Đề tài Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam chi nhánh 7 TP Hồ Chí Minh

LỜI MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Năm 2009, ngành tài chính là một trong những ngành chịu tác động lớn của suy thoái kinh tế toàn cầu, trong đó có các ngân hàng. Vì vậy, việc đối phó với các rủi ro trong hoạt động kinh doanh đang được nhiều ngân hàng ưu tiên hàng đầu.[8] Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội. Việc các ngân hàng liên tục mở rộng mạng lưới, giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm mới cũng như việc áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi một chiến lược quản trị rủi ro hoạt động đồng bộ nhằm quản lý và giảm thiểu thiệt hại trong quá trình hoạt động. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ đại lý Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đang diễn ra ở mức đáng quan tâm. Xuất phát từ thực tiễn đó đã làm cơ sở cho em chọn đề tài: “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VN CHI NHÁNH 7 TP HCM” với hi vọng sẽ đóng góp được một phần hữu ích cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và của đơn vị thực tập nói riêng. 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những đề tài được nghiên cứu khá nhiều trong các kỳ nghiên cứu khoa học trước đây. Ở cấp nghiên cứu khoa học của sinh viên, riêng tại trường Đại Học Ngân Hàng có các đề tài nghiên cứu tiêu biểu như sau: Ø Đào Hồng Hạnh, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng NN&PT NT Hà Nội” (2005) Ø Lê Văn Chi, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng CT, Thanh Hóa” (2006), lớp TC 44B. Ø Nguyễn Diệp Linh, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Rủi ro tín dụng tại ngân hàng ngoại thương chi nhánh Cần Thơ – thực trạng và giải pháp” (2005) Ø Bùi Thị Quỳnh Anh, báo cáo nghiên cứu khoa học: “Giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương VN”, lớp ĐH 21A8. Tại ĐH Lạc Hồng cũng đã có nhiều báo cáo nghiên cứu khoa học của sinh viên về đề tài này, tiêu biểu có: Ø Nguyễn Phước Linh, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Quản trị rủi ro tín dụng tại NH TMCP Ngoại Thương Chi Nhánh Đồng Nai” Ø Đông Thị Thanh Phương, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trảng Bom” Ø Nguyễn Thị Mộng Liên, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý rủi ro trong tín dụng của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn KCN Biên Hòa” Ø Nguyễn Thị Thanh Thảo, Báo cáo nghiên cứu khoa học: “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Ngoại Thương Đồng Nai”. Riêng tại NH TMCP Công Thương VN chi nhánh 7 vẫn chưa có đề tài nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng. Trên thực tế, hầu hết những bài nghiên cứu đều nêu lên được tính cấp thiết của đề tài, làm rõ những lý luận về hoạt động tín dụng cũng như rủi ro tín dụng, phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng tại ngân hàng nghiên thực tập, đề ra những giải pháp hay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Nhưng nếu xét về trong hoàn cảnh kinh tế cụ thể một số giải pháp ấy thường mang tính chung chung, việc áp dụng vào thực tế cho đơn vị thực tập vì thế mà thiếu tính khả thi. Tuy nhiên, mỗi một tác giả với đề tài của mình điều có những phong cách riêng về nội dung, hình thức thể hiện cũng như định hướng đề tài hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào thời điểm nghiên cứu, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu Vì thế, mặc dù đề tài khá phổ biến, nhưng trong bài viết này, người viết thực hiện đề tài nghiên cứu với định hướng riêng cụ thể như sau: Năm 2008 và 2009 là những năm đầy biến động về tình hình kinh tế xã hội Việt Nam mà cụ thể là tình hình lạm phát những tháng đầu năm 2008 và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009. Những biến động về tình hình kinh tế đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động tín dụng tại ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng doanh nghiệp. Người viết khi thực hiện đề tài sẽ chú trọng xem xét, đánh giá ảnh hưởng của sự biến động này đến hoạt động cho vay doanh nghiệp tại NHTMCP Công Thương VN chi nhánh 7, TP HCM, tìm ra những nguyên nhân tác động đến khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp, đồng thời đề ra những giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế những rủi ro xảy ra tại chi nhánh. Mục tiêu của người viết khi xây dựng giải pháp là không tập trung vào việc xây dựng những giải pháp mang tính vĩ mô, những kiến nghị mang tính chất bao quát vì sẽ rất khó cho Ngân hàng nếu muốn ứng dụng vào thực tế. Tác giả chú trọng đến những giải pháp cụ thể, mang tính khả thi cao và phù hợp với chi phí và khả năng của chi nhánh. Có một điều tác giả nhận thấy khi đọc một số báo cáo và luận văn nghiên cứu với đề tài tương tự là: hầu hết các đề tài khi đưa ra phương pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng chỉ đơn thuần dựa trên những phân tích về thực trạng hoạt động của ngân hàng. Trong bài nghiên cứu của mình người viết sẽ tiến hành khảo sát thu thập thông tin thực tế tại chi nhánh từ đó tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng về phía doanh nghiệp và ngân hàng. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Ø Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại chi nhánh. Ø Đánh giá thực trạng tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại chi nhánh. Ø Đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm có công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân Phạm vi nghiên cứu: + Thời gian: năm 2007- 2008- 2009. + Không gian: Ngân hàng TMCP Công Thương VN chi nhánh 7 TP HCM 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện trên cơ sở: - Thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế về hoạt động tín dụng tại ngân hàng TMCP Công Thương VN chi nhánh 7, TP HCM. - Trao đổi kinh nghiệm với cán bộ tín dụng và các cán bộ công tác trong ngân hàng TMCP Công Thương VN chi nhánh 7 nói riêng. - Sử dụng phương pháp điều tra thu thập thông tin thực tế thông qua phát phiếu thu thập thông tin thực tế, nghiên cứu các hồ sơ khách hàng tại chi nhánh và phỏng vấn trực tiếp CBTD. + Địa bàn tiến hành thu thập thông tin: Thành phố Hồ Chí Minh. + Đối tượng: ngân hàng và Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH. + Số phiếu phát ra đi kèm với phỏng vấn trực tiếp: 50 + Thời gian khảo sát: từ ngày 02/2/2010 đến ngày 10/04/2010. + Phương thức khảo sát: tiến hành phỏng vấn trực tiếp kết hợp với phát phiếu thu thập thông tin thực tế; nghiên cứu hồ sơ khách hàng tại chi nhánh.Trên cơ sở lý luận, các số liệu thực tế tổng hợp được, kết quả các mẫu điều tra và những ý kiến, nhận định của cán bộ tín dụng tác giả sử dụng phần mềm Excel kết hợp phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh, tìm hiểu chi tiết, cụ thể những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn từ phía doanh nghiệp và đưa ra một số giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. 6. TÍNH MỚI Ở ĐỀ TÀI Hầu hết những báo cáo nghiên cứu khoa học trước đây chỉ đơn thuần dựa trên nền tảng về thực trạng tại ngân hàng, từ đó đề ra giải pháp hạn chế rủi ro. Riêng tác giả, thông qua khảo sát thực tế tại ngân hàng, tác giả sẽ phân tích sâu hơn từ đó làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Ø Từ phía ngân hàng. Ø Từ phía doanh nghiệp Ø Từ nền kinh tế. Dựa trên thực tế ngân hàng và tình hình kinh tế trong thời gian vừa qua đề ra những giải pháp cụ thể có khả năng dự báo, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh. 7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở luận về quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM. Chương 2: Thực trạng tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Công Thương VN Chi nhánh 7, TP HCM. Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Công Thương VN Chi nhánh 7, TP HCM.

