LỜI MỞ ĐẦU i) Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là cách tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn cả theo chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là sự gia tăng hoạt động của các định chế tài chính như các ngân hàng thương mại cổ phần, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các tổ chức tài chính ngân hàng đa quốc gia. Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, minh bạch hơn và bình đẳng hơn giữa các chủ thể tham gia thị trường. Rõ ràng là những biến đổi này sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam môi trường kinh doanh mới với nhiều điều kiện thuận lợi, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh và hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, chính sức ép của cạnh tranh và hội nhập sẽ buộc các ngân hàng Việt Nam phải nỗ lực đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp của các cơ quan chính quyền, tình trạng tài chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng tụt hậu so với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy, lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Không nằm ngoài xu thế đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng xác định phải chủ động đẩy mạnh quá trình cải cách, tiếp tục đổi mới triệt để và toàn diện hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh, vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên những phân tích trên, em chọn đề tài : "Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế". Luận văn tốt nghiệp đi sâu nghiên cứu tình hình hoạt động và thực trạng năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương, trên cơ sở đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa ra những kiến nghị mong muốn góp một phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện Chi nhánh.
Q ii) Mục đích của đề tài
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương ở thời điểm hiện tại; đồng thời xác định các cản trở hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng trong thời gian tới.
iii) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
- Phạm vi nghiên cứu: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
iv) Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu thống kê.
v) Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Chương 2: Tình hình hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
85 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2566 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1000 điểm giao dịch trên toàn quốc. Bên cạnh đó, thẻ ATM của Chi nhánh cũng có thể dùng thanh toán trực tuyến, gửi tiết kiệm có kỳ hạn và mua cước viễn thông, thanh toán tiền nhà, tiền điện, tiền nước... Dịch vụ này, cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch chuyển tiền từ tài khoản ATM thông thường sang tài khoản có kỳ hạn tại máy ATM để được hưởng lãi suất cao hơn. Các sản phẩm này, không chỉ góp phần gia tăng lợi nhuận, mở rộng thị phần qua việc có được một số lượng đông đảo các khách hàng mới mà còn tạo dựng một hình ảnh, thương hiệu Chi nhánh ngày càng trở lên thân thiết với khách hàng.
Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng của Chi nhánh còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Các sản phẩm dịch vụ mới được đề xuất đã lâu như Homebanking, I-banking, mobile bạking ... vẫn chưa được hoàn thiện để triển khai vào thực tế, khi chạy thử còn phát sinh nhiều lỗi. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị còn yếu kém, trình độ ứng dụng công nghệ tin học trong việc phát triển sản phẩm dịch vụ còn hạn chế và không kịp thời. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho chi nhánh, các nghiệp vụ như môi giới, thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn nhiều vướng mắc.
2.3.3. Chất lượng nguồn nhân lực
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sức cạnh tranh của thị trường trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực luôn là một trong những yếu tố được quan tâm hàng đầu. Thời gian vừa qua, chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã mở nhiều lớp đào tạo cho cán bộ công nhân viên để thích ứng với công nghệ hiện đại như các lớp học ngắn ngày về marketing, các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán quốc tế, kho quỹ, kế toán, vi tính, ngoại ngữ… Đồng thời, thực hiện tốt việc thi tuyển đầu vào để tìm những người thực sự có trình độ, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với năng lực và điều kiện của từng phòng ban. Đến nay, chi nhánh đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ công nhân viên vững về chuyên môn nghiệp vụ, tận tâm với công việc, phong cách làm việc chuyên nghiệp. Khách hàng đến với chi nhánh không chỉ được tư vấn về quản lý vốn, quản lý doanh nghiệp mà còn được tư vấn về cách sử dụng các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tín dụng và kế toán.
Đội ngũ cán bộ nhân viên Chi nhánh có tuổi đời trẻ, chủ yếu là dưới 30 tuổi ( năm 2007 với số lượng là 65 người/ tổng số 170 lao động - xem bảng 2.6). Đây chính là một lợi thế so sánh quan trọng của Chi nhánh so với các Ngân hàng khác trên địa bàn.
Bảng 2.6: Độ tuổi của cán bộ nhân viên của Chi nhánh
( Đơn vị tính: Người)
Độ tuổi
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Dưới 30 tuổi
59
53
65
Từ 31 đến 35 tuổi
26
33
34
Từ 36 đến 40 tuổi
14
18
17
Từ 41 đến 45 tuổi
22
26
22
Từ 46 đến 50 tuổi
17
22
24
Từ 51 đến 55 tuổi
8
8
7
Từ 56 đến 60 tuổi
3
2
1
Tổng cộng
149
162
170
(Nguồn: Phòng Tổ chức Chi nhánh)
Với một lực lượng hùng hậu có tính năng động sáng tạo cao, có khả năng chịu được cường độ và áp lực công việc lớn, đang trong thời kỳ phát triển mong muốn cống hiến, được đào tạo cơ bản (trên 73% có trình độ đại học và trên đại học - xem bảng 2.7) và được chọn lọc qua thi tuyển công khai, Chi nhánh đã thực hiện nghiên cứu năng lực cán bộ, đánh giá mặt mạnh mặt yếu của mỗi cán bộ từ đó bố trí các vị trí công việc phù hợp nhằm phát huy tốt nhất các ưu điểm, thế mạnh của từng cán bộ.
