MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
Chương I: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại 5
1.1. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 5
1.1.1. Khái quát về NHTM 5
1.1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 12
1.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp và nhỏ của NHTM 19
1.2.1. Khái niệm chất lượng cho vay 19
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 20
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 23
1.3.1. Nhân tố chủ quan 23
1.3.2. Nhân tố khách quan 25
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 28
2.1. Khái quát về Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 28
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch I 28
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và các hoạt động của Sở giao dịch I 29
2.2. Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 39
2.2.1. Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 39
2.2.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 45
2.3. Đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 48
2.3.1. Kết quả đã đạt được 48
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 49
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I 54
3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Sở giao dịch I trong những năm tới 54
3.1.1. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 54
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam 57
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở 58
3.2.1. Thiết lập chính sách cho vay hợp lý & đơn giản hóa quy trình cho vay đối với các DNV&N 58
3.2.2. Đổi mới cơ cấu huy động vốn 59
3.2.3. Đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo tiền vay 60
3.2.4. Nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng đối với hoạt động cho vay của Sở giao dịch I 60
3.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng 61
3.3. Kiến nghị 62
3.3.1. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 62
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam 63
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 64
KẾT LUẬN 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
72 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2422 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suất huy động trong khi lãi suất huy động vốn của NHCT Việt nam luôn duy trì thấp hơn. Đặc biệt là trong năm qua, các doanh nghiệp có nguồn tiền gửi lớn tại Sở I thực hiện gửi tiền có kỳ hạn theo lãi suất đấu thầu cạnh tranh đã làm lãi suất bình quân đầu vào tăng lên nhiều so với các năm trước ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của Sở giao dịch I.
Bảng 2.2: Cơ cấu vốn huy động của Sở giao dịch I
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2005
Năm 2006
2007
Tổng vốn huy động
16.071
17.448
17.266
Tiền gửi doanh nghiệp
- Tỷ trọng (%)
10.399
64,7
9.859
56,5
12.183
70,5
Tiền gửi dân cư
- Tỷ trọng (%)
3.908
24,3
3.370
19,3
3.432
19,9
Tiền gửi khác
- Tỷ trọng (%)
1.764
11
4.219
24,2
1.651
9,6
(Nguồn vốn huy động không bao gồm vốn tự có)
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam)
Như vậy, qua số liệu trên ta thấy:
Thứ nhất, Sở giao dịch I huy động vốn chủ yếu từ tiền gửi của doanh nghiệp. Trong 3 năm, tỷ trọng của nguồn này luôn là lớn nhất. Tuy nhiên, đây lại là một nguồn không ổn định do có kỳ hạn ngắn và doanh nghiệp có thể rút vốn bất cứ lúc nào mà không phải báo trước. Đây là một bất lợi cho hoạt động kinh doanh của Sở.
Thứ hai, tỷ trọng nguồn vốn từ tiền gửi doanh nghiệp mặc dù trong năm 2006 giảm so với năm 2005, nhưng đến năm 2007 thì lại tăng lên, chiếm đến 70,5% tổng vốn huy động. Việc quá phụ thuộc vào một nguồn vốn huy động là một bất lợi trong công tác huy động vốn của Sở.
Cùng với hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng cũng là một hoạt động hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay. Các hình thức cho vay Sở cung cấp cho khách hàng gồm có: cho vay ngắn hạn, cho vay trung – dài hạn. Ngoài việc cho vay trực tiếp từ ngân hàng, Sở còn kết hợp với các ngân hàng khác trên địa bàn cấp tín dụng dưới dạng đồng tài trợ. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Sở giao dịch I đã đơn giản hoá thủ tục cho vay nhằm tạo sự nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ các tiêu chí theo quy định.
Bảng 2.3: Dư nợ cho vay của Sở giao dịch I
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng vốn huy động
16.071
17.448
17.266
Tổng dư nợ cho vay
2.788
2.776
3.101
Tổng dư nợ cho vay /Tổng vốn huy động
17,35%
16%
18%
(Tổng vốn huy động không bao gồm vốn tự có)
(Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam)
Hình 2.3: Tăng trưởng dư nợ cho vay của Sở giao dịch I
Trong 03 năm qua, công tác cho vay của Sở được mở tộng tới mọi đối tượng khách hàng là các Tổng công ty; Công ty liên doanh; Công ty có vốn đầu tư nước ngoài; DNV&N; Khu vực kinh tế tư nhân; Cho vay tiêu dùng… nhằm đa dạng hóa khách hàng theo hướng chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Vốn vay được hướng vào những ngành hàng, mặt hàng chiến lược có triển vọng phát triển bền vững như: lương thực, thực phẩm, dược phẩm, điện lực, dầu khí, viễn thông… và các khoản vay đều phát huy tốt hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, so với năm 2005, dư nợ cuối năm 2006 giảm 12 tỷ (giảm 0,43%) là do:
Một số Tổng công ty trả nợ ngân hàng theo kế hoạch chưa vay lại như: Tập đoàn Bưu chính viễn thông giảm dư nợ trên 100 tỷ, Công ty FPT giảm dư nợ 70 tỷ đồng.
Nhiều doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa, hoạt động kinh doanh có hiệu quả đã tận dụng vốn tự có để kinh doanh, không vay vốn ngân hàng.
Sang năm 2007, dư nợ cho vay cuối năm của Sở đã có bước phát triển đáng kể, tăng 325 tỷ (tăng 11,7%) so với năm 2006, tăng 313 tỷ (11,2%) so với năm 2005, là do:
Sở giao dịch I chú trọng đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh đến các DNV&N, cho vay tiêu dùng… là khách hàng có tiềm năng phát triển, tăng trưởng nhanh về số lượng và quy mô, là lực lượng năng động và hiệu quả của nền kinh tế.
Năm 2007, Sở giao dịch I được Ngân hàng Công thương chọn làm ngân hàng đầu mối giải ngân dự án vệ tinh VINASAT của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, trong đó NHCT tham gia 86 triệu USD.
