể sẽ còn trầm
trọng nếu giả sử các ngân hàng này là của các tập đoàn tài chính. Và hậu quả sẽ là sụp đổ hàng
loạt nếu NH C không đòi được NH B, vì B không đòi được NH A, A không trả được nợ vì
người vay của A chính là tập đoàn A nhưng hiện đang thiếu vốn khả dụng để đáp ứng nhu cầu
đầu tư.
27
Chương 2:
Một Số Kiến Nghị Về
Xây Dựng Mô Hình Ngân Hàng
Trong Các Tập Đoàn Kinh Tế Tại Việt Nam
Đánh giá triển vọng ngành ngân hàng
Dù thực tế hiện nay ngành Ngân hàng nói riêng cũng như tài chính nói chung gặp nhiều
khó khăn trong năm 2008. Tuy nhiên sự khó khăn này chỉ là vấn đề tạm thời và sẽ sớm được
khắc phục khi nền kinh tế Việt Nam trở lại đúng quỹ đạo tăng trưởng như trước đây. Nếu nhìn
kỹ hơn sẽ thấy được tiềm năng to lớn của ngành Ngân hàng ở nước ta khi có sự tăng lên nhanh
chóng về số lượng ngân hàng, về qui mô vốn điều lệ, về mạng lưới chi nhánh . Hơn thế, Việt
Nam lại là một nước đông dân cư ( hơn 80 triệu người), mà dân số đa phần ở độ tuổi còn trẻ,
các tiện ích dịch vụ ngân hàng là không thể thiếu trong đời sống hằng ngày như thẻ tín dụng,
vay vốn, ngân hàng internet…..Thế nhưng hiện nay chỉ chưa tới 10% dân số Việt Nam được
tiếp xúc với các dịch vụ ngân hàng. Cho thấy tiềm năng phát triển là còn rất lớn .
Quan trọng hơn chính là quan điểm xuyên suốt của Chính phủ đang nỗ lực xây dựng
nền kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường tự do . Muốn xây dựng được một nền
kinh tế thị trường thành công thì phải xây dựng được những tập đoàn kinh tế vững mạnh đi
cùng với một hệ thống ngân hàng phát triển.
Mặc dù chính phủ đã tạo điều kiện để các TĐKT phát triển một cách thuận lợi nhất trong
việc thu hút vốn thông qua việc hình thành hệ thống ngân hàng riêng, nhưng trong thực tế quá
trình này đang gặp rất nhiều hạn chế khó khăn. Sau đây là một vài nét hạn chế của nó.
28
I. Đánh giá hạn chế của tập đoàn hiện nay và ảnh hưởng của nó lên việc thành lập ngân
hàng:
1. Các hạn chế đến nay vẫn chưa khắc phục được và có thể ảnh hưởng đến hoạt động
của các tập đoàn hiện tại:
1.1. Về tổ chức quản lý:
Cho tới thời điểm hiện nay quá trình đổi mới DNNN mới chỉ khắc phục được các hạn
chế về số lượng DNNN quá nhiều và việc triển khai cổ phần hóa đang được Chính phủ gấp rút
thực hiện. Tuy nhiên, việc sắp xếp lại các DNNN vẫn còn nhiều bất cập.
Cùng với việc sắp xếp, cổ phần hoá DNNN, từ năm 2001 đến nay, số TCT không giữ
được vai trò chi phối bị giải thể rất ít; nhưng lại thành lập thêm 17 TCT Nhà nước, tổ chức lại
7 TCT thành tập đoàn, đưa một TCT 90 vào cơ cấu của tập đoàn.
Bảng 3.1: Số lượng các doanh nghiệp nhà nước đã sắp xếp
Các chỉ tiêu
Năm
2000 2002 2004 2006 2010 (dự kiến)
Sáp nhập, hợp nhất 401
Trong đó: Số tổng công ty 8
Giao bán, kinh doanh và cho thuê 274
Phá sản 6 12
Giải thể 112
(đáng lưu ý: 18 TCT 91 không
giải thể được, mặc dù chúng
đều đang trong tình trạng phá
sản)
Cổ phần hóa 2.210* 715 3000 1500
Chuyển sang hình thức công ty
TNHH một thành viên chủ sở hữu
Nhà nước hoặc công ty cổ phần
mà cổ đông là DNNN (bắt đầu từ
năm 2003)
55
(trong đó có
13 TCT91)
(*): tổng số doanh nghiệp đã được cổ phần hóa trong hơn 10 năm kể từ 1992
29
1.2. Sự hình thành Tổng công ty theo phương pháp "cộng dồn"có kéo theo sự hình
thành Tập đoàn theo phương pháp “cộng dồn”?
Mô hình đầu tiên: Các “Tổng công ty 90, 91”
Các DNNN và xí nghiệp liên hiệp được sáp nhập “gom” lại thành các TCT theo những
hình thức như cùng ngành nghề (ví dụ, TCT Nông nghiệp gồm các doanh nghiệp của ngành
nông nghiệp...); liên kết dọc (khác ngành nghề nhưng có mối liên kết trong chu trình sản xuất
kinh doanh, ví dụ như khai thác - sản xuất - lưu thông than trong TCT Than) hoặc liên kết hỗn
hợp (nhiều ngành nghề khác nhau, ví dụ như TCT Thương mại Sài Gòn). Đến năm 2006, có
18 TCT 91 và 73 TCT 90. Các TCT này chiếm 1/3 về số lượng, 54% về vốn, 62% doanh thu
và 73% số tiền nộp ngân sách của 5970 DNNN.
Bảng 3.2: Số lượng các doanh nghiệp nhà nước qua các năm
Năm Kế hoạch
2000 2002 2004 2006 2010
Tổng số DNNN 5.655 4.296 3.300 2.176 554
TCT 105 26
Nguồn: Tổng hợp
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp tại Hội nghị sơ kết
một năm thực hiện chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 3
khoá IX (tháng 12 năm 2002), trong số 78 TCT 90 chỉ có 9 TCT có đủ các điều kiện duy trì
TCT Nhà nước. Tuy nhiên, 18 TCT 91 vẫn được tiếp tục hoạt động và một số khá lớn TCT 90
không đáp ứng tiêu chí trên được sắp xếp lại.
Mô hình thử nghiệm thứ hai: Mô hình công ty mẹ-công ty con
- Thực chất mô hình công ty mẹ – công ty con (CTM – CTC):
Trên thế giới trong nền kinh tế thị trường có mô hình về “công ty nắm vốn”, “công ty
nhận vốn”. Ý nghĩa của việc “ nắm vốn”, “nhận vốn” được gọi một cách khác là “ mẹ – con”.
30
Quan hệ mẹ – con là sự chi phối của các nhà đầu tư (cổ đông) – công ty mẹ vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các công ty con.
- Vốn được đầu tư vào nhiều công ty với đặc trưng:
+ Tỷ trọng vốn lớn trong công ty con tạo khả năng tác động toàn diện vào công ty
con.
+ Công ty mẹ có thể hoạt động tài chính thuần tuý (chuyên dùng vốn để mua cổ
phiếu tại các công ty con), có thể vừa hoạt động tài chính, vừa trực tiếp sản
xuất kinh doanh.