Cùng với việc bố trí hợp lý công việc, Chi nhánh đã thực hiện nhiều hình thức đào tạo cụ thể thiết thực và có hiệu quả như:
Đào tạo tổng hợp như các kiến thức chung và các lĩnh vực hoạt động cuả Ngân hàng, giới thiệu về truyền thống Ngân hàng Công thương Việt Nam, vai trò của khách hàng với lợi ích của Chi nhánh, xây dựng tác phong làm việc hiện đại, thái độ phục vụ khách hàng nhanh chóng ân cần, chu đáo…
Đào tạo nâng cao tính làm việc độc lập tự chủ của mỗi cá nhân và thích ứng làm việc theo nhóm, đào tạo đội ngũ lãnh đạo có khả năng quản lý tốt, xây dựng và lập kế hoạch các công việc và chương trình hành động
Thực hiện tài trợ đối với các cán bộ có nhu cầu học tập ngoài giờ hay đối với các cán bộ được học bổng theo học cao học nước ngoài có cam kết trở lại phục vụ
Cùng với những kiến thức được đào tạo, qua giao dịch với một số lượng khách hàng lớn và khối lượng công việc nhiều, liên tục và đa dạng tại Sở giao dịch chính là điều kiện cần thiết cho sự hoà quyện giữa lý thuyết và thực tế tạo nên nhanh chóng những kinh nghiệm cần thiết và không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ trẻ.
Qua số liệu ở bảng 2.7, ta thấy chất lượng nguồn nhân lực của Chi nhánh ngày càng được nâng cao. Số lượng cán bộ nhân viên có trình độ đại học và trên đại học tăng dần qua các năm, mặc dù tốc độ tăng vẫn chưa cao.
Bảng 2.7: Trình độ văn hoá của cán bộ nhân viên của Chi nhánh
( Đơn vị tính: Người)
Trình độ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tiến sỹ
-
-
-
Thạc sỹ
2
3
4
Đại học
107
119
132
Cao đẳng
5
5
8
Trung cấp
19
18
15
(Nguồn: Phòng Tổ chức Chi nhánh)
Năm 2007, tuy Chi nhánh vẫn chưa có cán bộ nhân viên nào có trình độ tiến sĩ nhưng số lượng cán bộ có trình độ thạc sỹ và đại học có xu hướng tăng khá nhanh, trong đó cán bộ nhân viên có trình độ đại học chiếm số lượng đông đảo và có tỷ lệ nhiều nhất. Đây là một dấu hiệu đáng mừng trong công tác cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Chi nhánh.
( Nguồn: Phòng Tổ chức Chi nhánh)
Như vậy, trong những năm vừa qua, Chi nhánh đã có những nỗ lực và đạt được một số thành công trong công tác đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ. Số lượng cán bộ của Chi nhánh tăng cùng với chất lượng cán bộ được nâng cao, năng lực cán bộ quản trị điều hành được nâng lên rõ rệt. Bên cạnh đó, việc đào tạo ở Chi nhánh tuy bài bản nhưng nhiều lúc không khoa học, dàn trải mà chưa tập trung, chưa thực sự chuyên sâu đặc biệt trong các lĩnh vực nghiệp vụ mới như các dịch vụ ngân hàng hiện đại, thanh toán nước ngoài… Chính sách thu hút nhân tài còn kém, tiền tài trợ cho cán bộ đi học tập trong nước và nước ngoài không lớn, chưa đủ động viên khuyến khích cán bộ nỗ lực cống hiến cũng như quay trở lại làm việc khi học xong.
2.3.4. Năng lực quản trị, điều hành
Trong giai đoạn 2001 đến nay, Chi nhánh đã liên tục thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng và đầu tư. Các chỉ tiêu về chất lượng thường xuyên được rà soát, đánh giá và chấn chỉnh đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững. Mô hình tổ chức tại Chi nhánh cũng được cải tiến, trong đó có một bộ phận chuyên trách về phân tích và cảnh báo rủi ro. Danh mục tài sản của ngân hàng được quản lý tập trung, điều chỉnh bởi các công cụ điều hành như chính sách giá điều chuyển vốn nội bộ, hạn mức hoạt động của từng bộ phận, đơn vị, chỉ tiêu lợi nhuận đối với từng sản phẩm và kênh bán hàng.
Tuy nhiên, trình độ quản trị của Chi nhánh vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp. Trình độ quản lý kinh doanh thấp và quản lý rủi ro còn non yếu ( cho vay chủ yếu dựa vào tài sản bảo đảm, năng lực thẩm định tín dụng yếu, hệ thống phân loại nợ chưa phù hợp, nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát còn thiếu chặt chẽ). Hầu hết các cán bộ quản trị ngân hàng của Chi nhánh chưa được đào tào nghề quản trị ngân hàng một cách bài bản, chủ yếu được lựa chọn qua thực tiễn hoạt động kinh doanh nên tính chuyên nghiệp trong quản trị và điều hành không cao. Bên cạnh đó, tiêu thức phân định các phòng, ban của Chi nhánh hiện nay là theo loại hình nghiệp vụ (trong khi ở các ngân hàng tiên tiến, các hoạt động hướng tới khách hàng của họ lại được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng - sản phẩm nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng). Trong điều kiện Chi nhánh hoạt động với quy mô nhỏ, tính chất đơn giản như hiên nay thì mô hình naỳ tỏ ra phù hợp với mức độ tập trung quyền lực cao. Song khi Chi nhánh phát triển với quy mô ngày càng lớn, mô hình trên dần dần sẽ bộc lộ những điểm bất hợp lý.
2.3.5. Trình độ công nghệ
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các Ngân hàng thương mại muốn giữ được thị trường, khách hàng thì công nghệ trong cung ứng dịch vụ được coi là một thứ vũ khí lợi hại, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Công nghệ cung ứng dịch vụ bao gồm tổng hợp các yếu tố như con người, máy móc thiết bị, cách thức tổ chức, quy trình nghiệp vụ cung ứng…Khi một ngân hàng tập hợp đầy đủ các yếu tố nói trên, các ngân hàng đã có thể cung ứng một dịch vụ mới hoàn hảo, mang tính khác biệt cao, nó làm cho sản phẩm của ngân hàng này có tính cạnh tranh hơn hẳn sản phẩm cùng loại do một ngân hàng khác cung ứng. Thay đổi về chất các yếu tố tạo nên một công nghệ trong cung ứng dịch vụ chính là lúc ngân hàng đang thực hiện công nghiệp hóa dịch vụ. Công nghiệp hóa dịch vụ chính là quá trình hoàn thiện công nghệ cung ứng dịch vụ nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho các Ngân hàng thương mại.
