MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHNo&PTNT HÀ TĨNH 3
1. Giới thiệu NHNo&PTNT Hà Tĩnh 3
2. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Tĩnh 3
2.1. Khi mới thành lập 3
2.2. Giai đoạn 1991 – 1996 4
2.3. Giai đoạn 1997 – 2002 6
2.4. Giai đoạn 2002 đến nay 8
3. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng 10
3.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Giám đốc 10
3.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các Phó Giám đốc 11
3.3. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng phòng 11
3.3.1. Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo 11
3.3.2. Phòng Kế hoạch – Kinh doanh 12
3.3.3. Phòng Kinh doanh ngoại hối 12
3.3.4. Phòng Kế toán ngân quỹ 13
3.3.5. Phòng Kiểm tra, kiểm soát nội bộ 13
3.3.6. Phòng Hành chính – nhân sự 14
3.3.7. Phòng Điện toán 14
3.3.8. Phòng Dịch vụ và Marketing 15
4. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tĩnh 15
4.1. Hoạt động huy động và sử dụng vốn 15
4.1.1. Về hoạt động huy động vốn 15
4.1.2. Về hoạt động cho vay và đầu tư 19
4.2. Các hoạt động khác 21
4.2.1. Các dịch vụ của Ngân hàng 21
4.2.2. Công tác kế toán ngân quỹ 21
4.2.3. Công tác kiểm tra, kiểm soát 22
4.3. Kết quả và hiệu quả các hoạt động kinh doanh 22
5. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay hộ sản xuất 24
5.1. Cạnh tranh trên thị trường Ngân hàng 24
5.2. Đặc điểm nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, sản xuất nhỏ lẻ 24
5.3. Các chính sách về cho vay hộ sản xuất 25
5.4. Đặc điểm tổ chức của NHNo&PTNT Hà Tĩnh 27
5.5. Chất lượng nhân lực, đặc biệt là cán bộ tín dụng 29
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT Ở NHNo&PTNT HÀ TĨNH 31
1. Kết quả cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất của NHNo&PTNT Hà Tĩnh 31
1.1. Giai đoạn 1991 – 1998 32
1.2. Giai đoạn 1999 – 2004 33
1.3. Giai đoạn 2005 – 2008 36
2. Phân tích, đánh giá các giải pháp mà NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã thực hiện trong công tác cho vay hộ sản xuất 45
2.1. Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các cấp uỷ, chính quyền địa phương và đoàn thể 45
2.2. Tổ chức điều tra, khảo sát thị trường: 46
2.3. Tích cực chủ động tham gia các chương trình của địa phương có liên quan 46
2.4. Thành lập mạng lưới tổ vay vốn 47
2.5. Thực hiện công tác cán bộ 48
2.6. Thường xuyên có sự phối kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với Hội Nông dân và Hội Phụ nữ 49
2.6.1. Sự kết hợp giữa Hội Nông dân với NHNo&PTNT Hà Tĩnh 49
2.6.2. Sự kết hợp giữa Hội Phụ nữ và NHNo&PTNT Hà Tĩnh 50
3. Ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân 52
3.1. Ưu điểm 52
3.1.1. Cho vay kinh tế hộ góp phần giúp người dân mở rộng sản xuất 52
3.1.2. Cho vay kinh tế hộ góp phần vào sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo 53
3.1.3. Cho vay hộ đã tạo nên mối gắn kết giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với các tổ chức Hội, giúp hoạt động của tổ chức Hội thêm phong phú và hữu ích 54
3.1.4. Do tác động cho vay hộ sản xuất đã buộc NHNo&PTNT Hà Tĩnh phải nâng cao chiến lược cho vay hộ để mở rộng hoạt động, phục vụ và đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. 55
3.1.5. Cho vay hộ đã phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp và nông thôn 55
3.1.6. Tiềm lực kinh tế và khả năng sản xuất của kinh tế hộ không ngừng được nâng cao 57
3.2. Nhược điểm 57
3.2.1. Định kỳ trả nợ vẫn còn cứng nhắc 57
3.2.2. Vốn tín dụng còn mang tính dàn trải đều trên diện rộng 58
3.2.3. Công tác thu hồi nợ chưa đạt hiệu quả cao. Rủi ro trong vốn tín dụng cho vay hộ sản xuất vẫn luôn tiềm ẩn 58
3.2.4. Công tác kiện toàn tổ trưởng tổ vay vốn vẫn còn nhiều vấn đề 59
3.3. Nguyên nhân của các nhược điểm 59
3.3.1.Công tác cán bộ còn nhiều bất cập 59
3.3.2. Thủ tục vay vốn còn rườm rà và cứng nhắc 60
3.3.3. Sự phối kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với các cấp chính quyền địa phương chưa thật chặt chẽ 62
3.3.4. Công tác thẩm định dự án cho vay chưa tốt 62
CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA NHNo&PTNT HÀ TĨNH VỀ VIỆC CHO VAY HỘ SẢN XUẤT 64
1. Định hướng của NHNo&PTNT Hà Tĩnh về việc cho vay hộ sản xuất 64
2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất 67
2.1. Tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng 67
2.2. Tuyên truyền, đổi mới hình thức huy động vốn 68
2.3. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm 72
2.4. Phải có sư ràng buộc và kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh và các cấp chính quyền 73
2.5. Mở rộng đầu tư tín dụng có trọng điểm 74
2.6. Đổi mới và đơn giản thủ tục vay vốn 74
2.7. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho các tổ vay vốn 75
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
86 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2799 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rực tiếp từ khách hàng.
Tính từ năm 2005 đến năm 2008, Ngân hàng đã tiến hành xử lý chuyển công tác khác có mức lương thấp hơn đối với 1 cán bộ, cảnh cáo 1 người, hạ loại lao động đối với 38 người.
2.6. Thường xuyên có sự phối kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với Hội Nông dân và Hội Phụ nữ
2.6.1. Sự kết hợp giữa Hội Nông dân với NHNo&PTNT Hà Tĩnh
Nhằm triển khai có hiệu quả Quyết định 67 của Chinh phủ về “một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, ngày 9 tháng 10 năm 1999, Trung ương Hội nông dân Việt Nam và NHNo&PTNT ký kết nghị quyết liên tịch số 2308/NQLT/1999 về “tổ chức thực hiện chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn”. Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết này, NHNo&PTNT Hà Tĩnh và Hội nông dân Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn mới.
Hội Nông dân luôn quan tâm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ hội cơ sở và Ban chấp hành Hội gắn với chỉ đạo thực hiện 3 phong trào, 5 chương trình hoạt động của Hội và các hoạt động hỗ trợ nông dân. Nhờ đó, hộ nông dân được vay vốn Ngân hàng thuận lợi hơn, thủ tục đơn giản, giảm bớt được thời gian, SXKD được mở rộng, ngành nghề phát triển, tiến bộ Khoa học kỹ thuật được áp dụng, giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, đời sống nông dân được cải thiện. Người nông dân từng bước nhận thức và tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đã loại bỏ dần tập quán làm ăn cũ, nâng cao được tính cộng đồng, tình làng nghĩa xóm được thắt chặt, xoá bỏ được tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.
Riêng năm 2008, Hội đã phối hợp với NHNo&PTNT Hà Tĩnh giải quyết cho 197.625 lượt hộ nông dân vay vốn với số tiền 1.643.250 triệu đồng, tăng so với cùng kỳ năm trước 264.000 triệu đồng. Doanh số thu nợ đạt 1.338.855 triệu đồng, tăng so với năm 2007 là 310.500 triệu đồng. Trong đó, thu nợ tồn đọng 10.770 triệu đồng, đạt 89%.
Đến cuối năm 2008, thông qua Hội Nông dân, đã có 105.900 lượt hộ được vay vốn với số tiền lên tới 844.530 triệu đồng, đạt 97% kế hoach đặt ra từ đầu năm.
Với việc thực hiện nghị quyết liên tịch 2308, tổ chức Hội được củng cố, tạo điều kiện tập hợp lực lượng nông dân vào Hội, nâng cao vai trò, uy tín, trình độ quản lý kinh tế của cán bộ Hội các cấp.