Thực tế là:
Báo cáo sơ kết thí điểm mô hình CTM - CTC cũng nêu lên thực trạng một số DN vẫn
giữ thói quen điều hành bằng mệnh lệnh hành chính trong quan hệ giữa CTM - CTC. Điều này
dẫn đến sự hình thức trong công việc chuyển đổi này. Nghĩa là gom văn phòng TCT và một
vài doanh nghiệp thành viên độc lập lớn trong TCT để hình thành công ty mẹ. Tình trạng này
có thể gọi là “con có trước mẹ”.
Mô hình thử nghiệm thứ ba: Mô hình tập đoàn kinh tế
Phương án được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới DNNN từ 2006 đến
2010 là đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá các TĐKT, TCT Nhà nước. Theo đó, đến hết năm
2010 sẽ cổ phần hoá khoảng 1.500 doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp thành viên của TCT
Nhà nước phải hoàn thành trong năm 2008), năm 2007 phải cổ phần hoá 550 doanh nghiệp
(có khoảng 20 TCT), số còn lại sẽ thực hiện trong các năm 2008- 2009, một số công ty và số ít
doanh nghiệp chưa cổ phần hoá được sẽ thực hiện trong năm 2010.
Tại hội nghị về sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2006 - 2010 (7/10/2006), Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo: dự kiến sẽ phải cổ phần hóa xong 79 TCT trong số 105 TCT và cổ
phần hoá khoảng 1.500 doanh nghiệp, còn lại là các doanh nghiệp công ích, nông, lâm trường.
Cũng trong năm này, Chính phủ đã phê duyệt thành lập thí điểm 8 TĐKT nhà nước bao gồm
tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tập đoàn Điện lực Việt Nam, tập đoàn Bưu chính-Viễn thông, tập
đoàn Dệt may Việt Nam, tập đoàn Cao su Việt Nam, tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam, tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam và tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam.
31
Như vậy, lại có hàng loạt TĐKT mới tiếp tục ra đời, trên cơ sở kế thừa các TCT trước
đây.
Không thể phủ nhận rằng mô hình tập đoàn gần với mô hình tổ chức hoạt động của các
TĐKT quốc tế, hoạt động phù hợp với qui luật thị trường hơn. Nhưng tập đoàn kinh doanh
không phải là một doanh nghiệp, một pháp nhân mà chỉ là sự liên kết tự nguyện giữa các
doanh nghiệp độc lập với nhau theo những phương thức khác nhau nhằm những mục đích
nhất định. Vì vậy, với một quyết định hành chính chúng ta thành lập một tập đoàn kinh doanh.
Như vậy, xác định hướng đi hình thành TĐKT Nhà nước thông qua cổ phần hóa các TCT 90,
91, có tránh được hướng hình thành DNNN theo phương pháp “cộng dồn” trước kia?
1.3. Cơ cấu tổ chức quản lý chưa hoàn thiện
Có thể nói, mô hình công ty mẹ-con đã tạo ra một bước tiến mới trong quá trình đổi mới,
sắp xếp lại khu vực DNNN. Các TCT 90, 91 từ phương thức quản lý theo kiểu hành chính
(cấp trên - cấp dưới) và cơ chế giao vốn đã chuyển sang mối quan hệ bình đẳng, tự nguyện và
cơ chế đầu tư vốn. Khi chuyển thành công ty mẹ, Nhà nước giao quyền và trách nhiệm bảo
toàn vốn của các đơn vị thành viên cho Công ty mẹ. Công ty mẹ được chủ động có các biện
pháp cổ phần hóa các đơn vị này hoặc chuyển thành công ty TNHH một thành viên theo định
hướng của công ty mẹ.
Nhưng trên thực tế hoạt động của các tập đoàn có thực sự có tổ chức quản lý theo kiểu
mô hình công ty mẹ-công ty con?
Theo các chuyên gia, trở ngại lớn nhất trong việc thực hiện mô hình này là tình trạng
thiếu vốn và yếu về năng lực quản lý. Sự giám sát, quản lý của Nhà nước đối với các tập đoàn
cho đến nay vẫn chưa thể hiện rõ. Chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể TĐKT
hoạt động ra sao, quy mô thế nào.
Báo cáo sơ kết thí điểm mô hình CTM-CTC cũng nêu lên thực trạng sự hình thức trong
công việc chuyển đổi một số doanh nghiệp. Hình thành mang tính hành chính nên việc quản lý
DN cũng không mấy thay đổi.
32
1.4. Về quản lý hoạt dộng kinh doanh
Đa dạng hóa kinh doanh có phải là một chiến lược đúng đối với tập đoàn của Việt
Nam hiện nay?
Thời gian qua, sự nở rộ của TĐKT Nhà nước đã song hành cùng trào lưu đầu tư tài
chính và kinh doanh bất động sản. Các tập đoàn từ dầu khí, điện lực đến hàng hải, hàng không
đều thành lập các công ty, bộ phận kinh doanh ngoài ngành nghề chính như: tài chính, bất
động sản, chứng khoán, quản lý quỹ, đầu tư...Doanh nghiệp đứng ra lập ngân hàng, trường đại
học…
Đa dạng hóa kinh doanh là một trong những chiến lược nhằm tạo thế vững chắc trong
phát triển doanh nghiệp. Nhưng muốn đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, doanh nghiệp trước
hết phải định vị được lĩnh vực hoạt động, năng lực cốt lõi của mình. Trên thực tế, những hoạt
dộng kinh doanh đòi hỏi tính chuyên môn hóa cao như tài chính, ngân hàng không thể chỉ cần
có kinh nghiệm đầu tư hay thuê nhân lực có chuyên môn là đủ.
Vậy mô hình tập đoàn có đưa được đơn vị về hoạt động theo đúng nghĩa - là một đơn vị
hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường (những mặt hoạt động công ích sẽ được
hạch toán riêng để đảm bảo báo cáo tài chính phản ánh đúng đắn tình hình tài chính của một
tập đoàn) - hay mô hình này hiện tại đã làm cho các tập đoàn trở nên hoạt động đa lĩnh vực
giống nhau, cùng cạnh tranh với nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế của nền
kinh tế Việt Nam?
1.5. Sự minh bạch về sở hữu vốn trong các tập đoàn:
Tập đoàn kinh doanh phải là một tập hợp đa sở hữu. Nếu tập đoàn kinh doanh được
thành lập với một công ty mẹ là DNNN và một loạt công ty TNHH một thành viên là DNNN
thì thực chất đó chỉ là sự đổi tên của TCT hiện nay mà thôi. Vì vậy, dù việc thành lập các
TĐKT mạnh, việc cải tổ các DNNN đang là đòi hỏi cấp bách hiện nay nhưng cũng không thể
quá vội vã.
Về cơ chế chủ quản với doanh nghiệp nhà nước
Chủ trương xoá bỏ chế độ chủ quản đã được nêu ra từ đầu những năm 1990, nhưng đến
nay vẫn chưa có chuyển biến cơ bản. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là:
33
i) Sự chưa rõ ràng trong xác định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế;
ii) Sự e ngại mất quyền lực và lợi ích khi không còn doanh nghiệp “trực thuộc”
iii) Thói quen của người quản lý doanh nghiệp trong việc tìm chỗ dựa để chia sẻ trách
nhiệm trong hoạt động sản xuất- kinh doanh.
Sự tồn tại cơ chế chủ quản đã dẫn đến hạn chế quyền chủ động và tính tự chịu trách
nhiệm của DNNN, sự chậm trễ trong sắp xếp lại DNNN và ban hành các chính sách phù hợp
với cơ chế thị trường.
