Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 2 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN 2 1.1. Tổng quan về tín dụng ngắn hạn 2 Khái niệm và phân loại 2 1.1.2 Vai trò của tín dụng ngắn hạn: 5 1.1.3 Các hình thức tín dụng ngắn hạn: 7 1.2. Chất lượng tín dụng ngắn hạn 10 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá: 12 1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính: 12 a. Các nhân tố thuộc về NHTM 17 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 24 2.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 24 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương 24 2.1.2 Tổ chức bộ máy 25 2.1.2.1 cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội hiện nay 25 2.1.2.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 27 2.1.3 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 29 2.1.3.1 Đánh giá các mặt hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 29 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 35 2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh 35 2.2.3 Kết quả đạt được và các hoạt động của phòng tín dụng 43 2.2.3.1 Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 43 2.3.3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương HN 45 2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 50 2.3.1. Kết quả đạt được 50 2.3.2 Những hạn chế 51 CHƯƠNGIII 55 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 55 3.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong năm 2008 55 3.2 Định hướng hoạt động tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đến năm 2008 56 3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 57 3.3.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng: 57 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn ngắn hạn 58 3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án 59 3.3.4 Đảm bảo thực hiện tốt quy trình cho vay 62 3.3.5.Đa dạng hoá các hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ cho vay 63 3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát và quản lý các khoản cho vay 65 3.4 Kiến nghị 66 3.4.1 Đối với Nhà Nước 67 3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước 68 KẾT LUẬN. 70 Danh mục tài liệu tham khảo 72 thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ ***********

doc74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4552 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài sản Khi cấp tín dụng ngắn hạn thì NHTM xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp, một khoản xin vay ngắn hạn có thể được Ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp. + Các điều kiện kinh tế: Các điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của người vay nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Vậy nên nhân viên tín dụng phải trở thành nhà dự đoán kinh tế. 2.2.2.2 Xây dựng và ký kết Hợp đồng Tín dụng Sau khi đã thực hiện xong việc thu thập và thông tin khách hàng, Ngân hàng sẽ tiến hành xây dựng và ký kết Hợp đồng Tín dụng với khách hàng có đủ điều kiện và thoả mãn yêu cầu của Ngân hàng. Hợp đồng Tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người tài trợ (khách hàng) và Ngân hàng với nội dung chủ yếu là Ngân hàng cam kết cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định.Hợp đồng Tín dụng là một văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hê tín dụng và tuân theo quy định của quy định pháp luật, hai bên phải cân nhắc trước khi kí kết. Nội dung Hợp đồng Tín dụng gồm các khoản mục: + Khách hàng: Họ tên, điều kiện, tư cách pháp nhân (nếu có). + Mục đích sử dụng: Khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì. + Số lượng tín dụng: Là số tiền NHTM cam kết cấp cho khách hàng. + Lãi suất: Hợp đồng Tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời xác định tính chất của lãi suất, nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó. + Phí: Để có được cam kết tín dụng khách hàng phải trả một khoản phí được tính bằng tỷ lệ % trên hạn mức cam kết. + Thời hạn tín dụng: Thường được xác định cụ thể (ngày, tháng,năm) và ghi trong Hợp đồng Tín dụng là thời hạn mà Ngân hàng cam kết cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ (có thể được chia thành nhiều kì hạn). + Các loại đảm bảo: Hợp đồng Tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho các khoản tín dụng (kèm theo hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh, vật tư hàng hoá trong kho, tài sản cố định hoặc các chứng khoán có giá…các nội dung quan trọng như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm… + Giải ngân: Hợp đồng Tín dụng xác định các điều kiện và kì hạn giải ngân, đối với các khoản cho vay ngắn hạn thường cấp tiền vay một lần vào đầu kỳ hoặc theo từng lần. + Điều kiện thanh toán: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi, thường tín dụng ngắn hạn thanh toán lãi hàng tháng và gốc thanh toán vào cuối kỳ. + Các điều kiện kinh tế khác: gồm các thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay, phong toả tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản… 2.2.2.3 Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng ngắn hạn Sau khi Hợp đồng Tín dụng đã được ký kết giữa người vay và Ngân hàng.Ngân hàng có trách nhiệm giải ngân tín dụng có thể là đưa tiền mặt hoặc thanh toán tiền mặt cho khách hàng như đã thoả thuận. Đi đôi với việc giải ngân thì Ngân hàng cần theo dõi kiểm tra xem khách hàng được cấp tín dụng có sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận không, quá trình sản xuất kinh doanh biến động như thế nào, ý đồ của khách hàng ra sao… Qua đây cho phép Ngân hàng có thể thấy được chất lượng tín dụng ra sao để có thể có những phán quyết hợp lý cho quan hệ tín dụng ngắn hạn này. 2.2.2.4 Thu nợ và đưa ra phán quyết tín dụng mới Quan hệ tín dụng kết thúc khi Ngân hàng thu hồi được hết cả gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo trả đầy đủ đúng hạn là tốt, còn một số trường hợp thì ngược lại. Nhưng Ngân hàng phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao nếu khách hàng có khó khăn về tài chính song vẫn kiên trì tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm, còn nếu khách hàng có ý đồ lừa đảo, cố tình dây dưa, làm ăn kém… thì ngân hàng mọi biện pháp thu hồi nợ nhanh như phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi. 2.2.3 Kết quả đạt được và các hoạt động của phòng tín dụng 2.2.3.1 Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Năm 2007 là năm thứ hai ngân hàng Ngoại thương Hà