Đề tài: Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
MỤC LỤC
ỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
1.1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
1.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại
1.2.1. Lý thuyết chung về thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.2.1.1. Đầu tư và dự án đầu tư
1.2.1.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.2.2. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại
1.2.3. Quy trình thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
1.2.4. Nội dung thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Xác định tổng mức vốn đầu tư
1.2.4.2. Xác định nguồn vốn, cơ cấu vốn, sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ cho dự án và tiến độ bỏ vốn
1.2.4.3. Xác định chi phí sản xuất và giá thành
1.2.4.4. Xác định doanh thu và lợi nhuận của dự án
1.2.4.5. Xác định dòng tiền dự kiến
1.2.5. Phương pháp thẩm định
1.2.5.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu
1.2.5.2.Phương pháp thẩm định theo trình tự
1.2.5.3. Phương pháp thẩm định dựa trên việc phân tích độ nhạy của dự án
1.2.5.4. Phương pháp dự báo
1.2.5.5. Phương pháp triệt tiêu rủi ro
1.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án
1.3.3.1. Nhân tố khách quan
1.3.3.2. Nhân tố chủ quan
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Vài nét về Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch I
2.1.1.1. Giới thiệu về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
2.1.1.2. Các giai đoạn phát triển của Sở giao dịch I – BIDV
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở giao dich I
2.1.2.1. Nhiệm vụ chung của Sở giao dịch I
2.1.2.2. Mô hình tổ chức của Sở giao dịch I
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I – BIDV trong những năm gần đây
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
2.1.2.2. Hoạt động tín dụng
2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ
2.2. Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
2.2.1. Quy trình thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
2.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
2.2.2.1. Sự cần thiết phải đầu tư
2.2.2.2. Thẩm định tổng mức đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn
2.2.2.3. Đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án
2.2.3. Giới thiệu dự án cụ thể
2.2.3.1. Giới thiệu về Doanh nghiệp
2.2.3.2. Giới thiệu dự án
2.2.3.3. Phân tích tài chính dự án “Đầu tư thiết bị thi công – Cẩu lốp KATO 45 tấn”
2.2.3.4. Báo cáo đề xuất tín dụng trình ban lãnh đạo BIDV
2.3. Đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I – BIDV
2.3.1. Các kết quả đạt được
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
2.3.2.2. Nguyên nhân
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I - BIDV
3.1. Định hướng công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện nội dung, phương pháp thẩm định
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức điều hành của Sở giao dịch I đối với hoạt động thẩm định tài chính dự án
3.2.3. Giải pháp về thu thập, phân tích thông tin liên quan đến việc thẩm định dự án đầu tư
3.2.4. Lựa chọn tiêu chí, tiêu chuẩn thích hợp, kết hợp các phương pháp thẩm định nhằm đánh giá toàn diện dự án đầu tư
3.2.5. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
3.2.6. Giải pháp về công nghệ
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các phòng ban có liên quan
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
3.3.3. Kiến nghị với chủ đầu tư
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
80 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2497 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín dụng đã ra đời với nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án đầu tư trong và ngoài nước, tuy vậy trên thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư ở phòng chưa có sự tách biệt, nghiệp vụ thẩm định vẫn được lồng ghép với nghiệp vụ tín dụng. Một cán bộ tín dụng phải kiêm rất nhiều việc từ tiếp nhận hồ sơ vay vốn, kiểm soát tính đầy đủ hợp lệ của các loại giấy tờ, thu thập thông tin để thẩm định khách hàng vay, thẩm định dự án đầu tư đến lập tờ trình rồi kiểm tra, giám sát theo dõi nợ vay… Khối lượng công việc lớn như vậy cộng thêm số các dự án thẩm định ngày càng tăng khiến cho các cán bộ không có đủ thời gian để thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình thẩm định, từ đó làm giảm tính chính xác của các kết quả cuối cùng.
Bên cạnh đó sự phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình thẩm định còn hạn chế, cán bộ thẩm định thường làm việc khá độc lập, ít có sự chia sẻ hỗ trợ thông tin và kinh nghiệm cho nhau.
w Về phương pháp thẩm định
Ngân hàng chưa có sự kết hợp các phương pháp trong quá trình thẩm định. Mặt khác trong việc sử dụng từng chỉ tiêu cũng còn nhiều hạn chế:
Phương pháp so sánh các chỉ tiêu là phương pháp phổ biến mà cán bộ thẩm định sử dụng nhiều nhất, tuy vậy việc so sánh đôi khi còn mang tính giản đơn. Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư hoặc các chỉ tiêu về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên vật liệu, nhân công… chưa có sự so sánh với các dự án tương tự, với các định mức kinh tế- kỹ thuật của Bộ ngành. Các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc so sánh giữa các năm với nhau chứ chưa đối chiếu với các doanh nghiệp trong cùng ngành. Các tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị cũng chưa có chuẩn mực nào để kiểm tra, đối chứng. Điều này một lần nữa chứng tỏ nguồn thông tin của ngân hàng còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu thẩm định.
Phương pháp dự báo vẫn chưa được áp dụng một cách khoa học. Các thông tin về cung cầu sản phẩm, giá cả, chất lượng công nghệ, thiết bị… mới chỉ được thu thập dựa trên sự cố gắng cao nhất của cán bộ thẩm định thông qua sách báo, tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày, các nguồn thông tin này nhiều khi không thực sự đầy đủ và cập nhật. Mặt khác ngân hàng cũng chưa áp dụng các phương pháp toán học hiện đại để phân tích và dự báo cung cầu thị trường. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác dự báo, làm giảm độ chính xác của các chỉ tiêu hiệu quả.
Các phương pháp phân tích rủi ro chưa được chú trọng một cách đúng mức. Một dự án đầu tư khi đi vào hoạt động có thể gặp rất nhiều các loại rủi ro khác nhau như: rủi ro về cung cấp các đầu vào, đầu ra; rủi ro do chậm tiến độ thi công; rủi ro về cung cấp dịch vụ công nghệ- kỹ thuật… Tuy nhiên cán bộ thẩm định ít khi dành nhiều thời gian và công sức đi sâu đánh giá từng loại để từ đó có hướng tư vấn, cùng chủ đầu tư tìm các biện pháp phòng ngừa.