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I
(đơn vị: tỷ đồng,%)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng Dư nợ
Trong đó:
2.788
2.776
3.101
Phân theo loại tiền
- Dư nợ VND
Tỷ trọng
1.889
67,7
1.906
68,7
1.958
63
- Dư nợ ngoại tệ
Tỷ trọng
899
32,3
870
31,3
1.143
37
Tổng
100
100
100
Phân theo thành phần kinh tế
- Dư nợ cho vay TPKT Quốc doanh
Tỷ trọng
2.066
74,1
2.081
74,9
2.341
75.5
- Dư nợ cho vay TPKT Ngoài Qdoanh
Tỷ trọng
722
25,9
695
25,1
760
24,5
Tổng (%)
100
100
100
(Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam)
Từ hai bảng trên có thể thấy rằng:
- Sở giao dịch I chủ yếu cho vay bằng nội tệ, tuy nhiên thì cho vay bằng ngoại tệ vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong cơ cấu dư nợ của Sở, và đang có xu hướng gia tăng. Đối tượng khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh, dư nợ đối với khu vực kinh tế này trung bình gấp 3 lần dư nợ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Vốn huy động của ngân hàng chưa được sử dụng có hiệu quả tối đa. Tỷ lệ Dư nợ/ Tổng vốn huy động trong 3 năm đều không vượt quá 20%. Lý giải cho vấn đề này là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trong tổng vốn huy động của Sở chiếm tỷ trọng lớn, mà đây là một nguồn không thích hợp để cho vay của ngân hàng như đã nói ở trên. Đây cũng là một vấn đề mà Sở giao dịch I cần quan tâm xem xét để có đề xuất được các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập hiện nay.
Mặt khác trong những năm qua, hoạt động cho vay đối với nền kinh tế của Sở đang ngày càng cải thiện rõ rệt về chất, thể hiện:
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của Sở Giao dịch I – NHCT Việt Nam
(Đơn vị: tỷ đồng, %)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nợ quá hạn
7,2
1,5
0
Tổng dư nợ
2.788
2.776
3.101
I. Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
0,26
0,054
0
Tổng doanh số cho vay
5.193
6.960
7.380
Tổng doanh số thu nợ
4.819
6.971
7.056
II. Tỷ trọng doanh số thu nợ/ doanh số cho vay
92,8
100,16
95,6
(Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 2005, 2006, 2007)
Từ bảng trên nhận thấy, hoạt động cho vay của Sở đang ngày nâng cao về chất, tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ giảm dần cả về tỷ trọng và số tuyệt đối. Đáng chú ý, kết thúc năm 2007, hoạt động cho vay của Sở ghi nhận là không còn nợ quá hạn. Phát huy được thế mạnh của mình, trong 3 năm 2005, 2006 và 2007, lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Sở đã đóng góp một phần không nhỏ trong lợi nhuận hợp nhất của toàn bộ hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam.
Bảng 2.6: Tỷ trọng lợi nhuận của Sở giao dịch I trong toàn bộ hệ thống
NHCT Việt Nam.
(đơn vị: triệu đồng)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Lợi nhuận của Sở giao dịch I
347.500
343.055
331.500
Lợi nhuận trước thuế toàn hệ thống NHCT VN
423.093
599.639
Tỷ trọng (%)
82
57
(Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam và báo cáo thường niên năm 2005, 2006, 2007 – Ngân hàng công thương Việt Nam)
2.2. Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam
2.2.1. Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trước đây, do những hạn chế trong thể lệ tín dụng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường khó tiếp cận được với nguồn vốn vay của các NHTM. Những trở ngại trong việc thế chấp tài sản đảm bảo, cũng như sự phức tạp của các thủ tục và các điều kiện khác như doanh nghiệp vay vốn phải kinh doanh có lãi trong năm gần nhất, báo cáo tài chính được kiểm toán… đã làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng hoặc làm cho chi phí vay vốn đội lên rất cao. Nhưng trong những năm gần đây đã có sự chuyển biến tích cực từ phía các cơ quan Nhà nước giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng hơn. Nghị định số 178/1999/ NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/1999 về “bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng” (sau này được thay thế bằng Nghị định số 163/2006/ NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm ), Quyết định số 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước về việc “ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” đã thực sự không còn sự phân biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với doanh nghiệp quốc doanh.
Trong cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, uy tín, có năng lực tài chính luôn là những đối tượng tập trung mở rộng tín dụng của Sở.
Bảng 2.7: Dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I
(đơn vị: tỷ đồng,%)
Năm 2005
Năm 2006
2006/2005
Năm 2007
2007/2006
Tổng dư nợ cho vay
Trong đó:
2.788
2.776
99,6
3.101
111,7
- Dư nợ đối với DNV&N
Tỷ trọng
1.461
52,4
1.685
60,7
115,3
1.916
61,8
113,7
- DN quốc doanh
Tỷ trọng
1.112
76,1
1.185
70,3
106,6
1.201
62,7
101,4
- DN ngoài quốc doanh
Tỷ trọng
349
23,9
500
29,7
143,3
715
37,3
143
Tổng
100
100
100
(Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam 2005, 2006, 2007)
Từ bảng trên ta thấy: Dư nợ cho vay hàng năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng Dư nợ của Sở giao dịch I, chiếm khoảng 60 % trong tổng dư nợ và đang có xu hướng tăng lên; trung bình mỗi năm tăng khoảng 13 – 15 %/năm. So với tốc độ tăng trưởng của tổng dư nợ cho vay thì dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I có tốc độ tăng trưởng đáng kể, thể hiện:
Hình 2.4: tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở Giao dịch I
Mặt khác, có thể thấy rằng trong 03 năm qua, tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNV&N khu vực kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm.
Hình 2.5: Cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I theo thành phần kinh tế
Từ năm 2005 đến năm 2007, tỷ trọng cho vay đối với DN quốc doanh giảm chỉ còn 62,7%. Lý giải cho điều này chính là sự phát triển rất nhanh về mặt số lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội trong những năm qua khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực cùng với sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế tạo điều kiện cho các DNV&N mở rộng sản xuất kinh doanh, tiêu thụ được sản phẩm và trả nợ ngân hàng.