doc92 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4290 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam chi nhánh 7 TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. * Thời gian khảo sát: từ ngày 02/2/2010 đến ngày 10/04/2010 * Khảo sát thực tế hồ sơ của KH gồm 105 hồ sơ, bao gồm: + 5/5 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + 68/112 công ty TNHH và công ty cổ phần. + 19/67 doanh nghiệp tư nhân. + 13 hồ sơ cầm cố chứng từ có giá. * Số phiếu phát ra đi kèm với phỏng vấn trực tiếp: 50 * Số phiếu thu về: 27 (54%). Trong đó Phòng QLRR&NCVĐ: 4/27 (14.81%); Phòng KHDN: 7/27 (25.93%), Phòng KHCN: 6/27 (22.22%), Tổ TTĐT: 5/27 (18.52%), phòng Tổng hợp tiếp thị: 3/27 (11.11%), Phòng phó giám đốc: 2/27 (7.41%). 2.4.1.2, Kết quả điều tra Qua kết quả điều tra, phân tích cho thấy việc triển khai thực hiện công tác QTRRTD tại Chi nhánh bên cạnh những thành công đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế mà qua đó sẽ tạo điều kiện cho RRTD phát sinh trong năm 2009 và những năm tiếp theo. Cụ thể: 2.4.1.2.1, Về phía ngân hàng Nhóm câu hỏi 1: Đánh giá RRTD từ Hồ sơ pháp lý tại Chi nhánh Số lượng Tỷ trọng Luôn đầy đủ 5 18.52% Thiếu xác nhận vốn góp của các thành viên 9 33.33% Thiếu xác nhận tình trạng hôn nhân/hộ khẩu 7 25.93% Thiếu các thông tin của CIC về KH 6 22.22% Tổng cộng 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/2010 Nhận xét: Bên cạnh sự chính xác, đầy đủ của các Hồ sơ pháp lý tại chi nhánh, một số Hồ sơ vẫn còn thiếu thông tin về CIC (22.22%), thiếu xác nhận góp vốn của các thành viên (33.33%), thiếu xác nhận tình trạng hôn nhân/hộ khẩu của các bên có liên quan (25.93%)… Bảng 2.9: Đánh giá RRTD từ Hồ sơ pháp lý tại Chi nhánh Theo tác giả, các thông tin này cần được bổ sung nhanh chóng bởi lẽ khi thiếu các thông tin về CIC sẽ dẫn đến đánh giá không chính xác xếp hạng TDDN; thiếu xác nhận tình trạng hôn nhân/hộ khẩu của các bên có liên quan sẽ dẫn đến trường hợp nhiều cá nhân trong cùng một gia đình cùng vay vốn tại một chi nhánh với cùng một TSĐB…Và chính những thiếu sót nho nhỏ này sẽ là điểm yếu để KH có cơ hội “lách luật” gây tổn hại đến công tác TD tại chi nhánh. Nhóm câu hỏi 2: Nhận định RRTD từ Hồ sơ vay vốn tại Chi nhánh Số lượng Tỷ trọng Thiếu hồ sơ cấp giới hạn tín dụng cho KHDN 3 11.11% Thiếu dấu giáp lai 8 29.63% Thực hiện không đúng quy trình, quy định 5 18.52% Thiếu báo cáo tóm tắt quá trình thực hiện khoản vay 2 7.41% Sai sót về nội dung 4 14.81% Thiếu chứng từ chứng minh (nguồn TN dùng trả nợ…) 5 18.52% Tổng cộng 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/2010 Nhận xét: Nhìn chung, Hồ sơ vay vốn tại chi nhánh vẫn còn nhiều tồn tại cần sớm được quan tâm và cần có sự nhận thức đúng đắn khi mà Hồ sơ vay vốn còn thiếu dấu giáp lai (8/27), thiếu hồ sơ cấp giới hạn tín dụng cho KH doanh nghiệp (3/27), hợp đồng tín dụng so với hợp đồng thế chấp tài sản có nội dung không phù hợp với nhau, sai sót về nội dung (4/27); thực hiện không đúng quy trình, quy định: Hợp đồng tín dụng ký trước tờ trình thẩm định cho vay…(5/27); không có giấy tờ, không đủ hồ sơ chứng minh mục đích vay vốn, thiếu hồ sơ chứng minh tình hình tài chính của KH (thiếu chứng từ chứng minh nguồn thu nhập dùng để trả nợ, chứng từ chứng minh nguồn thu nhập chưa thuyết phục…): 5/27… Bảng 2.10: Nhận định RRTD từ Hồ sơ vay vốn tại Chi nhánh Bên cạnh đó, một số hồ sơ sử dụng vốn vay còn mang tính hình thức, thiếu chứng từ chứng minh, công tác kiểm tra, giám sát vốn vay chưa thực hiện tốt, thiếu chứng từ chuyển khoản; đa số các hồ sơ tín dụng thiếu báo cáo tóm tắt quá trình thực hiện khoản vay, thiếu báo cáo phân tích tài chính doanh nghiệp, thiếu báo cáo phân tích đảm bảo nợ vay doanh nghiệp…(2/27). Những sai sót này tuy nhỏ nhưng nếu không sớm khắc phục sẽ tạo nên những khe hở hình thành nên RRTD trong hiện tại và tương lai của Chi nhánh. Nhóm câu hỏi 3: Nhận định RRTD từ Hồ sơ thế chấp tài sản tại Chi nhánh Số lượng Tỷ trọng Chưa thực hiện công chứng 5 18.52% Sai sót về nội dung 1 3.70% Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch BĐ không ghi ngày tháng năm 7 25.93% Thiếu các thông tin giao dịch trên thị trường 14 51.85% Tổng cộng 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/2010 Bảng 2.11: Nhận định RRTD từ Hồ sơ thế chấp tài sản tại Chi nhánh Nhận xét: Hiện nay, tăng trưởng tài sản đang có xu hướng chậm lại so với tăng trưởng các khoản vay, bởi hầu hết các NH đều chú trọng nhiều hơn đến tăng trưởng tín dụng. Mặc dù chi nhánh đã có nhiều cố gắng nhằm hạn chế và khắc phục RRTD song nhiều hồ sơ thế chấp tài sản vẫn còn những sai sót, cụ thể là: Một số Hồ sơ thế chấp tài sản chưa được thực hiện công chứng (18.52%), còn sai sót về nội dung (3.70%); Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm không ghi ngày tháng năm (25.93%), thiếu các thông tin giao dịch trên thị trường (51.85%)…. Nhóm câu hỏi 4: Nhận định RRTD từ Hồ sơ khai báo trên hệ thống INCAS Số lượng Tỷ trọng Khai báo mã phòng ban phê duyệt không đúng theo quy định 4 14.81% Khai báo hồ sơ TSBĐ không đúng theo quy định 2 7.41% Không trùng khớp thông tin so với Hồ sơ giấy 5 18.52% Chưa thực hiện chỉnh sửa trên hệ thống khi có sự thay đổi LS 7 25.93% Bỏ qua những chi tiết như ngày thông báo cho vay, phê duyệt 9 33.33% Tổng cộng 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/2010 Nhận xét: Hiện nay, hệ thống INCAS tại chi nhánh chỉ quản lý thông tin về các khoản vay của khách hàng, không có chi tiết về hoạt động của doanh nghiệp: tình hình hoạt động, thị trường tiêu thụ, nhà cung cấp, thông tin ngành; hệ thống chưa thực sự hoàn thiện trong công tác quản lý, kiểm soát, phát hiện rủi ro tín dụng… Bảng 2.12: Nhận định RRTD từ Hồ sơ khai báo trên hệ thống INCAS Bên cạnh đó, hệ thống còn nhiều tồn tại do các yếu tố chủ quan từ cán bộ quản lý và nhập dữ liệu như: Khai báo mã phòng ban phê duyệt không đúng theo quy định (4/27); Hệ thống thông tin không trùng khớp so với Hồ sơ giấy (5/27); Cán bộ quản lý hệ thống chưa thực hiện chỉnh sửa trên hệ thống khi có sự thay đổi về lãi suất (7/27); bỏ qua những chi tiết như ngày phê duyệt, nhập sai ngày thông báo cho vay…(9/27) Nhóm câu hỏi 5: CBTD quản lý TSĐB đối với KH vay vốn tại chi nhánh KH cũ KH mới Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Bình thường 9 33.33% 22 81.48% Dễ dãi 18 66.67% 5 18.52% Khó khăn 0 0.00% 0 