Bên cạnh đó, phân tích rủi ro thông qua phân tích độ nhạy được coi là một trong những phương pháp phân tích hiện đại, tuy vậy vẫn chưa được ngân hàng sử dụng nhiều, nếu có cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích độ nhạy một chiều. Việc lựa chọn yếu tố dao động, khoảng dao động phụ thuộc nhiều vào sự đánh giá chủ quan của cán bộ thẩm định chứ không được ngân hàng quy định cụ thể trên cơ sở tổng kết các dự án đặc trưng ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau.
w Về nội dung và quy trình thẩm định:
Mặc dù công tác thẩm định dự án tại Sở giao dịch I đã thực hiện đúng quy trình do BIDV ban hành, tuy nhiên việc tuân thủ theo quy trình đó chỉ mang tính hình thức bên ngoài. Trên thực tế, các nội dung trong quy trình chỉ được thẩm định một cách sơ sài và chưa đầy đủ. Xuất phát từ đặc trưng của một ngân hàng thương mại giống như nhiều ngân hàng khác, điều mà BIDV quan tâm nhất khi xem xét một khoản vay đó là khả năng trả nợ, nguồn trả nợ và thời gian trả nợ. Do đó quá trình thẩm định dự án hầu như chỉ tập trung đánh giá khía cạnh tài chính cũng như khả năng trả nợ của chủ đầu tư, các nội dung khác mới chỉ được đánh giá một cách chung chung, sơ sài, không được quan tâm một cách đúng mức. Cụ thể đó là:
Thứ nhất, trong thẩm định tổng vốn đầu tư cũng như cơ cấu, tốc độ bỏ vốn, Sở giao dịch thường chấp nhận những dự toán mà chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà không có sự cân nhắc đánh giá một cách toàn diện. Do đó trên thực tế có một số dự án khi đi vào hoạt động tổng vốn đầu tư không đủ, kế hoạch bỏ vốn không hợp lý, trong trường hợp này ngân hàng buộc phải cho vay phần thiếu hụt vì nếu không dự án không thể đảm bảo đúng tiến độ và xảy ra nguy cơ rủi ro với khoản vay trước đó.
Thứ hai, các nội dung cơ bản quyết định đến tính chính xác của các kết quả tính toán như: doanh thu, chi phí…tuy được quan tâm thực hiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định tài chính dự án. Cụ thể là:
- Về xác định doanh thu: Doanh thu của mỗi dự án phụ thuộc vào công suất hoạt động thực tế, giá bán sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ được. Giá bán và số sản phẩm bán được lại phụ thuộc vào thị trường, mà thị trường thì thường xuyên biến động. Tuy nhiên ngân hàng chỉ xem xét xem sản phẩm có được thị trường chấp nhận không rồi từ đó áp dụng mức công suất hoạt động tăng dần theo các năm. Bên cạnh đó cán bộ thẩm định cũng thường sử dụng luôn mức giá bán mà doanh nghiệp đưa ra, ít khi có sự tham khảo giá thị trường để xem xét tính hợp lý của giá bán và cũng không có sự điều chỉnh giá do ảnh hưởng của những yếu tố như lạm phát, trượt giá…Nhìn chung, việc dự tính doanh thu mới chỉ dựa trên những tính toán chủ quan của chủ đầu tư hoặc những tính toán có tính chất định tính của cán bộ thẩm định mà không áp dụng các phương pháp phân tích cụ thể để dự đoán nhu cầu, không tính đến những thay đổi của cơ chế chính sách, của thị hiếu tiêu dùng, …
- Về xác định chi phí: việc thẩm định chi phí dự án hầu như mới chỉ dừng lại ở việc xem xét tính đầy đủ của các khoản mục, chưa đi sâu tìm hiểu từng nội dung cụ thể nhằm khẳng định tính lợp lý và chính xác của các khoản mục đó. Trên thực tế đây là công việc khá phức tạp, nhất là đối với những dự án nằm trong lĩnh vực mới. Do đó khi thẩm định chỉ tiêu này, cán bộ thẩm định thường dựa vào số liệu do doanh nghiệp cung cấp và kinh nghiệm khi thẩm định các dự án cùng loại nên không tránh khỏi những sai sót.
Thứ ba, việc thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính còn nhiều bất cập.
Trong hầu hết các dự án được thẩm định, cán bộ thẩm định mới chỉ lựa chọn một số chỉ tiêu cơ bản để tính toán như: NPV, IRR, tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, các chỉ tiêu khác như chỉ tiêu điểm hoà vốn, lợi ích- chi phí, năng lực hoà vốn… chưa được quan tâm và thông thường là bị bỏ qua.
Các chỉ tiêu NPV, IRR được tính trên cơ sở áp dụng một mức lãi suất không đổi. Tuy nhiên trên thực tế, lãi suất là yếu tố thường xuyên biến đổi dưới tác động của nhiều nhân tố theo thời gian. Như vậy các chỉ tiêu trên sẽ ít nhiều không còn mang đầy đủ ý nghĩa, nhất là với những dự án trung - dài hạn, bởi lẽ việc tính toán chúng phụ thuộc khá nhiều vào việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu.
Trong một số trường hợp, cán bộ thẩm định khi tính toán các chỉ tiêu trên đã không chú ý tới giá trị thời gian của tiền, không quy đổi các khoản thu chi về cùng một mặt bằng thời gian để tính toán, phân tích, từ đó dẫn đến làm giảm độ chính xác của các chỉ tiêu.
Thứ tư, việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu còn thiếu cơ sở khoa học.
Về mặt lý thuyết có nhiều phương pháp lựa chọn lãi suất chiết khấu khác nhau, tuy nhiên cán bộ thẩm định thường chấp nhận mức lãi suất do khách hàng đưa ra, ở một số trường hợp thì sử dụng luôn lãi suất vay ngân hàng nếu nguồn vốn vay ngân hàng chiếm đa số trong tổng cơ cấu nguồn vốn. Lãi suất chưa phản ánh đầy đủ chi phí huy động vốn, ví dụ như mức lãi suất chiết khấu đáng lẽ phải là chi phí quân của 3 loại vốn: lãi suất vay ngân hàng, lãi vay ưu đãi của nhà nước và chi phí cơ hội của vốn tự có. Lãi suất cũng chưa thực sự phản ánh những tác động của môi trường kinh tế tới hiệu quả của dự án, chẳng hạn như: lạm phát, trượt giá, mức độ rủi ro… ở đa số các dự án, như đã nói ở trên, các dòng tiền của dự án trong suốt thời kỳ phân tích được chiết khấu với một tỷ lệ không đổi.
Khi đánh giá về khía cạnh kinh tế- xã hội cán bộ thẩm định rất ít khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả xã hội của dự án như : mức tăng thu nhập, khả năng tạo việc làm cho người lao động, mức thuế đóng góp cho ngân sách…
Đặc biệt nội dung đánh giá rủi ro rất ít khi được cán bộ thẩm định đề cập trong hầu hết các báo cáo thẩm định.
w Về trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định
Từ khi đi vào hoạt động ngân hàng đã luôn chú trọng áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng. Hệ thống máy tính nối mạng được trang bị cho các phòng ban đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng cung cấp số liệu, nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
Tuy nhiên Sở giao dịch vẫn chưa có đủ điều kiện để áp dụng các phần mềm trong thẩm định, do vậy việc thẩm định nhiều khi còn mang tính thủ công cục bộ cá nhân. Điều này đi ngược lại với đặc trưng của hoạt động thẩm định là đòi hỏi phải có sự phối kết hợp về trí tụê của nhiều cá nhân và tập thể. Đó là chưa kể đến các tính năng ưu việt của hệ thống máy tính chưa được khai thác một cách triệt để và có hiệu quả. Hiện nay có rất nhiều phần mềm tin học ứng dụng rất tốt cho công tác thẩm định tài chính dự an song hạn chế về tài chính là một trong các yếu tố khiến cho cán bộ thẩm định chưa được tiếp xúc với các phần mềm hiện đại nhất.