Về chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước
Nếu giới hạn vào các DNNN sở hữu 100% vốn, thì sở hữu cụ thể của doanh nghiệp là
nhà nước. Song có một số vấn đề: trong hệ thống quản lý nhà nước với nhiều cơ quan ở nhiều
cấp khác nhau có sự phân công và phối hợp để thực hiện các quyền và trách nhiệm về quản lý
kinh tế, không xác định được rõ cơ quan nào là chủ sở hữu đích thực của DNNN.
Vốn của TCT hay của các công ty thành viên vẫn là vốn cả Nhà nước - thuộc sở hữu
toàn dân. Tổng Giám đốc TCT, giám đốc các công ty thành viên là chủ tài khoản của số tiền
lớn nhưng không phải do chính họ bỏ ra.
Hậu quả để lại...
Tình trạng thiếu trách nhiệm, chồng chéo trùng lắp trong việc thực hiện các chức năng
của quản lý nhà nước với DNNN. Bởi vậy, để đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNNN, cần xác định rõ được chủ sở hữu đích thực.
Sai phạm về kinh tế tại các TCT 90, 91 chiếm phần lớn trong các sai phạm mà toàn
ngành thanh tra đã phát hiện ra. TCT Dầu khí Việt Nam- TCT 91 mạnh nhất nước: Chỉ qua
việc thực hiện 2 dự án thuộc loại nhỏ và trung bình, 8 bị can, trong đó có một nguyên Phó
Tổng giám đốc đã làm thất thoát và chiếm đoạt 54,7 tỷ đồng. TCT Điện lực Việt Nam (EVN) -
TCT lớn thứ 3 ở phạm vi toàn quốc: Tham ô, lãng phí, thất thoát trong dự án đầu tư, cải tạo
lưới điện Hà Nội, Hải Phòng... cũng không nhỏ.
34
2. Xu hướng cho phép các tập đoàn kinh tế thành lập ngân hàng hiện nay nên được
chấp nhận hay không?
2.1. Giả định 1: Không chấp nhận cho các tập đoàn thành lập ngân hàng riêng
Kết quả có thể xảy ra:
- Hiện tại: Có thể hạn chế bớt lượng cung tiền đầu tư cho việc thành lập ra các ngân
hàng mới phần nào giảm được sự gia tăng của lạm phát, đồng thời buộc các Tập đoàn
Nhà nước tập trung vào sản xuất tạo ra sản phẩm nhiều hơn để phục vụ cho lợi ích của
xã hội hạn chế việc đầu tư vào các dự án lớn của tập đoàn, các công ty tiềm năng hạn chế
việc mở rộng quy mô hoạt động cũng như việc đa dạng hóa hoạt động không có mối liên
hệ với ngành nghề hoạt động chính yếu của tập đoàn.
- Sợi dây móc nối giữa công ty mẹ và ngân hàng con không có hạn chế rủi ro tiềm
tàng mà mô hình này mang lại giảm bớt áp lực cho nhà nước trong việc kiểm soát rủi ro
của hệ thống ngân hàng. Ngăn chặn “hiệu ứng domino” từ sớm giảm thiểu nguy cơ
khủng hoảng theo nguyên tắc bình thông nhau, từ hê thống ngân hàng sang các hệ thống
khác trong nền kinh tế.
- Tương lai: Ngân hàng trong nước vẫn tiếp tục hoạt động bình thường cho đến khi
các ngân hàng nước ngoài vào cạnh tranh các tập đoàn lớn cần nguồn vốn dồi dào, cũng
như các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng trong nứơc, kể cả những
người có nhu cầu gửi tiết kiệm chắc chắn sẽ nhảy sang hệ thống ngân hàng nước ngoài
hệ thống ngân hàng Việt Nam đã yếu kém, nay lại bị hút gần như toàn bộ lượng khách
hàng hệ thống ngân hàng sẽ bị điêu đứng..
- Các tập đoàn lớn (như than, điện tử viễn thông, dầu khí, bảo hiểm Bảo Việt…) các
công ty trong nước có tiềm lực phát triển mạnh (như FPT, Mobilephone, hay các doanh
nghiệp bán lẻ như càfe Trung Nguyên ….) cho đến khi các ngân hàng 100% vốn nước
ngoài được phép thành lập, mới có nguồn cung cấp vốn dồi dào để mở rộng hoạt động,
đa dạng hoá sản phẩm, nghiên cứu và phát triển, hay đầu tư vào các dự án lớn để đẩy
mạnh hơn tiềm lực của tập đoàn thì cũng là lúc những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp
của chính phủ bị mất hiệu lực không còn khả năng cạnh tranh nổi với các tập đoàn cũng
như các công ty lâu đời đến từ các nước phát triển như Toyota (sản xuất xe hơi),
35
Microsoft (phần mềm điện tử),…bị mất thị phần ngay cả thị phần trong nước vốn là thế
mạnh của các tập đoàn và các doanh nghiệp bán lẻ này nguy cơ bị phá sản nhanh chóng
hơn cả hệ thống ngân hàng.
Ban đầu không phải chịu rủi ro do mô hình này mang lại, nhưng thời gian sau khi hiệp
định của WTO có hiệu lực thì các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng sẽ rất khó khăn để trụ
vững ngay cả tại thị trường trong nước.
2.2. Giả định 2: Chấp nhận cho các tập đoàn thành lập ngân hàng riêng
Kết quả có thể xảy:
- Hiện tại: Phải chấp nhận lượng cung tiền ngày càng gia tăng trong việc thành lập
ngân hàng của các tập đoàn đối đầu với lạm phát không chỉ chính phủ phải đối đầu mà
những người nông dân nghèo là những người phải gánh chịu nhiều nhất. Vì vậy, chính
phủ không chỉ tìm cách đối đầu với lạm phát mà còn phải xoa dịu tình trạng đói nghèo
của các gia đình nông dân trước tình trạng vật giá leo thang thường xuyên phải kêu gọi
sự đóng góp từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong việc khắc phục tình trạng
của các hộ nghèo thêm vào đó là phải đối đầu và kiểm soát được rủi ro mà mô hình này
mang lại không chỉ đối với hệ thống ngân hàng mà còn là của cả nền kinh tế áp lực phải
chịu là rất lớn.
- Bù lại các tập đoàn lớn, các doanh nghiệp tiềm năng có nhu cầu mở rộng hoạt động
của công ty mình có vốn đầu tư rẻ để phát triển sản xuất, nghiên cứu mở rông thị trường
thêm vào đó là có dịch vụ tư vấn cho việc sử dụng vốn sao cho hợp lý thu hẹp dần
khoảng cách giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước gia tăng dần
tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước củng cố ngày càng mạnh thị phần trong
nước để tiến dần hoạt động ra nước ngoài.
- Tương lai: Sau khi quyền bảo hộ doanh nghiệp của chính phủ bị WTO dở bỏ một
thị trường cạnh tranh bình đẳng mở ra các tập đoàn sau khi đã phát triển quay ra hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong nước ưu tiên tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp trong
nứơc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước về vốn giúp các doanh nghiệp trong nước có
đủ vốn phát triển và mở rộng hơn về quy mô, chất lượng, sản lượng các doanh nghiệp
trong nước sẽ tự tin hơn trong việc cạnh tranh với các công ty hùng mạnh của nước
36
ngoài mà không cần sự hỗ trợ vốn từ phía Nhà nước sau khi các tập đoàn đủ mạnh về
vốn sẽ quay về đầu tư lại cho ngân hàng con, và các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ cho hệ thống
ngân hàng không thuộc tập đoàn phát triển gia tăng khả năng cho vay cũng như khả năng
huy động vốn của ngân hàng con, và các ngân hàng trong nước đẩy mạnh khả năng cạnh
tranh của các ngân hàng con và các ngân hàng khác hệ thống ngân hàng trong nước sẽ
dần củng cố vị thế của mình hơn cạnh tranh ngang hàng với các ngân hàng nước ngoài
nền kinh tế không còn đứng trước nguy cơ bị xâm chiếm bởi các công ty lớn, các tập
đoàn lớn đến từ các quốc gia hùng mạnh trên thế giới.