Trước xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, để đảm bảo năng lực cạnh tranh của mình, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã không ngừng tự đổi mới các trang thiết bị điện tử, nghiên cứu ứng dụng các phần mềm vi tính trong hoạt động nghiệp vụ và phục vụ khách hàng, từ đó không ngừng nâng cao hơn trình độ công nghệ của mình. Trình độ công nghệ tại Chi nhánh đã dần dần được cải thiện. Mọi hoạt động giao dịch với khách hàng đều được xử lý bằng máy vi tính, giảm thiểu tới mức tối đa các rủi ro trong giao dịch và cung cấp kịp thời thông tin cho công tác quản lý và giám sát. Hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới được cung ứng như dịch vụ thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động, connect 24, dịch vụ Ngân hàng Internet, E-bank .v.v…
Tuy nhiên, hiện nay, mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng còn khá chênh lệch so với hệ thống Ngân hàng trong khu vực. Công nghệ cung ứng dịch vụ của Chi nhánh hiện vẫn đang ở mức lạc hậu. Điều này thể hiện ở chỗ các dịch vụ Ngân hàng hiện đại mà Chi nhánh cung ứng chỉ mới bắt đầu áp dụng trong phạm vi hẹp các đối tượng khách hàng sử dụng, chưa mang tính phổ biến. Mặc dù trong thời gian qua, Chi nhánh đã đẩy mạnh tin học hoá vào hệ thống ngân hàng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Công nghệ đầu tư không đồng bộ mà đơn lẻ, manh mún nên hiệu quả sử dụng không được cao, do đó không có khả năng cung cấp thông tin kịp thời và chính xác để phục vụ công tác quản lý điều hành. Tính không ổn định của công nghệ đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển cuả hệ thống ngân hàng, ngoài ra còn làm cho rủi ro công nghệ rất cao.
Cho đến nay, Chi nhánh vẫn chưa lắp đặt được các hệ thống chương trình nhằm chuẩn hóa dịch vụ ngân hàng, chưa thực hiện được việc nối mạng trong toàn hệ thống để có được một cơ sở dữ liệu thông tin thống nhất về khách hàng. Do vậy, các dịch vụ khá đơn giản và mang lại tiện ích cho khách hàng như gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi, vay một nơi, rút vốn nơi khác, cho đến nay vẫn chưa thực hiện được.
Dịch vụ thanh toán thẻ tuy đã được Chi nhánh thực hiện nhưng do công nghệ không đồng bộ, không hiện đại nên không thu hút được nhiều khách hàng, thị trường thanh toán thẻ chuyển dần sang các Ngân hàng nước ngoài, có công nghệ cao hơn như Hongkong Bank, ANZ…
Thực tiễn trên cho thấy, công nghệ lạc hậu không những làm hạn chế khả năng cung ứng các dịch vụ mới của Chi nhánh mà còn làm giảm đi hiệu quả trong công tác quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng.
2.3.6. Uy tín, thương hiệu
Trong những năm qua, hoạt động thông tin tuyên truyền là phương tiện hữu hiệu, thực sự đã mang lại hiệu quả trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu của Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng.
Việc cung cấp thông tin được Chi nhánh tiến hành cho cả ba đối tượng nhằm giải quyết nhu cầu thông tin trong mối quan hệ: thông tin nội bộ ngân hàng – giới truyền thông – khách hàng.
Trước tiên, thông tin trong nội bộ ngân hàng: Đó là việc phổ biến những thông tin về sản phẩm,dịch vụ, định hướng phát triển đến toàn thể cán bộ nhân viên của Chi nhánh. Bởi hơn ai hết, cán bộ nhân viên là những người trực tiếp giao dịch, tiếp xúc với khách hàng – đây là kênh truyền tải thông điệp từ ngân hàng đến với khách hàng thông qua các mối quan hệ của nhân viên hoặc khi có điều kiện tiếp xúc với người tiêu dùng rất hiệu quả. Hơn nữa, chính sự hiểu biết sâu sắc về những sản phẩm, dịch vụ cũng như nhiệm vụ phát triển của đơn vị mình sẽ làm cho cán bộ nhân viên của Chi nhánh ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc. Đồng thời sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc tư vấn, giới thiệu sản phẩm. Từ đó tạo động lực để mỗi cán bộ nhân viên phải là một đầu mối marketing để giới thiệu, cung cấp được nhiều thông tin tốt của Chi nhánh đến khách hàng.
Thứ hai, thông tin cho báo giới, cơ quan truyền thông: Ngày nay, với trên 630 đầu báo và tạp chí cùng với việc phát triển của công nghệ thông tin đối với báo điện tử thì áp lực về cập nhật thông tin, thông tin chính xác để phục vụ bạn đọc là rất lớn đối với báo giới. Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng – một lĩnh vực rất nhạy cảm – thì yêu cầu về thông tin càng đòi hỏi cao hơn. Chính vì vậy, Chi nhánh đã cố gắng để có thể cung cấp các thông tin về sản phẩm, dịch vụ của mình một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời cho báo giới và cơ quan truyền thông để tránh việc có những thông tin không đúng làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Chi nhánh
Thứ ba, cung cấp thông tin cho khách hàng: Mối quan hệ hữu cơ giữa khách hàng - ngân hàng sẽ chi phối và quyết định phần lớn sự tồn tại của ngân hàng. Trong môi trường với rất nhiều thông điệp tiếp thị xuất hiện liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các bảng hiệu, tờ rơi, website v.v, thì việc lôi kéo sự quan tâm, chú ý của khách hàng là việc làm rất khó. Hơn nữa, bộ nhớ con người là có giới hạn, nó không thể nhớ tất cả các thông tin, đặc biệt những thông tin chung chung, giống nhau, trong khi đó nó thường tiếp nhận những thông tin mới, lạ, khác biệt. Do vậy, Chi nhánh đã chú trọng nhiều hơn tới việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, quan tâm hơn đến phong cách giao dịch của mỗi cán bộ nhân viên trong Chi nhánh để có thể tạo được uy tín và ấn tượng với khách hàng, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của họ.
Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng trong những năm qua, hiện nay Chi nhánh đã khẳng định được một vị thế nhất định trên thị trường.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ và phát triển thương hiệu chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động quảng bá thương hiệu cũng chỉ dừng lại ở những hình thức đơn giản, phổ thông; trong khi đó vấn đề này đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết khi Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Do vậy, Chi nhánh Ngân hàng Công thương nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng cần triển khai thực hiện công tác này tốt hơn trong thời gian tới để thương hiệu của mình có thể tồn tại và phát triển trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài.
2.4. Phân tích năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương theo mô hình Kim cương của Michael Porter
2.4.1. Môi trường kinh doanh, cơ cấu của ngân hàng và đối thủ cạnh tranh
Về môi trường kinh doanh: Trong những năm gần đây môi trường kinh doanh đối với các dịch vụ ngân hàng đã từng bước được cải thiện, đặc biệt là môi trường luật pháp hướng tới sự tự do hoá trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính, tiền tệ. Quá trình chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, và việc phát triển mạnh mẽ các loại hình tổ chức tài chính khác nhau bao gồm ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng với nhiều loại hình sở hữu khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về sở hữu, trên cơ sở đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm tính minh bạch, công khai của hoạt động ngân hàng.
Như vậy, môi trường kinh tế vĩ mô mà Chi nhánh đang hoạt động tương đối ổn định và lành mạnh. Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và chắc chắn trong những năm qua, tỷ lệ lạm phát thấp và môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho việc kinh doanh, đã tạo điều kiện cho Chi nhánh thực hiện chức năng trung gian tài chính một cách ổn định. Nhờ sự ổn định kinh tế vĩ mô, Chi nhánh đã huy động được một lượng tín dụng ngày càng tăng từ các thành phần kinh tế quốc dân, tạo lợi nhuận và mở rộng mạng lưới hoạt động để phục vụ nhiều khách hàng hơn. Hiện nay, Chi nhánh đã có chỗ đứng tương đối vững chắc trên thị trường xét về mạng lưới hoạt động, hiểu biết khách hàng và sự tin cậy. Tuy nhiên, các thể chế và chính sách còn chưa đồng bộ, còn chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Nhiều quy định còn chưa được thống nhất hoặc còn chưa được sửa đổi kịp thời để tạo ra sự đồng bộ trong khuôn khổ chính sách và thể chế. Điều này làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng của Chi nhánh.
Về cơ cấu của Ngân hàng: Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương còn cồng kềnh, chưa được phân bố hợp lý và còn mang tính chất hành chính.
Về đối thủ cạnh tranh: Ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh mãnh liệt trong cả thị trường nội địa và quốc tế khi sự xuất hiện của các Ngân hàng thương mại cổ phần và các Ngân hàng nước ngoài ngày càng gia tăng.
2.4.2. Các điều kiện về cầu
Sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật, mức sống của người dân, và tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở thêm nhiều cơ hội cho các khách hàng sử dụng thêm những dịch vụ ngân hàng khác nhau phù hợp với nhu cầu sống và làm việc mới. Do vậy, nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong tương lai gần sẽ có xu hướng ngày càng tăng cao. Điều này được chứng minh thông qua việc phân tích những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự tăng dân số ( đặc biệt là khu vực đô thị), sự tăng lên của các khu công nghiệp, khu đô thị dẫn đến số doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu dịch vụ ngân hàng tăng lên rõ rệt;
Thứ hai, số người Việt Nam sống, lao động và làm việc ở nước ngoài tăng lên nên nhu cầu chuyển tiền (ngoại tệ) cũng như các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng có chiều hướng tăng cao;
Thứ ba, thu nhập bình quân của người Việt nam dần được nâng lên, qua đó các dịch vụ về ngân hàng sẽ có những bước phát triển tương ứng;
Thứ tư, các hoạt động kinh doanh và đầu tư giữa Việt nam với nước ngoài ngày càng phát triển, cũng như số lượng các doanh nghiệp Việt nam tăng trong những năm tới sẽ làm gia tăng về các dịch vụ ngân hàng;
Thứ năm, cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển, đặc biệt là lĩnh vực bưu chính viễn thông tạo điều kiện cho những tiện ích của dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng phát triển mạnh hơn.
Như vậy, khi tất cả các hoạt động của nền kinh tế tăng lên, nhu cầu và cơ hội để Chi nhánh cho vay và huy động vốn cũng tăng lên.
Tuy nhiên, với một môi trường canh tranh mạnh mẽ như hiện nay, sự lựa chọn và yêu cầu của khách hàng đối với những sản phẩm và dịch vụ sẽ cao hơn. Điều này đòi hỏi Chi nhánh tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.4.3. Các ngành phụ trợ và liên quan
Sự phát triển của ngành ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực khác như tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, giao thông vận tải.. , trong đó ngành tin học điện tử viễn thông có liên quan trực tiếp và hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Trong những năm qua, công nghệ tin học, viễn thông đang từng bước phát triển mạnh và đem lại những lợi ích quan trọng cho ngành ngân hàng trong việc kết nối trong hệ thống và kết nối toàn cầu. Việc kết nối mạng hệ thống toàn cầu đã cho phép nhiều ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán về thẻ và thành lập những trung tâm thẻ, qua đó các giao dịch chi trả và thương mại được thực hiện.