0.00% Tổng cộng 27 100.00% 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/ 2010 Nhận xét: Nhìn chung, đối với các KH mới CBTD quản lý khá nghiêm túc, chặt chẽ (22/27), chiếm 66.67% . Tuy nhiên, đối với khách hàng cũ, CBTD thường quản lý dễ dãi (18/27), chiếm 81.48%. Bảng 2.13: CBTD quản lý TSĐB đối với KH vay vốn tại chi nhánh (Nguồn: khảo sát của tác giả tháng 3/ 2010) Hiện nay việc kiểm tra TSĐB tại chi nhánh còn mang tính hình thức, không đối chiếu thực tế, cụ thể tài sản của CTCP đầu tư Tân Đức và KCN PP… không đúng quy định, đặc biệt việc xây dựng mức cho vay thường căn cứ vào báo cáo từ phía doanh nghiệp. Và chính điều này là sẽ là yếu điểm dẫn đến RRTD trong tương lai nếu không được chi nhánh rà soát, xem xét nghiêm túc. Nhóm câu hỏi 6: Căn cứ đánh giá RR khi KH vay vốn tại NH Số lượng Tỷ trọng (%) KQHĐKH của DN 12 44.44% Mô hình 6C 6 22.22% Dấu hiệu rủi ro 5 18.52% Kết quả xếp hạng tín dụng 4 14.81% Ý kiên khác 0 0.00% Tổng cộng 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/ 2010 Nhận xét: Hiện tại, Chi nhánh chưa đánh giá được xác suất rủi ro hay tổn thất dự kiến do chưa có công cụ chuyên biệt, chỉ tiêu, số liệu thống kê đầy đủ hay sử dụng mô hình riêng để đánh giá rủi ro khoản vay. Đa số, việc đánh giá phương án vay vốn dựa trên bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phương án kinh doanh được KH cung cấp. Tình hình thực tế là các CBTD không thể kiểm tra tính khớp đúng của số liệu được cung cấp, vì các báo cáo kế toán không đầy đủ, rõ ràng và chưa được kiểm toán. Bảng 2.14: Căn cứ đánh giá RR khi KH vay vốn tại Chi nhánh Phân tích RRTD khách hàng sử dụng phương pháp phân tích dựa trên yếu tố 6C để phân tích phi tài chính. Sau khi triển khai hệ thống INCAS, Chi nhánh sử dụng “phương pháp xếp loại tín dụng” để đánh giá mức độ rủi ro. Tuy nhiên, các tiêu chí lại quá rườm rà, không cần thiết thông tin đầu vào chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả, CIC chỉ cung cấp số liệu dư nợ vay, chưa có thông tin phi tài chính như: khả năng quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp…. Không có mô hình riêng để phân tích rủi ro KH, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn, tối đa đối với một KH cũng như để trích lập dự phòng rủi ro. Dẫn đến việc có thể cho vay quá khả năng chi trả của KH và nguy cơ dẫn đến nợ xấu hoặc phải thu hồi nợ bằng thanh lý tài sản. Nhóm câu hỏi 7: Nhận định của cán bộ đang công tác tại chi nhánh về áp dụng thông lệ quốc tế Basel 1 trong QTRRTD tại Chi nhánh: Số lượng Tỷ trọng Hiệu quả 10 37.04% Khá hiệu quả 6 22.22% Không biết 11 40.74% Tổng cộng 27 100.00% Nguồn : khảo sát của tác giả tháng 3/ 2010 Nhận xét: Ta nhận thấy trong các cán bộ đang công tác tại chi nhánh có đến 40.74% cán bộ không biết về thông lệ quốc tế Basel 1, trong khi đây là một thông lệ quan trọng trong công tác QTRRTD.Các cán bộ còn lại biết đến Basel 1 đa số là CBTD và QLRR& NCVĐ trong đó khoảng 20% cán bộ biết đến Basel như một thông lệ quốc tế để quản lý rủi ro chung chung, chưa thật sự hiểu rõ về cơ chế hoạt động và các yếu tố cấu thành nên khung QTRR... Bảng 2.15: Nhận định của CB đang công tác tại CN về áp dụng thông lệ Basel 1 Qua đó cho thấy, công tác QTRRTD chưa được phổ biến rộng rãi trong hệ thống, chỉ tập trung chủ yếu ở các phòng KH, phòng QLRR& NCVĐ; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban, các cán bộ khác trong tổ chức. Trong tương lai, chi nhánh cần xây dựng ý thức về QTRRTD trong toàn hệ thống, tất cả các nhân viên trong ngân hàng cần được hướng dẫn, đào tạo để hiểu biết và cùng tham gia vào quá trình xác định, ngăn ngừa rủi ro tốt hơn… 2.4.1.2.2, Về phía doanh nghiệp Tiêu cực trong hoạt động doanh nghiệp: Các cá nhân trong doanh nghiệp lợi dụng quyền hạn, chức vụ nhằm trục lợi, gian lận, thực hiện không đúng các quy định làm ảnh hưởng đến hoạt động của toàn doanh nghiệp. Đầu tiên là công tác kế toán, hạch toán ở một số doanh nghiệp còn bị xem nhẹ dẫn đến tình trạng nhân viên làm sai lệch sổ sách chứng từ, tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cung cấp thông tin không đúng, giả mạo, che giấu các thông tin bất lợi như thua lỗ trong kinh doanh, bị điều tra (công ty dược phẩm TW, thuốc lá Sài Gòn), ảnh hưởng đến quá trình kiểm tra thẩm định của ngân hàng, báo cáo tài chính chưa được kiểm toán hoặc sai lệch qua các năm (công ty đầu tư và xây dựng Lộc Thịnh, Công ty CP Tân Phú…). Doanh nghiệp giảm sút trong hoạt động kinh doanh, quản lý chưa hiệu quả, kế hoạch tài chính không phù hợp, thiếu thông tin về những thay đổi của ngân sách, đầu tư quá mức vào tài sản cố định, mở rộng kinh doanh không có kế hoạch, điển hình là các công ty kinh doanh ô tô nhập khẩu, lượng xe bán ra trong năm 2009 giảm rất nhiều so với những năm trước; một số công ty tập trung quá nhiều cho khuyến mãi, hỗ trợ khách hàng mua xe nhưng lượng xe bán ra vẫn không tăng dẫn đến DN phải tốn nhiều chi phí hơn trong kinh doanh (Xảy ra ở công ty Thành Nghĩa, công ty CP Sông Hương,…). Doanh nghiệp chưa quan tâm đến yếu tố môi trường, không tuân thủ các quy định dẫn đến gián đoạn hoạt động ở khách sạn Nhân Việt, công ty CP Thành Văn… Doanh nghiệp thiếu cảnh giác đối với hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến uy tín và tình hình hoạt động; công ty chưa có chính sách cụ thể giải quyết vấn đề, thị trường, thị phần bị xáo trộn, giảm sút, cụ thể là các mặt hàng thuộc về gạch men, mỹ phẩm, điện máy… (công ty Cofidec). Nhận xét nghiên cứu: Từ những kết quả điều tra trên cho ta một kết luận hết sức rõ ràng: Tăng trưởng tín dụng là cần thiết, tuy nhiên tăng trưởng phải gắn liền với an toàn và hiệu quả. Có như vậy mới tạo được sự phát triển bền vững. Ngoài những nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế thì nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng và DN mới thật sự là yếu tố quyết định đối với RRTD. Quá trình triển khai thực hiện công tác QTRRTD tại Chi nhánh bên cạnh những thành công đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, những khe hở, những lỗ hổng mà qua đó sẽ tạo điều kiện cho rủi ro tín dụng phát sinh. Kết luận chương 2: Có thể nói mục tiêu lớn nhất trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng chính là tối đa hóa lợi nhuận. Trong hoạt động ngân hàng thì việc xảy ra rủi ro nhiều hay ít là điều không thể tránh khỏi. Với những kết quả nghiên cứu thu thập được cùng với những biện pháp thích hợp được tác giả nghiên cứu và đề xuất trong chương tiếp theo thì RRTD tại Chi nhánh trong năm 2010 và những năm tiếp theo chắc chắn sẽ được kiểm soát và giảm thiểu đáng kể. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NH TMCP CT VN CN 7 TP HCM 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TP HCM ĐẾN NĂM 2015 Trong giai đoạn 2010 – 2015, TP HCM phát huy vai trò trung tâm về nhiều mặt của khu vực và cả nước, chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển; thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; từng bước trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về kinh tế, phấn đấu đạt chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2011 - 2015 đạt 12%, trong đó, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành dịch vụ bình quân 12,7%/năm, công nghiệp- xây dựng đạt 11%/năm, nông nghiệp đạt 4%. Dự kiến cơ cấu GDP đến năm 2015 là dịch vụ khoảng 60,4%, công nghiệp - xây dựng: 39,2% và nông nghiệp 0,4%. Tập trung phát triển, có tính đột phá đối với 9 nhóm ngành dịch vụ có tiềm năng và là thế mạnh của TP: thương mại; du lịch; tài chính; vận tải và kho bãi; công nghệ thông tin và truyền thông; kinh doanh tài sản, bất động sản; tư vấn, khoa học, công nghệ; y tế; giáo dục - đào tạo. Tập trung xây dựng một vài khu công nghiệp chuyên ngành như khu công nghiệp cơ khí chế tạo, khu côngnghiệp hóa chất để tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng công nghệ cao; hoàn tất các điều kiện cần thiết đưa Khu Công nghệ cao TP vào hoạt động. Xây dựng nền nông nghiệp gắn liền với đặc trưng của một đô thị lớn, theo hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển theo chiều sâu các mô hình sản xuất kết hợp với kinh doanh, dịch vụ phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, các mô hình tổ chức sản xuất có hiệu quả như kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình. TP sẽ tập trung đẩy nhanh tiến đô triển khai xây dựng các khu đô thị mới như Khu Thủ Thiêm, Khu đô thị Nam Sài Gòn, Khu đô thị Tây Bắc TP và các khu dân cư mới khác, tạo điều kiện để tái bố trí dân cư hợp lý, bảo đảm các tiêu chuẩn của một đô thị hiện đại. TP phấn đấu trong năm 2010, đảm bảo 95% dân số nội thành cũ, 80% dân số nội thành mới và 60% dân số ngoại thành được cung cấp nước sạch từ hệ thống cấp nước chung của TP; nâng tổng công suất cấp nước lên 1,8 triệu m3/ngày-đêm; đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 12-13%/năm. TP tiếp tục giữ vững và phát huy thành quả các chương trình xã hội; thực hiện tốt chính sách với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, người nghỉ hưu; quan tâm chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội; tổ chức phối hợp lồng ghép có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành cơ bản không còn hộ nghèo theo tiêu chí mới của TP. Phấn đấu tỷ trọng lao động trong các khu vực dịch vụ; công nghiệp - xây dựng; nông - lâm - ngư nghiệp lần lượt là 62%-36%-2%. [5] 3.2. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN HĐKD CỦA VIETINBANK CHI NHÁNH 7 NĂM 2010 Năm 2010, dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn còn gặp nhiều khó khăn, sẽ hạn chế đến thị trường xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài của VN. Cùng với mục tiêu chung của cả nước: phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, nâng cao chất lượng tăng trưởng, ngăn chặn lạm phát trở lại, tăng khả năng đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã hội, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tại VietinBank chi nhánh 7, các chính sách tiền tệ, tỷ giá đang được tiếp tục điều hành linh hoạt và thận trọng, các khung chính sách và giám sát tiếp tục được hoàn thiện... 3.2.1, Phương hướng Nguồn vốn huy động: được xây dựng trên nguyên tắc tăng cả về quy mô, thị phần và đảm bảo tính bền vững. số dư nguồn vốn dự kiến đến 31/12/2010 phải tăng trưởng tối thiểu 20% so với số thực hiện 31/12/2009. Dư nợ cho vay nền kinh tế: căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và tình hình thực tế tại địa bàn, CN xây dựng kế hoạch tăng trưởng dư nợ theo hướng tăng thị phần, nâng cao chất lượng, phù hợp với khả năng quản lý, cân đối vốn kinh doanh, đồng thời đảm bảo quản lý danh mục tín dụng phù hợp với đối tượng khách hàng, ngành hàng mục tiêu của địa phương. Về cơ cấu dư nợ: + Tỷ lệ cho vay KCBĐTS: xây dựng kế hoạch theo hướng nâng dần tỷ lệ cho vay bảo đảm bằng tài sản. + Tỷ lệ cho vay DNNN: xây dựng theo kế hoạch dư nợ cho vay đối với công ty NN hoạt động theo luật DNNN và phải phù hợp với việc khai báo thông tin loại hình khách hàng theo hồ sơ thông tin khách hàng trên INCAS. + Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn: nêu một số khách hàng có dư nợ trung, dài hạn lớn, liệt kê những dự án lớn của CN dự kiến giải ngân gồm: tên KH, tên DA, số tiền phê duyệt, dự kiến giải ngân trong năm 2010. + Về chỉ tiêu nợ nhóm 2, nợ xấu: xây dựng trên tinh thần nâng cao chất lượng nợ, giảm thiểu nợ nhóm 2, nợ xấu. tỷ lệ nợ nhóm 2, nợ xấu trên tổng dư nợ đến 31/12/2010 phải thấp hơn so với 31/12/2009 nhưng tối đa không quá 3% đối với nợ nhóm 2 và 2% đối với nợ xấu. + Về chỉ tiêu thu hồi nợ XLRR: xây dựng kế hoạch năm 2010 bằng mọi biện pháp nhằm tận thu hồi nợ XLRR. + Về chỉ tiêu thu phí dịch vụ: để thực hiện cơ cấu lợi nhuận, đẩy mạnh nguồn thu từ phí dịch vụ nhằm tăng trưởng tỷ trọng thu phí dịch vụ/ tổng doanh thu… 3.2.2, Mục tiêu phấn đấu: Trong năm 2010, VietinBank chi nhánh 7, TP HCM phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh- tài chính được NH TMCP CT VN giao, cụ thể như sau: Bảng 3.1: Kế hoạch kinh doanh năm 2010 tại Vietinbank CN7 Chỉ tiêu kinh doanh Kế hoạch 2010 1/ NV huy động 3600 tỷ đồng Trong đó: TGDN 2295 tỷ đồng 2/ Tổng dư nợ 2500 tỷ đồng 3/ Cơ cấu nợ: - Tỷ lệ cho vay DNNN - Tỷ lệ cho vay TDH - Nợ nhóm 2 - Nợ xấu 6% 35,2% 25 tỷ đồng 50 tỷ đồng 4/ Thu hồi nợ XLRR 3,810 tỷ đồng 5/ Trích dự phòng rủi ro 15 tỷ đồng 6/ Lợi nhuận 83 tỷ đồng (Nguồn: Phòng Tổng hợp tiếp thị, NH TMCP CT CN 7 TP HCM) 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QTRRTD TẠI NH TMCP CT CN 7 TP HCM Từ thực trạng hoạt động tín dụng và quản trị RRTD cùng với các kết quả thu thập thông tin thực tế tại chi nhánh, tác giả đề ra một số giải pháp cụ thể có thể áp dụng vào thực tế; nếu thực hiện đúng và đầy đủ, tác giả tin chắc rằng trong tương lai những giải pháp này sẽ góp phần khắc phục những tồn tại và hạn chế rủi ro tại VietinBank chi nhánh 7, TP HCM. 3.3.1, Xem xét yếu tố môi trường trong các khoản cho vay Thế giới đang kêu gọi cách mạng xanh bảo vệ môi trường và Việt Nam cũng là một trong những thành viên tích cực ủng hộ điều này. Thực tế cho thấy từ vụ Vedan, Tung Kuang người tiêu dùng Việt Nam ngoảnh mặt với tất cả các sản phẩm của Vedan, Tung Kuang …Hoạt động SXKD của Vedan, Tung Kuang gặp nhiều khó khăn, đình trệ và có khả năng bồi thường một khoản tiền lớn. Đối với các ngân hàng cho Vedan, Tung Kuang vay vốn sẽ gặp ít nhiều khó khăn khi thu hồi vốn trong giai đoạn này. Cũng chính vì thế có thể nói nhân tố môi trường là nhân tố quan trọng khi xem xét cho vay đối với một doanh nghiệp. Do vậy, khi Ngân hàng xem xét mỗi khoản cho vay đều phải chú ý tới mối liên hệ giữa khoản vay và môi trường dưới nhiều góc độ khác nhau từ đó có thể tránh được những rủi ro đáng tiếc trong kinh doanh, chẳng hạn như: Tác động qua lại giữa nhân tố môi trường và các dự án xin vay vốn. Cần phải xem xét trong chi phí dự án đã tính tới điều này chưa ? Nếu tính đầy đủ thì có đảm bảo thu nhập và lợi nhuận của dự án hay không? Môi trường và tài sản thế chấp có quan hệ với nhau như thế nào, từ đó xác định ảnh hưởng của môi trường đến giá trị tài sản thế chấp và chi phí cần thiết để bảo vệ môi trường nếu có. Người xin vay vốn Ngân hàng có thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường không, đặc