Mặc dù phải đối đầu với những rủi ro lớn trong hiện tại nhưng nếu nhìn về tương lai lại
mang tính bảo vệ nền sản xuất của nước nhà, khi mà chính phủ không được quyền can thiệp
hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước theo những gì đã quy định trong hiệp định gia nhập
WTO.
Qua hai giả định chúng ta có thể thấy được mặt khó khăn cũng như yếu tố thuận lợi
của việc cho phép các tập đoàn, các công ty liên kết với nhau thành lập hay không thành lập
ngân hàng riêng. Như vậy bước tiếp theo là chúng ta phải cân nhắc giữa phải chấp nhận tổn
thất trong hôm nay để có được nguồn lực mạnh mẽ trong tương lai, hay phải giữ vững hôm
nay, nhưng tương lai là một bầu trời u ám không biết đi đâu về đâu?
Theo ý kiến của nhóm chúng tôi, vì mục tiêu tương lai mà chấp nhận đánh đổi những khó
khăn, rủi ro ngày hôm nay. Tức lựa chọn việc cho phép các công ty thành lập ngân hàng riêng.
Với những lý do sau:
Lý do 1: Các Tập đoàn Nhà nước hiện nay vẫn bị xem là yếu kém về nhiều mặt trong
khi lại đang nắm giữ những ngành nghề then chốt của nước nhà, mà để che lắp những
yếu kém đó đòi hỏi phải có vốn và chính phủ chính là người phải thường xuyên rót vốn
cho các tập đoàn này hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi, thế nhưng nguồn tiền từ chính
phủ là có hạn, không thể đáp ứng cho nhu cầu mở rộng hoạt động của các tập đoàn,
hơn nữa nếu WTO có hiệu lực thì việc chính phủ tài trợ ngầm cho các tập đoàn này là
vi phạm thông lệ quốc tế. Chính vì thế sớm cho phép các tập đoàn này thành lập ngân
hàng để các ngân hàng có đủ thời gian định vị tên tuổi của mình trong công chúng, từ
đó mới sớm có được nguồn tiền huy động từ tiền gửi tiết kiệm để đầu tư vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, đầu tư vào nghiên cứu phát triển. Mặc dù là ngân hàng con mới
37
mở nhưng dựa vào tên tuổi của các tập đoàn lớn của nhà nước, chắc chắn sẽ thu hút
được người dân gửi tiết kiệm.
Lý do 2: Việc cho phép các tập đoàn lớn nhà nước, cùng một số công ty tư nhân có
tiềm năng như FPT, Mobilephone liên kết với một DNNN thành lâp ngân hàng riêng
như vậy có thể được xem là việc bảo vệ nền công nghiệp nước nhà. Ngoài việc cung
cấp vốn cho các doanh nghiệp này mở rộng quy mô, nghiên cứu phát triển, còn giúp
các doanh nghiệp tiềm năng này gia tăng khả năng cạnh tranh với các công ty nước
ngoài. Khi các hàng rào bảo hộ của chính phủ bị dở bỏ, các tập đoàn tầm cỡ trên thế
giới sẽ tràn vào, chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng cá lớn nuốt cá bé, và các tập đoàn quan
trọng của Việt Nam sẽ là những con cá bé dễ dàng bị nuốt do chúng ta không đủ mạnh
về vốn, thiếu kinh nghiệm, lại yếu kém về nhiều mặt thua xa so với những tập đoàn
100% vốn nước ngoài, hơn nữa sản phẩm tạo ra vẫn còn nghèo nàn không đạt chất
lượng, hoặc không đủ cung ứng, lại quá mắc….., như dầu khí, than, điện lực,… chẳng
hạn, các tập đoàn hiện nay chủ yếu dựa vào thiên nhiên nhiều hơn là sản xuất tạo ra
các thành phẩm, trình độ công nghệ yếu, nguồn nhân lực thiếu vẫn chưa có khả năng
tiếp thu học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác, chưa có khả năng nghiên cứu tạo ra,
hoặc nhập về các lọai máy móc trang thiết bị hiện đại để sản xuất ra các thành phẩm
với nhãn hiệu “ Made in Vietnam”. Nguyên nhân cũng là do chúng ta thiếu vốn, chính
vì thế việc cung cấp vốn cho các tập đoàn ở nước ta hiện nay đang là một vấn đề rất
cấp bách.
Từ hai lý do trên việc cho phép các Tập đoàn Nhà nước nắm các khâu quan trọng của nền
kinh tế thành lập ngân hàng riêng là điều tất yếu.
II. Một số kiến nghị về xây dựng mô hình tập đoàn và cơ chế quản lý hoạt động ngân hàng
trong tập đoàn
1. Mô hình tập đoàn đề xuất:
Từ thực tiễn mô hình tổ chức quản lý tập đoàn trên thế giới, có thể đề xuất mô hình tập
đoàn tại Việt Nam như sau:
38
1.1. Tổ chức quản lý:
- Hội đồng quản trị có cơ cấu gồm các thành viên trong nội bộ và các thành viên độc
lập. Thành viên độc lập ở ngoài công ty hầu hết là những người đã hoặc đang đảm
nhiệm chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị, hoặc tổng giám đốc các công ty khác có
liên quan
- Để nâng cao hiệu quả hoạt động của tập đoàn bên cạnh hình thức kiểm soát nội bộ
các ngân hàng trong tập đoàn nên giữ vai trò kiểm soát hoạt động chi phí của tập
đoàn, cụ thể có thể ngân hàng chỉ cần nắm giữ một lượng nhỏ cổ phiếu của công ty
mẹ (có thể 2%-5%) nhưng được uỷ quyền quản lý từ 30%-70% tổng số cổ phiếu
của công ty mẹ. Từ đó có thể hạn chế các rủi ro phát sinh, gia tăng hiệu quả sử
dụng vốn của công ty mẹ, giảm chi phí phát sinh trong nội bộ
- Tổng giám đốc điều hành là những người có chuyên môn cao do hội đồng quản trị
thuê từ bên ngoài.
1.1.1. Quyền quản lý tài sản và kinh doanh:
- Đối với công ty con do công ty mẹ nắm giữ cổ phần khống chế hay công ty mà
công ty mẹ chỉ nắm giữ một phần tài sản thì hội đồng quản trị công ty mẹ chỉ cần
cử thành viên tham gia hội đồng quản trị của công ty đó theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ
- Đối với công ty con do công ty mẹ đầu tư toàn bộ vốn, thì công ty mẹ sẽ nắm giữ
toàn bộ tài sản. Hội đồng quản trị và giám đốc công ty con ( được công ty mẹ ủy
quyền) chịu trách nhiệm quản lý.