Bên cạnh đó, dư nợ cho vay đối với DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I trong những năm qua đang có những thay đổi rất rõ rệt:
Bảng 2.8: Dư nợ cho vay đối với DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam
(đơn vị: tỷ đồng,%)
Năm 2005
Năm 2006
2006/2005
Năm 2007
2007/2006
Dư nợ cho vay đối với DNV&N
1.461
1.685
115,3
1.916
113,7
- Cho vay ngắn hạn
1.044
1.328
127,2
1.661
125
Tỷ trọng (%)
71,4
78,8
86,7
- Cho vay trung, dài hạn
417
357
85,6
255
71,4
Tỷ trọng (%)
28,6
21,2
13,3
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007)
Hình 2.6: Thay đổi tỷ trọng cho vay DNV&N của Sở Giao dịch I theo thời hạn cho vay qua các năm
Qua bảng trên ta thấy cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I, trên 70% /năm. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNV&N chủ yếu là để thanh toán các yếu tố đầu vào sản xuất, bổ sung vốn lưu động tạm thời, còn hoạt động cho vay trung, dài hạn chủ yếu là để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất hiện có, xây dựng, mua sắm, đổi mới trang thiết bị…
Dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNV&N của Sở trong 3 năm qua có sự tăng trưởng rõ rệt, thể hiện: từ năm 2005 đến năm 2007, tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn tăng từ 71,4% lên đến 86,7%. Quy mô cho vay đối với DNV&N của Sở đều tăng qua các năm chứng tỏ rằng Sở đã quan tâm đến vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế và nguồn vốn của Sở ngày càng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay trung, dài hạn vẫn còn khiêm tốn đã phần nào phản ánh tình trạng cho vay của Sở giao dịch cho các DNV&N trong việc cải tiến, mở rộng, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc… vẫn còn hạn chế. Về mặt dài hạn, điều này có thể ảnh hưởng không tốt tới khả năng cạnh tranh về chất lượng cho vay của Sở.
2.2.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.2.2.1. Dư nợ cho vay và tỷ trọng cho vay đối với DNV&N
Theo bảng 2.8 như đã phân tích ở trên, ta có thể thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động quan trọng của Sở. Dư nợ cho vay đối với DNV&N luôn chiếm tỷ trọng cao (khoảng 60%) trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Năm 2007, dư nợ cho vay đối với DNV&N đạt 1.916 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNV&N tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng cho vay đối với nền kinh tế cho thấy rằng Sở giao dịch I ngày càng chú trọng đến việc tăng cường cho vay đối với các DNV&N.
2.2.2.2. Thực trạng nợ quá hạn trong hoạt động cho vay DNV&N của Sở
Có thể nói tỷ lện nợ quá hạn của NHTM là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng đó. Bảng 2.6 cho thấy trong những năm qua, tỷ lệ nợ quá hạn của Sở liên tục giảm và luôn ở mức thấp. Đó là do các CBTD của Sở đã thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng, liên tục kiểm tra, giám sát, đôn đốc khách hàng trong việc trả nợ vay và xử lý các khoản nợ tồn đọng bằng quỹ dự phòng rủi ro theo quy định và lựa chọn được những dự án vay vốn hiệu quả, có khả năng trả nợ ngân hàng. Bảng dưới đây cho thấy tình hình nợ quá hạn trong hoạt động cho vay DNV&N của Sở:
Bảng 2.9: Nợ quá hạn của các DNV&N tại Sở giao dịch I
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tổng dư nợ cho vay DNV&N
1.112
1.185
1.201
Nợ quá hạn DNV&N
6
1,2
0
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ (%)
0,54
0,1
0
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007)
Qua số liệu trên, có thể thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn của các DNV&N của Sở là rất thấp. Sang năm 2007 thì Sở không còn nợ quá hạn đối với DNV&N. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi / Nợ quá hạn tăng từ năm 2005 sang năm 2006 nhưng về số tuyệt đối thì cả nợ quá hạn và nợ quá hạn có khả năng thu hồi đều giảm. Những tỷ lệ này là rất thấp và có xu hướng đi xuống chứng tỏ chất lượng cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I trong những năm qua đang được cải thiện rõ rệt.
2.2.2.3. Vòng quay vốn tín dụng
Bảng 2.10: Vòng quay vốn tín dụng đối với DNV&N của Sở giao dịch I
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Doanh số thu nợ DNV&N
1.072
1.218
1.160,2
Doanh số cho vay DNV&N
1.112
1.185
1.201
Vòng quay vốn tín dụng DNV&N
0,96
1,03
0,97
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007)
Bảng trên cho thấy, vòng quay vốn tín dụng đối với DNV&N của Sở giao dịch luôn được duy trì ở mức cao, đặc biệt trong năm 2006 vòng quay vốn tín dụng của Sở vượt mức 100%. Điều này cho thấy chất lượng cho vay của Sở đang được cải thiện dần và duy trì ổn định trong 03 năm trở lại đây.
2.2.2.4. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay đối với DNV&N
Trong 03 năm qua, cho vay đối với DNV&N đóng góp một phần không nhỏ vào lợi nhuận cuối năm của Sở:
Bảng 2.11: Tỷ trọng thu nhập từ cho vay đối với DNV&N của
Sở giao dịch I
(đơn vị: triệu đồng)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Thu nhập của Sở giao dịch I
347.500
343.055
331.500
Thu nhập từ cho vay DNV&N
158.460
160.322
166.744
Tỷ trọng (%)
45,6
46,7
50,3
2.3. Đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.3.1. Kết quả đã đạt được
Mặc dù hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, nhưng do thực hiện tốt quy trình tín dụng, công tác phân tích đánh giá khách hàng… trong 3 năm qua, chất lượng cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đang từng bước được cải thiện:
Thứ nhất, Dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở liên tục tăng trưởng. Sở giao dịch I đã trở thành một địa chỉ tin cậy cho khách hàng khối doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N.
Thứ hai, bên cạnh sự tăng trưởng về quy mô cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn nói chung và tỷ lệ nợ quá hạn của các DNV&N nói riêng là rất thấp và có xu hướng giảm dần qua các năm và đặc biệt là không có dư nợ quá hạn mới phát sinh. Đến năm 2007, dư nợ quá hạn đối với DNV&N của Sở giao dịch đã giảm xuống bằng 0. Chất lượng cho vay được nâng cao cũng nâng cao uy tín của Sở và cải thiện mối quan hệ với các khách hàng tiềm năng.