Thông qua viêc vay vốn của NHNo&PTNT, gắn với việc tuyên truyền chính sách tín dụng, công tác khuyến nông, khuyến lâm, làm cho trình độ thâm canh của bà con nông dân được nâng cao.
2.6.2. Sự kết hợp giữa Hội Phụ nữ và NHNo&PTNT Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là một tỉnh còn nhiều khó khăn, số hộ gia đình phụ nữ nghèo còn khá cao, đặc biệt là phụ nữ vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Tình trạng thiếu vốn, thiếu việc làm, thiếu điều kiện sinh hoạt còn khá phổ biến, phụ nữ được tiếp cận với các nguồn vốn chưa được là bao. Thấy rõ được những khó khăn của tỉnh nhà, của các gia đình hội viên phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ Tỉnh đã xây dựng nhiều kế hoạch, phối hợp với các ban ngành chức năng phát động phong trào “phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, và hưởng ứng chương trình xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm một cách có hiệu quả, góp phần thực hiện thành công nghị quyết của HĐND và các nghị quyết của Đảng bộ đề ra.
Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết Liên tịch số 02 ngày 5 tháng 10 năm 2000 giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và NHNo&PTNT “về việc tổ chức thực hiện cho vay vốn đối với phu nữ” thì sự phối kết hợp lồng ghép giữa hai ngành ngày càng được mở rộng thêm cả về số lượng, chất lượng và chặt chẽ hơn trong việc tổ chức điều hành, quản lý và thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo. Hội Liên hiệp phụ nữ Tỉnh đã:
- Thống nhất cùng với Ngân hàng ký hợp đồng tín chấp, lập kế hoạch đề ra quy chế hoạt động, quy định trách nhiệm của mỗi bên từ tỉnh đến cơ sở.
- Phân công cán bộ phụ trách theo mảng – vùng - cụm kiểm tra giám sát đến tận hộ.
- Kết hợp với cán bộ thôn xóm phân loại đối tượng thành viên theo cụm dân cư, hoàn cảnh của từng gia đình để có biện pháp giúp đỡ cụ thể.
- Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc tại tổ, nhóm và huyện, xã để phát hiện những thiếu sót, khó khăn nhằm giải quyết kịp thời tại cơ sở.
- Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi qua lại với NHNo&PTNT Hà Tĩnh nhằm giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện.
- Tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, hỗ trợ của chính quyền và phối hợp chặt chẽ với các ban ngành chức năng.
- Hàng quý, 6 tháng, một năm Hội Phu nữ và Ngân hàng tổ chức cuộc họp sơ, tổng kết rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và có biểu dương, khen thưởng những đơn vị thực hiện tốt cũng như phê bình, kiểm điểm những đơn vị làm chưa tốt.
Đội ngũ cán bộ Hội và cán bộ Ngân hàng đã quen dần với cơ chế mới, khá thành thạo trong việc tổ chức, điều hành,quản lý. Quần chúng hội viên ngày càng gắn bó với tổ chức hội, phong trào Hội ngày càng được tiếp tục củng cố và phát triển. Đến nay, đã có trên 90% gia đình phụ nữ được vay vốn qua kênh của Hội phụ nữ. Cũng từ hoạt động này đã khơi dậy sức sáng tạo và truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tạo nên một phong trào rộng lớn trong tầng lớp phụ nữ về tình đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh.
Thông qua Hội Phụ nữ, đã có 956 tổ vay vốn được thành lập và hoạt động có hiệu quả, 146.910 hộ vay vốn với số tiền dư nợ 1.070 tỷ đồng
Nhờ những hoạt động thiết thực giữa Ngân hàng và Hội Phụ nữ đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động; nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chăn nuôi, cải tạo vườn đồi và tạo điều kiện cho một số phụ nữ nghèo mở được quầy buôn bán, tăng thu nhập, nâng cao đời sống…
3. Ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân
3.1. Ưu điểm
3.1.1. Cho vay kinh tế hộ góp phần giúp người dân mở rộng sản xuất
- Chủ trương cho vay hộ sản xuất đã từng bước phá bỏ cơ chế bao cấp, giúp người nông dân chủ động mở rộng sản xuất thâm canh, chuyển đổi cây trồng vật nuôi, mở rộng ngành nghề …
- Cho vay hộ sản xuất bước đầu đã góp phần mở rộng sản xuất, tận dụng lao động trong nông nghiệp, thay đổi cơ cấu đầu tư làm cho nông thôn phát triển toàn diện, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Từ cho vay hộ sản xuất trong sản xuất nông nghiệp đã mở rộng sản xuất đa ngành, đa nghề trong một hộ, từ sản xuất giản đơn sang sản xuất hàng hoá như sản xuất chế biến, chăn nuôi dịch vụ, từ cho vay một vụ đến cho vay liên vụ, từ cho vay ngắn hạn sang cho vay theo dự án trung và dài hạn. Việc cho vay hộ đã làm cho nông thôn trở nên sôi động trong việc thi đua thực hiện các chủ trương của Nhà nước; đã khai thác tiềm năng lao động, đất đai, nguồn vốn trong dân cư, tạo nên một sức mạnh vật chất to lớn, góp phần thực hiện sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đại hội VIII đã đề ra.
3.1.2. Cho vay kinh tế hộ góp phần vào sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo
Nhờ có vốn vay ưu đãi của NHNo&PTNT Hà Tĩnh, đã giúp cho 10850 hộ vượt ngưỡng đói nghèo (theo chuẩn mực hộ nghèo tại quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 8 – 5 – 2005 của Thủ tường Chính phủ về về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 đã quy định hộ nghèo là hộ cò thu nhập từ 200 ngàn đồng/người/tháng trở xuống đối với nông thôn và dưới 260 ngàn đồng/người/tháng đối với thành thị). Một số điển hình tốt ở các địa phương có thể kể đến như sau:
+ Chị Hoá ở xã Hương Đô, Hương Khê, nhờ được vay vốn của NHNo&PTNT 120 triệu đồng, đã xây dựng trang trại diện tích 35 ha để trồng nhiều loại cây ăn quả như: cam, bưởi, chanh, cây gió trầm…kết hợp với nuôi 40 tổ ong, thu nhập bình quân hằng năm từ 50 đến 70 triệu đồng. Nhờ đó, chị không chỉ thoát nghèo, mà còn có thu nhập khá, có điều kiện cho con đi học đại học, và hiện nay là một trong những hộ giàu của xã Hương Đô.
+ Chị Thanh ở xã Sơn Lâm, huyện Hương Sơn đã vay số tiền 30 triệu đồng để phát triển chăn nuôi bò, hiện nay thu nhập bình quân mỗi năm trên 20 triệu đồng.
+ Chị Tư ở xã Đức Hương, huyện Vũ Quang: Hằng năm đến mùa thu hoạch của nông dân, chị vay Ngân hàng 50 triệu đồng để thu mua lạc, đỗ, ngô... của các hộ sản xuất. Trước đây gia đình chị là hộ nghèo, nay thu lãi mỗi năm trên 15 triệu đồng, và đã thoát nghèo.
+ Chị Hoa ở xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân vay Ngân hàng 45 triệu đồng để thu mua hải sản chế biến nước mắm, ruốc, cá khô… Mỗi năm lãi ròng trên 12 triệu.
+ Anh Hồng ở xã Thạch Linh, Thành phố Hà Tĩnh vay vốn Ngân hàng 150 triệu đồng để sản xuất đồ gỗ, giải quyết cho 7 lao động thường xuyên có việc làm, lãi ròng mỗi năm trên 20 triệu đồng.
Mặt khác, thông qua chuyển tải vốn đến hộ nghèo NHNo&PTNT đã hình thành mạng lưới, ban đại diện … qua đó thu hút vốn từ các tổ chức trong và ngoài nước về cho hộ nghèo, làm cho nguồn vốn cho vay hộ nghèo càng thêm phong phú.