Vì vậy trong nhiều trường hợp đã xảy ra tình trạng sai lệch do việc tính toán thủ công gây nên. Điều này một mặt làm giảm độ tin cậy, chính xác của các kết quả thẩm định, mặt khác làm hao tổn thời gian và công sức của cán bộ thẩm định cũng như của khách hàng, có thể làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng do phải chờ đợi quyết định có được vay vốn hay không và vô hình chung làm ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng.
w Về mạng lưới thông tin
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập mọi thông tin về khách hàng thông qua các biện pháp thu thập trực tiếp hay gián tiếp song cơ sở thông tin được dùng để phân tích thẩm định dự án chủ yếu vẫn dựa trên các tài liệu mà khách hàng gửi đến. Trong nhiều trường hợp các nguồn thông tin này không thực sự khách quan vì để được ngân hàng chấp nhận cho vay, chủ đầu tư đã cố tình làm sai lệch các số liệu nhằm làm khả quan tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như làm tăng tính khả thi của dự án.
Hiện nay hầu hết các dự án gửi đến ngân hàng thẩm định đều là do chủ đầu tư tự lập, nguồn số liệu trong các báo cáo khả thi thường thiếu gây nhiều khó khăn cho cán bộ thẩm định. Hơn thế nữa, để tăng tính thuyết phục cho dự án, doanh nghiệp trong quá trình lập báo cáo khả thi có xu hướng tìm mọi cách làm giảm chi phí hoạt động của dự án xuống mức thấp nhất.
Các báo cáo tài chính được sử dụng để phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn cũng không thực sự đủ độ tin cậy bởi có nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc. Thêm vào đó các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh thường kỳ của doanh nghiệp nộp cho ngân hàng có nhiều loại khác nhau dẫn đến khó hệ thống chuẩn hoá thông tin.
Sự phối hợp về mặt thông tin giữa các thành viên cũng chưa chặt chẽ, thường xuyên. Khối lượng công việc của phòng khá lớn nên các cá nhân làm việc một cách độc lập, dự án phân công cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự thẩm định dựa vào năng lực của bản thân, ít có sự hợp tác, hỗ trợ qua lại lẫn nhau về mặt thông tin trong quá trình thẩm định. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian cũng như chất lượng thẩm định.
Trong quá trình thẩm định, tuy cán bộ thẩm định có tham khảo các thông tin từ hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC), tuy nhiên hệ thống này không thể chuyển tải hết các thông tin mà cán bọ thẩm định cần có. Điều này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc nắm bắt được một cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như độ lành mạnh của chính doanh nghiệp đó. Mặt khác các thông tin trên hệ thống này chủ yếu được cung cấp bởi các tổ chức tín dụng, do vậy nếu các tổ chức này chậm hoặc không gửi thông tin lên thì sẽ khiến cho các thông tin về doanh nghiệp bị phản ánh không đầy đủ, thiếu khách quan. Việc thu thập thông tin từ các đối tác, bạn hàng của doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác là rất hạn chế. Trong khi đó, việc khai thác thông tin từ phía các cơ quan nhà nước (như toà án, thuế, uỷ ban nhân dân, kiểm toán, kế hoạch đầu tư…) còn khá khó khăn, lí do là bởi vì hiện nay chưa có một cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các tổ chức cho vay và cơ quan nhà nước.
w Về cán bộ thẩm định
Đa số cán bộ thẩm định cũng như đội ngũ nhân viên tại Sở giao dịch I đều có trình độ từ đại học trở lên, tuy nhiên đa số họ là đội ngũ trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tế về dự án, về thương trường. Số cán bộ có kỹ thuật còn hạn chế trong khi số cán bộ có chuyên môn về cả nghiệp vụ lẫn kỹ thuật lại càng ít. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác thẩm định.
Đội ngũ cán bộ thẩm định chưa được phân công chuyên môn hoá trong công tác thẩm định, ở nhiều chi nhánh chưa có cán bộ chuyên trách về thẩm định dự án. Nhiều cán bộ không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định dự án mà chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu thẩm định nên trình độ còn nhiều hạn chế.
Mặt khác ngân hàng cũng chưa có chương trình đào tạo tổng thể về thẩm định dự án, việc đào tạo mới chỉ dựa vào những chương trình tập huấn và bồi dưỡng trong ngắn hạn hoặc tự đào tạo.
w Các hạn chế khác
Việc thẩm định dự án đôi khi còn mang tính chủ quan, kết quả thẩm định còn ít nhiều phụ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thực tế chúng ta gặp nhiều trường hợp mà việc ngân hàng có quyết định cho vay hay không không chỉ phụ thuộc vào kết quả thẩm định mà còn phụ thuộc vào "tài sản vô hình đem ra thế chấp với ngân hàng"- đó là mối quan hệ giữa BIDV và khách hàng, do đó việc thẩm định trên thực tế chỉ mang tính thủ tục, hình thức. Vì thế mà có những dự án kết quả thẩm định cho thấy có thể cho vay thì chưa chắc đã được chấp thuận cho vay, trong khi có dự án mà kết quả thẩm định cho thấy không thể cho vay hoặc còn nhiều điều bất ổn thì lại được ngân hàng sẵn sàng cấp vốn. Đây chính là nguy cơ chủ yếu dẫn đến những rủi ro tín dụng cho ngân hàng trong thời gian qua.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nh÷ng tån t¹i trong c«ng t¸c thÈm ®Þnh cña ng©n hµng thêi gian qua lµ do ¶nh hëng cña nhiÒu nguyªn nh©n kh¸c nhau, trong ®ã cã c¶ nguyªn nh©n chñ quan lÉn kh¸ch quan.
a. Nguyên nhân khách quan
w Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
- Pháp luật: hệ thống luật pháp của chúng ta chưa đồng bộ, còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Pháp lệnh về kế toán thống kê vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm minh. Hiện nay chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc, các số liệu về khả năng tiêu thụ, về thu nhập, chi phí hoạt động,… của doanh nghiệp chỉ mang tính ước tính mà chưa có sự kiểm chứng của bất kỳ một tổ chức kiểm toán nào. Do đó cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định rất khó xác định tình hình tài chính, tình tình thanh toán, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Kinh tế: môi trường kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động gây khó khăn cho công tác dự báo. Hệ thống các ngân hàng hiện nay chưa hoàn thiện, thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh mẽ dẫn đến khó xác định mức lãi suất chiết khấu. Tỷ giá không thống nhất cũng gây bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính. Sự cạnh tranh trên thương trường diễn ra ngày càng gay gắt khiến cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản.Thêm vào đó phân cấp quản lý dự án của nhà nước không rõ ràng khiến cho ngân hàng nhiều khi không xác định được chính xác thẩm quyền quyết định các dự án. Quản lý dự án đầu tư đôi khi còn chồng chéo giữa địa phương và các Bộ ngành liên quan…
- Môi trường xã hội: hệ thống các cơ quan tư vấn về thẩm định dự án, đặc biệt là phương diện kỹ thuật, thị trường chưa phát triển.
w Nguyên nhân từ phía chủ đầu tư
Trước hết phải kể đến trình độ lập dự án của các doanh nghiệp còn yếu, các dự án được lập còn thiếu chính xác và thiếu căn cứ khoa học… Khi trình hồ sơ tài liệu lên ngân hàng, các chủ đầu tư không cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu cần thiết cho qua trình thẩm định, khiến cho công tác thẩm định thường bị kéo dài. Các chủ đầu tư cũng thường cung cấp những thông tin thiếu chính xác về doanh nghiệp và dự án, làm ảnh hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định.