Bên cạnh ngành tin học điện tử viễn thông, hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với ngành ngân hàng. Để phục vụ công tác phát triển nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng, bên cạnh hệ thống các trường đại học quốc lập và dân lập thuộc các khối kinh tế và thuộc các khoa chuyên ngành ngân hàng, tài chính của các trường đại học, sự hiện diện của ngày càng nhiều trung tâm đào tạo tập trung vào đội ngũ cán bộ ngân hàng đã tạo điều kiện cho những đổi mới và cải tiến trong nội dung đào tạo phục vụ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
2.4.4. Các điều kiện về yếu tố đầu vào
Về nguồn lực tài chính: Quy mô và mạng lưới hoạt động của Chi nhánh không ngừng mở rộng. Quy mô vốn tuy còn nhỏ nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm khách hàng để huy động vốn và cho vay, đa dạng hoá sản phẩm và hình thức huy động vốn, đồng thời cung cấp nhiều sản phẩm tín dụng cho khách hàng. Chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện nhờ áp dụng đồng loạt các giải pháp tăng cường năng lực tự kiểm soát chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó, cơ cấu sử dụng vốn của Chi nhánh đang được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư và phi tín dụng, đa dạng hoá cơ cấu huy động vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, chất lượng tài sản có thấp, tốc độ tăng tài sản có tuy lớn nhưng khả năng sinh lời không được cải thiện tương ứng, do đó khả năng tự bổ sung vốn tự có bị hạn chế.
Bảng 2.8: Cơ cấu sử dụng vốn của Chi nhánh
(Đơn vị: Triệu VND)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Các khoản đầu tư
99.824
106.481
399.572
Cho vay nền kinh
18.925.887
20.706.703
22.100.157
(Nguồn: Phòng Tổng hợp Chi nhánh)
Về trình độ công nghệ, thông tin : Đến nay, hơn 80% các nghiệp vụ ngân hàng của Chi nhánh đã được xử lý bằng máy tính và hầu hết được xử lý trên mạng thay cho các máy tính đơn lẻ. Các quy trình nghiệp vụ huy động vốn, thanh toán, cho vay, kinh doanh ngoại hối... đã bắt đầu được chuẩn hoá.
Về chất lượng nguồn nhân lực và quản trị điều hành: nguồn nhân lực tuy đông nhưng chất lượng vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế. Năng lực nhân sự có hạn có thể cản trở nghiêm trọng khả năng của ngân hàng trong việc xử lý khối lượng giao dịch ngày càng lớn và rủi ro ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, việc thiếu một cơ cấu quản trị và quy trình phục vụ khách hàng hiện đại cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Chi nhánh. Các khoản vay có thể phải qua nhiều giai đoạn, được xử lý bởi nhiều nhân viên ở nhiều bộ phận trong Chi nhánh. Điều này làm khách hàng phải chờ đợi thời gian dài, đi nhiều quầy để thực hiện một giao dịch. Nó sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của Chi nhánh khi xã hội ngày càng hiện đại với những khách hàng là công ty hay cá nhân có đòi hỏi ngày càng cao hơn.
2.5. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
2.5.1. Những thành công của Chi nhánh
Về nguồn lực tài chính: Trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm giữ ổn định và phát triển nguồn vốn, nhờ đó tổng nguồn vốn của Chi nhánh có xu hướng tăng trong thời gian qua và tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định. Sự gia tăng về quy mô vốn đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Chi nhánh trên thị trường, mở rộng phạm vi hoạt động cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới.
Về các sản phẩm dịch vụ: Chi nhánh đã và đang không ngừng hoàn thiện các sản phẩm của mình, tập trung nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ đã có đồng thời cố gắng đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng ở mức có thể để đưa ra được nhiều sản phẩm mới nhằm đáp ứng yêu cầu ngày cáng cao của khách hàng.
Về nguồn nhân lực: Nhờ những nỗ lực trong công tác tuyển dụng và đào tạo, Chi nhánh đã có được lợi thế cạnh tranh về đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ hùng hậu, năng động và sáng tạo. Lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho Chi nhánh trong việc học hỏi, ứng dụng các công nghệ hiện đại nhanh hơn. Đồng thời, sự trẻ trung, nhiệt tình của cán bộ nhân viên sẽ mang lại cảm giác thoải mái cho khách hàng.
2.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân
* Những tồn tại của Chi nhánh:
Bên cạnh những thành công đã đạt được trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể là:
Về năng lực tài chính: Tuy tổng nguồn vốn của Chi nhánh có xu hướng tăng về quy mô và có được mức tăng trưởng tương đối ổn định, nhưng với mức quy mô đó, Chi nhánh vẫn chưa đạt được khả năng cạnh tranh cao trong tiêu chí này. So với các Chi nhánh của các ngân hàng khác trong khu vực, tổng nguồn vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương còn khá nhỏ bé về quy mô, mặc dù mức chênh lệch không cao lắm. Điều này vừa không mang lại cho Chi nhánh lợi thế cạnh tranh về vốn, vừa không tạo điều kiện cho Chi nhánh mở rộng phạm vi hoạt động, đầu tư vào việc đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các hệ thống quản lý rủi ro và hệ thống thanh toán nội bộ... Do vậy, quy mô vốn nhỏ còn hạn chế năng lực cạnh tranh của Chi nhánh trong các tiêu chí khác như: chất lượng sản phẩm dịch vụ, trình độ công nghệ ...