Nội thực hiện áp dụng quy trình tín dụng mới (quy trình 90 do tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ban hành ngày 26/5/2006 theo Quyết định số 90/QĐ- NHNT.QLTD ), nhằm làm giảm các hạn chế của quy trình tín dụng cũ và hướng tới chẩn mực quốc tế. Với nỗ lực của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2007 là 2.533 tỷ, trong đó tín dụng ngắn hạn chiếm 77,7% tương ứng với số tiền là 198,368 tỷ , tín dụng dài hạn chiếm 22,3% tương ứng với số tiền là 569,319 tỷ... nhìn chung thì hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ mặc dù vẫn thiếu sót. Bảng 2: tín dụng phân theo thời hạn Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Ngắn hạn 2602,837 319,21712 1983,681 % 74% 74,7% 77,7% Trung & dài hạn 915,119 1081,8288 596,319 % 26% 25,3% 22,3% Tổng 3518,028 4274 2553 Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế : Ngân hàng Ngoại thương HN luôn cho vay thành phần doanh nghiệp Nhà Nước với tỷ lệ lớn nhất : năm 2007 là 59,7% tương ứng với số tiền là 1322975 triệu đồng; năm 2006 là 52,9% tương ứng với số tiền là 2257717,7 triệu đồng; năm 2005 là 55,6% tương ứng với số tiền là 1956459,6 triệu đồng. Sau đó là đến thành phần Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn với các con số : năm 2007 với tỷ lệ 19,7% tương ứng với số tiền là 502941 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 22,5% tương ứng với số tiền là 960019,7 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 26,8% tương ứng với số tiền là 1046107,8 triệu đồng. Thành phần hợp tác xã : năm 2007 với tỷ lệ 9,8% tương ứng với số tiền là 250194 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 8% tương ứng với số tiền là 343965,5 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 5% tương ứng với số tiền là 175900,9 triệu đồng. Với đầu tư nước ngoài các con số là: năm 2007 với tỷ lệ 10,3% tương ứng với số tiền là 331890 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 13,3% tương ứng với số tiền là 561297,3 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 6,5% tương ứng với số tiền là 224960,75 triệu đồng. Thành phần đối tượng khác vay với tỷ lệ : năm 2007 với tỷ lệ 5,7% tương ứng với số tiền là 145000 triệu đồng; năm 2006 với tỷ lệ 3,5% tương ứng với số tiền là 151000 triệu đồng; năm 2005 với tỷ lệ 6,1% tương ứng với số tiền là 144599,7 triệu đồng. Bảng 3 : bảng tín dụng phân theo thành phần kinh tế: Đơn vị : triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Doanh nghiệp Nhà Nước 1956459,6 2257717,7 1322975 % 55,6 52,9 59,7 2 Công ty cổ phần, TNHH 1046107,8 960019,7 502941 % 26,8 22,5 19,7 3 Hợp tác xã 175900,9 343965,5 250194 % 5 8 9,8 4 Đầu tư nước ngoài 224960,75 561297,3 331890 % 6,5 13,3 10,3 5 Các đối tượng khác 114599,7 151000 145000 % 6,1 3,5 5,7 Tổng 3518028 4274000 2553000 2.3.3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương HN Nói về thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương HN, ta có thể thấy một nét nổi bật là nợ quá hạn năm 2007 giảm suống một các manh mẽ so với những năm trước : năm 2005 nợ quá hạn chiếm 2,74% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 96510 triệu đồng, sang năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ có giảm tuy nhiên là không nhiều 2,46%, nhưng tới năm 2007 con số này chỉ còn 0,75%, đây là một điều rất đáng mừng, nó cho thấy các khoản nợ của ngân hàng Ngoại thương HN rất lành mạnh. Bảng 4 : Bảng nợ quá hạn Đơn vị :triệu đồng Năm Tổng dư nợ Nợ quá hạn Tỷ lệ(%) 2005 3518028 96510 2,74 2006 4274000 105140,4 2,46 2007 2553000 19913,4 0,78 Nợ quá hạn phân theo nhóm nợ Nói chung nợ quá hạn từ nhóm 2 đến nhóm 5 qua các năm đều giảm và từ năm 2006 tới năm 2007 thì giảm mạnh, cá biệt nợ nhóm 2 và nhóm 3 năm 2006 lại tăng hơn năm 2005( Nợ nhóm 2 năm 2005 chiếm 1,4% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 52320,5 triệu đồng, sang năm 2006 con số này là 1,47% tương ứng với số tiền là 62807,8 triệu đồng. Nợ nhóm 3 năm 2005 chiếm 0,82% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 25895,8 triệu đồng, sang năm 2006 con số này là 1,47% tương ứng với số tiền là 62807,8 triệu đồng, cao hơn so với năm 2005) điều này là do sang năm 2006 Ngân hàng Ngoại thương thực hiện quy trình tín dụng mới (quy trình 90) đi kèm với quy trình này là bộ phận quản lý rủi ro được tách ra khỏi phòng tín dụng cũ và hoạt động độc lập, đã hạn chế việc gia hạn nợ, cơ cấu lại các khoản nợ đối với các khoản nợ không đảm bảo theo quy định. Đồng thời bộ phận quản lý rủi ro có xu hướng thêm các điều kiện như lịch kiểm tra vốn vay, tài sản đảm bảo…. vì vậy nợ quá hạn có xu hướng tăng từ năm 2005 sang năm 2006. Nhưng sang năm 2007 thì nợ nhóm 2 và nhóm 3 đã giảm mạnh ( nợ nhóm 2 chiếm 0,4% tổng dư nợ tương ứng với số tiền là 10211 triệu đồng (giảm 1,007% so với năm 2006), nợ nhóm 3 chiếm 0,26 % tổng dư nợ tương ứng với số tiền 6637,8(giảm 0,64% so với năm 2006)). đây là sự cố gắng lỗ lực rấy lớn của toàn thể ngân hàng Ngoại thương HN nói chung và của cán bộ bộ phận tín dụng nói chung. Con số của nợ nhóm 4 :năm 2005 – chiếm 0.42 % tổng dư nợ tương ứng với 14775,7 triệu đồng, năm 206 – chiếm 0,4% tổng dư nợ tương ứng với 17096 triệu đồng, năm 207 – chiếm 0,1% tổng dư nợ tương ứng với 2553 triệu đồng. Nợ nhóm 5 : năm 2005 – chiếm 0.1 % tổng dư nợ tương ứng với 3518 triệu đồng, năm 206 – chiếm 0,09% tổng dư nợ tương ứng với 3846,6triệu đồng, năm 207 – chiếm 0,02% tổng dư nợ tương ứng với 510,6 triệu đồng. Bảng 5 : bảng phân loại nợ theo nhóm Đơn vị :triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ nhóm 1 2516569 4151783,6 2533086,6 % 80,1 97,1 99,22 Nợ nhóm 2 52320,5 62807,8 10211 % 1,4 1,47 0,4 Nợ nhóm 3 25895,8 38466 6637,8 % 0,82 0,9 0,26 Nợ nhóm 4 14775,7 17096 2553 % 0,42 0,4 0,1 Nợ nhóm 5 3518 3846,6 510,6 % 0,1 0,09 0,02 Tổng 3518028 4274000 2553000 Phân loại nợ quá hạn theo loại nợ (ngắn hạn và dài hạn) Theo tiêu chí này thì nợ quá hạn các năm theo nợ ngắn hạn và dài hạn tương đối ổn định ; nợ quá hạn theo nợ ngắn hạn : năm 2005 là 81577 triệu đồng tương ứng với 84,5% tổng nợ quá hạn, năm 2006 là 86215,1 triệu đồng tương ứng với 82% tổng nợ quá hạn, năm 2007 là 16587,9 triệu đồng tương ứng với 83,3% tổng nợ quá hạn. Nợ quá hạn theo nợ ngắn hạn qua các năm đều lớn hơn rất nhiều lần so với nợ quá hạn theo nợ nợ dài hạn vì nợ ngắn hạn theo các năm cũng lơn hơn rất nhiều lần so với nợ dài hạn. Bảng 6 : phân loại nợ quá hạn theo loại nợ Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Ngắn