Mặt khác trình độ quản lý của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn thấp, dẫn đến hiệu quả của các dự án không cao. Trong quá trình dự án đi vào hoạt động, các cán bộ thẩm định cũng không thể kiểm soát được mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ đó khiến cho nhiều dự án bị chậm tiến độ thi công do lựa chọn không đúng nhà thầu, triển khai vốn không đúng tiến độ hay sử dụng vốn sai mục đích… làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Bên cạnh đó còn phải kể đến một số những nguyên nhân khác như: thị trường máy móc thiết bị cung cấp cho các doanh nghiệp hiện nay rất phong phú và đa dạng. Có nhiều loại máy móc hiện đại nên các cán bộ thẩm định rất khó đánh giá được khả năng sử dụng vận hành công nghệ, đội ngũ công nhân vận hành của doanh nghiệp…
b. Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan ở trên, những nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng cũng là những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I. Có một số nguyên nhân chủ quan sau:
w Nội dung và quy trình thẩm định của ngân hàng đang trong quá trình hoàn thiện: Quy trình thẩm định đã được xây dựng là áp dụng chung cho mọi loại dự án, chưa có văn bản hướng dẫn riêng cho từng loại dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các nội dung trong quy trình chưa được quy định chi tiết, tỉ mỉ làm cơ sở cho cán bộ thẩm định có căn cứ tham chiếu, khiến họ lúng túng khi thẩm định, đặc biệt đối với những dự án thuộc các lĩnh vực kinh doanh mới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ qua hoặc tuỳ tiện trong một số trường hợp.
Mặc dù quy trình tín dụng của ngân hàng có quy định khá đầy đủ các nội dung cần tiến hành trong quá trình thẩm định một dự án đầu tư, song trên thực tế việc thẩm định mới chỉ tập trung vào phương diện tài chính và phân tích thị trường. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi trên thực tế ngân hàng là một đơn vị kinh doanh và cũng không có đủ nguồn lực để thẩm định hết các yếu tố, dó đó các khía cạnh còn lại chưa được nghiên cứu quan tâm đầy đủ, nhất là khía cạnh kinh tế- xã hội của dự án. Đây cũng là một thực tế chung ở hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trong thời gian qua mặc dù các trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định đã được ngân hàng chú trọng đầu tư, tuy nhiên do đặc thù của ngành ngân hàng đòi hỏi hệ thống trang thiết bị phải được thường xuyên đổi mới, cập nhật, nên sự đầu tư đó vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Bên cạnh đó, hệ thống trang thiết bị này chưa được khai thác một cách triệt để, mới chủ yếu dùng để soạn thảo văn bản và tính toán đơn thuần trên Excell. Ở đây cũng phải kể đến năng lực thành thạo máy tính của một bộ phận cán bộ thẩm định còn chưa ổn.
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến hạn chế trên chính là do ngân hàng chưa nghiên cứu và áp dụng các phần mềm hiện đại trong thẩm định và quản lý dự án. Điều này trái ngược với xu hướng hiện nay, khi mà công tác thẩm định ngày càng đòi hỏi phải được chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống các phần mềm trong phân tích chuyên ngành, quản lý và dự báo. Trong tương lai, ngân hàng nên chú ý áp dụng hơn nữa ứng dụng của khoa học công nghệ trong công tác thẩm định dự án.
w Công tác thu thập, quản lý, lưu trữ thông tin của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu
Việc thu thập thông tin của ngân hàng còn nhiều hạn chế như: Sở giao dịch vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thông tin đa dạng từ trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước, từ các Bộ ngành liên quan, từ đối tác, khách hàng, bạn hàng của Sở giao dịch. Sở giao dịch chưa có bộ phận chuyên trách phục vụ việc thu thập thông tin về các văn bản pháp quy mới, các thông số, quy chuẩn, tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật được áp dụng trong từng lĩnh vực dự án khác nhau, về các đối tác đã, đang và sẽ có quan hệ tín dụng với mình. Phòng khách hàng mới chỉ làm nhiệm vụ tìm kiếm, duy trì và triển mối quan hệ khách hàng mà chưa có sự hỗ trợ thông tin về khách hàng cho công tác thẩm định. Mặt khác, Sở cũng ít khi chủ động thu thập thông tin, đánh giá lại các dự án đã và đang thực hiện làm tài liệu tham khảo để thẩm định các dự án tương tự về sau, việc thu thập thông tin thường chỉ được phát sinh ở một dự án nào đó cần được thẩm định.
Bên cạnh đó, các thông tin về dự án đã thực hiện được lưu trữ dưới dạng thô sơ, chưa có hệ thống, chưa tận dụng được hết hiệu quả của máy tính và mạng máy tính trong việc lưu trữ và tra cứu khi cần. Sự phối hợp trao đổi thông tin, tư vấn giữa Sở giao dịch với các đơn vị khác trong ngành hầu như chưa có.
Nói tóm lại, trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu thu được thì Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cũng gặp phải không ít khó khăn, hạn chế trong công tác thẩm định dự án cũng như thẩm định tài chính dự án. Để hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án trong thời gian tới, Sở giao dịch I phải có được các giải pháp kịp thời và nhanh chóng, phù hợp với Sở giao dịch I, từng bước nâng cao chất lượng của công tác thẩm định và giúp Sở giao dịch I cũng như Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam có được một công cụ tốt nhất để có thể hoạt động – kinh doanh đạt hiệu quả cao, phát triển vững mạnh trong tương lai.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I - BIDV
3.1. Định hướng công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
Đối với ngân hàng, chất lượng, hiệu quả, an toàn trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động tín dụng là điều kiện tồn tại và phát triển. Điều kiện đó chỉ có thể có được trước hết và bắt đầu từ công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Vì vậy, công tác thẩm định tài chính dự án phải được đặt đúng vị trí của nó, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ, có cơ chế quy trình công nghệ toàn diện và đồng bộ với quy trình công nghệ của các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể giải pháp mang tính chiến lược trong định hướng cũng như điều hành.