3.1.3. Cho vay hộ đã tạo nên mối gắn kết giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với các tổ chức Hội, giúp hoạt động của tổ chức Hội thêm phong phú và hữu ích
Để chuyển tải vốn đến hộ sản xuất kinh doanh nhanh nhất và thuận tiện nhất, NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã mở rộng mạng lưới đến tận thôn, xã, phường, hình thành các tổ vay vốn hoặc tổ liên gia, hình thành ban đại diện có cấp uỷ, chính quyền phường, xã. Việc làm này đã tạo mối liên kết chặt chẽ giữa Ngân hàng với các đoàn thể xã hội, với cấp uỷ và chính quyền các cấp, giữa hộ với các tổ liên gia.
Hội Nông dân thông qua tổ vay vốn đã làm cho hội có nội dung phong phú trong hoạt động như cải tạo vườn tạp, cải tạo giống cây, giống con, kỹ thuật nuôi trồng… từ đó, làm cho các hộ vay vốn trở thành những thành viên tích cực, gắn bó với Hội.
Hội Phụ nữ nhờ tổ vay vốn để hướng dẫn chị em làm kinh tế. Ngoài sinh hoạt đều đặn để được vay vốn, Hội còn có thêm cơ hội để tuyên truyền thêm cho chị em về các chính sách như: sinh đẻ có kế hoạch, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình văn hoá…
Nhờ có mối liên kết này, các Đoàn thể xã hội đã trở nên gắn kết với nhau vì lợi ích riêng và vì lợi ích cộng đồng. Các phong trào thi đua làm giàu, thi đua yêu nước, phong trào xây dựng thôn xóm văn hoá, khu phố văn hoá dược phát triển,…
3.1.4. Do tác động cho vay hộ sản xuất đã buộc NHNo&PTNT Hà Tĩnh phải nâng cao chiến lược cho vay hộ để mở rộng hoạt động, phục vụ và đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Trước yêu cầu của phát triển kinh tế, các hộ đã liên kết với nhau trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ. Cho vay hộ đã mở ra hướng sản xuất tập trung như vùng sản xuất cây công nghiệp, vùng sản xuất ngư nghiệp, vùng lương thực… Ngược lại, các hộ, các vùng kinh doanh mở rộng đã thôi thúc NHNo&PTNT Hà Tĩnh cải tiến, mở rộng, nâng cao chiến lược cho vay để thích ứng với điều kiện mới. Ngân hàng đã phải mở rộng mạng lưới, cải tiến nghiệp vụ, nâng mức cho vay, nâng giá trị tài sản thế chấp, bỏ bớt các thủ tục phiền hà, thay đổi phong cách phục vụ…
3.1.5. Cho vay hộ đã phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp và nông thôn
Trong quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng thị trường đã hình thành các nhóm hộ khác nhau
- Nhóm hộ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp
Từ khi có “khoán 10”, kinh tế hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, được pháp luật cho phép thuê lao động, được vay vốn, được quyết định trồng cây gì, nuôi con gì và quyết định bán sản phẩm đi đâu, cho ai… nhiều hộ đã thoát khỏi tình trạng sản xuất tự cung tự cấp, độc canh cây lúa, chuyển sang đa dạng hoá hoạt động sản xuất theo lợi thế vùng và nhu cầu thị trường.
Trong quá trình phát triển đã có một bộ phận tiên tiến đã đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh theo hướng phát triển kinh tế trang trại, từ đó các nguồn lực như đất đai, vốn và lao động… được sử dụng ngày càng có hiệu quả cao. Nhờ chính sách giao các quyền sử dụng đất lâu dài đến hộ sản xuất, chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế trang trại với nghị quyết 03/2000 của Chính phủ về “kinh tế trang trại” và chính sách cho vay vốn, nên những năm gần đây, số lượng trang trại quy mô vừa và nhỏ trong toàn Tỉnh đã tăng lên rõ rệt.
Trong số các hộ nông dân SXKD giỏi, có 23% hộ nông dân có thu nhập cao từ kinh tế VAC và sản xuất nông nghiệp thuần tuý. Lợi nhuận từ mô hình này tuy không lớn song nó có ý nghĩa nhiều đối với các hộ nông dân làm nông nghiệp, đó là họ biết kết hợp hài hoá giữa các nhân tố như: Có hệ số sử dụng ruộng đất cao, mức độ đầu tư thâm canh hợp lý, biết sử dụng đồng vốn hiệu quả, giống cây, giống con có năng suất cao, áp dụng đung quy trình kỹ thuật. Tiêu biểu như mô hình cánh đồng cho thu nhập 50 triệu đồng/ha/năm ở chi hội nông dân xóm Trung Phú, xã Thạch Trung, mô hình kinh tế VAC của ông Mại - Thạch Hạ, ông Minh ởThạch Quý cho thu nhập 15 – 25 triệu đồng một năm.
- Nhóm hộ sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp:
Trong lĩnh vực phi nông nghiệp, nhiều hộ kinh doanh cá thể ở các làng nghề truyền thống và làng nghề mới đã thực sự vươn lên sau một thời gian khó khăn do không chuyển hướng kịp với những thay đổi lớn của thị trường. Đa số các hộ này nhận gia công cho các cơ sở sản xuất lớn, một số tự tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập, tự bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, tự tìm kiếm thị trường, khách hàng và trực tiếp tiêu thụ sản phẩm:
+ 65% số hộ nông dân SXKD giỏi theo mô hình phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp - Dịch vụ. Những mô hình này cho tu nhập lớn và có số hộ triển khai nhiều nhất. Tiêu biểu như hộ anh Thanh, anh Chân ở Thạch Đồng, hộ anh Kỳ ở Thạch Hạ, hộ anh Lâm ở Hà Huy Tập, hộ chị Thảo ở Thạch Bình…
+ 12% số hộ nông dân SXKD giỏi biết kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Đây là những hộ nông dân thế chấp nguồn vốn lớn của Ngân hàng để phục vụ sản xuất. Những hộ sản xuất này ngoài sự cố gắng nỗ lực vươn lên mạnh mẽ của mỗi cá nhân trong gia đình, họ còn được hỗ trợ đắc lực từ tổ chức Hội và chính quyề cơ sở. Điển hình về mảng kinh tế này có ông Thảo - Thạch Hạ, anh Hồng - Thạch Trung…
3.1.6. Tiềm lực kinh tế và khả năng sản xuất của kinh tế hộ không ngừng được nâng cao
- Kinh tế hộ đã góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường, từng bước hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn tâp trung có hiệu quả
- Kinh tế hộ nông dân đã góp phần tích cực và quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu nông thôn, giảm dần tình trạng thuần nông, tăng ngành nghề thương mại, dich vụ, khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống.
- Phát triển kinh tế hộ đã nâng cao đời sống và thu nhập của các hộ gia đình, nhờ sự đa dạng về các nguồn thu từ việc mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Kinh tế hộ với sự đầu tư của Nhà nước và sự tích luỹ của hộ để mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ… được tăng cường, tạo tiền đề quan trọng cho việc liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh ngày một có hiệu quả.
3.2. Nhược điểm
3.2.1. Định kỳ trả nợ vẫn còn cứng nhắc
Định kỳ trả nợ đối với hộ sản xuất được NHNo&PTNT Hà Tĩnh quy định như sau:
- Thu nợ gốc:
* Với món vay ngắn hạn (thời hạn dưới 12 tháng): Thu nợ gốc một lần khi đến hạn.
* Với món vay trung hạn (thời hạn từ 12 đến 60 tháng): Phân kỳ trả nợ nhiều lần: 6 tháng hoặc 1 năm một lần do bên cho vay và hộ vay thoả thuận.
- Thu lãi: Theo định kỳ hằng tháng hoặc hằng quý.
Mỗi hộ sản xuất thường có số ruộng đất hay đối tượng sản xuất theo mùa vụ, vụ này kế vụ khác, chi phí có thể chồng lên nhau giữa vụ trước và vụ sau. Lâu nay, Ngân hàng vẫn thu nợ theo vụ, Để đối phó lại, người sản xuất “tạm trả” một thời gian ngắn sau đó lại làm thủ tục vay vụ sau. Nhưng chính thời gian vay để “tạm trả” này lại là thời gian người dân phải đi vay nặng lãi…
3.2.2. Vốn tín dụng còn mang tính dàn trải đều trên diện rộng
Mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn phát triển chậm, chưa có cấp nào, ngành nào đứng ra cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại cho các hộ dân. Do đó, Ngân hàng không thể mở rộng cho vay đối với các trang trại, mặc dù tiềm năng, lợi thế phát triển trang trại là không nhỏ trên địa bàn Hà Tĩnh.