Thứ ba, tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay DNV&N đang có xu hướng tăng lên qua các năm. Tỷ trọng này cho thấy cho vay đối với DNV&N ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I. Là một ngân hàng hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội chịu sự cạnh tranh rất gay gắt từ phía các NHTM khác, đặc biệt là khối NHTM cổ phần nhưng bằng những nỗ lực chủ quan và chiến lược kinh doanh đúng đắn, chất lượng cho vay được nâng cao góp phần làm cho lợi nhuận của Sở giao dịch I trong những năm qua luôn ở mức cao, đóng góp phần lớn vào lợi nhuận hợp nhất của toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Chất lượng hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, chất lượng cho vay DNV&N của Sở giao dịch I vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra, thể hiện:
- Thứ nhất, tỷ trọng dư nợ cho vay DNV&N ngoài quốc doanh còn thấp. Mặc dù tổng dư nợ cho vay đối với các DNV&N liên tục tăng trưởng nhưng dư nợ cho vay đối với DN ngoài quốc doanh dù có chiều hướng tăng lên nhưng chuyển biến chậm và vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ. Đến năm 2007 là năm có dư nợ cho vay đối với DNV&N ngoài quốc doanh tăng rất cao thì con số này cũng mới chỉ là 37,3%. Đây là một yếu tố cần phải xem xét trong xu thế hiện nay. Cùng với xu thế cổ phần hóa các DN quốc doanh hiện nay là sự lớn mạnh của DN ngoài quốc doanh, nếu như lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng của Sở không kịp thời thay đổi nhận thức thì rất có thể sẽ tự thu hẹp thị phần cho vay, gây ảnh hưởng đến chất lượng cho vay và lợi nhuận kinh doanh của Sở.
- Thứ hai, tỷ trọng cho vay trung dài hạn không đạt được mục tiêu đã đề ra. Cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I chủ yếu vẫn là cho vay ngắn hạn; còn cho vay trung, dài hạn vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn và có xu hướng giảm dần. Đến năm 2007 thì tỷ trọng cho vay trung, dài hạn giảm xuống chỉ còn 13,3% dư nợ cho vay DNV&N so với mục tiêu 40% mà Ngân hàng Công thương Việt Nam đặt ra cho Sở giao dịch I.
- Thứ ba, quy mô hoạt động cho vay của Sở giao dịch I mặc dù trong những năm qua đã có những bước tăng trưởng đáng khích lệ nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng huy động vốn của Sở. Tỷ lệ tổng dư nợ cho vay DNV&N/Tổng vốn huy động trong 3 năm từ 2005 - 2007 chỉ dao động trong khoảng 16-18%. Đây thực sự là một tỷ lệ sử dụng vốn rất thấp.
- Thứ tư, quy trình xét duyệt cho vay đối với DNV&N của Sở vẫn còn chưa phù hợp. Hiện nay, quy trình cho vay DNV&N của Sở vẫn áp dụng theo một quy trình chung như cho vay đối với các loại hình DN khác. Điều này đôi khi không phù hợp với đặc điểm của DNV&N hoặc gây phức tạp đối với hoạt động kinh doanh của các DN này. Mặt khác, thực hiện theo cơ chế tín dụng mới của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam, nhiều DN không đủ điều kiện để Sở cho vay. Các DN Nhà nước chuyển đổi sang Công ty cổ phần, Nhà nước nắm cổ phần chi phối, tài sản thế chấp chưa đủ điều kiện pháp lý nên rất khó khăn trong việc nhận tài sản đảm bảo tiền vay. Có thể nói rằng điều kiện xét duyệt về tài sản đảm bảo của Sở giao dịch I đang gây trở ngại lớn cho các DN đặc biệt là các DNV&N. Từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của Sở giao dịch I đối với loại hình DN này.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong hoạt động cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam là:
a. Nguyên nhân chủ quan
- Thứ nhất, mặc dù trong những năm gần đây chính sách cho vay của Sở đã có sự thông thoáng hơn nhưng yêu cầu đặt ra đối với các DN ngoài quốc doanh vẫn còn chưa hợp lý. Yêu cầu phải có tài sản đảm bảo luôn là một điều kiện đối với các DNV&N ngoài quốc doanh và tâm lý e dè khi xem xét cho vay đối với các DN này làm cho các DN này rất khó vay vốn ngay cả khi phương án sản xuất kinh doanh của DN là rất khả thi, có hiệu quả cao. Thêm vào đó, các cán bộ Sở chưa chú ý đúng mức đến những dự án vay vốn trung, dài hạn của DNV&N, chưa tin tưởng vào những dự án sản xuất kinh doanh của các DNV&N ngoài quốc doanh.
- Nguyên nhân thứ hai là cán bộ tín dụng của Sở giao dịch. Trong tình hình đổi mới phức tạp như hiện nay, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ rất cao. Cán bộ tín dụng không những phải nắm bắt chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải hiểu khách hàng, hiểu được thực lực tài chính của khách hàng, nắm rõ tư cách đạo đức của từng người vay. Hơn nữa, cán bộ tín dụng còn phải có một sự hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực khách hàng mình đang kinh doanh. Những yêu cầu đặt ra khá cao này không phải cán bộ tín dụng nào cũng đáp ứng được. Hiện nay, Sở đang phải chấp nhận một thực trạng là chất lượng CBTD chưa đồng đều, trình độ một số CBTD chưa đáp ứng được thực tế công việc, khả năng phân tích, đánh giá khách hàng, phân tích tài chính, phân tích tình hình sản xuất kinh doanh… còn yếu kém. Tình trạng này khiến cho các cán bộ không giám ra quyết định cho vay, thiếu sự chủ động.
- Thứ ba là Sở giao dịch I chưa đẩy mạnh công tác Marketing đối với các hoạt động cho vay, chưa có biện pháp tích cực để lôi cuốn, hấp dẫn khách hàng mới. Các thông tin thu thập về thị trường, về khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Hiện nay, Sở giao dịch chưa có một bộ phận thu thập, quản lý thông tin khách hàng, đánh giá khách hàng độc lập dựa trên những thông tin thu thập được. Do đó, thông tin về khách hàng vẫn còn thiếu, chưa chính xác. Việc thu thập thông tin khách hàng hiện nay của Sở vẫn do các CBTD đảm nhiệm cùng với việc thẩm định khoản vay. Bên cạnh việc thu thập thông tin từ phía doanh nghiệp, các CBTD vẫn đi thu thập thông tin từ các ngân hàng khác, các đối tác khác mà đôi khi là không thể thu thập được vì họ giữ bí mật về khách hàng. Điều này ít nhiều gây quá tải cho các CBTD và ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay.
b.Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, các DNV&N thường thiếu các dự án mang tính khả thi cao. Hầu hết các DNV&N, do trình độ cán bộ còn yếu kém nên dẫn đến việc không giải đáp được những thắc mắc từ phía ngân hàng hay không xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh có tính thuyết phục để ngân hàng có thể cho vay.