Về chất lượng sản phẩm dịch vụ: Các sản phẩm dịch vụ của Chi nhánh còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Chi nhánh mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thông thường và phổ biến, mà chưa có được những sản phẩm mới, nổi trội. Trong khi ở các ngân hàng thương mại cổ phần, do quy mô vốn lớn hơn nên họ có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ và nghiên cứu, phát triển các sản phẩm mới, vì vậy các sản phẩm của họ thường đa dạng hơn, hiện đại hơn và theo kịp sự phát triển của thế giới. Chính điều này đã không tạo được lợi thế cạnh tranh cho Chi nhánhỉtong tiêu chí này.
Về chất lượng nguồn nhân lực: Tuy Chi nhánh có đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ và khá đông nhưng trình độ am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự chuyên nghiệp trong việc thực hiện các giao dịch phục vụ khách hàng chưa cao. Có thể nói đây là điểm yếu chung của các ngân hàng thương mại nhà nước. Chính điều này đã làm cho khách hàng có xu hướng chuyển sang sử dụng các dịch vụ của các ngân hàng thương mại cổ phần, vì ở các ngân hàng này họ được phục vụ nhanh chóng hơn và chuyên nghiệp hơn.
Về năng lực quản trị: Nhìn chung, trình độ quản trị của Chi nhánh vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu chuyên nghiệp. Chi nhánh cũng chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu, kiểm tra, kiểm toán chưa hiệu quả; hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, các cán bộ quản trị ngân hàng của Chi nhánh chủ yếu được lựa chọn qua thực tiễn hoạt động kinh doanh mà không được đào tạo nghề quản trị ngân hàng một cách bài bản, do vậy tính chuyên nghiệp trong quản trị và điều hành không cao.
Về trình độ công nghệ: Hiện nay, mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong Chi nhánh còn khá chênh lệch so với các Chi nhánh của các ngân hàng khác trong cùng khu vực. Điều này làm hạn chế hiệu quả các hoạt động khác của Chi nhánh, như: khả năng cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, khả năng quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng... Có thể nói năng lực cạnh tranh của Chi nhánh trong tiêu chí này còn tương đối kém.
Về uy tín thương hiệu: Trong thời gian vừa qua, nhờ sự nỗ lực không ngừng, Chi nhánh đã khẳng định được một vị thế nhất định trên thị trường. Tuy nhiên, Chi nhánh chưa thực sự quan tâm đúng mức trong công tác xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu của mình. Đặc biệt, trong sự phát triển hiện nay, với sự xuất hiện của nhiều ngân hàng mới ( trong nước và nước ngoài), điều này sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh của Chi nhánh trong tâm trí khách hàng. Vì vậy, Chi nhánh cần đầu tư nhiều hơn để ngày càng khẳng định được thương hiệu của mình.
* Nguyên nhân:
Thứ nhất, kinh doanh ngân hàng là hoạt động tài chính rất phức tạp, rủi ro lớn trong khi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương mới ra đời và hoạt động độc lập được 20 năm. Vì vậy, khung pháp lý, năng lực thể chế, kinh nghiệm quản lý, nhân lực và công nghệ còn rất yếu và lạc hậu so với trình độ quốc tế. Môi trường hoạt động Ngân hàng còn thiếu tính cạnh tranh lành mạnh và tiềm ẩn nhiều rủi ro
Thứ hai, khả năng giám sát hoạt động của Chi nhánh còn rất hạn chế về chuẩn mực, quy trình nghiệp vụ, phương thức, công cụ và hiệu lực giám sát, đặc biệt là khả năng phát hiện, đo lường, xử lý rủi ro còn yếu
Bên cạnh đó, với cơ chế khuyến khích, đãi ngộ và sức mạnh tài chính hiện tại còn yếu kém, nên việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, thu hút nhân tài để chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài của Chi nhánh là không đáng kể. Hệ thống đào tạo trong nước và bồi dưỡng tại chỗ chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ ba, năng lực tài chính của Chi nhánh còn yếu. Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều đổi mới, song đến nay, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính của Chi nhánh còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản đạt chưa tới 5% (thông lệ tối thiểu là 8%).
Thứ tư, các dịch vụ ngân hàng của Chi nhánh còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho Chi nhánh, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc.
Thứ năm, Chi nhánh còn thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả, bền vững. Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Thứ sáu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Đội ngũ lao động của Chi nhánh khá đông nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ Chi nhánh còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở các nước trong nhiều năm qua.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
CHƯƠNG DƯƠNG
3.1. Cơ hội và thách thức đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng là làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển, để từ đó hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể cạnh tranh một cách chủ động và phát triển.
3.1.1. Cơ hội đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Đối với ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, đề ra biện pháp phòng ngừa rủi ro, qua đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, ngành ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, có khả năng theo kịp yêu cầu phát triển thị trường tài chính trong nước và ngoài nước ... Cụ thể là:
* Một sân chơi lớn hơn và công bằng hơn:
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường và thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khi thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả hoạt động của nền kinh tế tăng lên, nhu cầu và cơ hội để Ngân hàng cho vay và huy động vốn cũng tăng lên. Khi kinh tế phát triển, nhiều doanh nghiệp làm ăn có lãi thì khả năng trả nợ của họ cũng tăng lên, điều này có tác động tích cực tới Ngân hàng. Danh mục kinh doanh và tài sản của Ngân hàng sẽ có chất lượng tốt hơn, đây là điều kiện cần thiết để Ngân hàng tiếp cận thị trường vốn, tăng vốn chủ sở hữu và trở nên lớn hơn.