Mô hình sản xuất kinh doanh giỏi ngày càng tăng. Tuy nhiên, trong điều kiện “thiên thời, địa lợi” như hiện nay thì sự phát triển đó còn ở mức độ thấp, chưa đồng đều ở các địa phương… Ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn đủ và hợp lý cho các hộ sản xuất này.
3.2.3. Công tác thu hồi nợ chưa đạt hiệu quả cao. Rủi ro trong vốn tín dụng cho vay hộ sản xuất vẫn luôn tiềm ẩn
Chỉ tính riêng cho vay hộ nhằm phát triển một số chương trình kinh tế tại địa phương, từ năm 2005 – 2008, số nợ quá hạn đã lên tới 25.268 triệu đồng, trong đó gần 35% là nợ xấu, nợ khó đòi.
Công tác thu hồi nợ thông qua Tổ vay vốn và các tổ chức Hội vẫn còn nhiều vấn đề. Một số cán bộ tổ vay vốn, cán bộ Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… đã lợi dụng sự tín nhiệm của Ngân hàng để thu nợ bất chính như: Năm 2005, ông Trần Hữu Duy - tổ trưởng tổ vay vốn thôn Trung Thành, xã Cẩm Nam, huyện Cẩm Xuyên thu nợ, thu lãi và vay ké số tiền là 90,6 triệu đồng rồi bỏ đi khỏi địa phương, đến 31 – 12 – 2007, Ngân hàng mới thu hồi được 55,6 triệu đồng, còn 35 triệu đồng chưa thu hồi được. Hay năm 2006, bà Phạm Thị Vinh, hội phó Hội Phụ nữ xã Cẩm Thăng, huyện Cẩm Xuyên đã thu nợ, thu lãi không nộp và vay ké số tiền là 282,6 triệu đồng nhưng đến cuối năm 2007 NHNo&PTNT huyện Cẩm Xuyên mới thu hồi được 26,6 triệu đồng…
3.2.4. Công tác kiện toàn tổ trưởng tổ vay vốn vẫn còn nhiều vấn đề
Công tác kiện toàn các tổ trưởng tổ vay vốn ở một số xã, phường chưa đúng theo văn bản ký kết - tổ trưởng vay vốn không phải là cán bộ Hội nên gặp nhiều khó khăn trong bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật thông tin, giao ban hội ý, chia sẻ kinh nghiệm… đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tham mưu, tiếp thu chủ trương của cấp trên cũng như triển khai thực hiện nhiệm vụ ở cơ sở.
Qua kiểm tra, lại có một số tổ trưởng vay vốn gặp khó khăn trong công tác quản lý, giám sát hiệu quả khi các hộ kinh doanh vay vốn không thông qua tổ vay vốn.
3.3. Nguyên nhân của các nhược điểm
3.3.1.Công tác cán bộ còn nhiều bất cập
- Trình độ của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế. Cán bộ tín dụng cho vay hộ sản xuất kinh doanh mới chỉ biết cho vay thu nợ đơn thuần, chưa có đủ trình độ để tham gia các chương trình, dự án quy mô vừa và lớn trong sản xuất, chế biến, kinh doanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật cao.
Cán bộ Ngân hàng phần lớn được đào tạo trong thời bao cấp, chưa được đào tạo lại, chưa quen với tư duy kinh tế mới, thiếu năng động, chưa chịu khó nghiên cứu, nâng cao nhận thức để phù hợp với yêu cầu mới; chấp hành các quy trình nghiệp vụ tín dụng chưa nghiêm túc. Một số cán bộ tín dụng chưa tính toán hiệu quả đầu tư khi cho vay, cho vay thiếu đồng bộ, phân tán, chưa quan tâm đúng mức việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay dẫn đến sử dụng vốn không có hiệu quả, không có nguồn thu để trả nợ, nợ quá hạn tăng nhanh…
- Số lượng cán bộ tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Nếu như người dân vay được một món nợ của Ngân hàng mất rất nhiều thời gian thì cường độ lao động của Ngân hàng lại quá cao. Hai trạng thái trái ngược đó có chung một nguyên nhân là khách hàng quá đông, trong khi đội ngũ cán bộ tín dụng lại quá ít. Tỷ lệ cán bộ tín dụng Ngân hàng còn thấp, chiếm 40% tổng số cán bộ Ngân hàng.
Các Ngân hàng khác cho vay một khoản thường là hàng trăm, có khi hàng tỷ đồng thì NHNo&PTNT lại thường cho vay những khoản nhỏ dưới mười triệu đồng, có khi chỉ vài ba triệu đồng. Thời gian bỏ ra nhiều mà hiệu quả sinh lời một món vay không đáng bao nhiêu. Hiện mỗi Ngân hàng cấp III phụ trách 8 – 9 xã, bán kính hoạt động trên dưới 10 km với 9 – 10 nhân viên, bao gồm cả tín dụng, kế toán ngân quỹ và người phu trách với trên dưới 4000 hộ vay, nhân viên Ngân hàng phải làm việc hết năng suất mới có thể đáp ứng được, vì vậy việc khách hàng phải chờ đợi là điều khó tránh khỏi.
3.3.2. Thủ tục vay vốn còn rườm rà và cứng nhắc
Hiện nay, những thủ tục vay vốn và lập hồ sơ đa số đều theo quy định chung của Ngân hàng Trung ương, đôi lúc không phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương và không đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của thời cuộc.
Các loại cho vay đảm bảo chắc chắn thu hồi vốn như thế chấp bằng giấy tờ có giá, trích thu nhập hàng tháng (lương, phụ cấp) vẫn còn nhiều rắc rối.
Các món vay, thậm chí là món vay nhỏ, cũng đều phải qua Giám đốc duyệt, đôi lúc là không cần thiết.
Để được vay vốn, các hộ phải lập hồ sơ gồm những loại giấy tờ sau:
- Đối với hộ vay vốn dưới 10 triệu: Không cần tài sản thế chấp hoặc cầm cố, nhưng phải có các giấy tờ sau:
* Phải được bảo lãnh của các tổ chức xã hội tại nơi cư trú như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…
* Phải có văn bản cam kết mục đích sử dụng vốn đề ra được phương án sản xuất, kinh doanh.
* Phải có đơn đề nghị vay vốn.
* Có hợp đồng vay vốn: Có xác nhận của chính quyền địa phương.
- Đối với hộ vay trên 10 triệu:
* Phải có tài sản thế chấp, cầm cố
* Có dự án khả thi.
* Có đơn vay vốn.
* Có hợp đồng vay vốn.
* Có bản thế chấp tài sản và uỷ quyền cho Ngân hàng xử lý tài sản thế chấp nếu không thực hiện đúng hợp đồng cam kết như: không trả được nợ và lãi, nợ quá hạn, nợ xấu…
* Phải có chứng nhận của địa phương, của phòng tài nguyên môi trường huyện, thị, thành phố chứng nhận tài sản thế chấp là hợp lệ.
* Sau khi có đủ thủ tục phải có báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng về tài sản thế chấp, trình Ban giám đốc ký, duyệt rồi mới được vay.
Và thông thường, tất cả thủ tục này, người dân phải tự đi làm. Với khách hàng vay hộ đa số là hộ nông dân, trình độ và khả năng hiểu biết về pháp luật và các lĩnh vực liên quan còn nhiều hạn chế, họ có nhiều bỡ ngỡ, lại phải đi lại nhiều nơi, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm các thủ tục giấy tờ. Và để được vay một khoản, thường người dân cũng phải mất từ 5 đến 7 ngày để hoàn thành các thủ tục này, điều này nhiều khi làm lỡ mất cơ hội sản xuất kinh doanh của người dân, làm mất tính hiệu quả của đồng vốn.