hạn 81577 86215,1 16587,9 % 84,5 82 83,3 Dài hạn 14933 18925,3 3325,5 % 15,5 18 16,7 Tổng 96510 105140,4 19913,4 Nợ quá hạn phân theo loại tiền Nợ quá hạn theo loại nợ cho vay bằn VND năm nào cũng rất cao và con số tương đối có xu hướng tăng theo các năm : năm 2005 là 85,7% trong tổng nợ quá hạn(tương ứng với số tiền 82730 triệu đồng), năm 2006 là 89,5% trong tổng nợ quá hạn(tăng 3,8% so với năm 2005)(tương ứng với số tiền 94100,7 triệu đồng), năm 2007 là 89,7% trong tổng nợ quá hạn(tăng 0,2% so với năm 2006)(tương ứng với số tiền 17862,3 triệu đồng). Nợ quá hạn theo nợ cho vay bằng VND luôn cao hơn rất nhiều so với nợ quá hạn theo nợ cho vay bằng ngoại tệ điều này chứng tỏ các khoản nợ cho vay bằng ngoại tệ lành mạnh hơn rất nhiều so với các khoản cho vay bằng VND. Bảng 7 : Nợ quá hạn phân theo loại tiền Đơn vị : triệu đồng Nợ quá hạn Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 VND 82730 94100,7 17862,3 % 85,7 89,5 89,7 Ngoại tệ quy đổi ra VND 13780 11039,7 2051,1 % 14,3 10,5 10,3 Tổng 96510 105140,4 19913,1 Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng Bảng 8 : trích lập quỹ dự phòng rủi ro Đơn vị : triệu đồng Năm Tổng phải trích Tổng đã trích Còn thiếu 2005 108689,41 108689,41 0 2006 57719,37 57719,37 0 2007 22772,76 22662 110,76 Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung : Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ theo quy định tại điều 6 và điều 7 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc Ngân hàng Nhà Nước, quy định này để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản tín dụng suy giảm. Qua bảng trên ta thấy năm 2005 và năm 2006 ngân hàng Ngoại thương Hà nội thực hiện đầy đủ về quy định trích lập dự phòng rủi ro (năm 2005 trích lập 108689 triệu đồng, năm 2006 trích lập 57719,37 triệu đồng). Nhưng năm 2007 việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của Ngân hàng Ngoại thương Hà nội chưa được đầy đủ cụ thể là ngân hàng phải trích lập 22772,76 triệu đồng nhưng hiện tại ngân hàng mới trích lập được 22662 triệu đồng còn thiếu 110,76 triệu đồng. 2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 2.3.1. Kết quả đạt được Trong năm qua tín dụng ngắn hạn của chi nhánh đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Tín dụng ngắn hạn không chỉ tăng trưởng về quy mô mà còn nâng cao dần về chất lượng. Điều này thể hiện rõ rệt qua quy mô dư nợ cho vay ngắn hạn tăng, vòng quay vốn cho vay tăng, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ khó đòi giảm nhanh chóng qua các quý. Điều này chứng tỏ rằng vốn vay của Ngân hàng phát huy được tác dụng, doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả và còn cho thấy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phát triển, đem lại ngày càng nhiều thu nhập. Để đạt được những kết quả trên, chi nhánh đã thực hiện nhiều biện phát, chính sách tích cực, phù hợp với từng thời kỳ phát triển với phương châm “chất lượng, hiệu quả, tăng trưởng bền vững”. Từ những chỉ tiêu trên đây có thể thấy, về cơ bản, hoạt động tín dụng tại phòng tín dụng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đa số các chỉ tiêu đều hoàn thành đúng kế hoạch. Cụ thể: Công tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2007 tiếp tục thực hiện với phương châm“ Hiệu quả & an toàn „. Với nỗ lực của các cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, dư nợ tính đến 31/12/2007 đạt 2.553 tỷ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2006, đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm 1,49% thị phần trên địa bàn Hà Nội. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có vay vốn tại Chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ quá hạn chiếm 0,78% tổng dư nọ. - Cho vay trung dài hạn: chiếm 22,3% tổng dư n - Cho vay ngắn hạn: chiếm 77,7% tổng dư nọ Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, mở các chương trình hỗ trợ về vốn khách hàng vừa và nhỏ để phát triển kinh doanh, Chi nhánh đang mở rộng thêm loại hình cho vay thể nhân với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn: mua ôtô mới, sửa chữa nhà, phát triển kinh tế tư nhân – gia đình, du học, mua biệt thự tại khu biệt thự, đầu tư xây dựng văn phòng,.... Đến 31/12/2007, dư nợ tại bộ phận tín dụng thể nhân đạt 145 tỷ đồng, chiếm 5,7% tổng dư nợ. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. 2.3.2 Những hạn chế Mặc dù hoạt động tín dụng ngắn hạn năm qua đạt được kết quả đáng kể nhưng chất lượng ngắn hạn chưa cao. Những hạn chế đó biểu hiện như sau: Về phía Ngân hàng + Việc tuân thủ quy trình nghiệp vụ cho vay có lúc bị bỏ qua, nhất là trong khâu thẩm định tín dụng. Trong tín dụng ngắn hạn, thời gian và thời cơ kinh doanh là một yếu tố quan trọng đối với cả doanh nghiệp và Ngân hàng do vậy cán bộ tín dụng đôi khi bỏ qua một số bước trong phân tích tín dụng, dẫn đến tiềm ẩn các rủi ro cho Ngân hàng. + Vòng quay vốn của Chi nhánh chưa đạt mức chung của toàn hệ thống. Điều này cho thấy chi nhánh còn hạn chế trong khâu tính toán kỳ hạn trả nợ, chưa xác định được tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp và sự kết hợp về sự kết hợp về tốc độ chu chuyển của từng doanh nghiệp trong hệ thống các doanh nghiệp - khách hàng, để thiết lập vòng quay vốn tối ưu. Vòng quay vốn chưa cao còn cho thấy công tác thu hồi nợ chưa tốt. Vòng quay vốn là một chỉ tiêu quan trong không chỉ đảm bảo cho khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng, mà còn đảm bảo một nguồn vốn đầy đủ, sẵn sàng cho việc mở rộng tín dụng. Về phía doanh nghiệp: +Khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp còn hạn chế, doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Doanh nghiệp vay được vốn mà không sử dụng hiệu quả thì sẽ không có lợi nhuận, không trả được nợ cho Ngân hàng. Có những doanh nghiệp vay vốn để thực hiện những dự án lớn song lại hoàn toàn thất bại, dẫn đến vỡ nợ từ đó không chỉ đặt doanh nghiệp vào trạng thái phá sản mà còn gây thiệt hại cho Chi nhánh Ngân hàng. + Thái độ trả nợ của khách hàng đôi khi là không tích cực. Có nhiều doanh nghiệp vayvốn Ngân hàng song không tích cực trả nợ, có thái độ chần chừ không trung thực trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân hàng gây cản trở và thiệt hại đối với hoạt động của Ngân hàng. Về phía Ngân hàng +Phương thức cho vay ngắn hạn chưa đa dạng hiện nay, chi nhánh chỉ áp dụng nhiều nhất hai phương thức cho vay ngắn hạn là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Hai phương thức này hoặc mang