biệt là khi người đó còn hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực khác nhau, hoàn toàn không liên quan gì đến dự án xin vay, phải xem xét khách hàng đó đã tính toán đề phòng mọi phương án bảo vệ môi trường của tất cả các lĩnh vực kinh doanh đó. Điều này sẽ có ảnh hưởng nhiều tới tình trạng tài chính của doanh nghiệp và khả năng hoàn trả nợ Ngân hàng đúng hạn. Ở phần phân tích này tác giả sẽ đưa ra một ví dụ cụ thể đã từng xảy ra tại khách sạn Nhân Việt: khi chủ khách sạn đến vay tiền tại Vietinbank chi nhánh 7, khoản vay được đảm bảo bằng giá trị của một khách sạn lớn, có đủ giấy tờ pháp lý, ở một vị trí thuận lợi; qua thẩm định KQHĐKD thì CBTD nhận thấy khách sạn có lợi nhuận cao và ổn định qua các năm chứng tỏ khách sạn làm ăn phát đạt, nhưng trong năm 2008 bên cạnh khách sạn có một công trình xây dựng trong quá trình thi công đã gây rạn nứt cho khách sạn, cộng với môi trường ồn ào không trong sạch đã làm cho lượng khách hàng đến khách sạn ít hơn thậm chí không muốn đến khách sạn đó nữa. Chính tại thời điểm đó, chủ khách sạn đã gặp phải nhiều khó khăn trong kinh doanh, mặt khác nảy sinh nhiều tranh chấp, kiện tụng với công trình xây dựng do gây thiệt hại đến khách sạn. Hệ quả là khoản vay của người chủ khách sạn tại ngân hàng đã không thể trả đúng hạn. Theo hồ sơ tại chi nhánh thì CBTD mất khoảng gần một năm mới thu hồi đầy đủ khoản vay trên, tuy nhiên nếu xét trên phương diện quản trị rủi ro tín dụng, về phân loại nợ để trích lập dự phòng thì ta có thể thấy đây là một khoản nợ có tiềm ẩn rủi ro mà cụ thể là đã hình thành nên nợ xấu hay nợ nhóm 4. Một ví dụ điển hình khác liên quan đến yếu tố môi trường trong thời gian gần đây được nhiều dư luận nhắc đến là tại Công ty Tung Kuang. Mặc dù trong website của mình, Cty cổ phần công nghiệp Tung Kuang luôn khẳng định là nhà máy sản xuất thanh nhôm có quy mô và hiện đại bậc nhất Việt Nam. Tuy nhiên, theo các thông tin thu thập được của cơ quan điều tra tại hiện trường thì hệ thống xử lý chất thải dường như chỉ để đối phó với các cơ quan chức năng, các bể lắng lọc đều gần như cạn, rêu phong bám dầy trên thành bể thể hiện không có việc bơm nước vào bể thường xuyên; phía tủ điều khiển của hệ thống, nhà máy cho lắp đặt một đường ống ngầm, đấu với đường ống hở tại bể chứa nước thải ban đầu để bơm trực tiếp nước thải ra sông, không qua xử lý. Trên thực tế, toàn bộ nước thải từ dây chuyền sản xuất nhôm định hình (luyện hợp kim đến tạo hình, sơn tĩnh điện, mạ...) được bơm và xả thẳng ra sông Gẽ. Đặc biệt trong 3 năm 2007, 2008, 2009 công ty liên tục bị đưa vào danh sách các công ty gây ô nhiễm môi trường, cụ thể là năm 2007 công ty đã từng bị xử lý gây ô nhiễm môi trưởng với số tiền là 100 triệu đồng, năm 2008 là 8,5 triệu đồng,… Hành động xả thải của Tung Kuang có thể là giấu diếm, nhưng không thể nói là bí mật, vì chất thải của họ ra môi trường ai cũng nhìn thấy. Thế nhưng khi đến vay vốn tại ngân hàng, CBTD vô tình hay cố ý đã bỏ qua những chi tiết ấy, tiếp tục cấp giấy phép cho vay vốn, việc giám sát hoạt động kinh doanh và đánh giá khả năng trả nợ khách hàng chưa thực sự diễn ra nghiêm túc và chặt chẽ. Hậu quả là khi cơ quan điều tra và Cảnh sát môi trường vào cuộc, công ty bị đình chỉ sản xuất và tiếp tục phải đền bù những khoản tiền khá lớn lên đến hàng tỷ đồng. Theo nguồn tin cho biết thì hiện nay ngân hàng cho Tung Kuang vay vốn vẫn chưa thu hồi hết khoản nợ gốc mà Tung Kuang đã vay trong năm 2009, các khoản vay đều được xếp vào nợ xấu cụ thể là nợ mất khả năng thanh toán (nợ nhóm 5). 3.3.2, Nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ tại chi nhánh Như chúng ta đã biết, kiểm soát nội bộ là xem xét, đối chiếu và đánh giá tính tuân thủ của các hoạt động, nghiệp vụ, quyết định, chính sách… so với luật và các quy định của cơ quan quản lý nhà nước. Tại các TCTD, kiểm soát nội bộ là tổng thể hệ thống các văn bản và các quy định về ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo. Cơ chế kiểm soát nội bộ được thiết lập do nhu cầu kiểm soát các hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát những rủi ro có thể phát sinh trong quy trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng. Hiện nay, hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại các NHTM nói chung và tại chi nhánh nói riêng vẫn còn nhiều bất cập so với các chuẩn mực kiểm soát nội bộ quốc tế. Trong các văn bản liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm toán vẫn chưa cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm tra nội bộ và kiểm toán nội bộ trong hệ thống giám sát; chưa phân định rõ các khái niệm liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ; các luật và văn bản luật đều quy định bộ máy kiểm toán nội bộ trực thuộc Tổng giám đốc, trong khi Tổng giám đốc và ban điều hành đều là đối tượng của kiểm soát nội bộ. Mặt khác, nếu chỉ tập trung vào tình trạng của TCTD tại một thời điểm nhất định nào đó thì không thể khẳng định được liệu TCTD trong thực tế sẽ phải chịu rủi ro trong tương lai gần hay không? Vì vậy cần áp dụng nhiều phương thức kiểm tra để đem lại hiệu quả tốt nhất, cụ thể như sau: Các cán bộ làm công tác kiểm soát nội bộ có trách nhiệm kiểm tra chéo việc áp dụng nghiệp vụ theo đúng quy trình. Mỗi quy trình phải có sự tham gia ít nhất là hai người, phân công trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ và chi tiết cho từng nhân viên khi tham gia quy trình. Cho phép kiểm soát viên tiếp cận với các tài liệu, cũng như những người có liên quan đến hoạt động kiểm soát nội bộ. Khi xây dựng chiến lược hoạt động cần phân tích, tính toán các điều kiện kinh tế vĩ mô, xu hướng phát triển của thị trường trong đó phải xem xét đến tình hình quốc tế. Bổ sung và sử dụng các giải pháp mang tính chất công nghệ cao như giải pháp ICTNews của hãng APC. Giải pháp này với các dữ liệu được cập nhật chính xác và nhanh chóng tại trung tâm sẽ giúp giảm thiểu rủi ro đáng kể trong kinh doanh tại chi nhánh. Kiểm soát viên nội bộ phải thành thạo công việc và được đào tạo thường xuyên, ngoài ra họ phải tự học hỏi để không ngừng nâng cao năng lực của mình. Đặc biệt với các chức danh Trưởng, phó kiểm toán nội bộ, trong điều kiện xét tuyển nên tăng số năm kinh nghiệm (tối thiểu phải 5 năm) làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, từ đó đảm bảo tính chuyên nghiệp của hoạt động kiểm toán nội bộ. Có chính sách khuyến khích, khen thưởng những cán bộ thực hiện tốt, đồng thời có biện pháp xử lý thích đáng đối với những trường hợp gian lận, vi phạm nguyên tắc. Bên cạnh đó, nội dung kiểm soát tại ngân hàng còn rườm rà, chưa có chương trình cảnh báo sớm, việc đánh giá kết quả HĐKD của ngân hàng chỉ ở mức độ thống kê số liệu là chính. Vì vậy, kết quả giám sát chưa phát huy được tác dụng phòng ngừa và phát hiện những vấn đề khó khăn của công tác tín dụng. Các cán bộ làm công tác kiểm soát nội bộ tại chi nhánh cũng chưa có mối quan hệ chính thức để trao đổi thông tin với cơ quan giám sát ngân hàng của các nước có chi nhánh tại VN cũng như Hội sở chính của các ngân hàng mẹ, trong khi đây cũng là một tiêu chuẩn của Basel. Vì vậy, cần có quy định về trao đổi thông tin và hợp tác với các cơ quan giám sát ngân hàng các nước và với Hội sở chính của các ngân hàng mẹ; cần tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong việc trao đổi thông tin, tiếp thu tư vấn về phương thức kiểm soát, công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực của các cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Tóm lại, hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ là một trong những cấu trúc nòng cốt của công tác QTRRTD; do đó, chi nhánh cần thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động, gia tăng giá trị cho ngân hàng và giảm thiểu được rủi ro ở mức thấp nhất. 3.3.3, Nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực Con người là yếu tố trung tâm, là nền tảng để phát hiện, đánh giá và hạn chế kịp thời các rủi ro tín dụng nhưng đồng thời cũng trở thành nguyên nhân gây ra tổn thất TD xuất phát từ năng lực và đạo đức cán bộ. Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng, an toàn tín dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của NHTM, từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng của NH. Chính vì vậy trong tương lai để nâng cao chất lượng QTRRTD, NH cần quan tâm, chú trọng nhiều hơn nữa đến đội ngũ nguồn nhân lực, sử dụng con người như một yếu tố tiên quyết trong xây dựng và vận hành cơ chế QTRRTD, cụ thể là: Cần xây dựng đội ngũ cán bộ QTRRTD có kinh nghiệm, kiến thức, khả năng nhanh nhạy trong xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ thẩm định đánh giá các doanh nghiệp và các dự án của doanh nghiệp, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hóa kinh doanh. Định kỳ hàng tháng, hàng quý nên có những chương trình họp, học tập kinh nghiệm, trao đổi thực tế giữa lãnh đạo và nhân viên để bổ sung thông tin, kinh nghiệm. Hiện tại, Vietinbank chi nhánh 7 được đánh giá là một trong những chi nhánh quản trị rủi ro khá tốt và có hiệu quả cao. Chính vì vậy trong tương lai chi nhánh cần phát huy hơn nữa vai trò của phòng QLRR & NCVĐ. Hiện nay, bộ phận này có tổng nhân sự là bốn người nên một cán bộ phải đảm nhận nhiều công việc khác nhau, chưa đảm bảo tính chuyên môn hóa trong nhiệm vụ được giao. Từ đó tác giả khuyến nghị chi nhánh nên bổ sung thêm nhân sự, từ đó dàn trải công việc một cách khoa học và chú trọng vào nhiệm vụ riêng của từng cán bộ, đảm bảo thời gian xử lý hồ sơ, nâng cao hiệu quả công việc; mặt khác nên có những tiêu chuẩn rõ ràng về trình độ, kinh nghiệm thực tế. Trong tương lai, phòng QLRR & NCVĐ cần phát huy hơn nữa vai trò của mình về quản lý rủi ro tín dụng, cụ thể là trong các báo thẩm định cần phân tích, đánh giá một cách sâu sắc hơn về những rủi ro tiềm ẩn, cần đưa ra những cảnh báo chi tiết, chặt chẽ thay thế các báo cáo chung chung như hiện nay. Để đạt được mục tiêu trên thì các cán bộ phải được thường xuyên đào tạo, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Bên cạnh đó, chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và đề bạt phải phù hợp với yêu cầu và trách nhiệm công việc, phù hợp với thực tế khách quan tại chi nhánh. Bổ nhiệm các chức danh khách quan, đúng quy định, lựa chọn người đủ năng lực, kinh nghiệm, có tư cách, đạo đức tốt. Đồng thời, có chính sách rõ ràng và phân quyền cụ thể liên quan đến cho vay, thu nợ và xử lý nợ (sổ tay tín dụng) để từng nhân viên trong từng bộ phận hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn của mình. 3.3.4, Ứng dụng thông lệ quốc tế Basel II trong công tác xây dựng mô hình QTRRTD tại Chi nhánh Hiện nay rất nhiều các ngân hàng trên thế giới đang thực hiện quản trị RRTD bằng cách sử dụng khung quản trị rủi ro theo gợi ý của Ủy ban Basel II. Hình 3.1: Khung quản trị rủi ro cơ bản (Nguồn: KPMG International 2008) [7] Thành phần chính của khung QTRR là một tập hợp các tiêu chuẩn cốt lõi cung cấp hướng dẫn về cơ sở kiểm soát và đảm bảo môi trường hoạt động. Các khung được bổ sung với các công cụ khác nhau nhưng đều có các thành phần chính: xác định CLRR, xây dựng cấu trúc quản trị, phân định luồng báo cáo, kiểm soát tự đánh giá, quản lý sự kiện rủi ro, các chỉ số đo lường RR chính và chương trình giảm thiểu RR. Nếu thực hiện đúng và đủ các nguyên tắc trên, phù hợp với điều kiện thực tế của ngân hàng, công tác quản trị RRTD của ngân hàng sẽ đi theo chuẩn mực và thực hiện được mục tiêu mà ngân hàng dự kiến. Tuy nhiên, tùy vào khả năng và mức độ vận dụng, chi nhánh có thể phát triển thành các mô hình khác nhau về quy mô và mức độ phức tạp cũng như thời gian thực hiện. Theo tác giả trong thời gian tới chi nhánh nên thành lập một bộ phận chuyên về RRTD, đổi mới hệ thống báo cáo và áp dụng công nghệ hiện đại hơn nữa. Bên cạnh những nguồn lực hiện có, ngân hàng nên sử dụng tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để quản trị RRTD, như thuê IBM hay sử dụng thêm phần mềm CLS (continuous linked settlement) để quản trị RRTD; qua đó chi nhánh có thể thực hiện quản trị RRHĐ trên cơ sở tự đánh giá rủi ro. Hoạt động của các phòng ban, đơn vị kinh doanh được xác định, đánh giá thường xuyên; từ đó các quyết định điều chỉnh và sửa đổi hoạt động để giảm thiểu rủi ro sẽ dần được xác định rõ ràng và hạn chế được rủi ro. Các RRTD được phân tích trên hai giác độ: tần suất xuất hiện và mức độ tác động. Từ đó, NH sẽ xác định cách thức tổ chức và xây dựng các chương trình giảm thiểu các mức RRTD như: kiểm soát nội bộ, bảo hiểm... Theo đó, các công cụ và kĩ thuật quản trị RRTD được sử dụng như kiểm soát tự đánh giá, quản lý sự kiện, phân tích rủi ro và báo cáo. Mặt khác, tất cả các cấp và tất cả các nhân viên đều phải nhận thức được tầm quan trọng của RRTD. BGĐ nên thuê tư vấn xây dựng khung quản trị RRTD phù hợp cho NH của mình và môi trường kinh doanh. Trong đó, hai vấn đề chủ chốt cần được đầu tư là: xây dựng và hoàn thiện chiến lược cho quản trị RRTD, và hoàn thiện cấu trúc quản trị RRTD, đặc biệt là cấu trúc tổ chức. Chiến lược quản trị RRTD thường bao gồm các vấn đề sau đây: xác định RRTD và nhận biết các nguyên nhân gây RRTD, mô tả hồ sơ rủi ro… Về vấn đề cấu trúc quản trị RRTD, NH cần thành lập, hoàn thiện ủy ban quản lý rủi ro riêng biệt, trong đó RRTD là một bộ phận. Bộ máy giám sát rủi ro của ngân hàng cần hoạt động độc lập, không tham gia vào quá trình tạo rủi ro, có chức năng quản lý, giám sát rủi ro. Thứ hai, xây dựng ý thức về quản trị RRTD trong toàn hệ thống, lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên để thiết lập các chốt kiểm soát về RRTD. Tất cả các nhân viên trong ngân hàng cần được đào tạo để hiểu biết và tham gia tự xác định RRTD– xác định nguyên nhân, đánh giá trong tất cả các rủi ro hiện có trong tất cả sản phẩm, hoạt động, quy trình và hệ thống của ngân hàng. Các chốt kiểm soát về RRTD được lựa chọn dựa trên các tiêu chí: lĩnh vực có lợi nhuận cao, là nghiệp vụ cơ bản của NH, có thể gây tổn thất nặng nề nếu xảy ra rủi ro. Đối với mỗi quá trình hoạt động, phân tích độ lớn tác động của rủi ro (xét về mặt số tiền bị mất, tổn thất khác gây ra cho NH…) và khả năng cho mỗi lần xảy ra rủi ro, từ đó thu thập cơ sở dữ liệu tổn thất. Các mức độ ảnh hưởng và khả năng xảy ra