Mặt khác, thực tế hiện nay xu thế sản xuất kinh doanh của bà con nông dân ngày càng phát triển mạnh, với quy mô ngày một mở rộng. Vì vậy, việc cho vay với số vốn 10 triệu đồng mới không phải thế chấp như hiện nay là không phù hợp.
3.3.3. Sự phối kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với các cấp chính quyền địa phương chưa thật chặt chẽ
Hiện nay, vẫn chưa có hợp đồng ràng buộc giữa Ngân hàng với chính quyền địa phương và các tổ chức đứng ra vay vốn. Vẫn chưa có các hình thức để thúc đẩy chính quyền địa phương vào cuộc trong công tác huy động cũng như thu hồi vốn.
3.3.4. Công tác thẩm định dự án cho vay chưa tốt
Có lúc, có nơi còn có tình trạng nể nang, không kiên quyết. Nhiều dự án không khả thi, nhưng có “quen biết” với cán bộ tín dụng nên vẫn được phê duyệt cho vay. Đến khi được vay lại không phát huy được hiệu quả, không thu hồi được vốn…
Quy trình thẩm định vẫn còn nhiều vấn đề khúc mắc ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ cho vay, đến việc sản xuất kinh doanh của các hộ.
Hiện nay, theo quy định chung, để cho vay, Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định các vấn đề sau: thẩm định tư cách pháp nhân, thẩm định năng lực quản lý, thẩm định tình hình tài chính, thẩm định phương án vay vốn, và thẩm định uy tín khách hàng. Tuy nhiên, với công tác cho vay hộ, đối tượng vay chủ yếu là người nông dân hoặc các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, nếu thực hiện theo quy trình chung sẽ gặp rất nhiều vấn đề; đặc biệt, để đạt được những tiêu chuẩn vay vốn, sẽ là một khó khăn lớn với người đi vay.
Như vậy, ta có thể tóm lược lại các ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân sau:
- Ưu điểm:
+ Cho vay hộ đã góp phần giúp người dân mở rộng sản xuất.
+ Cho vay hộ góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo.
+ Cho vay hộ đã tạo nên mối gắn kết giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với các tổ chức Hội, giúp hoạt động của tổ chức Hội thêm phong phú và hữu ích.
+ Do tác động của cho vay hộ đã buộc NHNo&PTNT Hà Tĩnh phải nâng cao chiến lược cho vay hộ để mở rộng hoạt động, phục vụ và đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
+ Cho vay hộ đã phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp và nông thôn.
+ Tiềm lực kinh tế và khả năng sản xuất của kinh tế hộ không ngừng được nâng cao.
- Nhược điểm:
+ Định kỳ trả nợ vẫn còn cứng nhắc.
+ Vốn tín dụng còn mang tính dàn trải trên diện rộng.
+ Công tác thu hồi nợ chưa đạt hiệu quả cao. Rủi ro trong vốn tín dụng cho vay hộ sản xuất vẫn luôn tiềm ẩn.
+ Công tác kiện toàn tổ trưởng tổ vay vốn vẫn còn nhiều vấn đề.
- Nguyên nhân của các nhược điểm:
+ Công tác cán bộ vẫn còn nhiều bất cập.
+ Thủ tục vay vốn còn nhiều rườm rà và cứng nhắc.
+ Sự phối kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh với các cấp chính quyền địa phương chưa thật chặt chẽ.
+ Công tác thẩm định dự án cho vay còn chưa tốt.
CHƯƠNG IIIĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA NHNo&PTNT HÀ TĨNH VỀ VIỆC CHO VAY HỘ SẢN XUẤT
1. Định hướng của NHNo&PTNT Hà Tĩnh về việc cho vay hộ sản xuất
* Mục tiêu chung: Năm 2009 được xác định là năm mà hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tĩnh sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức do tình hình kinh tế diễn biến khó lường. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương và hoàn thành chỉ tiêu kinh doanh của mình, NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã đặt ra mục tiêu:
- Nguồn vốn nội tệ huy động trên địa bàn: Tăng 30% so với năm 2008, đạt trên 4000 tỷ đồng.
- Nguồn vốn ngoại tệ huy động: Tăng tối thiểu 10%, đạt trên 20 triệu USD & EURO.
- Dư nợ: Tăng 25%, đạt 3850 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hộ chiếm 85%, tức 3272,5 tỷ đồng.
- Thu dịch vụ: Tăng 50%.
- Nợ quá hạn: dưới 3%. Nợ xấu dưới 2%.
- Hệ số tiền lương: tối thiểu 1,1.
- Công đoàn đạt vững mạnh xuất sắc; các Đảng bộ, chi bộ đạt vững mạnh tiêu biểu; 100% đơn vị đạt đơn vị văn hoá, tự vệ quyết thắng và an ninh vững mạnh.
Để góp phần vào mục tiêu chung đó, Ngân hàng đã xác định định hướng của công tác cho vay hộ như sau:
- Khẳng định vai trò, vị trí của kinh tế hộ
Kinh tế hộ nông dân vẫn là bộ phận chủ yếu của sản xuất nông nghiệp, mà lực lượng chủ yếu là “hộ sản xuất hàng hoá”, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng hoạt động, tiến tới sản xuất hàng hóa lớn. Do vậy, cần tiếp tục đầu tư cho phát triển kinh tế hộ nói chung, đặc biệt là đối với kinh tế trang trại, tạo bước chuyển biến mới trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vừa thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra cần tiếp tục khai thác thêm thị trường cho vay đi lao động hợp tác ở nước ngoài, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống; lựa chọn các dự án sản xuất hàng hoá có hiệu quả để tập trung đầu tư có trọng điểm, tiếp cận và đầu tư các dự án mới vùng kinh tế Vũng Áng, Thạch Khê.
- Đầu tư phát triển chiều sâu, trước hết và cơ bản nhất là vốn
Chính sách trong thời gian tới cần tạo điều kiện về tín dụng, “vốn” cho kinh tế hộ phát triển, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho quá trình tích tụ các yếu tố sản xuất, phát triển nhanh các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá lớn. NHNo&PTNT Hà Tĩnh cần phải cung cấp, hỗ trợ tín dụng cho nông dân đầu tư phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo, phát triển sản xuất hàng hoá lơn theo hướng công nghiệp hoá, hiên đại hoá.
Hướng đầu tư chủ yếu là tăng đầu tư nhu cầu vốn trung hạn và dài hạn bằng các nguồn vốn huy động tại địa phương và tranh thủ mọi nguồn vốn dự án Uỷ thác đầu tư để cho vay.
- Thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. Để là được điều đó không chỉ phụ thuộc vào vốn, mà còn phụ thuộc lớn vào sợ nỗ lực, bản lĩnh và tinh thần sáng tạo của các hộ nông dân. Vì thế, Ngân hàng không chỉ là người cho các hộ vay vốn, mà còn phải là người bạn đồng hành, giúp đỡ các hộ nâng trong việc cao kiến thức về nông nghiệp, biết ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất.
- Tăng cường sự hợp tác, liên kết, liên doanh của các hộ gia đình
Tuy hiện nay đã có sự liên kết, hợp tác liên doanh của hộ và chủ trang trại với các thành phần kinh tế khác trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ… nhưng tỷ lệ còn khá thấp, và tuỳ thuộc khá lớn vào trình độ, năng lực của chủ hộ… Và phần lớn sự hợp tác này còn giản đơn, phổ biến trong một số khâu như: Thuỷ nông, bảo vệ thực vật, giống cây trồng…
Vì thế, trong nền sản xuất hàng hoá, cần đẩy mạnh sự hợp tác trên cả hai hướng là liên kết dọc và liên kết ngang, nhằm tạo ra sức mạnh và lợi thế cạnh tranh.
- Bám sát mục tiêu phát triển kinh tế theo nghị quyết đại hội Đảng bộ của Tỉnh
Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16 đã xác định đầu tư phát triển các chương trình kinh tế của địa phương như: Trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu, nạc hoá đàn lợn, cho vay ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, phát triển các ngành nghề truyền thống, xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
- Không ngừng mở rộng mạng lưới giao dịch
Ngoài 13 chi nhánh loại III phu thuộc và 21 phòng giao dịch tại các thành phố, huyện, thị xã, NHNo&PTNT Hà Tĩnh sẽ tiếp tục củng cố, nâng cấp hoạt động của tổ vay vốn để chuyển tải vốn đến thị trường nông nghiệp nông thôn kịp thời và đầy đủ nhất.