Cụ thể : Hoạt động thẩm định dự án đầu tư phải xuất phát từ tình hình kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và từ thực tiễn cho vay của chính ngân hàng. Công tác thẩm định dự án cần phải phù hợp với những chủ trương, chính sách chung của các Bộ ngành trong từng giai đoạn phát triển, đồng thời phát huy tối đa những thế mạnh của ngân hàng. Thẩm định dự án phải tuân thủ theo đúng các quy định của ngân hàng với tất cả dự án xin vay, mặt khác quá trình này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không chỉ diễn ra trước mà cả trong và sau cho vay. Trong tương lai ngân hàng sẽ phấn đấu hoàn thiện để thẩm định trở thành một hoạt động dịch vụ của ngân hàng, ngân hàng không chỉ là nơi tư vấn cho khách hàng mà còn có thể thu phí từ hoạt động này.
Để củng cố, phát triển công tác này trong thời gian tới được tốt hơn, ngân hàng trên cơ sở phương hướng hoạt động kinh doanh trong năm tới, đã đưa ra định hướng công tác thẩm định tài chính dự án như sau:
w Xác định phương hướng, nhiệm vụ trước tiên phải xuất phát từ việc nhận thức đúng vị trí, vai trò và nội dung của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Thực hiện tố công tác này là một trong những yếu tố chính quyết định, góp phần bảo vệ và nâng cao vị thế, uy tín và sức mạnh của ngân hàng.
w Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức thẩm định dự án; phát triển lực lượng thẩm định cả về số lượng và chất lượng. Tăng cường công tác đào tạo cụ thể nghiệp vụ thẩm định cho cán bộ thẩm định và bồi dưỡng, trao đổi nghiệp vụ chuyên môn..
w Đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại để thích ứng và phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế.
w Chú trọng công tác kiểm tra sau cho vay, làm tốt công tác kiểm tra chuyên đề thẩm định.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I – BIDV
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện nội dung, phương pháp thẩm định
Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư của Sở giao dịch I trước hết hướng là phải hướng tới nhóm giải pháp về nội dung và phương pháp thẩm định.
Thứ nhất, khi thẩm định tổng vốn đầu tư, Sở giao dịch cần có quy định cụ thể về các nội dung trong tổng vốn đầu tư của một dự án như: vốn đầu tư cố định, vốn đầu tư lưu động, vốn đầu tư dự phòng, vốn đầu tư bù đắp các chi phí… bởi theo ý kiến của nhiều cán bộ thẩm định có kinh nghiệm thì tổng vốn đầu tư của dự án khi trình lên ngân hàng thường thấp hơn thực tế. Lý do là vì dự án khi đi vào thực hiện có thể phát sinh nhiều hạng mục chi phí mới hoặc do chủ đầu tư cố tình làm giảm tổng vốn đầu tư để dễ xin vay vốn hơn.
Mặt khác nếu dự án đầu tư được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau, cán bộ thẩm định nên kiểm tra kỹ tính xác thực của từng nguồn vốn, nhất là các cam kết bỏ vốn của các cơ quan tài trợ cả về mặt số lượng và tiến độ, tránh để xảy ra tình trạng thiếu vốn dẫn đến làm chậm tiến độ thi công của công trình
Thứ hai, khi thẩm định các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của dự án như: lãi vay vốn lưu động, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí thuê đất, thuê chuyên gia…cán bộ thẩm định cần có sự tham khảo các quy trình của Bộ tài chính, của cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, so sánh với chi phí sản xuất của sản phẩm tương tự trên thị trường, không nên chấp thuận hay mặc nhiên theo sự tính toán của chủ đầu tư hoặc tuỳ ý. Nếu là dự án mở rộng hoặc dự án mới của doanh nghiệp đã hoạt động trong ngành đó, cán bộ thẩm định có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở. Nếu là các dự án mới hoàn toàn thì các chỉ tiêu của những dự án tương tự cũng là những tham khảo tốt.
Đối với chi phí khấu hao, CBTĐ cần kiểm tra đối chiếu với các văn bản quản lý kinh tế mới nhất của Nhà nước nhằm đảm bảo tính, hợp pháp, chính xác trong tính toán. CBTĐ cần xem xét mức khấu hao cho phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động của dự án, của từng loại hình doanh nghiệp, tránh tình trạng các doanh nghiệp áp dụng mức khấu hao nhanh để giảm nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Nếu doanh nghiệp tính sai quy định của Bộ tài chính thì CBTĐ cần tính toán lại và có ý kiến với doanh nghiệp. Đồng thời CBTĐ phải đặt chi phí này trong mối quan hệ với khả năng tiêu thụ của sản phẩm, với tính khả thi của dự án vì khấu hao là một nguồn trả nợ cho ngân hàng, nó không phải nguồn có sẵn hiển nhiên, do đó nó có thể là con số vô nghĩa nếu dự án không khả thi, sản phẩm của dự án không tiêu thụ được.
Thứ tư, cần chú ý đến các khoản thu hồi khi xác định dòng tiền của dự án
Khi xác định dòng tiền của dự án, cán bộ thẩm định cần chú ý các khoản hoàn trả vốn lưu động và thu hồi các giá trị thanh lý khi dự án chấm dứt hoạt động. Bởi lẽ phần lớn các dự án khi kết thúc thì các máy móc thiết bị, nhà xưởng còn một giá trị thị trường nhất định. Khi bán chúng sẽ xuất hiện dòng thu từ dự án, tuỳ theo quy định chế độ kế toán hiện hành mà dòng thu này có thể sẽ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp hay không.
Ngoài ra khi dự án kết thúc doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn lưu động ròng, do đó khoản thu này phải được cộng vào dòng tiền cuối cùng của dự án. Như trong dự án đầu tư thiết bị thi công Cẩu lốp KATO 45 tấn, mặc dù các tài sản cố định của dự án được khấu hao trong vòng 7 năm và vòng đời của dự án chỉ là 5 năm, nhưng cán bộ thẩm định đã không đưa phần giá trị thanh lý tài sản cố định cũng như khoản thu hồi vốn lưu động vào dòng thu cuối cùng của dự án. Mặc dù dự án có hiệu quả ngay cả khi không có các khoản thu hồi trên, nhưng việc tính toán các dòng thu thiếu cơ sở khoa học như vậy sẽ làm giảm tính chính xác của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính
Thứ năm, các chỉ tiêu NPV, IRR là các chỉ tiêu thường gặp trong các dự án đầu tư của ngân hàng, tuy nhiên khi sử dụng chúng phải quan tâm đến giá trị thời gian của tiền, nếu không chúng sẽ không phản ánh đầy đủ ý nghĩa. Mặt khác, cùng với các chỉ tiêu NPV, IRR, ngân hàng cũng nên đưa các chỉ tiêu khác vào tính toán như chỉ tiêu điểm hoà vốn, lợi ích- chi phí, năng lực hoà vốn… những chỉ tiêu này sẽ bổ xung cho nhau giúp cán bộ thẩm định có một cái nhìn toàn diện hơn về dự án.