mỗi loại rủi ro được phân công theo tầm ảnh hưởng là cao hay thấp. Sau khi xác định các mức độ rủi ro ảnh hưởng và khả năng cho mỗi loại rủi ro. NH sắp xếp theo các điểm từ 1 đến 5 và biểu diễn theo dạng ma trận: Bảng 3.2a: Ma trận rủi ro Khả năng xảy ra sự kiện/ Ảnh hưởng Rất ít xảy ra 3 năm mới xảy ra một lần hoặc lâu hơn 1 Ít xảy ra Có thể xảy ra nhưng hiếm khi(1 lần/ 1năm) 2 Có khả năng. Đôi khi xảy ra (1 lần/ 1 quý hoặc lâu hơn) 3 Khả năng lớn. Thường xảy ra (1lần/ 1tháng hoặc lâu hơn)4 Chắc chắn Thường xuyên xảy ra (hơn hoặc 1 lần/ 1tuần)5 Không đáng kể 1 Mức thấp 1 Mức thấp 2 Mức thấp 3 Mức thấp 4 Trung bình 5 Nhỏ 2 Mức thấp 2 Mức thấp 4 Trung bình 6 Trung bình 8 Đáng kể 10 Tương đối 3 Mức thấp 3 Trung bình 6 Đáng kể 9 Đáng kể 12 Nghiêm trọng 15 Lớn 4 Mức thấp 4 Trung bình 8 Đáng kể 12 Nghiêm trọng 16 Nghiêm trọng 20 Nghiêm trọng 5 Trung bình 5 Đáng kể 10 Nghiêm trọng 15 Nghiêm trọng 20 Nghiêm trọng 25 (Nguồn: Minh họa của tác giả) Các kết quả thu được là mức độ rủi ro = (Mức độ ảnh hưởng rủi ro hoạt động) x (Khả năng xảy ra sự kiện). Từ mức độ rủi ro được định lượng hóa như trên, NHTM tính toán để đưa ra kế hoạch kiểm soát rủi ro như sau: Bảng 3.2b: Kế hoạch kiểm soát rủi ro cơ bản: Mức độ rủi ro Kế hoạch hành động Mức thấp Những kiểm soát nhanh chóng, dễ dàng phải được thực hiện ngay lập tức và tiếp tục cho các kế hoạch hành động khi các nguồn lực cho phép. Giám sát bảo đảm duy trì kiểm soát. Quản lý thong qua các thủ tục thông thường, cải tiến về kinh tế những nơi có thể. Trung bình Các kế hoạch nhằm giảm bớt rủi ro, nhưng chi phí của công tác có thể được hạn chế. Đánh giá rủi ro và thực hiện những hành động thích hợp, các hoạt động khác phải được kiểm soát, rủi ro phải thường xuyên được theo dõi. Đáng kể Trường hợp các rủi ro liên quan đến công việc đang tiến hành thì đánh giá rủi ro càng sớm càng tốt để đảm bảo an toàn của công việc, chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh trong giới hạn rủi ro chấp nhận được, liên hệ với người quản lý rủi ro về những hoạt động đó để giảm thiểu bớt rủi ro, báo cáo sự cố lên lãnh đạo và tiếp tục đưa vào theo dõi. Nghiêm trọng Tạm ngưng hoạt động cho đến khi đánh giá rủi ro đã được hoàn thành để đảm bảo an toàn của haọt động kinh doanh, nếu không thể giảm thiểu, loại bỏ thì phải thông báo ngay với giám đốc, người quản lý, quản tị rủi ro. Báo cáo sự cố phải được hoàn tất và sự cố được đưa vào theo dõi. (Nguồn: Minh họa của tác giả) Mặt khác, với các gợi ý của basel 2, NH sẽ sử dụng các mô hình dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng. Từ đó xác định các biến số như PD - Probability of Default: xác suất KH không trả được nợ; LGD: Loss Given Default - tỷ trọng tổn thất ước tính; EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm KH không trả được nợ. Thông qua các biến số trên, ngân hàng sẽ xác định được EL: Expected Loss- tổn thất có thể ước tính. Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa trên công thức:  EL = PD x EAD x LGD. Thứ nhất, PD - xác suất không trả được nợ Cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của KH, gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của Basel 2, để tính toán được nợ trong vòng một năm của khách hàng, ngân hàng phải căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó. Những dữ liệu được phân theo 3 nhóm sau: Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của ngành,… Những dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả được nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi… Từ những dữ liệu trên, ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính được xác xuất không trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit… và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp. Thứ hai, EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Đối với khoản vay có kỳ hạn, EAD được xác định không quá khó khăn. Tuy nhiên, đối với khoản vay theo hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn thì vấn đề lại khá phức tạp. Theo thống kê của ủy ban Basel, tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có xu hướng rút vốn vay tới mức gần xấp xỉ hạn mức được cấp. Do đó, ủy ban Basel 2 yêu cầu tính EAD như sau: EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân Trong đó LEQ - Loan Equivalent Exposure là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. “LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân” chính là phần dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân. Việc xác định LEQ - tỷ trọng phần vốn rút thêm có ý nghĩa quyết định đối với độ chính xác của ước lượng về dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ. Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ. Điều này dẫn đến những khó khăn lớn trong tính toán. Ví dụ, khách hàng uy tín, trả nợ đầy đủ thường hiếm khi rơi vào tình trạng này, do đó, không thể tính chính xác được LEQ của một khách hàng tốt. Thứ ba, LGD: tỷ trọng tổn thất ước tính - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan. Tỷ trọng tổng thất ước tính có thể tính toán theo công thức sau đây: LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD. Trong đó, số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể được coi là 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi được. Theo nghiên cứu của ủy ban Basel, hai yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất quyết định khả năng thu hồi vốn của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ là tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản của KH. Cơ cấu tài sản của KH được nhắc đến ở đây với ý nghĩa thứ tự ưu tiên trả nợ khác nhau của các khoản phải trả trong trường hợp DN phải phá sản. Trên thực tế, khi một DN phá sản, tỷ lệ thu hồi vốn từ các khoản vay của NH thường cao hơn tỷ lệ thu hồi vốn từ trái phiếu bởi NH có quyền được ưu tiên trả nợ trước các nhà đầu tư trái phiếu. Bên cạnh đó, khi kinh tế trong tình trạng suy thoái, tỷ lệ thu hồi vốn cũng sụt giảm. Hiện nay, tồn tại ba phương pháp chính để tính LGD: Một là, Market LGD - tỷ trọng tổn thất căn cứ vào thị trường. Phương pháp này được sử dụng khi các khoản tín dụng có thể được mua bán trên thị trường. NH có thể xác định tỷ trọng tổn thất của một khoản vay căn cứ vào giá của khoản vay đó một thời gian ngắn sau khi nó được xếp vào hạng không trả được nợ. Giá này được tính trên cơ sở ước tính của thị trường bằng phương pháp hiện tại hóa tất cả các dòng tiền có thể thu hồi được của khoản vay trong tương lai. Hai là, Workout LGD - tỷ trọng tổn thất căn cứ vào việc xử lý các khoản tín dụng không trả được nợ. NH sẽ ước tính các luồng tiền trong tương lai, khoảng thời gian dự kiến thu hồi được luồng tiền và chiết khấu các luồng tiền này. Việc xác định lãi suất chiết khấu phù hợp là vấn đề mấu chốt và nan giải nhất. Ba là, Implied Market LGD - xác định tỷ trọng tổn thất căn cứ vào giá các trái phiếu rủi ro trên thị trường.Với việc xác định được tổn thất ước tính của một khoản cho vay, ngân hàng sẽ thực hiện được thêm các mục tiêu sau: Như vậy, thông qua các biến số LGD, PD và EAD, ngân hàng sẽ xác định được EL - tổn thất ước tính của