1.1.2. Quyền phân chia lợi ích bên trong tập đoàn:
Để đảm bảo phân chia lợi ích công bằng trong tập đoàn, cần thực hiện một số nguyên tắc
chủ yếu sau:
- Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi: là cơ sở của sự phân phối lợi ích trong nội bộ
tập đoàn thể hiện nguyên tắc kinh tế thị trường.
- Phân phối lợi ích hợp lý theo sự biến động giá cả thị trường.
39
- Nguyên tắc ủng hộ sự tiến bộ, không bảo vệ sự lạc hậu. Là quy luật khách quan của
kinh tế thị trường. Nguyên tắc này sẽ đảm bảo hài hoà giữa nguyên tắc cạnh tranh
và bảo hộ trong nội bộ tập đoàn.
1.2. Về báo cáo tài chính hợp nhất:
Để đảm bảo nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, đầy đủ, báo cáo tài chính hợp nhất phải thể
hiện được tình hình hoạt động của cả toàn tập đoàn sau khi loại trừ những giao dịch trong nội
bộ tập đoàn. Để làm được điều đó có thể ứng dụng 2 phương pháp sau:
- Phương pháp 1: Công bố bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, đồng thời lập báo cáo riêng tóm tắt tài sản có và nợ, tóm tắt lợi nhuận tất cả
các công ty con gộp lại với nhau.
+ Ưu điểm: Đánh giá khách quan toàn bộ tập đoàn, làm giảm tối đa khả năng sửa
đổi các báo cáo đã được công bố.
+ Nhược điểm: Phải có quá trình lập kế hoạch và soạn báo cáo cẩn thận chi tiết,
mất nhiều thời gian.
- Phương pháp 2: Công bố bảng cân đối kế toán hợp nhất, báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh và hai báo cáo hợp nhất cho toàn bộ tập đoàn (bảng cân đối kế toán hợp
nhất gộp tài sản có và nợ của các công ty con với công ty mẹ và bảng báo cáo thu
nhập hợp nhất của công ty mẹ và công ty con).
+ Ưu điểm: Nếu báo cáo hợp nhất được lập một cách thích hợp thì chúng có thể
cung cấp cho các cổ đông các báo cáo chính xác về tình hình tài chính và lợi
nhuận của tập đoàn với tư cách là một đơn vị kinh doanh.
1.3. Cơ chế khuyến khích kết quả hoạt động
Để công ty hoạt động hiệu quả, ngoài hệ thống giám sát chặt chẽ, phân chia trách nhiệm rõ
ràng, còn phải có cơ chế khuyến khích hiệu quả bao gồm bên trong và bên ngoài tập đoàn:
- Bước 1: Dựa trên cơ chế khuyến khích hiện tại ở Việt Nam, gồm có:
Chế độ lương được kết hợp giữa thâm niên làm việc và kết quả sát hạch.
40
Chế độ đề bạt căn cứ vào kết quả thi tuyển.
Sự thừa nhận nổ lực trong công việc của các nhà quản lý qua đó tạo khả năng
duy trì tính liên tục của các hợp đồng và cơ hội thăng tiến cao hơn.
- Bước 2: Khuyến khích hoạt động dựa trên không chỉ do thâm niên làm việc mà còn
chế độ tiền thưởng ngắn và dài hạn (gắn chặt với giá cổ phiếu trong tương lai hay
sự lớn mạnh của công ty)
1.4. Quan hệ giữa Chính phủ và tập đoàn:
Thông qua nghiên cứu tập đoàn ở Nhật cũng như một số nước khác đều cho thấy: Quan hệ
giữa Chính phủ và tập đoàn gồm chủ yếu tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà nước. Đây là yếu
tố quyết định cho sự thành công của tập đoàn lúc ban đầu. Do vậy, Nhà nước cần phải ban
hành và thực thi hàng loạt những chính sách cải cách đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của tập đoàn, bao gồm: quyền tự chủ kinh doanh xuất nhập khẩu, quyền kinh doanh
đối ngoại, chính sách lưu thông vốn, chính sách thuế và nâng cao năng lực kỹ thuật.
Ví dụ:
Để giảm mâu thuẫn quyền lợi kinh tế và chức năng xã hội của tập đoàn, Nhà nước cần
phải tách rời chức năng kinh doanh và quản lý của mình. Chính phủ không can thiệp trực tiếp
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chức năng và trách nhiệm kinh doanh giao
cho tập đoàn thực hiện. Đổi lại tập đoàn sẽ chịu trách nhiệm với Nhà nước về đảm bảo vốn sẽ
được sử dụng hiệu quả và làm tăng giá trị doanh nghiệp. Chính phủ chỉ cần tiến hành kiểm tra
và đánh giá thường niên.
Cụ thể, ở nhiều nước, một số hình thức hợp đồng hay biên bản ghi nhớ được sử dụng. Đây
là hình thức thỏa thuận được ký giữa Chính phủ và tập đoàn trên cơ sở kế hoạch kinh doanh
hàng năm nhằm mục đích đánh giá hiệu quả hoạt động của tập đoàn.
1.5. Mối quan hệ trong các tập đoàn kinh tế và ngân hàng:
Quan hệ giao dịch kinh doanh
- Công ty mẹ phải có vị trí đặc biệt quan trọng, phải là công ty có khả năng chi phối
hoạt động kinh doanh của các công ty con phát huy cao nhất sức mạnh của tập đoàn, tránh
41
việc hoạt động không đồng bộ, thiếu sự liên kết hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong
nội bộ tập đoàn.
- Công ty mẹ, các doanh nghiệp thành viên và ngân hàng đều là chủ thể đôc lập trong
thị trường, hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, các giao dịch kinh doanh trong nội bộ
giữa công ty mẹ, các doanh nghiệp thành viên cần phải tuân thủ các quy tắc thị trường đảm
bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi, song tất nhiên giưã tập đoàn mẹ và
các doanh nghiệp thành viên cũng như giưã tập đoàn và ngân hàng chắc chắn cũng cần có
những bảo hộ, ưu đãi theo những điều kiện nhất định như:
Các doanh nghiệp trong tập đoàn đều ưu tiên mua bán hàng hoá với nhau theo
mức giá thấp hơn so với giá thị trường hoặc nếu mua với mức giá thị trường thì
được cung cấp các điều khoản ưu về tín dụng, phân phối, thanh toán
Khi tập đoàn cần vay vốn, ngân hàng thành viên có thể cho vay với mức lãi
suất thấp hơn thị trường, hay kỳ đáo hạn dài hơn, giải ngân nhanh hơn thậm chí
có thể không cần thế chấp nhưng bù lại tập đoàn và các doanh nghiệp thành
viên phải ký quỹ đồng thời các hoạt động thanh tóan của cả tập đoàn sẽ phải
thông qua ngân hàng, để ngân hàng có thể bù trừ nợ mà công ty mẹ và các
doanh nghiệp thành viên vay sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu vốn của tập
đoàn vừa đảm bảo hoạt động của ngân hàng con được bền vững.
Tuy nhiên để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của tập đoàn cũng như khả
năng tài chính của ngân hàng, thì những giao dịch này đòi hỏi phải công khai
đầu đủ. Thực trạng lãi lỗ của các thành viên trong tập đoàn có thể ảnh hưởng
rất lớn đến nền kinh tế do có tác động trực tiếp đến ngân hàng trực thuộc từ đó
lan sang hệ thống NHNN.
Quan hệ về đầu tư:
- Quan hệ đầu tư bao gồm những vấn đề như nguồn vốn, thiếp lập các chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động…..