Thứ sáu, ngân hàng nên đưa ra một phương pháp tính tỷ suất chiết khấu thích hợp. Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trên là cơ sở quan trọng để đánh giá tính khả thi của mỗi dự án đầu tư và là căn cứ cho các quyết định tài trợ vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, để các chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ bản chất của chúng thì việc lựa chọn một tỷ suất chiết khấu thích hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một dự án có thể được tài trợ vốn từ nhiều nguồn khác nhau, ở những thời điểm khác nhau và với mức lãi suất khác nhau. Do đó tỷ suất chiết khấu phải phản ánh được tổng chi phí cơ hội của tất cả các nguồn vốn đó.
Hiện có nhiều phương pháp tính tỷ suất chiết khấu khác nhau, cán bộ thẩm định nên lựa chọn áp dụng sao cho phù hợp với từng loại dự án, chứ không nên chỉ sử dụng lãi suất ngân hàng làm lãi suất chiết khấu như hiện nay. Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất chiết khấu được điều chỉnh theo các năm để phản ánh các tác động của môi trường tới dự án như lạm phát, trượt giá…
w Về xác định thời hạn trả nợ, phương thức trả nợ
Cách xác định thời hạn trả nợ, mức thu nợ, cách thức thu nợ cả gốc và lãi phải phù hợp với năng lực sản xuất của khách hàng và tiến độ thực hiện của dự án. Hiện nay ngân hàng thường tiến hành thu đều từng kỳ hay thu luỹ thoái với mong muốn thu công nợ càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên trong thời gian đầu các máy móc thiết bị chạy chưa hết công suất, sản phẩm sản xuất ra ở giai đoạn thăm dò thị trường… Do đó nếu ngân hàng yêu cầu mức trả nợ cao từ đầu sẽ làm cho dự án chưa đủ khả năng trả, ảnh hưởng đến sản xuất.
Ngân hàng không nên chia đều khoản thu gốc cho các kỳ luỹ thoái mà nên căn cứ vào dòng tiền của dự án đồng thời tiến hành thu nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy sẽ phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư. Việc thu lãi cũng cần được tính toán sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng các doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để trả lãi ngân hàng.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức điều hành của Sở giao dịch I đối với hoạt động thẩm định tài chính dự án
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác thẩm định dự án của ngân hàng thời gian qua là chưa có sự chuyên môn hoá trong khâu tổ chức thẩm định. Do đó trong thời gian tới ngân hàng cần có phòng thẩm định riêng, có nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án trung và dài hạn, có sự độc lập với phòng tín dụng và quản lý nợ vay. Việc tổ chức bố trí như vậy sẽ giúp cho mỗi cán bộ thẩm định giảm bớt khối lượng công việc, tạo điều kiện cho họ chuyên tâm hơn vào công việc, đồng thời có thời gian để trau dồi thêm nghiệp vụ cho bản thân. Sở giao dịch cũng lưu ý tuyển chọn thêm các cán bộ có kinh nghiệm về thẩm định kinh tế - kỹ thuật dự án.
Mặt khác ngân hàng nên quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân các cán bộ thẩm định. Đồng thời cần thường xuyên rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, bổ sung cán bộ còn thiếu cho các chi nhánh, thuyên chuyển các cán bộ không đủ khả năng đi làm việc khác.
Sở giao dịch nên tạo lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm định giữa các bộ phận trong ngân hàng nhằm nâng hiệu quả công việc. Phòng thẩm định cần phối hợp chặt chẽ với phòng khách hàng, phòng thu hồi nợ, phòng tài sản…để thu thập được các thông tin chính xác về khách hàng, về dự án vay vốn. Nhằm thực hiện tốt qúa trình chuyên môn hóa hoạt động thẩm định, qua đó nâng cao chất lượng thẩm định, chi nhánh cần quan tâm hàng đầu tới nhóm giải pháp về tổ chức điều hành. Việc tổ chức, quản lý điều hành công tác thẩm định cần được chú trọng với quy trình thẩm định chặt chẽ vì đây là khâu quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác thẩm định của Sở giao dịch.
Các dự án được đưa đến có quy mô, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác nhau. Việc bổ nhiệm, phân công cán bộ cần phải dựa vào khả năng, thực lực của mỗi người, đồng thời phải có sự kết hợp chặt chẽ, cùng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để phát huy hơn nữa trình độ, kinh nghiệm và thế mạnh của mỗi cán bộ nhằm đạt được hiệu quả trong công tác thẩm định. Vì vậy, việc phân công công tác phải gắn chặt với trách nhiệm của mỗi cán bộ thẩm định và kết quả của mỗi dự án mà người đó đảm nhiệm vì như thế, trách nhiệm của cán bộ thẩm định mới ngày được nâng cao. Sở giao dịch nên quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định dự án đầu tư; thực hiện chuyên môn hoá trong công tác và bản thân nghiệp vụ thẩm định cũng cần được chuyên môn hoá theo ngành, lĩnh vực kinh tế và thời hạn của dự án. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện tổ chức thẩm định trong toàn hệ thống của chi nhánh nhằm phối hợp chặt chẽ với các hoạt động kinh doanh khác.
3.2.3. Giải pháp về thu thập, phân tích thông tin liên quan đến việc thẩm định dự án đầu tư
Thông tin là căn cứ quan trọng để thẩm định dự án, do đó nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin sẽ góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thẩm định. Nguồn thông tin càng chính xác và phong phú thì kết quả thẩm định càng có độ chính xác cao. Do đó, CBTĐ một mặt cần gia tăng các nguồn cung cấp thông tin, mặt khác cần tìm cách thu thập và xử lý thông tin một cách có hiệu quả.
Đối với những thông tin liên quan dự án của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định không chỉ căn cứ vào các tài liệu khách hàng gửi đến, mà phải trực tiếp phỏng vấn người đại diện giao dịch của doanh nghiệp để chất vấn các thông tin không chính xác. Đồng thời kết hợp với việc tham quan khảo sát cơ sở sản xuất, văn phòng, nhà xưởng nhằm điều tra năng lực sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định có thể tham khảo các thông tin từ bạn hàng, đối tác, các nhà cung cấp của doanh nghiệp để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thanh toán cũng như khả năng cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án. Ngoài ra các nguồn thông tin cần thiết có thể được thu thập từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN, từ hệ thống thông tin BIDV, từ các tổ chức tín dụng mà ngân hàng có quan hệ, từ các cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế kỹ thuật, các thông tin đa dạng từ sách báo, tài liệu chuyên ngành có liên quan …
Tuy nhiên việc thu thập các nguồn thông tin trên nhiều khi khá khó khăn do phạm vi thu thập rộng, đòi hỏi tốn kém về thời gian và chi phí, các kênh cung cấp thông tin không đầy đủ và khó tiếp cận, trong khi cán bộ thẩm định bị giới hạn về thời gian. Do đó các cán bộ thẩm định cần lưu ý thường xuyên thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học. Cán bộ thẩm định cần cập nhật các quy định của nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư ( như : quy chế đấu thầu, quy định về tổng dự toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản, về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp…), các thông tin về thị trường giá cả…
Nhằm khắc phục rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng, Sở giao dịch cần tăng cường hệ thống thông tin nội bộ cũng như thu thập các thông tin từ bên ngoài.