tính thụ động, chờ khách hàng yêu cầu về vốn vay thì đáp ứng, hoặc không có sự đảm bảo nào cho việc thu hồi nợ ngoài sự đảm bảo từ phía khách hàng vay vốn. +Quy trình thẩm định còn một số bất cập. Mặc dù đã có sổ tay tín dụng được áp dụng chung trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nhưng việc áp dụng các chi tiết của quy trình cho vay nhiều khi mới chỉ dừng lại ở lý thuyết. Một số cán bộ tín dụng vẫn chưa tuân thủ hoàn toàn chặt chẽ, hoặc không có điều kiện thực hiện theo các quy định của sổ tay, mà một phần lớn là dựa trên kinh nghiệm. Do vậy, đôi khi các bước thẩm định bị coi nhẹ hay thậm chí bỏ qua làm ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định, từ đó làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. + Mặc dù thông tin vừa thiếu vừa không chính xác vừa không cập nhật. Ngân hàng có nhiều nguồn thông tin để thẩm định một khách hàng, tuy nhiên hiện nay nguồn thông tin chủ yếu nhất vẫn là các tài liệu do khách hàng lập. Điều này không đảm bảo được tính khách quan chính xác của số liệu. Thậm chí, Ngân hàng cũng khó phát hiện được các sai sót trong các báo cáo. hiện nay, Ngân hàng nhà nước đã thành lập trung tâm thông tin tín dụng để cung cấp hồ sơ khách hàng. Song những hồ sơ này không thể cung cấp đầy đủ thông tin về khách hàng vì đó chỉ là thông tin trong quá khứ, thông tin ở trạng thái tĩnh. Việc thiếu thông tin, không nắm rõ tình hình khách hàng như vậy sẽ có thể dẫn Ngân hàng đến các rủi ro tín dụng. + Chiến lược hỗ trợ khách hàng vay vốn còn hạn chế. Các cán bộ tín dụng còn thể hiện sự thụ động trong việc cùng khách hàng tìm kiếm, phát triển phương án kinh doanh. Cán bộ tín dụng hầu như mới chỉ dừng lại ở tư vấn cho khách hàng về các điều kiện thủ tục vay vốn mà chưa cùng họ tìm ra cách thức tháo gỡ khó khăn, tìm ra cách thức đáp ứng vốn tốt nhất cho họ cùng họ thực hiện một phần hoặc tham gia tư vấn chuyên môn cho dự án xin vay. + Công tác kiểm tra kiểm soát còn chưa tốt. Cho vay là một hoạt động có nhiều rủi ro. Công tác kiểm tra, kiểm soát là rất quan trọng đối với hoạt động này. Thực hiện tốt công tác này không chỉ giúp sớm nhận ra các sai sót và xử lý kịp thời, hạn chế bớt tổn thất cho cả Ngân hàng và khách hàng mà còn có ý nghĩa dự báo, ngăn ngừa tổn thất nâng cao chất lượng tín dụng. Thời gian qua, công tác kiểm tra, kiểm soát còn chưa tốt, còn có những khoản vay xấu mà không được phát hiện kịp thời, để rơi vào tình trạng nợ quá hạn nợ khó đòi. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 3.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong năm 2008 Chi nhánh tiếp tục phát huy các thể mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng màng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn,... để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên 40% năm 2008. Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch và giao dịch tại trụ sở mới tại 344 Bà Triệu, dự kiến cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của Chi nhánh tăng 15% so với năm 2007, trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2007. Tính trung bình trong giai đoạn 2005 – 2010 tốc độ tăng trưởng huy động vốn của Chi nhánh dự kiến khoảng 16,4% do sự phát triển không ngừng của các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức kinh tế trên địa bàn như hiện nay làm gia tăng các loại hình đầu tư cạnh tranh với hoạt động gửi tiền của ngân hàng. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ, Chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng thương mại điện tử. * Cho vay: Kế hoạch đến cuối năm 2008, Chi nhánh sẽ đạt dư nợ tín dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 2% giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung, dài hạn đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh, kế hoạch 2008 đạt 28% tổng dư nợ.` 3.2 Định hướng hoạt động tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đến năm 2008 Chi nhánh tiếp tục phát huy các thể mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng màng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn,... để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên 40% năm 2008. Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch và giao dịch tại trụ sở mới tại 344 Bà Triệu, dự kiến cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của Chi nhánh tăng 15% so với năm 2007, trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2007. Tính trung bình trong giai đoạn 2005 – 2010 tốc độ tăng trưởng huy động vốn của Chi nhánh dự kiến khoảng 16,4% do sự phát triển không ngừng của các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức kinh tế trên địa bàn như hiện nay làm gia tăng các loại hình đầu tư cạnh tranh với hoạt động gửi tiền của ngân hàng. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ, Chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng thương mại điện tử. * Cho vay: Kế hoạch đến cuối năm 2008, Chi nhánh sẽ đạt dư nợ tín dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 2% giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung, dài hạn đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh, kế hoạch 2008 đạt 28% tổng dư nợ. 3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 3.3.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng: Đối với bất kì hoạt đọng nào của Ngân hàng đều liên quan đến nhân tố con người. Đặc biệt là hoạt động tín dụng của ngân hàng thì nhân tố con người có ảnh hưởng rất lớn, cụ thể là hoạt động tín dụng ngắn. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn thì không thể không quan tâm đến nhân tố con người mà đạc biệt la các cán bộ tín dụng. Cụ thể Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xây dựng một đội ngũ cán bộ tín dụng đảm bảo cả về chất lượng và số lượng, đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng đựoc thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác và phẩm chất đạo đức. Về trình độ nghiệp vụ, các cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo chính quy, nắm vững kiến thức về kinh tế thị trường và hệ thống Ngân hàng - Tài chính, trong đó cần nắm vững về thị trường tài chính, cần phải hiểu biết nhiều để có khả năng phân tích và đuua ra nhưng quyết định đúng đắn. Phạm vi cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội rất đông, đặc biệt là hoạt động tín dụng ngắn hạn nền đội ngũ cán bộ tín dụng ngoài kiến thức chuyên ngành cần có thểm kiến thức khác nhau về xã hội, văn hoá, chính trị, kỹ thuật và các khả năng về ngoại ngữ, vi tính...... Trước hết để có thể nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội cần coi trọng hơn nữa công tác thi tuyển,cần phải nghiêm minh để tìm ra được những cán bộ giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình trong công việc. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay cần đòi hỏi các cán bôn tín dụng phải luôn học hỏi, cũng cố kiến thức để có thể đáp ứng được công việc khó khăn mà các cán bộ tín dụng thương xuyên phải thực hiện. Do đó Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần phải thường xuyên thực hiện việc đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng . Việc đào tạo cán bộ cần phải có hổ trợ, ủng hộ của các cấp quản lý của Ngân hàng , cần phải có những kế hoạch đào tạo tỉ mĩ để các cán bộ tín dụng học hỏi một cách tốt nhất. Ngân hàng Ngoại thương có thể khuyến khích các cán bộ tiếp tục học thêm cao học. Qua đó các các bộ sẻ góp sức nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Đối với nhưng cán bộ tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức nhưng mất đi tư cách đạo đức thì sẻ làm ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng, do vậy các cán bộ tín dụng không những có hoc thức mà con cần phai có đạo đức tốt như vậy mới nâng cao được chất lượng tín dụng và đặc biệt là tín dung ngắn hạn. 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn ngắn hạn Nền kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng. Xu hướng cho vay chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tài chính – tiền tệ cung ứng. Với hình thức cho vay ngắn hạn hiện nay người ta gọi là “ tín dụng ứng trước” nghĩa là vốn vay đưa ra lưu thông không tương xứng với một lượng hàng hoá nào, việc luân chuyển vốn tách rời việc luân chuyển vật tư hàng hoá. Tuy nhiên phương pháp này đã gặp phải một số hạn chế sau: Rủi ro tập trung vào một khách hàng, hàng hoá luân chuyển chưa tương xứng với sự luân chuyển vốn tín dụng. Để khắc phục tình trạng này NHNT nên mở rộng hình thức cung ứng vốn bằng hình thức chiết khấu thương phiếu. Hình thức này cho phép mở rộng việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau, sự tham gia của ngân hàng thúc đẩy lưu chuyển hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Không những thế nó còn được coi là một nghiệp vụ ít rủi ro, vì chiết khấu là một hợp đồng được phép truy đòi, vì vậy khi ngân hàng không thu được nợ của người phát hành chứng từ đó thì có thể đòi ở những người liên đới trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần thiết, các tổ chức tín dụng có thể tái chiết khấu tại NHNN khi chứng từ có giá đến hạn thanh toán. Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng: do thời hạn ngắn lại có thể chiết khấu trong trường hợp cần thiết nên khoản vốn của ngân hàng nhanh chóng được giải phóng, nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác trong ngắn hạn cũng giúp cho ngân hàng dự đoán được sự phát triển của nền kinh tế khi quyết định có chiết khấu hay không. Tạm ứng vốn trong nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo ra tiền gửi - nguồn vốncủa ngân hàng: khi thực hiện chiết khấu, số tiền cấp cho khách hàng được chuyển sang tài khoản tiền gửi. Số tiền này có thể chưa được sử dụng toàn bộ, như vậy đã tạo ra nguồn vốn trong ngân hàng, đồng thời ngân hàng cũng được hưởng toàn bộ tiền lãi thu trên số tiền ứng cho khách hàng. Hiện nay hoạt động này rất nhỏ bé tại NHNT. Với những ưu điểm đã nói trên, rõ ràng chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng có lợi cho NHNT. Mở rộng và nâng cao hiệu quả làm việc của phương pháp này sẽ nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHNT 3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án Thẩm định tài chính là một trong các nguyên nhân lớn nhất làm hạn chế chất lượng tín dụng cụ thể là tín dụng ngắn hạn, Thẩm định dự án là kiểm tra khách hàng và thẩm tra các dự án xin vay trên nhiều tiêu chí, từ đó mới là cơ sở đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay, cho vay như thế nào. Thông tin chính là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hành các bước phân tích, đánh giá một dự án. Thông tin đầy đủ, nhiều khía cạnh với độ tin cậy là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết quả thẩm định đạt hiệu quả cao. Qui trình thẩm định dự án bao gồm 2 giai đoạn: thu thập tài liệu, thôn tin cần thiết cho phân tích, đánh giá chủ đầu tư và dự án, tiến hành sắp xếp thông tin và sử dụng các phương pháp để xử lý một cách có hệ thống thông tin theo các nội dung thẩm định. Hai công đoạn này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và trên thực tế chúng thường xuyên đem lại kết quả thông tin không cân xứng, phiến diện, không đảm bảo độ tin cậy. Việc hoàn thiện hệ thống thông tin đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa ngân hàng và các ngành có liên quan. Ngân hàng Nhà Nước với chức năng là Ngân hàng của các ngân hàng phải tạo được một hệ thống thông tin phong phú, đầy đủ chính xác để cung cấp cho các ngân hàng và ngược lại, các Ngân hàng thương mại phải cung cấp cho ngân hàng nhà nước những thông tin mới nhất về khách hàng của mình để ngân hàng nhà nước tổng hợp, sử dụng phục vụ chế độ thông tin báo cáo và giúp các ngân hàng thương mại những thông tin khi cần thiết. Ngân hàng Ngoại thương HN cần phải nâng cao chất lượng và số lượng thông tin phục vụ công tác thẩm định bằng cách hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, tạo ra nguồn tin xuyên suốt trong toàn hệ thống ngân hàng. Xây dựng trang web cung cấp thông tin tín dụng điện tự trực tuyến như: Thông tin kinh tế thị trường, pháp luật, thông tin hoạt động tín dụng của khách hàng… Hình thành kho dữ liệu vè chủng loại hàng hoá, khách hàng để phản ánh đúng thực trạng của các ngân hàng, khách hàng và những chính sách phát triển trong tương lai. Ngoài ra, thu thập thông tin về các công ty, doanh nghi bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản và các cá nhân lãnh đạo các công ty bị phá sản để có các phương án cho vay đạt hiệu quả. Trong quá trình thu thập và tổng hợp thông tin, cán bộ thẩm định cần kết hợp điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng với việc xác định độ tin cậy của báo cáo tài chính, khai thác từ các ngân hàng có quan hệ giao dịch với khách hàng, từ các doanh nhgiệp cung cấp và tiêu thụ, từ các công ty kiểm toán, từ trung tâm thông tin tín dụng (CIS) của Ngân hàng nhà nước hoặc từ trung tâm công nghệ thông