- Thứ hai, một số DNV&N chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về kế toán doanh nghiệp, số sách ghi chép còn lộn xộn, thiếu khoa học gây khó khăn cho cán bộ ngân hàng trong công tác kiểm tra. Thậm chí còn có những DN làm giả báo cáo tài chính, báo cáo sai sự thật với ngân hàng để được vay vốn. Chính những yếu tố này gây tâm lý e ngại trong hoạt động cho vay của Sở, đặc biệt là các khoản vay trung, dài hạn.
- Thứ ba, các DNV&N thường không đảm bảo được các điều kiện về tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng. Tài sản đảm bảo của các DNV&N hiện vẫn chưa phong phú, vẫn chủ yếu là đất đai, nhà xưởng… Rất nhiều DNV&N không có đủ tài sản thế chấp để vay vốn, hoặc tài sản đảm bảo không đủ điều kiện pháp lý hoặc giá trị tài sản đảm bảo không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng… dẫn đến việc khó vay vốn ngân hàng. Và đặc biệt trong những trường hợp không trả được nợ thì ngân hàng cũng rất khó khăn trong việc phát mại tài sản thế chấp.
- Thứ tư, tốc độ tăng trưởng nhanh về số lượng các DNV&N. Hiện nay, tốc độ tăng trưởng trung bình về số lượng các DNV&N vào khoảng 30%/năm. Với tốc độ phát triển nhanh chóng như vậy trong khi điều kiện của Sở không đủ đáp ứng về số lượng cán bộ cũng như trình độ của đội ngũ nhân viên nên dẫn đến tình trạng là không đáp ứng được hết nhu cầu vay vốn thực tế của DNV&N.
- Thứ năm, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, các thủ tục hành chính còn phức tạp. Hệ thống giấy tờ về quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và bất động sản còn phức tạp, thiếu thống nhất làm cho DNV&N gặp khó khăn trong việc thế chấp vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu các văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể thực hiện Luật Doanh nghiệp 2005. Điều này đã gây trở ngại cho DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng vay vốn ngân hàng của DN.
Tóm lại, hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào hoạt động sử dụng vốn và chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong lợi nhuận hàng năm của Sở. Tuy nhiên, những mặt còn yếu kém trong hoạt động cho vay đối với DNV&N cần phải được xem xét cẩn trọng để có những giải pháp khắc phục kịp thời, không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động này của Sở giao dịch I trên địa bàn Hà Nội cũng như trên toàn quốc.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I
3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Sở giao dịch I trong những năm tới
3.1.1. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua tăng trưởng tương đối ổn định, là điều kiện thuận lợi cho các DN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều và tăng trưởng nhanh chóng mà chủ yếu là các DNV&N. Các DN này chiếm một số lượng đông đảo và đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Các DN vừa và nhỏ chịu sự giới hạn về vốn, trình độ công nghệ thấp, trang thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ… nên dẫn đến việc các DNV&N gặp khó khăn trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường kém… Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi mà Việt Nam đã gia nhập AFTA, hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực từ 2001 và trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các DNV&N trong nước nếu không nâng cao được khả năng cạnh tranh, cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh thì rất khó có thể đứng vững trước sức ép cạnh tranh từ bên ngoài. Chính vì thế, trong những năm tới nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN này là rất lớn.
Nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế giai đoạn 2005 – 2010 thì định hướng phát triển DNV&N trong thời gian tới được xác định như sau:
- Một là: Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, có ưu thế là tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động nhưng cũng lại là một gánh nặng đối với xã hội như Việt Nam. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa góp phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động; vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có của nền kinh tế là lao động, tạo tiền đề cho các giai đoạn phát triển về sau. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một cơ hội cho các nhà đầu tư tự huy động vốn của mình và những người khác để tham gia vào kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp nhằm làm tăng tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
- Hai là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được ưu tiên phát triển trong một số ngành nghề có lựa chọn là:
Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh.
Các ngành tại đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn (tức là phân phối sản phẩm, chế biến sâu…).
Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm thuộc các ngành nghề truyền thống .
- Ba là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia.
- Bốn là: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn. Mối liên kết chặt chẽ phải được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Phân công chuyên môn hóa giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn sao cho có hiệu quả. Doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa tạo đầu vào vừa góp phần tạo đầu ra cho các doanh nghiệp lớn.
Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ về đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
Giao thầu lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc trong những hợp đồng lớn mà các doanh nghiệp lớn ký kết với Nhà nước.
- Năm là: Nên có một khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp vừa và nhỏ tập trung sẽ có một số tác dụng sau:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cơ sở hạ tầng: điện, nước, thông tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhà nước dễ dàng thực hiện chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu công nghiệp.
Như vậy, có thể nói rằng trong những năm tới bên cạnh số lượng các DNV&N đã thành lập (khoảng 300.000 DN) thì sẽ có rất nhiều các DNV&N được thành lập ở tất cả các ngành nghề. Vì thế, nên nhu cầu vay vốn của các đối tượng này trong tương lai là rất lớn, và là một nhu cầu bức xúc đối với nền kinh tế. Tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, hoạt động cho vay đối với DNV&N đã và đang được chú ý, và tầm quan trọng của loại hình DN này cũng đang ngày càng được nâng cao. Nhận thức của Sở về đối với các DNV&N mà nhất là các DN ngoài quốc doanh đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực và Sở cũng đã và đang từng bước thay đổi cho phù hợp định hướng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam
Nhận thấy được xu hướng và diễn biến của nền kinh tế trong những năm tới, Ban Giám Đốc Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đã đề ra định hướng trong hoạt động của Sở trong thời gian tới như sau:
- Tiếp cận, rà soát, phân loại DNV&N, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, làm tốt công tác tiếp thị để thu hút khách hàng, tăng cơ cấu tỷ trọng dư nợ DN ngoài quốc doanh lên đến trên 50% dư nợ cho vay DNV&N.
