MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
I. Dược phẩm và phân loại dược phẩm
1.Quan niệm về dược phẩm và phân loại
1.1. Khái niệm về dược phẩm
1.2. Phân loại dược phẩm (đứng từ góc độ sản xuất)
2. Quan niệm về cạnh tranh và các cấp độ của cạnh tranh
2.1. Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
2.2. Các cấp độ của cạnh tranh
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm
3.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
3.2. Các yếu tố thuộc nội bộ ngành
3.3. Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp
II.Các tiêu chí và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1. Phương pháp luận phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh
1.1. Đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dược
1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
2. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
III. Vai trò và ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực dược phẩm
1. Việt Nam là nước đông dân, nhiều loại bệnh tật cần có một ngành dược tầm cỡ đủ sức cạnh tranh trên thế giới
2. Sự phát triển của ngành dược phẩm góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân
3. Năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh
4. Yêu cầu hội nhập đối với các mặt hàng nói chung và dược phẩm nói riêng ngày càng cao
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
I. Quá trình hình thành và phát triển của dược phẩm
1. Giai đoạn trước năm 1954
2.Giai đoạn 1954 – 1975
3.Giai đoạn từ 1975 đến nay
II.Thực trạng dược phẩm Việt Nam
1. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc tân dược ở Việt Nam
2.Kết quả hoạt động xuất – nhập khẩu dược phẩm Việt Nam
III.Phân tích năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
1.Mức doanh thu của dược phẩm Việt Nam qua các năm
2.Thị phần dược phẩm Việt Nam
3.Giá cả dược phẩm
4. Chất lượng sản phẩm
5. Mức hấp dẫn của sản phẩm về chủng loại, mẫu mã, bao gói .so với đối thủ cạnh tranh
6. Thương hiệu thuốc Việt Nam
7.Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
IV.Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
1.Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
1.1.Các yếu tố kinh tế
1.2.Các yếu tố chính trị pháp luật
1.3.Các yếu tố văn hóa – xã hội
1.4.Yếu tố môi trường kinh doanh quốc tế
2.Các yếu tố thuộc nội bộ ngành
2.1.Áp lực từ phía khách hàng
2.2.Áp lực từ nhà cung cấp
2.3.Áp lực từ sản phẩm cạnh tranh
2.4.Áp lực từ phía đối thủ tiềm ẩn
2.5.Cạnh tranh trong nội bộ ngành dược Việt Nam
3.Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp
3.1.Nguồn nhân lực
3.2.Quy mô sản xuất kinh doanh và tài chính
V. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
1. Điểm mạnh và cơ hội của dược phẩm Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
1.1. Điểm mạnh của dược phẩm Việt Nam
1.2. Cơ hội đối với dược phẩm khi gia nhập WTO
2.Điểm yếu và thách thức đối với dược phẩm Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
2.1. Điểm yếu của dược phẩm Việt Nam
2.2.Thách thức đối với dược phẩm Việt Nam khi gia nhập WTO
3.Kết luận chương II
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
I.Phương hướng, quan điểm, mục tiêu, dự báo của dược phẩm Việt Nam trong thời gian tới
1.Phương hướng, quan điểm, mục tiêu của dược phẩm Việt Nam
2.Những dự báo trong thời gian tới
II.Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
1.Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
2.Giải pháp về giá của sản phẩm
3.Một số giải pháp khác
4.Khuyến nghị
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
73 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3929 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực sự tới các doanh nghiệp trong ngành.
Áp lực từ phía đối thủ tiềm ẩn
Dược phẩm là ngành có tỷ suất lợi nhuận cao nên sức hấp dẫn của ngành là khá lớn. Nhưng do đặc thù của ngành là liên quan trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của con người nên rào cản gia nhập ngành là rất lớn. Một doanh nghiệp muốn ra nhập trong lĩnh vực dược phẩm thì ngoài việc phải có nguồn vốn lớn, khoa học kĩ thuật cao, và đặc biệt là rào cản về pháp luật khi phải chịu ràng buộc về giấy phép hành nghề dược, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng (GMP, GPP, GDP…) và chịu sự giám sát chặt chẽ của Bộ Y tê ( mà cụ thể là Cục quản lý dược Việt Nam ).