- Cải tiến phương thức cho vay
Ngân hàng phải tiếp tục cải tiến phương thức cho vay, thu nợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho khách hàng mà đặc biệt là hộ nông dân. Tập trung bằng mọi giải pháp thu hồi nợ đã xử lý rủi ro, không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư. Với nhừng hộ không có khả năng trả nợ vì những nguyên nhân khách quan và bất khả kháng thì Ngân hàng sẽ có hình thức khoanh nợ, giãn nợ và xóa nợ hợp lý.
- Triển khai hiệu quả các chính sách
Triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời và hiệu quả các chính sách của chính phủ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh như: Quyết định 14 về bảo lãnh cho vay, quyết định 131 về hỗ trợ lãi suất.
2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất
2.1. Tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng
Công tác cán bộ luôn là một công tác quan trọng, quyết định lớn đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng nói chung và công tác cho vay hộ nói riêng. Để làm tốt công tác cán bộ, Ngân hàng cần thực hiện đồng bộ các chính sách sau:
- Chính sách khen thưởng kỷ luật: Chính sách hỗ trợ, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần đối với cán bộ tín dụng là một việc làm hết sức cần thiết. Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp như: khuyến khích tăng lương, thưởng cho những cán bộ có dư nợ cho vay và chất lượng vay tốt; hỗ trợ kinh phí, tạo mọi điều kiện để cán bộ tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình; khen thưởng kịp thời những cán bộ tín dụng có thành tích tốt; tổ chức thăm hỏi động viên gia đình cán bộ khi có người đau ốm, hiếu hỷ...
Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng cần đưa ra những hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với những sai sót, sơ hở do thiếu trách nhiệm của cán bộ tín dụng dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Tuỳ theo mức độ thiệt hại mà có thể áp dụng các biện pháp như: cảnh cáo, khiển trách, trừ lương, trừ công tác phí… Biện pháp này nhằm nâng cao ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm của mỗi cán bộ cho vay.
- Chính sách đào tạo:
Do đặc thù về ngành nghề đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải nắm vững nghiệp vụ Ngân hàng, lý luận, phân tích tài chính tiền tệ… mà cón phải có hiểu biết sâu rộng về thị trường và các loại kinh doanh khác. Vì thế, Ngân hàng cần có các chính sách và giải pháp cụ thể về việc đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng như: Khuyến khích cán bộ đi học để nâng cao kiến thức, cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn; và bản thân Ngân hàng cũng phải thường xuyên kiểm tra, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ, những cán bộ không đủ năng lực công tác sẽ bị thuyên chuyển sang bộ phận khác phù hợp hơn…
- Chính sách tuyển dụng:
Ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng khoa học để có thể tuyển dụng được những cán bộ tài năng, xoá bỏ lề lối tuyển dụng theo kiểu truyền thống, “quen biết” trước đây. Đồng thời, cần đưa ra các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cán bộ trẻ có năng lực khi vào làm việc tại Ngân hàng như: đơn giản hoá các thủ tục và thời gian xin việc, rút ngắn thời gian hợp đồng thử việc nếu như làm tốt và có những sáng kiến giúp cho Ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn…
2.2. Tuyên truyền, đổi mới hình thức huy động vốn
Để nâng cao hiệu quả cho vay hộ, thì việc có nguồn vốn để đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu về vốn của các hộ cũng là yếu tố rất quan trọng.Vì thế, Ngân hàng phải có các hình thức tuyên truyền, thu hút, huy động vốn từ các nguồn khác nhau, trong đó có nguồn tiền nhàn rỗi trong dân.
Làm cho người dân biết về Ngân hàng, về các hoạt động của Ngân hàng là nhân tố rất cần thiết để người gửi tin tưởng vào Ngân hàng. Ngân hàng là người “ thủ quỹ” của khách hàng, người nắm giữ tài sản của khách hàng để mưu cầu lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền, cho chính Ngân hàng và cho nền kinh tế quốc dân. Do vậy, đầu tiên, Ngân hàng cần có các biện pháp tuyên truyền giúp người dân hiểu hơn về hoạt động của Ngân hàng, về những đóng góp của Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Nếu dân chúng biết được chức năng, hiệu quả hoạt động, và những đóng góp của NHNo&PTNT Hà Tĩnh nói riêng và hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung đối vào nền kinh tế, vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thì lòng tin của họ đối với Ngân hàng sẽ tăng lên. Và điều đó là rất quan trọng trong công tác huy động vốn.
Ngoài ra, Ngân hàng cũng phải đổi mới các hình thức huy động vốn nhằm phù hợp hơn với tâm lý và yêu cầu của khách hàng. Ngoài các hình thức huy động vốn truyên thống, Ngân hàng có thể nghiên cứu áp dụng các hình thức huy động vốn sau:
- Huy động tiền gửi trung và dài hạn có tính đến trượt giá của đồng tiền:
Tâm lý của người gửi tiết kiệm trung và dài hạn là lo sợ lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền, nên không bảo toàn được vốn gốc gửi vào Ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nên kinh tế thế giới đang lâm vào khủng hoảng.
Tiết kiệm trung và dài hạn có tính đến trượt giá thường có thời hạn tối thiểu là hai năm, phần vốn gốc được đảm bảo giá trị theo tỷ lệ lạm phát danh nghĩa hằng năm do cơ quan nhà nước công bố. Sổ tiết kiệm có thể được chuyển nhượng, thừa kế.
Về lãi suất: người gửi được hưởng một tỷ lệ thu nhập tối thiểu hằng năm, có thể được cố định hoặc điều chình trong thời hạn gửi tiền. Lãi có thể được rút ra định kỳ hoặc nhập vào vốn gốc, số lãi được nhập vào vốn gốc cũng được đảm bảo giá trị như phần vốn gốc, thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao.
Trường hợp người gửi rút vốn để khoá sổ trước hạn thì toàn bộ phần vốn gốc sẽ không được Ngân hàng đảm bảo trượt giá đồng tiền, số lãi được hưởng sẽ tính theo mức lãi suất tiền gửi tương đương.
Loại tiết kiệm này khiến cho người gửi yên tâm, giải toả được tâm lý lo sợ tiền mất giá. Đồng thời, được chuyển nhượng nên người chủ sở hữu có thể thu hồi vốn trước thời hạn mà vẫn đảm bảo giá trị vốn gốc.
- Huy động vốn đảm bảo giá trị theo vàng, USD:
Nhiều người dân lo sợ tiền mất giá nên thường mua vàng, mua USD dự trữ. Ngân hàng có thể dựa trên các đặc tính tâm ký này để huy động và cho vay hiệu quả.
Việc huy động vốn đảm bảo giá trị theo vàng trong dân cư được thực hiện theo hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích: kỳ phiếu huy động vốn có giá trị đảm bảo theo vàng.
NHNo&PTNT Hà Tĩnh sẽ tổ chức huy động vốn khi các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn loại này. Kỳ phiếu này thường có các thời hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm hoặc dài hơn theo yêu cầu của dự án.
Việc huy động vốn và cho vay vốn đảm bảo giá trị theo vàng được thực hiện theo các nguyên tắc: Vốn huy động áp dụng theo lãi suất quốc tế ( thấp hơn lãi suất tiền gửi thông thường), lãi suất cho vay bằng lãi suất huy động cộng bới tỷ lệ chi phí Ngân hàng, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
- Huy động dưới dạng các loại hình tiết kiệm đặc thù:
Để đáp ứng các mục tiêu trung và dài hạn của dân cư như: tiết kiệm mua nhà ở, mua ô tô, tiết kiệm dành cho tương lai con cái… Ngân hàng nên đề ra các loại tiết kiệm đặc thù để thu hút các nguồn trên.