tin Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Ngân hàng cần phân tích và dự báo chính xác xu hướng diễn biến về thị trường trong nước của các dự án lớn chuẩn bị đầu tư. Trong phần thẩm định kỹ thuật-công nghệ dự án, cán bộ thẩm định thường dựa vào các số liệu của dự án để đánh giá, làm cho nhiề dự án không phản ánh đúng hiệu quả thực. Vì thế, ngoài việc tăng cường cán bộ am hiểu về kỹ thuật, công nghệ, các dự án quy mô lớn, phức tạp nên có sự phối hợp thẩm định của các chuyên gia về thẩm định tổng chi phí đàu tư và cơ cấu nguồn vốn: Ngân hàng không nên chỉ dựa vào hồ sơ mà chủ dự án đã đÖ trình hoặc căn cứ hoàn toàn vào kết quả dự án phê duyệt của các cơ quan nhà nước. Cần xem xét các dự án trong lĩnh vực tương tự đã và đang đi vào hoạt động để kết hợp thông tin lại từ đó phân tích, đánh giá hợp lý hơn. Trong tính toán doanh thu, chi phí, luồng tiền dự án để tránh một ssố cán bộ thẩm định không đánh giá đúng hiệu quả dự án do tính toán giá bán sản phẩm, giá nguyên vật liệu… cố định trong suốt dự án. Ngân hàng cÇn quan tâm tới những yếu tố thường xuyên biến động và có ảnh hưởng lớn đến doanh thu, chi phí của dự án như lạm phát, tỷ giá, biến động thị trường. Cần kiểm tra lại các số liệu để xác định mức độ tin cậy của nó, xem xét qui mô đầu tư và giải pháp đầu tư vì có nhiều dự án không thể triển khai được do người lập dự án lựa chọn các giải pháp hiện đại, qui mô lớn mà không cần biết đến khả năng tài chính đầu tư dự án. Việc đánh giá hiệu quả tài chính, ngân hàng phải tìm ra được những hạn chế của chỉ tiêu thẩm định cũ, áp dụng các phương pháp mới hiện đại có nhiều lợi thế hơn để có thể chuẩn hoá được các chỉ tiêu thẩm định, hoàn chỉnh quy chế quy trình thẩm định. Đặc biệt là đối với cán bộ ngân hàng phải tuân thủ nghiêm túc các chính sách đã được xây dựng và thực hiện đồng bộ thống nhất những chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả dự án. Một dự án có thể có nhiều nhà tài trợ là các chủ đầu tư (những người cùng góp vốn, chia sẻ lợi nhuận và rủi ro) và những nhà cho vay (cung cấp vốn với cam kết hoàn trả đầy đủ vốn gốc và lãi, không chia sẻ rủi ro). Do đó dòng tiền của dự án được tạo ra từ tổng vốn đầu tư bao gồm cả phần vốn chủ sở hữu và phần vốn vay nên lãi suất chiết khấu là chi phí trung bình của vốn. Tuy nhiên, trong thực tế việc xác định chi phí vốn chủ sở hữu không hề đơn giản khi thị trường vốn (thị trường chứng khoán) còn phát triển ở mức thấp. Khi cổ phiếu không được niêm yết, hoặc có được niêm yết nhưng do thị trường chưa phát triển nên giá cổ phiếu không được xác định trên cơ sở cung-cầu, rất khó thiết lập được mức giá của cổ phiếu tương ứng với mức chi phí cơ hội lạm phát và rủi ro mà nhà đầu tư phải chấp nhận khi mua cổ phiếu. Do vậy để đơn giản và dễ sử dụng có thể dùng chính chi phí vốn vay (lãi vay) trước thuế làm lãi suất chiết khấu. Việc xác định được mức lãi suất chiết khấu hợp lý sẽ có vai trò rất quan trọng giúp khắc phục nhược điểm của chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV). Cán bộ thẩm định cần hết sức thận trọng với những thay đổi trên thị trường vì có thể ngân hàng sẽ áp dụng mức lãi suất thả nổi để phản ánh các điều kiện kinh tế. 3.3.4 Đảm bảo thực hiện tốt quy trình cho vay Tuy nhiên, các cán bộ tín dụng cũng phải rất linh hoạt trong việc áp dụng quy trình này vào từng trường hợp cụ thể. Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng lâu dài với Ngân hàng, thì các bước dẫn hồ sơ, thủ tục là không cần thiết, bước thu thập, điều tra thông tin có thể giảm nhẹ do kế thừa thông tin có sẵn, cán bộ tín dụng cần thiết phải thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng các bước trong quy trình, để đảm bảo rằng khách hàng hiểu rõ và thực hiện được các yêu cầu của Ngân hàng. Trong cho vay ngắn hạn, thời gian và thời cơ là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp xin vay mà còn đối với Ngân hàng cho vay. Do đó, áp dụng một quy trình linh hoạt, vừa đảm bảo các quy định, vừa giảm nhẹ các thủ tục, giảm bớt thời gian cần thiết. Thực hiện tốt quy trình cho vay đòi hỏi cán bộ Ngân hàng phải thực hiện tốt ngay ở từng bước của quy trình, vì bước sau có tính kế tiếp bước trước. Do đó, tuân thủ quy trình chặt chẽ mà lại rất linh hoạt là điều kiện quan trọng để có được quyết định cho vay đúng đắn, tạo điều kiện hết sức cho khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn, sinh lợi cho Ngân hàng. Chất lượng tín dụng nhờ đó được nâng cao. 3.3.5.Đa dạng hoá các hoạt động cho vay và dịch vụ hỗ trợ cho vay Theo sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng phức tạp và đa dạng. Để hoạt động tín dụng có hiệu quả, thì cần thiết phải đáp ứng được trước hết là nhu cầu đó. để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, trước hết phải đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của tín dụng ngắn hạn. Do đó, đa dạng hoá phương thức cho vay là điều kiện cần đạt được chất lượng cho vay. Bên cạnh hai phương thức cho vay ngắn hạn chủ yếu tại Chi nhánh, cần phát triển thêm các phương thức khác. Một trong những phương thức Chi nhánh có thể áp dụng là cho vay luân chuyển. Tại chi nhánh, một bộ phận lớn khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, công nghiệp chế biến. Đối với những khách hàng này. Chi nhánh hiện vẫn đang phát triển 2 phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Tuy nhiên, đối với khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên với Chi nhánh thì phương thức cho vay từng lần tỏ ra tốn kém về thời gian và chi phí cho khách hàng, không nên áp dụng. Phương thức cho vay theo hạn mức hịên đang được áp dụng tỏ ra phù hợp hơn. Nhưng việc kiểm soát khoản vay trong trường hợp này là khó khăn đối với Ngân hàng. Các khoản vay theo hạn mức tín dụng không tách biệt, Ngân hàng khó kiểm soát chi tiết từng khoản vay, cho nên dẫn đến rủi ro tín dụng. Trong khi đó, cho vay theo phương thức luân chuyển đòi hỏi người vay phải xuất trình các chứng từ hợp pháp, hợp lệ về hàng hóa đã nhập thì mới xuất khoản vay. Việc cho vay căn cứ vào số lượng giá trị hàng hoá thực nhập như vậy không chỉ hỗ trợ vốn kịp thời cho khách hàng, không tốn kém nhiều thời gian và chi phí ( cùng có những ưu điểm của cho vay theo hạn mức) mà còn định hướng cho số tiền vay của Ngân hàng được sử dụng đúng mục đích Một phương thức cho vay có hiệu quả khác là cho vay ứng trước căn cứ vào giá trị của giấy tờ có giá. đây thực chất là chiết khấu chứng từ có giá( chủ yếu là thương phiếu). Đối với Ngân hàng, đây