* Sự tham gia của Ngân hàng nước ngoài:
Tất nhiên khi hội nhập kinh tế quốc tế, khi mở cửa thị trường thì cạnh tranh khắc nghiệt hơn sẽ xảy ra đối với Ngân hàng. Nhưng điều này cũng sẽ mang lại kết quả là Ngân hàng phải hoạt động tốt hơn, nhờ đó khách hàng sẽ có cơ hội được chọn lựa nhiều sản phẩm và chất lượng dịch vụ cao hơn. Như vậy khách hàng cũng như nền kinh tế sẽ được hưởng lợi hơn.
Khi các hạn chế về sở hữu nước ngoài trong các Ngân hàng Việt Nam được dỡ bỏ, các Ngân hàng nước ngoài có thể mua cổ phần của các Ngân hàng Việt Nam và trở thành cổ đông chiến lược. Như vậy, các Ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Điều này sẽ giúp các Ngân hàng trong nước mạnh hơn và cạnh tranh hơn. Hơn nữa, đối với Ngân hàng trong nước, việc một lượng cổ phần của mình được nắm giữ bởi một Ngân hàng quốc tế thì uy tín của Ngân hàng trong nước trong mắt của các nhà đầu tư và của công chúng sẽ tăng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho Ngân hàng tiếp cận và chuyên môn hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các Ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, điều này buộc các Ngân hàng trong nước phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.
* Sự trao đổi, hợp tác quốc tế
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các Ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong các giao dịch quốc tế . Nó tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế.
Như vậy, hội nhập quốc tế tạo ra nhiều thuận lợi và cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam phát triển thành một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả và phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế
3.1.2. Thách thức đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Hội nhập quốc tế mang lại cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương nói riêng không ít những cơ hội để phát triển, tuy nhiên bên cạnh những cơ hội đó, Chi nhánh cũng phải đối mặt với hàng loạt thách thức. Cụ thể là:
Thứ nhất, cạnh tranh trong việc giữ và mở rộng thị trường: Việc loại bỏ dần các hạn chế đối với các Ngân hàng nước ngoài có nghĩa là các Ngân hàng nước ngoài sẽ từng bước tham gia vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại nước ta. Không chỉ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt bởi các Ngân hàng thương mại nước ngoài, các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài chính khác như thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm ... Điều này sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh trong ngành Ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng phải tăng thêm vốn, đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, khả năng tài chính, trình độ quản lý và công nghệ của Chi nhánh còn thấp, dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, tiện lợi nên thách thức về cạnh tranh đối với Chi nhánh là khá lớn, đặc biệt là Chi nhánh có những phạm vi hoạt động kinh doanh phù hợp với lĩnh vực hoạt động, có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài như: thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, đầu tư dự án và các khách hàng trọng tâm của các ngân hàng nước ngoài như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu…
Thứ ba, Chi nhánh đầu tư tập trung quá nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước mà phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ rủi ro rất lớn đối với Chi nhánh
Thứ tư, hội nhập quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi đó cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng của Chi nhánh còn rất đơn giản, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm pháp luật về ngân hàng và sự an toàn của hệ thống ngân hàng, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh báo sớm các rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Chi nhánh cần xây dựng cho mình hình ảnh một Ngân hàng có uy tín, đủ năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư.
3.2.1. Giải pháp của Chi nhánh
Thứ nhất, nâng cao năng lực tài chính
Để có thể tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì điều quan trọng là Ngân hàng phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Năng lực tài chính của Chi nhánh nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn thấp. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, Chi nhánh nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro, tăng cường thu hút tiền gửi để tăng quy mô vốn...
Về chiến lược thu hút tiền gửi, Chi nhánh cần xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, Chi nhánh cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Thứ hai, phát triển công nghệ kỹ thuật ngân hàng hiện đại, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
Công nghệ ngân hàng của Chi nhánh dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị đánh giá là yếu kém. Nhìn chung, các phần mềm Chi nhánh đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Song song với việc hiện đại hoá công nghệ, Chi nhánh cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo cho khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, Chi nhánh cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
Thứ ba, xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp
Chiến lược khách hàng là một trong những phương thức mà các ngân hàng sử dụng cho cuộc chiến cạnh tranh của mình, đó là toàn bộ quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện những hoạt động từ việc nghiên cứu, phát hiện nhu cầu đến việc thoả mãn tốt những nhu cầu mong muốn của nhóm khách hàng bằng hệ thống những chính sách, công cụ nhằm duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống và mở rộng quan hệ với khách hàng tiềm năng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Do vậy, Chi nhánh cần xây dựng một chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
Thứ tư, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm
Các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của khách hàng ngày càng nhiều hơn và yêu cầu cao hơn. Do vậy, để cạnh tranh với các đối thủ khác, mỗi ngân hàng đều cần quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, do quy mô vốn của Chi nhánh còn nhỏ nên việc phát triển các sản phẩm mới cần được thực hiện một cách từ từ và có chọn lọc. Chi nhánh phải xác định được dịch vụ cốt yếu của mình và tập trung phát triển chất lượng các dịch vụ đó. Việc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng nên gắn liền với việc chuyên môn hoá các dịch vụ mà khách hàng của mình sử dụng, tránh việc đầu tư dàn trải.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị điều hành
Chi nhánh cần đẩy mạnh việc chuẩn hoá các quy trình quản lý và vận hành. Tất cả các quy trình trong Chi nhánh cần được tích hợp trong hệ thống tự động để đảm bảo các hoạt động được thực hiện một cách có hiệu quả và giảm bớt chi phí hành chính. Đồng thời, năng lực quản trị chiến lược của cán bộ lãnh đạo Chi nhánh cần được cải thiện hơn để có thể nhanh chóng nắm bắt xu thế phát triển và đưa ra những chiến lược có hiệu quả.