Cạnh tranh trong nội bộ ngành dược Việt Nam
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc sự đe dọa cho doanh nghiệp. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành thường chịu sự tác động lớn của số doanh nghiệp cùng hoạt động trong cùng một lĩnh vực.
Các doanh nghiệp dược Việt Nam ngoài mối đe dọa từ bên ngoài thì còn phải đối mặt với các doanh nghiệp trong nước. Để tồn tại và phát triển thì mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược riêng đối với từng sản phẩm cụ thể.
Bảng 12: Số liệu đăng ký thuốc trong nước phẩn loại theo tân dược và đông dược )
Tổng số đăng ký
SĐK tân dược
Tỷ lệ %
SĐK Đông dược
Tỷ lệ%
9.727
7.923
81,46%
1.804
18,54%
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Nhìn vào bảng thống kê trên thấy rằng: tính đến hết năm 2008 các đơn vị sản xuất đã phát triển đăng ký thuốc ở cả 2 lĩnh vực tân dược và đông dược. Từ đó đáp ứng được nhu cầu điều trị theo tính đa dạng đông- tây y. Tỷ lệ tân dược chiếm gấp hơn 3 lần đông dược phản ánh đúng thực trạng dùng thuốc của người dân. Nhưng với ưu thế là nguồn dược liệu khá phong phú, các doanh nghiệp dược Việt Nam đã chưa thể tận dụng được điểm mạnh của mình và gây tổn thất một thị phần thị trường khá quan trọng.
Bảng 13: Số liệu SĐK thuốc trong nước theo nhóm dược lý tính đến 31/3/2009
Nhóm dược lý
Số lượng SĐK
Các loại khác (Đông dược + không phân loại được)
2539
Chống nhiễm khuẩn - ký sinh trùng
2306
Hạ nhiệt - giảm đau - chống viêm phi steroid
1221
Vitamin và thuốc bổ
1111
Thuốc đường hô hấp
433
Thuốc tác dụng trên dạ dày, ruột
424
Thuốc tim mạch
251
Chống dị ứng
216
Thuốc ngoài da ( ngứa, nhiễm khuẩn, viêm ngứa )
200
Thuốc tác dụng đến máu
194
Hormon và cấu trúc hormon
150
Thuốc vè mắt
140
Thuốc gan – mật
119
Thuốc tâm thần, an thần
94
Thuốc dãn cơ và ức chế Cholinesterase
66
Dung dịch điều chỉnh nước và điện giải
52
Thuốc tai mũi họng và răng
31
Chống động kinh
30
Thuốc lợi tiểu
25
Chống đau nửa đầu
14
Chống độc
9
Thuốc sát trùng, tẩy uế
6
Tê – mê
4
Thuốc chống ung thư
2
Huyết thanh Globulin miễn dịch
1
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
So với những năm trước đây, thuốc sản xuất trong nước đã xuất hiện nhóm thuốc tim mạch, tâm thần, chống ung thư, thuốc hormon, thuốc tê mê, thuốc tác dụng đến máu, ... là một chuyển hướng rất cần khuyến khích. Tuy nhiên, thuốc kháng sinh, hạ nhiệt giảm đau và vitamin vẫn chiếm tỷ lệ rất cao so với số lượng ít ỏi của thuốc chuyên khoa. Việc thuốc nội địa tập trung nhiều vào các sản phẩm thông thường làm cho việc tranh giành thị phần của các sản phẩm này trở lên khốc liệt.
Có thể thấy rằng hiện nay thị trường thuốc tân dược Việt Nam là thị trường phân tán. Phần lớn các doanh nghiệp sản xuất có quy mô không quá lớn và hầu như không có doanh nghiệp nào thực sự có khả năng chi phối toàn ngành. Do đó các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh trực tiếp với nhau để giành được thị phần. Sức ép từ phía trong nội bộ ngành dược Việt Nam là lớn mức độ cạnh tranh căng thẳng.
Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp
Nguồn nhân lực
Theo báo cáo của các Sở Y tế, tính đến 31/12/2008 tổng số dược sĩ đại học (kể cả trên đại học) làm việc tại 63 tỉnh thành là: 13.928 người; dược sĩ trung học là: 29.785 người và dược tá là: 32.699 người. Như vậy, chưa kể đến dược sĩ làm việc tại các trường, viện, bệnh viện trung ương thì đã đạt lỷ lệ 1,5 dược sĩ đại học/1 vạn dân. Tuy nhiên, theo báo cáo của các sở Y tế thì tình trạng thiếu nhân lực dược trong nhiều năm nay vẫn chưa được cải thiện. Thiếu nhân lực dược trước hết ở hệ thống quản lý hành chính; ở nông thôn, miền núi thì tình trạng thiếu dược sĩ ở tất cả mọi khu vực, đặc biệt là tuyến huyện và bệnh viện đa khoa tỉnh.
Thiếu nhân lực dược gắn liền với phân bố không đồng đều. Cùng với xu thế đô thị hoá và tập trung hoá kinh tế- xã hội, dòng nhân lực dược trong những năm gần đây tiếp tục "chảy" về các thành phố lớn:
+ Chỉ riêng 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.257 dược sĩ đại học chiếm 52% so với toàn quốc;
+ Chỉ 10 tỉnh có nhiều dược sĩ đại học nhất: Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai, Nam Định, Thanh Hoá, Đồng Tháp, Bình Dương, Nghệ An, Thừa Thiên-Huế, và Đà Nẵng có 9.143 dược sĩ đại học chiếm 65,6% so với toàn quốc.
+ Trong khi 10 tỉnh có ít dược sĩ đại học nhất: Kon Tum (11), DăkNong (21), Lai Châu (21), Điện Biên (30), Lào Cai (32), Bắc Cạn (33), Bình Phước (34), Ninh Thuận (37), Hậu Giang (43), Bình Thuận (50) chỉ chiếm 2,2% so với toàn quốc.
Bảng 14: Thống kê số dược lượng sỹ đại học tại các địa phương
Năm
Dược sỹ
2005
2006
2007
2008
Dược sĩ sau đại học (1)
858
963
1089
1146
Dược sĩ đại học (2)
8509
9458
9075
12.777
Tổng
9367
10421
10164
13.941
Bình quân số dược sĩ đại học/vạn dân
1.1
1.2
1.19
1,5
Nguồn: Bộ Y tế
Như vậy rõ ràng bên cạnh tình trạng thiếu số lượng tuyệt đối về dược sĩ đại học thì tình trạng phân bố không đồng đều dược sĩ đại học đang là tình trạng đáng báo động. Những cơ chế chính sách để đào tạo, thu hút dược sĩ đại học về nông thôn, miền núi và những vùng miền khó khăn cần được soạn thảo, ban hành để trở thành những giải pháp quan trọng cho vấn đề nhân lực dược địa phương.
Đồng thời, sau khi gia nhập tổ chức WTO, các doanh nghiệp dược nước ngoài với nguồn vốn lớn và nhiều chính sách ưu đãi nhằm lôi kéo nhân tài ngành dược dẫn đến việc “ chảy máu chất xám ”. Đây là sự lãng phí to lớn mà ngành dược nội địa cần có biện pháp khắc phục.