là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn ít rủi ro, vì Ngân hàng luôn nắm trái quền đòi nợ chính ở các giấy tờ có giá. Nếu trường hợp Ngân hàng không thu hồi được nợ của người phát hành, thì có thể truy đòi ở những người liên đới hoặc có thể đem tái chiết khấu tại NHNN khi chứng từ đến hạn thanh toán. Một ưu điểm nữa của phương thức chiết khấu là chứng từ được chiết khấu thường có tính thanh khoản cao, thậm chí gần như tiền mặt. Với thời hạn ngắn, an toàn cao, đây là một phương thức cho vay ngắn hạn tốt Ngoài ra, khi chiết khấu chứng từ có giá, các doanh nghiệp thường ghi tăng tài khoản tiền gửi của mình tại Ngân hàng để thực hiện thanh toán. Số tiền này có thể chưa được sử dụng toàn bô, và như vậy nguồn vốn của Ngân hàng lại tăng lên. Ngân hàng được hưởng toàn bộ số lãi trên số tiền đó. Hiện nay, Chi nhánh đã có thực hiện chiết khấu giấy tờ có giá, song còn rất hạn chế. Với những ưu điểm trên, cho vay luân chuyển và cho vay ứng trước là phương thức cho vay ngắn hạn hiệu quả. Phát triển các phương thức này sẽ giúp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn ở Chi nhánh. 3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát và quản lý các khoản cho vay Quản lý tín dụng là công tác quan trọng trong quy trình cho vay. Quản lý tín dụng tốt là điều kiện đủ để có các khoản tín dụng tốt an toàn. Đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng tín dụng. Công tác này gồm quản lý, kiểm soát khoản vay; xử lý những phát sinh và thu hồi nợ. Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn của đơn vị. Cán bộ tín dụng cần phải theo dõi tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Ơ nước ta hiện nay, việc cung cấp các thông tin về kế toán tài chính từ phía khác hàng còn rất hạn chế, không đầy đủ, cập nhật,và thậm chí không hoàn toàn tin tưởng thì việc theo dõi kiểm soát khách hàng không chỉ thực hiện qua việc xem xét các báo cáo tài chính là đủ mà phải trực tiếp nhanh nhạy bám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Cán bộ tín dụng cần có những đợt kiểm tra định kỳ đến cơ sở và cả những đợt kiểm tra bất kỳ. Trong mỗi đợt kiểm tra cán bộ cần tận dụng triệt để thời gian tiếp xúc ở đơn vị đảm bảo xem xét tất cả các yếu tố liên quan đến đặc tính của khoản cho vay . Cán bộ tín dụng cần : - Đánh giá tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với vốn vay Ngân hàng thông qua trách nhiệm gặp gỡ trao đổi với cán bộ tín dụng về những vấn đề liên quan đến khoản vay và khả năng nghĩa vụ hoàn trả nợ. - đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán (khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán hiện hành) để đảm bảo khách hàng có thể thực hiện được lịch trả nợ. - Đánh giá lại dự án vay vốn trong thực tế, so sánh, xem xét sự khác biệt giữa dự án và thực tế ở các chỉ tiêu như quy mô, doanh thu, lợi nhuận, hiệu suất sử dụng tài sản , sức cạnh tranh của sản phẩm. Qua đó tìm hiểu xu hướng phát triển để có những nhận định đúng về dự án về khoản vay về những rủi ro tiềm ẩn, đặt cơ sở để xử lý các phát sinh nếu có sau này. - Đánh giá lại tài sản đảm bảo về giá trị và tình trạng, xem xét giá trị đó có còn đáp ứng được các tỷ lệ yêu cầu so với giá trị khoản vay hay không. Ngân hàng luôn cần có sự diều chỉnh kịp thời trong việc cung ứng vốn vay cho tương ứng với tài sản đảm bảo, hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải bổ xung tài sản đảm bảo. - Ngân hàng cũng cần theo dõi quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản đảm bảo để chắc chắn về một nguồn thu hồi nợ khi khách hàng không trả hoặc không trả được nợ. - Đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính cùa doanh nghiệp , cơ cấu vốn, tình hình phân chia lợi nhuận trong doanh nghiệp. Nếu có sự thay đổi bất thường về cơ cấu vốn tăng nợ bất thường...... thì đó là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động không tốt. - Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp thường không tách bạch tiền cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiền để chi tiêu gia đình. Do đó cán bộ tín dụng cần phải khéo léo tìm hiểu việc sử dụng vốn vay của khách hàng , việc quản lý tài chính của bản thân người vay, từ đó đánh gía được khả năng sử dụng vốn có hiệu quả hay không của họ. 3.4 Kiến nghị Để nâng cao chất lượng tín dụng Chi nhánh cần phải nâng cao công tác kiểm tra kiểm soát. Là một hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Công tác này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, trong đó có tín dụng Ngắn hạn. Việc kiểm tra, kiểm soát ở đây không chỉ đơn thuần là kiểm tra theo các số liệu chỉ tiêu như hiện nay mà quan trọng hơn, là kiểm tra tính tuân thủ quy chế, quy định, quy trình cho vay của các cán bộ tín dụng, đảm bảo họ làm việc theo đúng pháp luật, trên cơ sở lợi ích của Ngân hàng kết hợp với lợi ích Khách hàng. Việc kiểm tra này, cần được coi là hoạt động tự giác, khách quan, việc kiểm tra kiểm soát mới thực sự có ý nghĩa điều chỉnh kịp thời hoạt động của Ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng Ngắn hạn Là một chi nhánh trực thuộc hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nằm trong hệ thống Ngân hàng của nền kinh tế, thì hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hệ thống này. Chất lượng tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố liên quan trực tiếp đến cấp chi nhánh, trực tiếp thuộc Chi nhánh, mà còn có chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác liên quan đến cấp hệ thống. Để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh trên góc độ Chi nhánh, chuyên đề xin đưa ra một số kiến nghị như sau: 3.4.1 Đối với Nhà Nước _ Chính phủ cần tao lập môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ để người vay và người cho vay thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mìNgân hàng. _ Chính phủ cần ổn định kinh tế vĩ mô, vì đây là môi trường chung của mọi hoạt động kinh tế, của bản thân Ngân hàng cũng như khách hàng vay vốn. _ Chính phủ tiếp tục ban hành và hoàn thiện Luật kế toán và Luật Kiểm toán nhà nước để có chuẩn mực trong công tác kế toán, kiểm toán. Đối với các NHTM, đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng thông tin tín dụng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. _ Chính phủ cần có biện pháp giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng trong cho vay theo Chỉ đinh của Chính phủ, đẩy mạnh tiền trình cơ cấu lại nợ để lành mạnh hoá tình hình tài chính. Hiện nay, các NHTM chưa đạt được tỷ lệ an toàn COOK là do có vốn chủ sở hữu quá nhỏ. Vơi mức vốn chủ sở hữu nhỏ như vậy, việc mở rộng hoạt động là khó khăn và đi kèm nhiều rủi ro. Do vậy, Chính phủ cần nghiên cứu đề án bổ sung cho cac NHTM, hoặc cho phép các NHTM phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. 