- Mở rộng đối tượng khách hàng
Đối với các DN xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ, ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ, nông sản xuất khẩu.
Các DN sản xuất có quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực chế biến nông lâm, sản xuất hàng tiêu dùng có chất lượng cao, lắp ráp và chế tạo các phương tiện vận tải.
- Tiếp tục tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
- Chú trọng hơn nữa đến việc cho vay trung, dài hạn đối với các DNV&N, đạt chỉ tiêu gần 40% dư nợ cho vay DNV&N là cho vay trung, dài hạn mà Ngân hàng Công thương Việt Nam đề ra cho Sở giao dịch I.
- Công tác quản trị rủi ro phải được đặc biệt chú ý và xây dựng theo định hướng của một ngân hàng hiện đại.
- Các quy chế tín dụng cần phải được củng cố và hoàn thiện, tiếp tục cải tiến quy trình tín dụng cho phù hợp với thực tế hoạt động cho vay DNV&N của Sở giao dịch I.
- Nâng cao chất lượng của đội ngũ CBTD làm công tác cho vay thông qua việc tuyển dụng, đào tạo lại, tập huấn… để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động cho vay của Sở.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở
Trên cơ sở nhận xét, phân tích về vai trò của DNV&N trong nền kinh tế, cũng như thực trạng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, em xin đề xuất một số giải pháp sau:
3.2.1. Thiết lập chính sách cho vay hợp lý & đơn giản hóa quy trình cho vay đối với các DNV&N
Chính sách cho vay là một hệ thống các nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính sách cho vay là cơ sở tham khảo cho các CBTD thực hiện công việc trong quyền hạn của mình. Chính sách cho vay của Sở nên đề ra quy trình cụ thể trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay, xây dựng mục tiêu hoạt động cho vay hợp lý theo định hướng phát triển của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, Sở cần phải xây dựng quy trình cho vay riêng đối với các DNV&N. Theo số liệu thống kê chưa chính thức của Tổng cục thống kê, đến cuối năm 2007, các DNV&N chiếm khoảng 96% tổng số DN trên cả nước, đóng góp 42% vào GDP. Với mức tăng trưởng trung bình dự kiến trong những năm tới đạt mức 30%/năm làm cho nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh của các DN này gia tăng mạnh mẽ. Thêm vào đó, hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động chính trong việc sử dụng vốn và mang lại lợi nhuận không nhỏ cho Sở. Chính vì thế mà một chính sách cho vay hợp lý đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển của Sở giao dịch I.
Hiện nay, thủ tục cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I vẫn còn rất phức tạp. Các DN khi gửi hồ sơ vay vốn đến Sở giao dịch phải qua rất nhiều khâu thẩm định, thủ tục về mặt giấy tờ vẫn là một gánh nặng với DN. Vì thế, cùng với việc thiết lập chính sách cho vay hợp lý, Sở giao dịch cần phải đơn giản hóa hơn nữa quy trình cho vay để các DNV&N có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn.
3.2.2. Đổi mới cơ cấu huy động vốn
Vốn huy động của ngân hàng chưa được sử dụng có hiệu quả tối đa. Tỷ lệ Dư nợ/ Tổng vốn huy động trong 3 năm đều không vượt quá 20%. Lý giải cho vấn đề này là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trong tổng vốn huy động của Sở chiếm tỷ trọng lớn, mà đây là một nguồn không thích hợp để cho vay của ngân hàng như đã nói ở trên. Cũng bởi vì tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp lớn mà đây là một nguồn không có tính ổn định, nên ảnh hưởng trực tiếp đến việc cho vay đối với DNV&N. Như đã phân tích ở trên, có đến 70-80% dư nợ cho vay đối với DNV&N là dư nợ ngắn hạn, còn dư nợ trung, dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với mục tiêu đề ra của Ngân hàng Công thương Việt Nam là gần 40%.
Trong những năm tới, Sở giao dịch I cần đổi mới cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng giảm tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp, tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động trung, dài hạn từ trong dân cư và các thành phần kinh tế khác để gia tăng nguồn vốn có thể cho vay trung, dài hạn của Sở. Qua đó có thể mở rộng được Dư nợ cho vay đối với nền kinh tế nói chung và dư nợ đối với các DNV&N nói riêng.
3.2.3. Đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo tiền vay
Trong những năm tới, Sở giao dịch I cần thiết phải từng bước đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo tiền vay nhằm tạo điều kiện nâng cao khả năng đáp ứng tài sản đảm bảo cho DN vay vốn. Ngân hàng có thể xem xét chấp nhận toàn bộ hoặc chấp nhận từng phần các loại tài sản đảm bảo là bất động sản và các tài sản gắn liền với đất đai. Ngoài các tài sản đảm bảo thông thường, Sở cũng nên mở rộng việc nhận thế chấp đối với các loại tài sản khác như các giấy tờ trị giá bằng tiến, cổ phiếu, trái phiếu… Từng bước mở rộng đối tượng tài sản đảm bảo theo hướng: giá trị của tài sản đảm bảo đủ lớn để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm; tài sản đảm bảo có khả năng thanh khoản tốt và có cơ sở pháp lý, thuận tiện cho ngân hàng trong việc xử lý.
Việc đa dạng các loại hình tài sản đảm bảo sẽ tháo gỡ cho các doanh nghiệp nhất là các DNV&N trong việc vay vốn ngân hàng. Sử dụng hình thức tài sản đảm bảo thích hợp và các biện pháp, nghiệp vụ cho vay để tạo điều kiện cho các DNV&N có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, làm ăn đứng đắn dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và thúc đẩy nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.