Quy mô sản xuất kinh doanh và tài chính
Phần lớn các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm chưa thực sự có nguồn vốn lớn do đó máy móc, thiết bị sản xuất vẫn còn khá lạc hậu, nhiều loại sản phẩm chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn GMP. Mặc dù Nhà nước đã quan tâm đầu tư và coi dược phẩm là ngành cần phát triển nhưng sự đầu tư còn giàn trải, thiếu tập trung dẫn đến lãng phí nguồn lực. Đồng thời, các doanh nghiệp dược Việt Nam vẫn mắc phải một vấn đề lớn đó chính là cơ cấu đầu tư sản xuất chưa hợp lý. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Sự bất hợp lý được thể hiện ở chỗ các dây truyền sản xuất thuốc đặc trị và giá trị cao vẫn chưa thực sự được chú ý. Việc sản xuất tập trung chủ yếu vào các loại dược phẩm thông dụng. Ta có thể thấy theo biểu đồ sau:
Hình 11: Cơ cấu đầu tư cho dây truyền sản xuất.
4%
5%
7%
8%
10%
15%
51%
Dịch truyền
Thuốc nhỏ mắtt
Thuốc tiêm
Thuốc nước
Thuốc nang mềm
Thuốc kem dùng ngoài
Thuốc viên thông thường
Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam
Như biểu đồ trên, ta thấy rằng, các loại thuốc tiêm, dịch truyền đem lại lợi nhuận cao nhưng đòi hỏi yêu cầu kĩ thuật và dây truyền hiện đại vẫn chưa thực sự được chú ý đúng mức chỉ chiếm 10%. Ngược lại đối với các loại dược phẩm thông thường thì giá trị cũng như lợi nhuận đem lại không cao lại được đầu tư tương đối lớn. Sự chênh lệch này có ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất dược phẩm trong nước. Đồng thời với lợi nhuận đem lại từ việc kinh doanh các loại thuốc thông thường sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng tích lũy vốn đầu tư của doanh nghiệp. Kết quả của sự đầu tư không hiệu quả này là sự mất cân đối trong việc cung cấp các loại thuốc trên thị trường. Việc đầu tư tập trung vào các loại thuốc thông thường và nhái mẫu mã dẫn đến đầu tư trùng lắp, đạp giá nhau trên thị trường. Đồng thời nó cũng tạo ra sức ép giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại mặt hàng tương tự nhau. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm dược nội địa.
Nguồn vốn là một yếu tố quan trọng không chỉ tác động đến việc sản xuất mà còn tác động lớn đến việc thúc đẩy quá trình tiêu thụ thuốc thông qua chiến lược phân phối và quảng cáo. Để mở rộng mạng lưới phân phối thuốc, các doanh nghiệp cần áp dụng các chính sách tỷ lệ chiết khấu, cụ thể như khi khách hàng mua với số lượng lớn và thanh toán bằng tiền mặt ngay sau khi mua thì sẽ được chiết khấu một tỷ lệ nhất định. Với các chính sách này các doanh nghiệp có thể lôi kéo các khách hàng lớn về phía mình và có thể tiêu thụ một khối lượng hàng hóa tương đối lớn. Hay, để sản phẩm đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng thì các doanh nghiệp phải tổ chức tiến hành điều tra thị trường… Các hoạt động này đòi hỏi các khoản chi phí khá lớn. Vì vậy, một doanh nghiệp mạnh về tài chính sẽ là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp đó tồn tại và phát triển.
V. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
1. Điểm mạnh và cơ hội của dược phẩm Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
1.1. Điểm mạnh của dược phẩm Việt Nam
Về thị trường: Việt Nam là một quốc gia đông dân với dân số trên 86 triệu người đồng thời do có khí hậu nóng ẩm thường có nhiều loại dịch bệnh nên đây là một thị trường nhiều tiềm năng cho dược phẩm. Mặt khác đời sống ngày càng cao, người dân ngày càng quan tâm và giành nhiều cho chi tiêu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và đặc biệt là dược phẩm. Đây là cơ hội để dược nội địa phát triển.