Tiết kiệm cho trẻ em giống như bảo hiểm nhân thọ. Đây là một loại hình thu hút tiền tiết kiệm đang được thị trường rất mong đợi và cũng rất hữu ích trong việc giúp Ngân hàng thu hút được lượng vốn trung và dài hạn với chi phí thấp. Hiện nay, có khá nhiều khách hàng có nhu cầu gửi tiền tiết kiệm cho con cái của họ tại Ngân hàng để giáo dục tính tiết kiệm cho chúng thay vì bỏ ống tiết kiệm không sinh lợi. Áp dụng hình thức này không những giúp Ngân hàng thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư mà còn giúp cho trẻ em sớm làm quen với Ngân hàng ngay từ khi còn nhỏ, và đây cũng sẽ là những khách hàng lâu dài của Ngân hàng.
- Có chính sách lãi suất hợp lý:
Lãi suất là một trong những yếu tố quan trọng tác động mạnh đến việc thu hút vốn, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm.
Để tăng cường huy động vốn, Ngân hàng cần tăng lãi suất tiền gửi, nhưng như vậy lại hạn chế hạot động cho vay. Vì vậy, bài toán đặt ra là phải đưa ra mức lãi suất hợp lý để vừa hấp dẫn người gửi lại vừa kích thích vay vốn.
Ngân hàng có thể nghiên cứu áp dụng các cách sau:
+ Chính sách lãi suất nhằm đạt được chi phí hợp lý: Ngân hàng muốn mở rộng vốn trung và dài hạn nhưng lại muốn chi phí huy động vốn không tăng lên. Để làm được điều đó, Ngân hàng có thể tăng lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, nhưng lại giảm lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
+ Chính sách thưởng lãi suất nhằm khuyến khích khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với thời hạn dài hơn thời hạn gửi ban đầu: Đối với khách hàng rút tiền trước kỳ hạn, Ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất cảu kỳ hạn gửi ban đầu. Vì thế, nếu ngược lại, thì khách hàng cũng nên được hưởng mức lãi suất tương xứng hơn. Điều đó sẽ thu hút nhiều hơn những khách hàng có tiền nhàn rỗi nhưng chưa xác định được thời gian sẽ cần dùng đến.
+ Chính sách lãi suất hợp lý đối với các khoản tiền gửi rút trước thời hạn: Hiện nay, với các loại tiền gửi, nếu rút trước thời hạn đều phải nhận mức lãi suất không kỳ hạn. Điều này chỉ phù hợp với các khoản tiền gửi thời hạn ngắn, còn nếu gửi dài hạn thì sẽ thiệt thòi cho khách hàng. Chẳng hạn, với tiền gửi kỳ hạn 6 tháng, người gửi đã gửi hơn tháng, nếu rút trước kỳ hạn, sẽ chỉ được nhận lãi suất không kỳ hạn, mà nếu gửi kỳ hạn 3 tháng họ sẽ được số lãi lơn hơn. Đối với các loại tiền gửi kỳ hạn lâu hơn thì lại càng thiệt thòi hơn. Trong trường hợp này, Ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất bậc thang đối với khách hàng theo thời gian mà họ đã gửi. Ví dụ, thời hạn gửi dưới 3 tháng thì hưởng lãi suất không kỳ hạn, trên 3 tháng và dưới 6 tháng thì hưởng theo mức lãi suất 3 tháng, nếu gửi trên 6 tháng và dưới 9 tháng thì được hưởng lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng…
2.3. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm
Kiểm tra là công cụ quản trị giúp cho việc điều hành kinh doanh đúng kỷ cương, quy chế. Với cho vay hộ, hoạt động kiểm tra càng quan trọng, bởi phần lớn đối tượng vay vốn là các hộ nông dân, trình độ hiểu biết còn thấp, các món vay lại nhỏ, khó kiểm soát…
Ngân hàng nên có biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của đội ngũ kiểm tra viên như: Tăng quyền năng trong kiểm tra, trang bị thêm các phần mềm hỗ trợ công tác kiểm tra…
Ngoài ra, Ngân hàng cũng phải có các biện pháp kiểm soát được mức độ rủi ro cho vay phát sinh trong quá trình các hộ vay vốn, nhằm kịp thời phát hiện những vi phạm và có biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp như:
- Đến thăm và kiểm soát quá trình thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, mục đích sử dụng vốn của các hộ. Việc đến thăm được thực hiện trong thời gian khách hàng vay vốn sẽ giúp cho cán bộ cho vay kiểm tra được thực trạng sản xuất kinh doanh của khách hàng, ý thức trả nợ tiền vay…, và những thông tin này là rất cần thiết cho quá trình kiểm soát, hạn chế rủi ro. Cán bộ cho vay có thể kiểm tra thường xuyên định kỳ hoặc đột xuất nhằm tạo bất ngờ cho người vay, nâng cao hiệu quả kiểm tra. Khi phát hiện thấy những bất thường thì phải kịp thời thông báo lên cấp trên để có biện pháp kịp thời xử lý.
- Giám sát thông qua mô hình “tổ liên đới chịu trách nhiệm”:Đối với cho vay hộ, số lượng khách hàng khá lớn, món vay lại nhỏ… nên Ngân hàng không thể chỉ cử cán bộ giám sát, mà có thể giám sát thông qua “ tổ liên đới chịu trách nhiệm”. Theo cách làm này, mỗi tổ có từ 10 đến 20 hộ nông dân liền cư, cùng sản xuất và có nhu cầu vay vốn, tự nguyện gia nhập tổ để vay vốn và cam kết cùng có trách nhiệm trả nợ vay Ngân hàng. Nếu do nguyên nhân chủ quan có tổ viên không trả nợ vay thì cả tổ phải trả nợ thay, nếu không Ngân hàng sẽ từ chối cho cả tổ vay vào vụ kế tiếp. Các tổ viên cử ra tổ trưởng để quan hệ với Ngân hàng, chính quyền, ban ngành đoàn thể tại địa phương. Quá trình vận động, thành lập tổ đều có sự giám sát của Hội Nông dân, NHNo&PTNT và UBND phường xã ra quyết định thành lập.
Mô hình này đã được NHNo&PTNT Tỉnh An Giang thực hiện vào vụ hè thu năm 1991. Khi đó, NHNo&PTNT Tỉnh An Giang bắt đầu cho vay thí điểm 81 tổ với 1307 hộ nông dân ở 6 xã của 6 huyện thị. Số tiền phát vay là 5.358 triệu đồng. Cuối vụ thu hoạch, sau khi thu nợ, mở hội nghị tổng kết, NHNo&PTNT Tỉnh An Giang đã quyết định triển khai thực hiện đại trà trong toàn Tỉnh từ vụ đông xuân 1991 – 1992 tới nay.
Xét điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội, mô hình này hoàn toàn phù hợp, và có thể áp dụng tại NHNo&PTNT Hà Tĩnh.
2.4. Phải có sư ràng buộc và kết hợp giữa NHNo&PTNT Hà Tĩnh và các cấp chính quyền
Việc cho các hộ vay vốn không chỉ đem lại lợi ích cho Ngân hàng, cho bản thân hộ vay vốn mà còn cho cả địa phương. Vì thế, nên có hợp đồng ràng buộc giữa một bên là Ngân hàng, và một bên là chính quyền địa phương và các tổ chức đứng ra vay vốn. Với hợp đồng này, Ngân hàng sẽ được chính quyền địa phương tạo điều kiện trong việc thẩm tra các giấy tờ liên quan đến việc cho vay vốn cần sự xác nhận của của địa phương. Đổi lại, Ngân hàng cũng cần có phân tích, xử lý, thanh lý hằng năm, có khen thưởng kịp thời; các tổ chức chính quyền đoàn thể cấp xã mở tài khoản tại Ngân hàng cần được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất.
Ngân hàng nên thành lập ban xét duyệt cho vay ở các phường xã, mà các thành viên trong ban đều là nhân sự của uỷ ban nhân dân phường xã đó - vốn dĩ sâu sát hơn cán bộ tín dụng của Ngân hàng, nhằm hỗ trợ Ngân hàng trong việc kiểm tra tư cách, hoạt động sản xuất của người vay và đôn đốc người vay trả nợ đúng hạn.