các khoản cho vay. Nếu ngân hàng tính chính xác được tổn thất ước tính của khoản cho vay thì sẽ mang lại cho ngân hàng rất nhiều ứng dụng chứ không chỉ đơn thuần giúp ngân hàng xác định chính xác hơn hệ số an toàn vốn tối thiểu trong mối quan hệ giữa vốn tự có với RRTD. Trước hết, việc áp dụng phương pháp IRB sẽ xác định đúng thực tế mức độ rủi ro của từng trạng thái rủi ro gồm các khoản cho vay doanh nghiệp, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), cho vay bán lẻ, cho vay thế chấp bất động sản, chứng khoán hóa, góp vốn cổ phần và các trạng thái không cân bằng khác2. Điều này có thể được tham khảo thông qua khảo sát của Goo Yong Ahn - Phó Vụ trưởng Vụ ổn định hệ thống tài chính thuộc Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc được tiến hành trong lộ trình ứng dụng Basel 2 của quốc gia này. Có thể thấy, khi ngân hàng cho vay các KH tốt, hệ số rủi ro giảm xuống, và tất yếu dẫn đến tài sản rủi ro tín dụng giảm. Kết quả là hệ số an toàn vốn tăng, điều này dẫn đến hình ảnh NH trở nên đẹp hơn đối với thị trường và các cơ quan giám sát. Những lợi ích mà NH nhận được khi áp dụng thông lệ Basel 2 có thể nói là khá nhiều, cụ thể là Thứ nhất, giúp ngân hàng tăng cường khả năng quản trị nhân sự, cụ thể là quản trị đội ngũ cán bộ tín dụng. Theo lý thuyết quản trị, quản trị nhân sự bao gồm bốn vấn đề chính: tuyển dụng; đào tạo lại; hệ thống lương thưởng;  vấn đề thăng tiến. Trên thực tế, nhiều ngân hàng trên thế giới đã xây dựng hệ thống chấm điểm kết quả công việc của cán bộ tín dụng để xác định mức lương và lộ trình thăng tiến phù hợp. Với cán bộ tín dụng, lương và thưởng thường được dựa vào số dư nợ, số lượng khách hàng và chất lượng tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có dư nợ cao nhưng chất lượng tín dụng thấp thì lương - thưởng vẫn có thể rất thấp, và tất nhiên là không thể thăng tiến. Như vậy, việc xác định mức tổn thất ước tính với từng danh mục cho vay của từng cán bộ tín dụng sẽ định lượng rõ chất lượng tín dụng của từng cán bộ. Điều này buộc cán bộ tín dụng phải luôn nỗ lực tránh rủi ro nếu không sẽ nhận mức lương - thưởng rất thấp cho dù là cán bộ có thâm niên cao. Thứ hai, việc xác định được tổn thất ước tính, đặc biệt là xác định được PD - xác suất khả năng vỡ nợ của KH sẽ giúp ngân hàng nâng cao được chất lượng việc giám sát và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay. Như vậy, việc xây dựng hệ thống ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ - IRB là xu thế tất yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, việc tính toán bất kỳ chỉ tiêu nào trong số 3 chỉ tiêu PD, LGD hay EAD luôn hết sức phức tạp, đòi hỏi ngân hàng phải có một cơ sở dữ liệu đầy đủ, được lưu trữ khoa học với những chương trình phần mềm xử lý dữ liệu hiện đại. Tất cả những vấn đề trên đều đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải đầu tư nguồn lực về tài chính, con người, thời gian rất khổng lồ và đặc biệt phải có lộ trình khoa học. Thứ ba, hướng dẫn cách thức xây dựng ngân hàng dữ liệu về RRTD và sử dụng công nghệ hiện đại trong phân tích, xử lý RRTD. Trong tương lai gần, NH nên nhanh chóng xây dựng các quy trình hướng dẫn để thu thập thêm các thông tin tổn thất. Nếu có điều kiện, tối ưu hóa công nghệ hiện đại để phân tích, đánh giá và xử lý RRTD. Mặt khác, NH nên tham gia các tổ chức bên ngoài, tăng cường đối thoại với ngân hàng bạn, NHNN để chia sẻ thông tin tổn thất, nhanh chóng hiện thực hóa các khuyến nghị đã đưa ra trong hội thảo của Ngân hàng Nhà nước tháng 1/2009 về RRTD và thành lập ngân hàng dữ liệu chung của RRTD, tránh tình trạng giấu thông tin như về RRTD hiện nay tại các NHTM. Những thông tin cốt lõi cung cấp ngân hàng dữ liệu tổn thất bao gồm: Tổng số tiền thiệt hại, Trợ cấp bảo hiểm và những khôi phục khác, Loại rủi ro tương ứng, Lĩnh vực kinh doanh, nơi xảy ra tổn thất, Ngày, tháng xuất hiện biến cố và khám phá sự kiện, Nguyên nhân của sự kiện. Thứ tư, hạn chế tối đa nguyên nhân gây ra RRTD từ các yếu tố bên trong NH như con người, quy trình, hệ thống. Các chính sách của Basel 2 hướng tới mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, đạo đức nghề nghiệp tốt; các quy trình nghiệp vụ được rà soát thường xuyên, hoàn thiện hóa. Hệ thống công nghệ thông tin và vận hành được bảo dưỡng và cập nhật thường xuyên. Những chức năng cơ bản của những phần mềm ứng dụng cho RRTD ít nhất sẽ bao gồm Nhập dữ liệu được phân cấp (dữ liệu tổn thất, các chỉ số rủi ro, các phản hồi để đánh giá rủi ro), tập trung đánh giá trên mọi phạm vi kinh doanh… Cuối cùng là hạn chế tối đa các nguyên nhân RRHĐ bên ngoài bằng cách xây dựng các phương án, đưa ra tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời hậu quả do các lỗi truyền thông, thiên tai, hoả hoạn gây ra RRTD. Giải pháp cơ bản cho việc đưa ra quyết định lựa chọn thay thế là: công nhận rủi ro hiện hữu, chuyển đổi rủi ro cho bên thứ ba. (ví dụ thông qua bảo hiểm); giảm thiểu rủi ro bằng cách mở rộng của hệ thống kiểm soát, giới thiệu về công nghệ thông tin cho hệ thống tự động nhận dạng sai sót... Những biện pháp này nên được bổ sung liên tục nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro ở mức thấp nhất. Kết luận chương 3: Có thể nói hoạt động tín dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng là vấn đề mà bất cứ NHTM nào cũng quan tâm. Mặt khác, với vai trò là một trong bốn NHTM hàng đầu trong cả nước, đây là vấn đề cần thiết phải được quan tâm hàng đầu. Trong môi trường kinh doanh hiện nay và trong tương lai, chắc chắn ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, rủi ro và thử thách mới. Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng QTRRTD được tác giả rút ta từ thực trạng hoạt động tín dụng và QTRRTD. Nếu thực hiện đúng và đầy đủ chắc chắn sẽ giúp Chi nhánh ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất. KẾT LUẬN Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tất yếu và đa dạng. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải đối mặt với những rủi ro đó như thế nào và có những giải pháp gì để phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất do rủi ro gây ra. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, dù xem xét hay nhìn nhận rủi ro ở góc độ quá khứ, hiện tại hay tương lai thì việc nâng cao hơn nữa chất lượng công tác QTRRTD luôn là nhiệm vụ hàng đầu của các NHTM nói chung và tại Chi nhánh nói riêng. Dựa trên những cơ sở luận về rủi ro tín dụng và QTRRTD, luận văn đi sâu vào phân tích thực trạng tín dụng và tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến RRTD tại Vietinbank chi nhánh 7 trong thời gian vừa qua. Từ đó luận văn cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng QTRRTD tại chi nhánh. Tuy nhiên do những hạn chế về kiến thức và nhiều yếu tố khách quan nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tác giả rất mong sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các cô chú, các anh chị Phòng tổng hợp tiếp thị và Phòng QLRR &NCVĐ để bài nghiên cứu đạt kết quả cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng tmcp công thương vn chi nhánh 7 tp hcm.doc
Luận văn liên quan