- Cũng giống như các TĐKT Nhật thường tập hơp xung quanh ngân hàng để nhanh
chóng tiếp cận nguồn vốn, thì các TĐKT ở Việt Nam cũng xem xét trong việc ứng dụng
42
tương tự. Ngân hàng trực thuộc sẽ cung cấp nguồn tài trợ chính cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của tập đoàn và là nơi tư vấn tài chính đáng tin cậy cho tập đoàn, bù lại ngân
hàng sẽ được hưởng phần phí (mức phí có thể thấp hơn so với thị trường) để duy trì hoạt
động như các NHTM khác trong thị trường cạnh tranh.
- Trong quan hệ đầu tư, ngân hàng cho vay trực thuộc tập đoàn cũng phải xác định các
chỉ tiêu mang tính vĩ mô như mức vay vốn thích hợp, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt
động chính để cho vay. Công ty mẹ sẽ đóng vai trò giám sát hiệu quả hoạt động, còn lãnh
đạo công ty con sẽ chiụ trách nhiệm hoàn toàn việc triển khai thực hiện các chỉ tiêu này.
- Để đảm bảo cho toàn tập đoàn sử dụng vốn một cách có hiệu quả, ngân hàng và công
ty mẹ sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra quyết định cơ cấu lại khoản vốn tồn
đọng không được sử dụng một các có hiệu quả cũng như việc cung cấp vốn hoạt động
trong các tập đoàn hiện nay bằng cách:
Rút bớt khoản vốn trong các dự án không hiệu quả để tập trung vốn cho các dự
án hay các doanh nghiệp thành viên có khả năng phát triển tốt
Ngân hàng sẽ cũng với công ty mẹ và một số doanh nghiệp chủ chốt trong tập
đoàn đạt được yêu cầu của thị trường về vốn, về khả năng sản xuất, nghiên cưú
phát triển sản phẩm và thoả mãn điều kiện lưu thông tiền tệ.
Đặc biệt nguồn vốn cần để đầu tư lại dây chuyền sản xuất kỹ thuật cao, sản
phẩm tốt là điều thiết yếu mà ngân hàng phải quan tâm.
Những quyết định vượt ngoài giới hạn khả năng vốn và phạm vi cho phép phải
được cân nhắc xem xét thông qua đại hội đồng cổ đông và các chuyên gia tư
vấn tài chính của ngân hàng.
- Việc mở rộng hoạt động theo hướng đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực sử đưa các tập
đoàn Việt Nam trở thành một mô hình khép kín từ nghiên cứu, đầu tư, sản xuất đến lưu
thông, phân phối và xuất khẩu. Chính sự khép kín của mô hình tập đoàn là một trong
những nguyên nhân khiến cảnh báo từ giới phân tích kinh tế về cơ chế kiểm soát hoạt động
của mô hình này ngày càng lớn, đòi hỏi về việc công khai minh bạch trong quản trị điều
hành của mô hình tập đoàn được đặt ra hết sức cấp thiết. Vì vậy Chính phủ cần sớm hình
43
thành những nền tảng pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động của các tập đoàn kinh tế nói
chung.
Quan hệ về tài chính:
- Ngân hàng sẽ thiết lập các chính sách các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính, kế
hoạch ngân quỹ tuỳ theo từng thành viên tập đoàn.
- Công ty mẹ nên yêu cầu các thành viên của tập đoàn sử dụng cùng một phần mềm
máy tính, một phương thức hạch toán và các thành viên định kỳ báo cáo về công ty mẹ,
đây được xem là các tiếp cận phổ biến nhất hiện nay. Bên cạnh đó, chế tài cũng nên được
áp dụng trong việc thay đổi giám đốc công ty thành viên hoặc giải thể công ty thành viên
khi chúng hoạt động không hiệu quả.
- Kiên quyết đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa theo hướng hạn chế tối thiểu số lượng cổ
phần mà nhà nước nắm giữ. Thứ nhất nhà nước vẫn có khả năng chi phối với tư cách cổ
đông lớn nhất mà không cần nắm giữ đến 51% cổ phần như hiện nay, thứ 2 việc nắm giữ
quá nhiều cổ phần sẽ làm hạn chế quy mô vốn và khả năng mở rộng của các tập đoàn. Bên
cạnh đó, cần nới lỏng tỷ lệ tham gia cổ phần của các tổ chức tài chính nước ngoài (mức
hiện tại là 10%) để các ngân hàng có thể tìm được những cổ đông chiến lược phù hợp và
tăng quy mô vốn điều lệ phù hợp với thông lệ khu vực và quốc tế, chúng ta không nên quá
bảo thủ lo sợ việc các tổ chức tài chính nước ngoài tham gia góp vốn vào hệ thống ngân
hàng hãy mở rộng thêm cánh cửa không chỉ để tiếp thêm vốn mà còn có thể tiếp thu những
công nghệ cao đến từ các nước phát triển.
1.6. Nguồn nhân lực:
- Thực tế Nhật Bản đã chứng minh, sự thành công của các Zaibatsu, Keiretsu không
chỉ nhờ vào sự hỗ trợ đắc lực từ bàn tay chính phủ mà yếu tố quan trọng không kém chính
là nguồn lực con người.
- Như thực tế đã thấy, mọi thứ đều do con người tạo ra, vì vậy nguồn lực con người
đóng vai trò rất quan trọng để đi đến thành công, trong khi đội ngũ nhân lực có tri thức của
chúng ta còn thiếu và vẫn còn yếu kém, không được đào tạo một cách bài bản, thiếu kinh
nghiệm trong đánh giá dự án, quản lý rủi ro, quản lý nợ….. là một điều bất cập rất lớn đối
44
Công ty mẹ
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
với việc phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung cũng như đối với việc tập đoàn thành
lập ngân hàng nói riêng. Chính điều này có thể làm gia tăng rủi ro của các ngân hàng con
khi vừa phải đối đầu với những khó khăn của công ty mẹ, vừa phải quản lý rủi ro của ngân
hàng mình, sẽ tạo áp lực đối với nguồn nhân lực của ngân hàng, do áp lực quá lớn cộng
thêm vẫn còn yếu kém về khả năng và kinh nghiệm chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
sai lầm đáng tiếc. Vì vậy chính sách đào tạo nguồn nhân lực hiện nay, chính phủ nên đặt ở
vị trí hàng đầu.
2. Mô hình đề xuất thành lập ngân hàng trong các tập đoàn kinh tế :
Từ các nguyên tắc hoạt động và quản lý nêu trên, thiết nghĩ các tập đoàn tại Việt Nam có
thể hoạt động theo 2 mô hình dưới đây:
Mô hình 1: Tập đoàn doanh nghiệp thành viên đồng cấp đầu tư và kiểm soát lẫn
nhau
Là mô hình phổ biến hiện nay trên thế giới, mà các tập đoàn lớn đang áp dụng như
Samsung của Hàn Quốc, Mitsubishi của Nhật Bản….
Lợi thế của mô hình
là:
- Dễ dàng hình thành
một công ty mới
trong tập đoàn mà
không bị các công
ty hay cá nhân
ngoài tập đoàn
kiểm soát hay thôn tính. Trong trường hợp các công ty con, công ty cháu đủ mạnh
về vốn thì cơ chế này rất có điều kiện để thực hiện nhằm tăng cường mối liên kết
tài chính chặt chẽ trong tập đoàn.