2.5. Mở rộng đầu tư tín dụng có trọng điểm
Ngân hàng nên có những phân tích, điều tra tổng kết những điển hình, mô hình sản xuất giỏi để có thể tập trung điều tra và nhân rộng. Và trên cơ sở đó, tạo môi trường thuận lợi để các hộ này có điều kiện phát triển sản xuất.
Theo kết quả trong những năm gần đây, mô hình kinh tế trang trại là một mô hình đem lại hiệu quả kinh tế cao, thu hút nhiều lao động. Tuy nhiên số trang trại có quy mô chưa nhiều, và cũng chưa có tổ chức nào đứng ra cấp phép cho các trang trại. Vì thế, NHNo&PTNT Hà Tĩnh có thể kết hợp với các cơ quan có thẩm quyền, cấp phép cho các trang trại, giúp các trang trại thuận lợi hơn trong quá trình tiếp cận nguồn vốn vay, nhằm mở rộng hơn nữa mô hình này.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng phải tiếp tục đổi mới cơ cấu đầu tư, tăng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn để giúp các hộ mua thêm máy móc, thiết bị cho sản xuất nông nghiệp, giúp các hộ có vốn để cải tạo đất, xây dựng các trang trại để trồng trọt ở vùng rừng, chăn nuôi vùng ven biển hay nuôi trông đánh bắt thuỷ hải sản.
2.6. Đổi mới và đơn giản thủ tục vay vốn
Hiện nay, để vay được một món, người dân phải trải qua khá nhiều bước, với nhiều thủ tục giấy tờ. Trong đó, có nhiều giấy tờ phải có chứng nhận của địa phương, của phòng tài nguyên môi trường huyện, thị, thành phố… Và những giấy tờ này, người dân phải tự đi làm, mất rất nhiều thời gian và khá phiền hà. Nên chăng, Ngân hàng có cách làm việc với các cơ quan liên quan để có thể tập hợp hồ sơ của khách hàng lại, và cán bộ Ngân hàng sẽ thay mặt để làm giúp khách hàng những thủ tục này, vừa nhanh chóng, chính xác và thuận tiện cho khách hàng và cả Ngân hàng.
Đặc biệt, Ngân hàng nên có một quy chế cho vay và kiểm tra riêng đối với cho vay hộ (hiện nay, các hoạt động cho vay, kể cả cho vay hộ đều làm chung theo một quy trình), bỏi hoạt động cho vay này có nhiều đặc thù riêng như: đối tượng khách hàng chủ yếu là người nông dân trình độ còn nhiều hạn chế, giá trị một món vay thường nhỏ, vừa cho vay Ngân hàng lại vừa phải thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình giúp phát triển kinh tế tịa địa phương…
2.7. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho các tổ vay vốn
Ngân hàng cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ tổ vay vốn, hướng dẫn các tổ trưởng tổ vay vốn thành thạo trong việc thiết lập hồ sơ vay vốn, phương pháp mở sổ theo dõi cho vay để các tổ làm tốt hơn nữa công tác quản lý tín chấp nguồn vốn. Ngoài ra cũng cần điều chỉnh mức phí hoa hồng trả cho cơ sở, đặc biệt là các tổ trưởng tổ vay vốn nhằm góp phần động viên khuyến khích các tổ trưởng hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thời gian tới.
Để nâng cao hiệu quả cho vay hộ, đặc biệt với đối tượng khách hàng là nông dân và người dân ở miền núi Ngân hàng có thể nghiên cứu áp dụng mô hình tổ vay vốn lưu động.
Mục đích hoạt động của tổ vay vốn lưu động là: Thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng thay thế các chi nhánh Ngân hàng có trụ sở cố định ở vùng sâu, vùng xa, hoặc trụ sở Ngân hàng cố định trên địa bàn, nhằm mở rộng mạng lưới kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng trên địa bàn nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân được vay vốn đầu tư vào sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
Với hình thức tổ chức theo biên chế nhóm, mỗi tổ có từ 3 đến 5 người, tuỳ vào tình hình cụ thể của địa phương, trong đó bắt buộc phải có 1 cán bộ tín dụng là tổ trưởng, 1 kế toán, 1 thủ quỹ. Hoạt động nghiệp vụ chủ yếu là cho vay và thu nợ, huy đông tiết kiệm …tại thôn, xã. Ngoài cán bộ tín dung là cán bộ trong biên chế chính thức của Ngân hàng và chịu trách nhiệm chính, kế toán và thủ quỹ có thể là thành viên của Hội Nông dân hay Hội Phụ nữ và họ sẽ được hưởng mức hoa hồng tuỳ theo hiệu quả công việc. Vì là những “cán bộ Ngân hàng” không chuyên, nên công tác bồi dưỡng, đào tạo các kế toán và thủ quỹ này cần được đặc biệt chú ý, để giúp họ có thể nâng cao nghiệp vụ, hoàn thành công việc của mình. Nếu làm tốt, mô hình này có thể giúp người dân, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn tiếp cận với các dịch vụ Ngân hàng nhiều hơn, kịp thời hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí.
Ngoài ra, NHNo&PTNT Hà Tĩnh cần có sự phối kết hợp với các cơ quan khoa học kỹ thuật… tổ chức các lớp nâng cao kiến thức cho các hộ sản xuất. Các buổi tập huấn này có thể tổ chức riêng, hoặc lồng ghép với các buổi sinh hoạt của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ. Qua các buổi tập huấn này sẽ giúp các hộ biết kỹ thuật thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, biết canh tác các laọi giống mới, các loại giống cây, con có năng suất cao… từ đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
KẾT LUẬN
Hoạt động cho vay hộ sản xuất có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với NHNo&PTNT Hà Tĩnh mà còn đối với sự phát triển kinh tế tại địa phương.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi nên kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn, hoạt động này càng cần được quan tâm, sâu sát.
Bài viết này đi sâu vào xem xét, đánh giá tầm quan trọng của công tác cho vay hộ tại NHNo&PTNT Hà Tĩnh để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiên nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác cho vay hộ.
Để đạt được hiệu quả cao trong công tác cho vay hộ , NHNo&PTNT Hà Tĩnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó đáng chú ý là công tác cán bộ và công tác huy động vốn, cũng như nâng cao kiến thức cho người dân.
Hy vọng những tìm tòi, đề xuất này sẽ ít nhiều có hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hộ tại NHNo&PTNT Hà Tĩnh.
Một lần nữa, em xin được cám ơn PGS.TS Nguyễn Ngọc Huyền, ban lãnh đạo và tập thể cán bộ NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng bộ Văn phòng NHNo&PTNT Hà Tĩnh: “ Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết trung ương 3, khoá VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh :”Tài liệu tổng kết 15 năm cho vay hộ sản xuất (1991 – 2005)”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: “Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh các năm 2005, 2006, 2007, 2008”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2005 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp kinh doanh năm 2006”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp kinh doanh năm 2007”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp kinh doanh năm 2008”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2008 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp kinh doanh năm 2009”
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh: “Quá trình xây dựng và trưởng thành”, NXB Công ty cổ phần in Thăng Long, tháng 1 năm 2008
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Hà Tĩnh: “Nội quy lao động và những quy định trong công tác quản lý”, NXB Công ty cổ phần in Thăng Long, tháng 1 năm 2008
Ngân Hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: “Đầu tư phát triển kinh tế hộ” , NXB lao động, năm 2006
PGS.TS Nguyền Thành Độ & PGS. TS Nguyễn Ngọc Huyền (Đồng chủ biên): Giáo trình Quản trị kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Năm 2008, tái bản lần thứ 4
PGS. TS Phạm Thị Gái (Chủ biên), Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh, Nhà xuất bản Thống Kê, năm 2004, tái bản lần thứ 2
Quy định số 120/HĐQT-TDDN của NHNo&PTNT Việt Nam “Quy định chi tiết việc thực hiện hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn sản xuất - kinh doanh trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam”
Quyết định số 131/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ “về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn Ngân hàng để sản xuất kinh doanh”
Thông tư số 02/2009/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn Ngân hàng để sản xuất – kinh doanh”
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà Tĩnh.doc