Bên cạnh đó, giữa các ngân hàng thương mại cần hình thành mối quan hệ về thẩm định với nhau để khai thác thông tin được thuận lợi, tất cả các ngân hàng cùng giám sát được một khách hàng và có điều kiện để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án.
3.2.4. Lựa chọn tiêu chí, tiêu chuẩn thích hợp, kết hợp các phương pháp thẩm định nhằm đánh giá toàn diện dự án đầu tư
Các tiêu chuẩn đưa ra phải phù hợp với quy mô, tính chất của dự án. Cụ thể, trong quá trình áp dụng phương pháp so sánh các chỉ tiêu, những thông số, số liệu của dự án được đưa ra so sánh, đối chiếu với các tiêu chuẩn, định mức, quy định hoặc với các dự án tương tự đang hoạt động. Công việc này phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh so sánh một cách cứng nhắc, máy móc, có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Tuy nhiên, việc so sánh chỉ mang tính chất tham khảo, không lấy đó làm tiêu chuẩn để đánh giá. Phải xem xét các chỉ tiêu trong môi trường động cơ với nhiều sự thay đổi (chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu kinh tế - xã hội) để phản ánh đúng giá trị thực của các chỉ tiêu trong điều kiện bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội. Đặc biệt, đối với các dự án kéo dài nhiều năm thì ảnh hưởng của những yếu tố này là không thể tránh khỏi và nhiều khi có thể gây sai lệch trong kết quả phân tích.
Mỗi phương pháp thẩm định đều có ưu điểm, nhược điểm riêng. Vấn đề quan trọng là cán bộ làm công tác thẩm định phải nhận thức rõ được những ưu điểm, nhược điểm của từng phương pháp để vận dụng cho hiệu quả. Ví dụ, đối với phương pháp thẩm định theo trình tự thường thiên về kiểm tra tính đầy đủ của các căn cứ pháp lý và hồ sơ trình duyệt. Hay như đối với phương pháp so sánh các chỉ tiêu lại hay rơi vào tình trạng so sánh máy móc, cứng nhắc. Cán bộ thẩm định trên cơ sở kinh nghiệm, khả năng trình độ của mình có thể kết hợp những ưu điểm của nhiều phương pháp thẩm định lại tạo ra một phương pháp mới, mang tính tổng hợp để đánh giá các khía cạnh của dự án một cách khoa học và toàn diện hơn.
3.2.5. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
Con người là nhân tố trung tâm chi phối, ảnh hưởng quyết định đến hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định thì trước hết phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ với các điều kiện như: Trình độ học vấn, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu này cần tập trung vào một số vấn đề như việc tuyển dụng cán bộ; bồi dưỡng cán bộ và chính sách đãi ngộ. Sở nên có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích trách nhiệm, ý thức, tinh thần vươn lên, tự hoàn thiện của mỗi cán bộ.
Điều quan trọng là các cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và luôn có ý thức vươn lên để hoàn thành tốt công việc được giao. Chính vì vậy, Sở giao dịch phải có chính sách khen thưởng đối với những cán bộ, chuyên gia làm việc giỏi để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tuy nhiên, cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cán bộ làm việc không nghiêm túc gây thất thoát tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, phải thường xuyên kiểm tra đội ngũ cán bộ thẩm định, xem xét và thuyên chuyển những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu công việc sang làm công việc khác. Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người.
Nhằm nâng cao chất lượng thẩm định, tận dụng kinh nghiệm, kiến thức của những người đi trước, Sở giao dịch nên phát động phong trào nghiên cứu khoa học, qua đó tập hợp các đề xuất, ý kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ cập và áp dụng trong toàn hệ thống. Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch chung, Sở giao dịch cần xây dựng một chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định và có tổ chức tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm.
3.2.6. Giải pháp về công nghệ
Bên cạnh những giải pháp trên, chi nhánh cũng nên phát triển hệ thống trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng như công tác thẩm định dự án đầu tư bởi lẽ trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin, yêu cầu về thu thập và xử lý thông tin càng cao. Thông tin thu thập để phục vụ cho công tác thẩm định cần phải đầy đủ, kịp thời, có độ tin cậy cao. Do vậy cần xây dựng hệ thống cung cấp thông tin từ cơ sở, hệ thống thông tin nội bộ thuận tiện, hiện đại, giúp cho việc truy cập thông tin một cách nhanh chóng; tổ chức hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ và quản lý thông tin nhằm cung cấp thông tin kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Đối với mỗi cán bộ thẩm định, cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng, trong đó tập hợp những thông tin cần thiết về các ngành kinh tế, các lĩnh vực, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống thông tin đồng bộ từ trên xuống dưới.
Có thể nói thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần thiết, có thể giúp cho mỗi cán bộ thẩm định tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực. Do đó trong tương lai ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm trong phân tích, dự báo như Crustal Ball kết hợp với Excell hoặc đặt thiết kế một chương trình hỗ trợ nghiệp vụ thẩm định từ các công ty trong và ngoài nước.
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại nói chung và Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng, cần có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các phòng ban có liên quan
Thứ nhất, Nhà nước cần công bố rộng rãi quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ. Quy hoạch này sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại có cơ sở để bố trí kế hoạch tín dụng để vừa đảm bảo được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo về mặt lợi ích cho các ngân hàng.
Thứ hai, nhà nước cần không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách. Nhà nước cần đưa ra các chính sách phát triển kinh tế hợp lý, tránh những đột biến xuất hiện làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng nói riêng, gây thiệt hại cho ngân hàng, chủ đầu tư và toàn thể nền kinh tế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hoạt động của ngân hàng nói chung và quy chế thẩm định dự án đầu tư nói riêng. Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp chế nhằm có đủ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện luật ngân hàng, đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động hiệu quả, năng động và an toàn.
Chính phủ cũng cần sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng và những vấn đề phát sinh do chưa có quy định cụ thể. Chính phủ cũng cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trách nhiệm của các bên với kết quả thẩm định trong nội dung dự án, quy định từng bước về từng bước mở rộng quyền và trách nhiệm thẩm định đối với những đối tượng thường xuyên liên quan đến lập và thẩm định dự án như Ngân hàng, Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư…
Thứ ba, nhà nước cần có quy định buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc kiểm tra, giám sát tình hình của doanh nghiệp, qua đó có thể phòng ngừa rủi ro. Mặt khác cần đẩy mạnh hoạt động của kiểm toán nhà nước và kiểm tóan độc lập trong nền kinh tế, đặc biệt là kiểm toán độc lập vì đây là nơi cung cấp thông tin cho công tác thẩm định tương đối chính xác. Để nâng cao hoạt động của kiểm toán trước hết cần có sự thống nhất giữa các công ty kiểm toán Việt Nam, tiêu chuẩn hoá các chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt quốc hội nên có quy định các báo cáo tài chính phải được xác nhận bởi của cơ quan kiểm toán.