Dưới đây là mô hình đề xuất cho các TĐKT Việt Nam khi chuẩn bị thành lập ngân
hàng riêng
45
Mô hình 2: Tập đoàn có cấu trúc sở hữu hỗn hợp
Mô hình này được xem là phức tạp nhất về mặt sở hữu nhưng cũng như mô hình trên
rất được các TĐKT trên thế giới áp dụng, trong đó công ty mẹ chi phối các công ty con
trực tiếp, đồng thời cũng kiểm soát một số công ty thành viên trực thuộc cấp tiếp theo (
công ty cháu).
Ưu thế của mô hình này là:
- Khi thị trường chứng khóan phát triển càng mạnh và cạnh tranh tòan cầu ngày càng
trở nên gay gắt thì việc các tập đoàn xây dựng cấu trúc như vậy nhằm đảm bảo mối
liên hệ chặt chẽ trong nội bộ đồng thời hạn chế sự thôn tính của các đối thủ cạnh
tranh.
- Bên cạnh đó mô hình cũng giúp cho việc thực hiện hoạt động đầu tư một cách dễ
dàng và đa dạng nhờ những thành tựu công nghệ thông tin, kinh tế và quản lý trên
thế giới.
Công ty mẹ
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty mẹ
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Ngân hàng
46
Sau đây là mô hình TĐKT hỗn hợp có sự tham gia của ngân hàng được đề xuất áp dụng ở
Việt Nam.
Qua hai mô hình được xem là phổ biến nhất trên thế giới bởi tính ưu việt của nó,
thì hiện nay trước tình hình nguồn vốn hạn hẹp các tập đoàn ở Việt Nam vẫn chưa có khả
năng mở rộng hoạt động của mình như các mô hình tập đoàn trên thế giới, chính vì vậy
việc thành lập một ngân hàng riêng nằm trong hệ thống để đi kèm với việc hình thành nên
mô hình tập đoàn chuẩn là điều đáng để quan tâm và xem xét.
Vai trò của ngân hàng trong tập đoàn:
Thứ nhất: Ngân hàng sẽ do tập đoàn mẹ tạo ra thông qua tỷ lệ vốn góp vào
ngân hàng vì vậy nó sẽ đóng vai trò là công ty con trong tập đoàn mẹ.
Thứ nhì: Ở vị trí như vậy, ngân hàng sẽ chịu sự điều phối của công ty mẹ hệt
như các công ty con, đồng thời dễ dàng hỗ trợ vốn cho công ty mẹ cũng như
các công ty con khi cần thiết.
Thứ ba: ngân hàng không ở cùng cấp với các công ty cấp 2 là do ngân hàng sẽ
là chủ nợ của công ty cấp 2, đóng vai trò hỗ trợ và quản lý hoạt động sử dụng
vốn cho công ty cấp 2 giúp cho các công ty cấp 2 hoạt động đủ mạnh để tự
thành lập nên công ty con của mình (công ty cấp 3) mà không cần sự hỗ trợ quá
lớn từ phía ngân hàng, điều này sẽ giúp cho ngân hàng giảm bớt gánh nặng
trong quản lý rủi ro của chính mình và cho cả tập đoàn.
Công ty mẹ
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp hai
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Công ty
cấp ba
Ngân hàng
47
Mô hình 3: Mô hình liên kết ngang theo như mô hình liên kết của các Keiretsu
Nhật.
Ưu điểm: Đây là loại hình tập đoàn gồm có các liên kết ngang giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, thích hợp với những ngành có nhiều doanh nghiệp
độc lập cần liên kết, định hướng chung để chống lại sự cạnh tranh của doanh
nghiệp khác hoặc hàng hóa cùng ngành.
Ghi chú: : Tượng trưng cho các công ty con tạo ra từ các công ty chính
: Quan hệ đầu tư vốn
- Ngân hàng trung tâm: thể hiện mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa các nhánh công
ty chính với nguồn lực tài chính của họ.
- Cùng với sự hỗ trợ của ngân hàng các công ty này sẽ góp vốn với nhau cùng nắm
quyền kiểm soát số lượng lớn các cổ phần của nhau, điều này sẽ chống lại sự tham
gia của các cổ đông bên ngoài, bảo vệ lợi ích của nhau.
- Với mô hình này các TCT Việt Nam hiện nay có thể dùng để khắc phục tình trạng
thiếu đồng bộ, thiếu tính liên kết chặt chẽ, thiếu sự hỗ trợ lẫn nhau giữa công ty mẹ
và công ty con để cả tập đoàn cùng phát triển.
Nhược điểm:
Công ty B
Công ty D
Công ty C
Công ty A
Ngân
hàng
48
- Do sự liên kết chặt chẽ giữa nội bộ thành viên tập đoàn, vì vậy có thể xảy ra tình
trạng che giấu, bưng bít thông tin, báo cáo tài chính có khả năng khai báo sai lệch
so với hoạt động thật của công ty.
- Đây là nhược điểm chung không riêng của quốc gia nào (Việt Nam cũng không
phải ngoại lệ) là không một công ty nào đồng ý công bố minh bạch báo cáo tài
chính ra công chúng, vì vậy dù nhà nước đưa ra luật định ép buộc họ phải khai báo
rõ ràng, đầy đủ thì đó chỉ là tương đối, hơn nữa đây là điều phi thực tế.
Với ba mô hình tập đoàn như trên, chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi là: “Liệu rằng dưới sự
điều phối của công ty mẹ, ngân hàng con sẽ bị tổn hại do đã cung cấp cho tập đoàn quá
nhiều khoản ưu đãi?”
Theo ý kiến của em:
- Ngân hàng trực thuộc tập đoàn, vì vậy hoạt động của ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động của tập đoàn, một sự suy yếu trong hoạt động của ngân hàng cũng sẽ
gây tiếng vang xấu cho cả tập đoàn.
- Trong khi đó để một tập đoàn hoạt động mang tầm vóc của một tập đoàn danh
tiếng thì ngoài việc nỗ lực cung cấp cho xã hội những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất
thì tập đoàn cũng phải bảo vệ danh tiếng thương hiệu của mình
- Hơn nữa, đa phần các TĐKT hoạt động đều theo loại hình cổ phần, một tiếng vang
xấu sẽ khiến cho giá cổ phiếu của tập đoàn tụt giảm, đặc biệt là tiếng vang xấu xuất
phát từ những nguy cơ suy yếu của ngân hàng càng làm cho mức độ cổ phiếu của
tập đoàn sụt giảm mạnh, do hoạt động ngân hàng sẽ đi liền với hoạt động tài chính
của công ty, ngân hàng hoạt động xấu điều đó cũng thường bị cho là do tình hình
tài chính của công ty bị yếu kém. Từ đó làm cho khả năng huy động vốn của công
ty trên sàn chứng khóan giảm, thậm chí cổ đông có thể phản ứng tiêu cực bằng
cách bán tống bán tháo cổ phiếu của công ty, sẽ khiến cho công y dễ rơi vào tình
trạng khó khăn.
Tiếp theo chúng ta sẽ bàn đến hoạt động của ngân hàng trung tâm sẽ như thế nào khi là
một ngân hàng con trong một tập đoàn lớn:
49
Theo ý kiến của em:
- Ngân hàng sẽ hoạt động như một ngân hàng thương mại bình thường bên ngoài tập
đoàn. Cho tập đoàn vay, đồng ý là với những khoản ưu đãi hơn so với một công ty
không thân thuộc, như trên đã nói, ngân hàng dù là con nhưng vẫn phải tuân thủ
quy tắc hoạt động vì lợi nhuận, không thể đặt nặng vấn đề tình cảm mà bỏ qua lợi
ích của mình.