3.2.4. Nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng đối với hoạt động cho vay của Sở giao dịch I
Một thực trạng trong hoạt động cho vay đối với các CBTD của Sở giao dịch I là việc các CBTD bên cạnh việc phân tích, đánh giá khách hàng vẫn phải thực hiện công việc thu thập thông tin về khách hàng. Điều này đôi khi làm cho công tác thu thập thông tin không được tốt, chất lượng thông tin đầu vào không được như ý làm ảnh hưởng đến công tác phân tích, đánh giá khách hàng. Hiện nay, các CBTD của Sở giao dịch I chủ yếu vẫn sử dụng các thông tin tín dụng từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC)- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Do hạ tầng công nghệ thông tin còn lạc hậu nên các thông tin tín dụng không được cập nhật thường xuyên, điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng của việc phân tích thông tin khách hàng. Nâng cấp hạ tầng thông tin tín dụng sẽ duy trì chất lượng thông tin đầu vào cho CBTD, góp phần nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng.
3.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng là yếu tố con người. Muốn nâng cao được chất lượng thẩm định dự án, phương án vay vốn của khách hàng Sở cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng… Muốn vậy, Sở cần quan tâm thích đáng đến việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, coi đào tạo là một trong những nhhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng nên một đội ngũ cán bô có đủ trình độ chuyên môn, có hiểu biết về quy trình, kỹ thuật thẩm định dự án, phương án vay vốn của khách hàng, biết thu thập xử lý các thông tin cần thiết, có hiểu biết nhất đinhhj về tình hình kinh tế xã hội trong nước cũng như quốc tế để đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động Ngân hàng. Ngoài ra, Sở giao dịch I cũng nên thường xuyên giáo dục về tư tưởng, phẩm chất đạo đức đối với đội ngũ cán bộ tín dụng, tránh tình trạng một số cán bộ tín dụng tha hoá về đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm, không trung thực hoặc cầu kết với doanh nghiệp lừa đảo chiếm đoạt vốn vay Ngân hàng…
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tầm quan trọng của các DNV&N đối với phát triển kinh tế ngày càng được nâng cao và nhận được sự khuyến khích từ phía Nhà nước và các cơ quan quản lý kinh tế. Để có thể nâng cao chất lượng cho vay giữa Sở giao dịch I với các DNV&N thì các DNV&N cũng cần phải có những thay đổi tích cực hơn để đáp ứng được yêu cầu từ phía Ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Đó là:
Thứ nhất, minh bạch hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để nâng cao tính minh bạch đối với tình hình tài chính thì các DN cần phải triệt để tuân theo các quy định, chế độ kế toán hiện hành và nếu có thể thì các DN cũng nên thuê các công ty kiểm toán để kiểm tra và xác thực tình hình tài chính của DN mình.
Thứ hai, nâng cao khả năng lập và nghiên cứu dự án. Như đã phân tích ở trên, một thực trạng đối với các DNV&N hiện nay là sự yếu kém trong khâu thiết lập các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh. Điều này phần nào gây ảnh hưởng đến uy tín của DN và gây khó khăn cho các CBTD của ngân hàng trong việc thẩm định dự án đầu tư. Nâng cao khả năng thiết lập và nghiên cứu dự án sẽ giảm thiểu được những rủi ro trong kinh doanh của DN, nâng cao uy tín của DN trong mắt ngân hàng và quan trọng là nếu dự án khả thi, mang lại lợi nhuận thì DN sẽ hoàn trả được nợ ngân hàng đúng hạn.
Thứ ba, chú trọng đến đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. Nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên có tầm quan trọng rất lớn đối với các DNV&N để có thể cạnh tranh và nâng cao vị thế của DN trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Là cơ quan chỉ đạo, điều hành; trong những năm tới Ngân hàng Công thương Việt Nam cần thiết phải quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với các DNV&N, thể hiện:
- NHCT cần xây dựng và có những hướng dẫn riêng, cụ thể hơn về chính sách cho vay đối với các DNV&N. Chính sách cho vay này phải phù hợp với thực trạng và đặc điểm của các DNV&N trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải có một chương trình phối hợp giữa Sở và các chi nhánh trong việc triển khai cho vay đối với các DNV&N, qua đó có thể trao đổi kinh nghiệm, thông tin và hỗ trợ nhau trong công tác theo dõi, quản lý doanh nghiệp.
- NHCT cần thành lập ra một phòng hay một tổ quản lý chuyên biệt chuyên quản lý hoạt động cho vay đối với các DNV&N. Bộ phận này có nhiệm vụ xây dựng tiêu chuẩn cho vay và có nhiệm vụ kiểm tra thường xuyên hoạt động cho vay đối với các DNV&N trong toàn hệ thống.
- NHCT nên thường xuyên tổ chức các chương trình hội thảo, các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho vay đối với các DNV&N cho cán bộ tín dụng trong toàn hệ thống. Thông qua các chương trình này, cán bộ tín dụng sẽ có được một cái nhìn toàn diện hơn và nâng cao kỹ năng quản lý, kỹ năng phân tích của mình. Bên canh đó, để không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác cho vay, Sở cũng nên tạo điều kiện hơn nữa về thời gian và vật chất cho các cán bộ tham gia các chương trình đào tạo trong nước và quốc tế.
- NHCT cần hoàn thiện và phát triển hơn nữa mạng lưới thông tin về các DNV&N để các chi nhánh có thể tham khảo thêm thông tin trước khi ra quyết định cho vay. Nguồn thông tin cần phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Cần thiết phải xây dựng một trung tâm thông tin tín dụng chung trong toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trước mắt nên phối hợp với một số đơn vị có nhiều thông tin và kinh nghiệm trong lĩnh vực này như: VCCI, HASME… trong việc trao đổi, thu thập thông tin về các DNV&N. Tính đến ngày 31/12/2007, NHCT Việt Nam mới chỉ thực hiện lưu trữ được 208.138 hồ sơ thông tin khách hàng có quan hệ tín dụng. Đây là một con số rất khiêm tốn so với lượng khách hàng của NHCT Việt Nam, nên trong những năm tới NHCT Việt Nam cần chú trọng xây dựng và phát triển trung tâm thông tin tín dụng cho toàn bộ hệ thống.