Thứ tư, nhà nước cần đẩy mạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực sự cần thiết, tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm và đem lại hiệu quả cao. Cần đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao tính trách nhiệm, tự chủ và chất lượng quản lý các doanh nghiệp Nhà nước
Thứ năm, các Bộ chủ quản như Bộ công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, tổng cục thống kê…cần phối hợp trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án. Bên cạnh đó, các Bộ cần hệ thống hoá thông tin liên quan đến lĩnh vực mà mình quản lý, đồng thời hàng năm công bố công khai các thông tin này để các ngân hàng thương mại cũng như chủ đầu tư dễ dàng thu thập thông tin.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
- Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ cho các Ngân hàng thương mại và nâng cao nghiệp vụ thẩm định đồng thời mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tớn dụng. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định.
- Hỗ trợ công tác đào tạo cho các cán bộ NHTM trong việc nâng cao kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn. Để hỗ trợ đào tạo cho các cán bộ NHTM, NHNN có thể tổ chức các khoá học định kỳ mời các chuyên gia về tài chính ngân hàng từ các nước có hệ thống tài chính phát triển hoặc từ các tổ chức tài chính như WB, IMF đến giảng dạy. Trong quá trình đào tạo, tập huấn nên chú trọng kỹ năng thực hành bằng các chương trình phầm mền thẩm định trực tiếp trên máy tính. Bên cạnh đó, các NHTM nên cử các cán bộ đi học tập phải là những người đã được trang bị kiến thức và kinh nghiệm về thẩm định, có khả năng tiếp thu và hướng dẫn lại nghiệp vụ khi về cơ quan công tác để đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ ngân hàng mình.
- Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao hiệu quả của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trong việc cung cấp những thông tin tín dụng cho các NHTM phục vụ cho công tác thẩm định. Tuy nhiên, các thông tin từ phía CIC cũn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của các NHTM như các thông tin cũng chưa đầy đủ, không chính xác và không kịp thời. Mặt khác, CIC vẫn chưa có bộ phận chuyên phân tích các thông tin đó được cung cấp để chủ động phản hồi lại cho các NHTM những vấn đề lưu ý. Để nâng cao vai trũ điều phối của CIC, NHNN cần quy định bắt buộc về cung cấp thông tin tín dụng của các NHTM về CIC phải đảm bảo đầy đủ và đúng thời hạn. Ngoài ra, NHNN nên mở rộng phạm vi cung cấp thông tin của CIC không chỉ các thông tin về tín dụng mà cả những thông tin kinh tế phục vự cho hoạt động thẩm định. Theo đó, CIC có thể hoạt động như một doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung cấp sản phẩm thông tin và thực hiện hoạt động tư vấn.
- NHNH cần tăng cường trong việc hợp đồng và hợp tác thông tin của CIC với các cơ quan quản lý kinh tế, cỏc cơ quan chuyên cung cấp thông tin như Bộ kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê, Ban vật giá Chính phủ ... để cập nhật những thông tin mới nhất về thị trường và các cơ chế chính sách của Nhà nước.
3.3.3. Kiến nghị với chủ đầu tư
- Đề nghị các chủ đầu tư nâng cao năng lực lập và thẩm định các dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định các văn bản hướng dẫn hiện hành của Nhà nước về xây dựng và thẩm định dự án.
- Các chủ đầu tư cần phải nhận thức đúng vai trũ, vị trớ của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Các dự án phải được xác định đầu tư đúng tổng số vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tỡnh trạng làm với khối lượng nhiều nhưng tính toán ít để dễ được phê duyệt.
- Các chủ đầu tư cần nghiêm chỉnh chấp hành việc xây dựng và lập dự án đúng nội dung quy định của các văn bản pháp luật về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Chủ đầu tư phải lập đầy đủ các biểu mẫu quy định trong dự án như: bảng tính vốn đầu tư theo khoản mục, bảng tính huy động vốn theo chương trỡnh đầu tư và thực hiện dự án, bảng tính vốn hoạt động, bảng tính khả năng trả nợ theo cả gốc và lãi. Các chủ đầu tư phải tính toán đầy đủ các chi phí, đặc biệt là chi phí lãi vay vốn lưu động, chi phí đầu tư bổ sung đối với những dự án có vũng đời kéo dài, đây là những vấn đề mà hiện nay khách hàng chưa thực hiện đúng yêu cầu của Sở giao dịch.
KẾT LUẬN
Kinh doanh tiền tệ là một trong các lĩnh vực kinh doanh có nhiều phức tạp và nhiều rủi ro so với các hoạt động kinh doanh khác. Vì vậy, trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay ở nước ta việc đảm bảo an toàn trong lĩnh vực kinh doanh này là rất cần thiết. Nó không những đảm bảo cho người kinh doanh trong kĩnh vực này mà còn đảm bảo lợi ích của các bên tham gia, và nó có vai trò quan trọng giữ vững ổn định và phát triển nền kinh tế.
Chất lượng của công tác thẩm định dự án đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đã đóng vai trò quan trọng nhằm hạn chế rủi ro, mở rộng nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, góp phần thúc đẩy hiệu quả tín dụng tại Sở giao dịch I ngày càng nâng cao. Nó không chỉ là công cụ đảm bảo chất lượng tín dụng riêng tại Sở giao dịch I mà còn cho chất lượng tín dụng nói chung của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đạt được công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch I vẫn còn nhiều bất cập cần có những giải pháp thích hợp để tháo dỡ những khó khăn đó.
Trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, qua nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở, em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với mong muốn Sở giao dịch I trong những năm tới có thể hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng.
Thực tế đây là vấn đề khó, có phạm vi rộng, phức tạp liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, không những đòi hỏi kiến thức chuyên sâu, sự hiểu biết rộng mà còn cần sự nhạy cảm và kinh nghiệm. Do đó, khóa luận của em không trách khỏi sự thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các anh chị để em có thể hoàn thiện hơn đề tài này.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của cô giáo: TS. Lê Hương Lan và các anh chị làm việc tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam để em thực hiện đề tài này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng thương mại – Đại học Kinh tế quốc dân
Giáo trình thẩm định tài chính dự án – Đại học kinh tế quốc dân
Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S. Rose
Giáo trinh lập và quản lý dự án – Đại học kinh tế quốc dân
Phụ lục II, VI, VIII về công tác thẩm định dự án - Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Báo cáo đề xuất tín dụng dự án “Cẩu lốp KATO 45 tấn” – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Website: bidv.com.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.doc