Bên cạnh đó, Chi nhánh cần chú ý hơn nữa đến các hoạt động kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro nhằm đảm bảo ngân hàng vận hành an toàn, đặc biệt việc áp dụng các hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng và kiểm soát nợ xấu có thể xảy ra nên được Chi nhánh chú ý thực hiện.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Sự thành công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên. Do đó, công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ phải được đầu tư thích đáng, được coi là nhiệm vụ thường xuyên của ngân hàng. Đặc biệt đối với Chi nhánh, đội ngũ cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ đông đảo, còn thiếu kinh nghiệm thực tế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, cho nên công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần được chú trọng hơn nữa. Chi nhánh cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Công tác đào tạo phải được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau:
Đào tạo cơ bản đối với cán bộ mới bao gồm cán bộ mới tuyển dụng, cán bộ mới từ nghiệp vụ khác chuyển sang.
Đào tạo nâng cao đối với cán bộ nghiệp vụ có trình độ và thời gian công tác nhất định chủ yếu nhằm nâng cao kỹ năng tác nghiệp, trình độ xử lý các tình huống nghiệp vụ.
Đào tạo chuyên sâu: Mỗi nghiệp vụ ngân hàng nên chia thành cấp độ chuyên sâu khác nhau như huy động vốn, sử dụng vốn, thanh toán và nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc, chuẩn bị điều kiện cho hội nhập khu vực và quốc tế.
Nhưng dù ở lĩnh vực nghiệp vụ nào cũng cần quán triệt sâu sắc quan điểm từng cán bộ phải phát huy hết khả năng, năng lực của mình đóng góp vào hoạt động của ngân hàng.
Hơn nữa, Chi nhánh cần phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực tiếp cận thị trường, trang bị tốt kiến thức về marketing, khả năng giao tiếp với khách hàng, tập huấn các văn bản chế độ mới liên quan tới ngân hàng bởi dưới con mắt của khách hàng, nhân viên giao dịch là hình ảnh, là người quyết định mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Chất lượng dịch vụ mà họ nhận được có sự đóng góp rất to lớn từ thái độ phục vụ, kiến thức, kinh nghiệm làm việc của nhân viên ngân hàng. Được trang bị đầy đủ kiến thức nhân viên ngân hàng mới có khả năng nắm bắt được tình hình kinh doanh của khách hàng từ đó có khả năng tư vấn cho khách hàng tốt hơn.
3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
* Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam là vấn đề quan trọng cần được thực hiện nhằm tạo lập hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Điều này sẽ thiết thực phục vụ cho lộ trình hội nhập quốc tế và tạo lập một hệ thống các quy định thận trọng để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên xem xét cân nhắc những kiến nghị sau:
Thứ nhất, về hệ thống pháp lý: Ngân hàng Nhà nước cần tiến hành rà soát tổng thể và đối chiếu toàn bộ các quy định và văn bản luật hiện hành và tính tương thích của các quy định và văn bản luật này với các cam kết và yêu cầu của các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính. Nhiệm vụ này cần được thực hiện để xác định các lỗ hổng về mặt pháp lý, các trở ngại, các khác biệt và mâu thuẫn giữa hệ thống các quy định pháp lý.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng các cơ chế và chính sách về minh bạch hoá và công khai các thông tin của các tổ chức tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho các ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán. Một mặt thị trường chứng khoán là kênh tạo vốn quan trọng cho các ngân hàng tăng cường khả năng tài chính, mặt khác các ngân hàng được niêm yết sẽ phải hoạt động minh bạch hơn và có hiệu quả hơn.
Thứ hai, về tăng cường năng lực cho các ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước cần thúc đẩy hơn nữa và thể chế hoá việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng ( CAMELs, BASEL) vào trong thực tiễn quản trị và hoạt động của tất cả các ngân hàng tại Việt Nam.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét để sớm xoá bỏ các văn bản, thủ tục có tính chất bảo hộ và phân biệt đối xử giữa các ngân hàng trong nước trước khi thực hiện các biện pháp tự do hoá hơn nữa.
* Kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ ngành liên quan
Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đẩy mạnh sự phát triển của các yếu tố đầu vào và các ngành liên quan như thị trường chứng khoán, công nghệ thông tin, kế toán, kiểm toán, và giáo dục đào tạo ... để hỗ trợ sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các bộ ngành, địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước để trợ giúp cho các ngân hàng trong việc giải quyết vấn đề nợ quá hạn. Nếu không các ngân hàng Việt Nam, đặ biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn phải tiếp tục đối mặt với tình trạng nợ xấu của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Ngoài ra, Chính phủ và các bộ ngành liên quan như bộ Tư pháp, Toà án cần tăng cường thực thi pháp luật nhằm giải quyết hiệu quả các trường hợp gian lận ngân hàng, người vay mất khả năng trả nợ và điều kiện để phát mại các tài sản cầm cố ... Nếu lợi ích của cả người đi vay và người cho vay được bảo đảm thì sẽ kích thích họ thực hiện nhiều giao dịch và kinh doanh hơn.
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện đang là xu hướng phát triển tất yếu của thời đại và là yêu cầu khách quan đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một nước. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực như : trao đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia và khu vực, lưu chuyển vốn quốc tế,… tạo điều kiện cho các quốc gia có thể hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật công nghệ,… trong hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, hoạch định chính sách tiền tệ,… Từ đó có giải pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín kinh doanh trên thị trường tài chính quốc tế .
Trong xu thế đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã có những chủ động và đang từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Sau gần 20 năm hoạt động, Chi nhánh đã khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc khi không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và đối tượng khách hàng thông qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác .
Tuy nhiên, để có thể tồn tại và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chi nhánh phải từng bước chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các hình thức dịch vụ ngân hàng hiện đại, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.DOC