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tại Việt Nam, cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, các DNV&N hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý thích hợp sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh vai trò và tiềm năng rất to lớn của mình trong việc sản xuất hàng hoá, máy móc, thiết bị để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhun cầu sản xuất của xã hội, nhất là cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp, các DNV&N còn góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động, tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng kinh tế… Chính vì vậy hoạt động của các doanh nghiệp này cần phải có sự quan tâm, phối hợp và giúp đỡ nhiều hơn nữa của Nhà nước, các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương. Dưới đây là một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước nhằm tạo ra điều kiện hơn nữa cho các DNV&N phát huy vai trò phát huy tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế xã hội, đồng phần góp phần ngăn ngừa được những nguy cơ rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này:
- Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành Luật và các văn bản khác một cách rõ ràng, chính xác và hạn chế sự thay đổi trong một thời gian ngắn.
- Cần áp dụng một cách linh hoạt những công cụ như: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở… để điều tiết cung cầu tiền tệ trên thị trường và những diễn biến bất thường của lãi suất. Tránh tình trạng để nền kinh tế bị “khát” vốn hay bị “đóng băng” về vốn, đồng thời tránh sự can thiệp quá sâu về mặt kỹ thuật nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước vào hoạt động của các NHTM.
- Cần có một quy chế cho vay và quy chế miễn giảm lãi áp dụng riêng đối với các DNV&N để các NHTM có căn cứ cụ thể hơn nữa trong việc thực hiện cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
- Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát các NHTM trong hoạt động cho vay nhất là cho vay đối với các DNV&N. Hoạt động này có thể được tiến hành theo phương thức giám sát từ xa hay kiểm tra tại chỗ. Bên cạnh việc tìm ra những bất cập trong hoạt động cho vay của các NHTM, công tác thanh tra còn phải nêu lên những kiến nghị, giải pháp để tháo gỡ, sửa chữa cho các NHTM để từ đó nâng cao được chất lượng quản lý của NHTM trong việc cho vay, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Để làm tốt công tác này, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ công tác làm thanh tra, tránh một tình trạng phổ biến hiện nay là một số cán bộ có trình độ chuyên môn thấp khi vào thanh tra NHTM không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro của các món vay hay của khách hàng vay. Một số khác do không nắm chắc quy trình cho vay và các văn bản có liên quan hiện hành nên đưa ra những đòi hỏi, yêu cầu không cần thiết, không sát với thực tế, không tập trung thanh tra vào nội dung chủ yếu của công tác cho vay, dẫn đến hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát chưa cao.
- Cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước cần thiết phải đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa vai trò của trung tâm thông tin tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng là tổ chức trung gian đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức tín dụng. Việc chia sẻ thông tin sẽ ngăn chặn những khách hàng xấu tiếp cận tín dụng. Đồng thời, nó cũng giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn tín dụng với mức lãi suất thấp hơn do giảm chi phí điều tra thông tin. Qua đó giúp các tổ chức tín dụng có thể tăng trưởng dư nợ, và giúp các cá nhân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng.
Ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập từ năm 1999. Là một tổ chức thông tin tín dụng công, CIC có 02 chức năng chủ yếu sau:
Thu thập thông tin tín dụng về người vay từ các tổ chức tín dụng và cung cấp thông tin trở lại cho các tổ chức tín dụng để phục vụ hoạt động kinh doanh.
Cung cấp thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước để đưa ra các quy định về giám sát các tổ chức tín dụng nhằm góp phần đảm bảo an toàn, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Cho đến thời điểm 31/12/2007, hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước đã thu thập được 8.867 nghìn hồ sơ khách hàng cả khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng.
Hình 3.1: Tăng trưởng hồ sơ thông tin khách hàng tại trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(Nguồn: thông tin NHCT Việt Nam số 03/2008)
Trong 4 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng hồ sơ thông tin khách hàng của Trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là rất nhanh. Đến năm 2007, số lượng hồ sơ đã tăng gấp 14 lần so với năm 2003. Đây thực sự là một nỗ lực rất đáng ghi nhận của trung tâm thông tin tín dụng trong những năm qua.
Tuy nhiên, hiện nay với tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng ước tính là 30%/năm cùng với tốc độ tăng trưởng chóng mặt về khách hàng của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế; thì vai trò cũng như nhiệm vụ của trung tâm thông tin tín dụng CIC trong những năm tới là hết sức nặng nề. Để xây dựng hệ thống thông tin tín dụng lớn, phục vụ đắc lực cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thiết phải có những biện pháp sau đối với các tổ chức tín dụng:
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải khai báo thông tin khách hàng theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Yêu cầu việc khai thác, sử dụng thông tin tín dụng trong việc thực hiện cấp tín dụng là một điều kiện bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
Hoàn thiện, đổi mới hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu nhằm quản lý tốt hơn việc thu thập và cung cấp thông tin hồ sơ khác hàng đến các tổ chức tín dụng hoạt động trên cả nước.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực và tăng cường các kênh cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng CIC, mở rộng hệ thống này trên cả nước.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chiếm đa số là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay thì nhu cầu vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn. Điều đó mở ra những cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng trong việc phát triển hoạt động cho vay. Tuy nhiên, hoạt động nào cũng đều có những mặt thuận lợi và khó khăn nhất định. Do đó, để phát triển hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam không thể chỉ quan tâm đến việc mở rộng, nâng cao doanh số cho vay mà còn phải đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Qua quá trình thực tập, tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng hoạt động của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam, em đã hoàn thành đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam”.
Mặc dù đã cố gắng, song do trình độ hiểu biết, kinh nghiệm thực tế và thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, nên chuyên đề không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong sẽ nhận được sự tận tình góp ý, chỉ bảo của thầy, cô và các bạn có quan tâm đến đề tài để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng Thương mại, PGS.TS Phan Thị Thu Hà – NXB Thống Kê 2006.
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, TS Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê 2007.
Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng, Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng – NXB Thống Kê 1998.
Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, GS.TS Nguyễn Đình Hương – NHB Chính trị Quốc gia 2002.
Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter Rose 2004.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Frederic S.Mishkin – NXB Khoa học kỹ thuật 1994.
Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số 21-27
Luật doanh nghiệp 2005, luật các tổ chức tín dụng 2004, luật ngân hàng Nhà nước 1998 và các văn bản luật của Ngân hàng Nhà nước và những hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Các báo cáo tổng kết hoạt động của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam các năm 2005, 2006 và 2007.
Các trang web:
www.sbv.gov.vn
www.hasmea.org
www.vneconomy.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam.DOC