- Đi song song với việc thành lập ngân hàng, vai trò của nhà nước trong việc quyết
định nên hay không nên cho phép TCT nào thành lập ngân hàng là điều rất quan
trọng. Vấn đề này cần phải xem xét rất kỹ lưỡng, không được nóng vội:
+ Kỹ lưỡng ở chỗ là phải đánh giá tình hình hoạt động của tập đoàn đã đạt đến
điểm nút hay chưa, năng lực có hay không, khả năng hoạt động hiệu quả hay
không, ngành nghề tập đoàn kinh doanh có thiết yếu cần được hỗ trợ về vốn
hay không?….
+ Không đươc nóng vội ở chỗ: Yếu tố kinh doanh thành công cần phải có là
“thiên, thời, địa, lợi”, ngoài “địa” chắc chắn chúng ta đã có sẵn; “lợi thế” là các
TCT sẽ có sự hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước, từ hoạt động kinh tế mở cưả theo
hiệp định WTO, thì “thiên” và “thời” là 2 yếu tố chính phủ phải quyết định,
phải biết chờ đợi để khi thời cơ chín muồi, hoạt động kinh doanh của tập đoàn
đã đi vào quỹ đạo, tương đối ổn định thì đây chính là “thiên” để chấp nhận cho
tập đoàn mở rộng quy mô thông qua việc thành lập ngân hàng huy động thêm
vốn.
50
Tài li u tham kh o
1) MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH – SỰ HƯỚNG ĐẾN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (Số 6/2006) ,Ths Lê Thị Huyền Diệu
2) XÂY DỰNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN TÀI
CHÍNH ĐA NĂNG (Số 5/2006),PGS. TS Lê Hoàng Nga
3) XÁC ĐỊNH PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG CÁC TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG (Số
19/2006) ,TS Phí Trọng Hiển & Ths Phạm Thị Thu Hương
4) NHẬN DẠNG VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH - ĐỀ XUẤT KHÁI NIỆM VÀ
KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC NHTM Ở VIỆT NAM,TS – Nguyễn Đại Lai
5) Bàn về xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính ở Việt Nam,ThS. Nguyễn Anh
Tuấn ,Trường Đại học Kinh tế quốc dân
6) GS.TS. Nguyễn Văn Nam và PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa (hiệu đính), Quản trị Ngân
hàng thương mại (sách dịch).
7) PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ.
8) PGS.TS. Lưu Thị Hương (chủ biên), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp
9) PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (chủ biên), Giáo trình Ngân hàng thương mại
10) PGS.TS. Phạm Quang Trung và các cộng sự: "Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài
chính của các Tổng công ty 90-91 theo mô hình công ty mẹ - công ty con". Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ mã số B2003.38.53
11) PGS.TS. Lưu Thị Hương và các cộng sự "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với
các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay". Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ
mã số B2003.38.54
12) Vũ Đình Hiển: "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Tổng công ty dầu khí Việt
Nam". Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội - 2004.
Article I. Các website
www.saigontimes.vn
www.vir.com.vn
www.worldbank.org.vn
www.mof.gov.vn
www.tinnhanhchungkhoa.com.vn
51
Phụ lục
Các qui định của Việt Nam hiện nay xoay quanh việc mở
ngân hàng
Cụ thể,
Quy chế yêu cầu, nguồn vốn góp phải là nguồn tiền thuộc sở hữu của cổ đông,
không được sử dụng tiền vay dưới mọi hình thức và các tổ chức, cá nhân góp vốn
phải cam kết trước pháp luật về tính hợp pháp của nguồn vốn góp. Với quy định
này, để huy động được lượng vốn tối thiểu 1.000 tỷ đồng (thành lập trước năm
2008) và 3.000 tỷ đồng (sau năm 2008)
Ngân hàng phải được đại chúng hóa để tránh tình trạng ngân hàng bị thao túng
bởi một hoặc một số cổ đông, đồng thời tránh khả năng chuyển nhượng, hoặc bán
giấy phép trong thời gian mới cấp giấy phép:
- Quy chế yêu cầu ngân hàng phải có tối thiểu 100 cổ đông (Luật Doanh
nghiệp 2005 quy định số lượng cổ đông tối thiểu là 03). Trong số đó, phải có
ít nhất 03 cổ đông sáng lập là tổ chức có tư cách pháp nhân, có quy mô tài
chính tương đối lớn (là tổ chức có quy mô tài sản từ 2.000 tỷ đồng và vốn
điều lệ 500 tỷ đồng trở lên. Trong trường hợp cổ đông sáng lập là ngân hàng
thương mại, phải đảm bảo tổng tài sản tối hiểu 20.000 tỷ đồng, vốn điều lệ
1.000 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu dưới 2%). Ngoài ra, các cổ đông sáng lập phải
nắm giữ tối thiểu 50% vốn điều lệ của ngân hàng. Trong 03 năm, kể từ ngày
cấp phép thành lập, các cổ đông dù không phải là sáng lập cũng không được
chuyển nhượng cổ phần cho các cổ đông khác không phải là cổ đông của
ngân hàng. Trong 05 năm, cổ đông sáng lập không được chuyển nhượng cổ
phần ưu đãi biểu quyết, chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông.
Nhằm tránh việc một nhóm cổ đông và người có liên quan thao túng ngân hàng,
Dự thảo Quy chế quy định cụ thể mức sở hữu cổ phần, theo đó mỗi cổ đông cá
nhân được sở hữu tối đa 10% cổ phần, một cổ đông tổ chức được sở hữu tối đa
52
20% cổ phần, các cổ đông là người có liên quan được sở hữu tối đa 20% vốn điều
lệ của một ngân hàng. Riêng trường hợp cổ đông là tập đoàn tài chính, được phép
sở hữu với tỷ lệ tối đa 40%. Chưa dừng lại ở đó, để hạn chế việc các cổ đông này
tham gia thành lập quá nhiều ngân hàng, Dự thảo quy định, các cổ đông hoặc cổ
đông cùng với người có liên quan nắm từ 5% vốn điều lệ (cổ đông cá nhân) và từ
10% vốn điều lệ trở lên (đối với cổ đông pháp nhân) chỉ được tham gia thành lập
một ngân hàng mà thôi
Theo dự luật bổ sung thêm thì vốn tham gia thành lập ngân hàng của các tổ chức
còn phải:
- Đối với tổ chức tín dụng: Sau khi góp đủ số vốn theo cam kết phải tuân thủ
các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về an toàn hoạt động của
tổ chức tín dụng;
- Đối với các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng: Vốn chủ sở hữu
trừ đi Các khoản đầu tư dài hạn đưcọ tài trợ bởi vốn chủ sở hữu và Tài sản
ngăn hạn trừ đi Nợ ngắn hạn còn lại tối thiểu bằng số vốn góp theo cam kết.
Đáng lưu ý hơn nhằn hạn chế các tập đoàn đầu tư vào tào chính và bất động thủ
tướng Chính phủ đã ra chỉ thị yêu cầu các TĐKT, TCT nhà nước phải dành không dưới
70% vốn đầu tư vào ngành nghề kinh doanh chính và không quá 30% cho các ngành
kinh doanh hỗ trợ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf
- Tom tat.pdf