3.4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước Cho đến nay đặc trưng cơ bản của hệ thống giám sát hoạt động tín dụng của NHNN vẫn chủ yếu là dựa trên sự tuân thủ các luật lệ đã được đặt ra, tức là _ NHNN cần hướng dẫn việc thực hiện các Nghị quyết của NHNN, nghị định của Chính Phủ liên quan đến các NHTM một cách cụ thể, kịp thời. NHNN cũng có thể tổ chức thường xuyên các khoá tập huấn cần thiết dành cho cán bộ các NHTM. _ NHNN cần nghiên cứu, cải tiến thủ tục để các NHTM chủ động hơn trong hoạt động, chẳng hạn trong việc quyết định mức thu các loại phí dịch vụ, chủ động trong tổ chức cơ cấu, bổ nhiệm cán bộ sao cho phù hợp với thực tiễn ở mỗi Ngân hàng. _ Cho phép NHTM xây dựng các chính sách lương, thưởng để khuyến khích cán bộ tín dụng làm tốt, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh. _ Cùng hệ thống NHTM, NHNN cần đầy mạnh tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu biết đúng đắn về hoạt động Ngân hàng, ngày càng chủ động tích cực tiếp cận NHTM. Hiểu biết đúng đắn của người dân là điều kiện cần thiết để Ngân hàng có môi trường thuận lợi cho phát triển. 3.4.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam _ Về quy trình cho vay, mặc dù đã ban hành Quy định tín dụng đối với khách hàng trọng hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, song cần ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa về thực hiện quy trình cho vay. Một số quy định cụ thể về quy trình áp dụng cho từng loại tín dụng ngắn hạn nhìn chung còn chưa đầy đủ. Căn cứ vào quy trình mà NHNN đặt ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần có hướng dẫn chi tiết để giúp cán bộ tín dụng nắm bắt và thực hiện được đúng công việc đảm bảo chất lựơng công việc. _ Về đảm bảo tiền vay, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã ban hành công văn hướng dẫn bổ sung thực hiện đảm bảo tiền vay, trong đó, có quy định các nội dung cần thực hiện. Tuy nhiên, cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn nữa, nhất là sự hỗ trợ về chuyên môn để thành lập Tổ thẩm định tài sản đảm bảo tại Chi nhánh. Hiện nay, đây vẫn còn là một vấn đề chưa giải quyết được ở Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. _ Về nhân sự, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần thực hiện tốt hơn nữa chính sách về nhân sự: tuyển chọn, đào tạo cán bộ, khen thưởng, kịp thời, rõ ràng. Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam cần tiếp tục thường xuyên có chính sách đào tạo cán bộ qua các lớp tập huấn cấp Hệ thống, gửi cán bộ đi đào tạo chuyên sâu, nghiên cứu các nghiệp vụ mới, công nghệ Ngân hàng hiện đại trên thế giới để tìm cách áp dụng vào Ngân hàng. Tuyển chọn nhân sự ngày càng trở nên quan trọng. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải có chính sách tuyển chọn đúng đắn để từng bước nâng cao trình độ đội ngũ đưa Ngân hàng vươn đến tầm cao của các hoạt động và dịch vụ chuyên nghiệp, hoàn hảo. _Về chương trình hiện đại hoá Ngân hàng, đây là chương trình mà Ngân hàng chủ động triển khai tích cực từ trước đến nay, đã đưa lại những kết quả nhất định. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ hơn, nhanh chóng áp dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động của mình, đồng thời, luôn tích cực cập nhật, học hỏi công nghệ mới, tạo điều kiện áp dụng nhanh chóng các công nghệ này ở các Ngân hàng chi nhánh. _Về phát triển hợp tác quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế để khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế, từng bước tiến gần đến các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động. _Về hình ảnh và văn hoá doanh nghiệp, Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam đã rất chủ động, tích cực, trong việc xây dựng thương hiệu: “An toàn, chất lượng, hiệu quả, tăng trưởng bền vững”. Việc cũng cố, làm tôn vinh thương hiệu này không chỉ trong tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và hệ thống các chi nhánh nói riêng. KẾT LUẬN Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đứng trước các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với phương châm phát huy tối đa nguồn nội lực, tín dụng Ngân hàng trong đó tín dụng ngắn hạn luôn là giải pháp quan trọng trong Ngân hàng Ngoại thương. Để thực hiện ngày một hiệu qủa chức năng vốn có của mình, các Ngân hàng nhận thấy rằng, bên cạnh mở rộng tín dụng nền kinh tế, cần phải cho chất lượng tín dụng là yếu tố quan trọng, thậm trí là yếu tố quan trọng nhất khi thực hiện cho vay. Vì thế nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn luôn là nội dụng quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển của các Ngân hàng, của chi nhánh Ngân Ngoại thương Hà Nội và cũng là định hướng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Để thực hiện được chiến lược này, đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều điều kiện, từ phía Ngân hàng, khách hàng và môi trường kinh tế. Chuyên đề đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngắn hạn và chất lượng tín dụng, phân tích thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương hà Nội trong năm qua để từ đó dưới góc độ nhà quản trị Ngân hàng đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM. Vì điểm nghiên cứu chỉ giới hạn trong một chi nhánh Ngân hàng và với quy mô nghiên cứu của một chuyên đề tốt nghiệp, nên các giải pháp đưa ra mới chỉ mang tính đề xuất. Em hi vọng rằng phần nghiên cứu trên phần nào có ý nghĩa đối với chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng như các NHTM nói chung. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS Phan Thị Hạnh cùng với các anh chị tại phòng tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã hướng dẫn tận tình chỉ bảo em trong quá trình thực tập cũng như thực hiện chuyên đề này. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Quản trị Ngân hàng thương mại 2. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính 3. Giao trình Ngân hàng thương mại 4. Trang web của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 5. Thông tin tín dụng tại phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngânhàng NHTMCP Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội.DOC
Luận văn liên quan