Về đầu vào: Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới Châu Á, nơi có những khu rừng nhiệt đới có tính đa dạng sinh học cao và một hệ thực vật phong phú. Theo các tài liệu, đến nay đã biết có khoảng hơn 10.000 loài thực vật bậc cao, nhưng con số này trên thực tế có thể lớn hơn vì còn nhiều loài mới chưa được nghiên cứu thống kê đầy đủ. Trong số các loài thực vật nói trên, có hàng ngàn loài đã được sử dụng làm thuốc. Đây là nguồn dược liệu phong phú mà ngành dược cần khai thác. Nước ta được kế thừa một nền y học cổ truyền và y học dân gian phong phú đã trải qua thử thách. Việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại cũng đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Kế thừa và phát huy hiệu quả nhiều bài thuốc cổ phương, các bài thuốc, phương thuốc dân gian. Đã hình thành mạng lưới gồm 4 bệnh viện Y học cổ truyền cấp Trung ương, 49 bệnh viện y học cổ truyền cấp Tỉnh, trên 300 khoa y học cổ truyền trong cácbệnh viện đa khoa, 8.000 cơ sở hành nghề tư nhân về y học cổ truyền; khám và chữa bệnh bằng y học cổ truyền cho khoảng trên 30% bệnh nhân.
Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, có nền tảng cơ bản tốt là một điểm mạnh để dược nội địa tận dụng. Nước ta đã có một hệ thống các trường đại học và trung học y, dược phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có khoảng trên 2.500 bác sĩ, 200 dược sĩ tốt nghiệp đại học. Mấy năm gần đây phát triển thêm đào tạo chuyên khoa I và II, thạc sĩ, đội ngũ tiến sĩ. Từ con số rất ít cán bộ y tế hồi những năm 60 (thế kỷ 20), đến nay đã có đội ngũ trên 30 vạn cán bộ, trong đó gần 40 nghìn cán bộ đại học và gần 20 nghìn cán bộ trên đại học.
Về chính sách và luật pháp: Hiện nay, sản xuất dược trong nước mang tính chất tự phát, manh mún, thiếu định hướng thừa các loại thuốc thông thường, thiếu dạng chuyên khoa đặc trị. Do đó vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước đã đưa ra các chính sách đúng đắn nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo cung ứng đủ thuốc thường xuyên và có chất lượng, bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý và an toàn, phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Dược phẩm đang là ngành được chú trọng đầu tư phát triển nên sẽ là cơ hội lớn đối với dược nội địa.
1.2. Cơ hội đối với dược phẩm khi gia nhập WTO
Về thị trường: khi gia nhập WTO, dược phẩm nội địa có thể được tiếp cận với nhiều thị trường lớn, đa dạng với các điều kiện kinh doanh, cạnh tranh công bằng. Mặc dù nền công nghiệp dược phẩm trong nước còn khá nhỏ bé nhưng đứng trước vận hội lớn chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng đây là cơ hội cho chúng ta bước chân ra thế giới. Theo cam kết, dược phẩm phải giảm thuế suất các mặt hàng nhập khẩu làm tạo sự lưu thông hàng hóa sang các nước thành viên thuận lợi và dễ dàng hơn do đó thị trường tiêu thụ hàng hóa sẽ được mở rộng hơn.
Về đầu vào: việc giảm thuế các mặt hàng nhập khẩu sẽ là cơ hội lớn cho các nhà sản xuất dược phẩm trong nước. Do giảm thuế nên giá nguyên liệu dành cho việc sản xuất sẽ có giá thấp hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể sản xuất đượcnhiều chủng loại dược phẩm hơn. Các doanh nghiệp sản xuất dược có quyền lựa chọn những loại nguyên liệu đầu vào đa dạng hơn, mức chi phí và chất lượng cũng hợp lý hơn. Mặt khác khi giá nguyên liệu đầu vào giảm thì sẽ làm cho chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giảm đi.
Về việc tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại và tiên tiến: tham gia vào thị trường thế giới dược Việt Nam có thể tiếp cận với những công nghệ, cách bào chế dược phẩm hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến nhất trên thế giới. Trước đây nếu như so sánh về trình độ công nghệ và quản lý thì Việt Nam luôn bị đánh giá thấp. Hiện nay, khi gia nhập WTO là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu phương thức làm việc của doanh nghiệp nước ngoài, cũng như đi tắt đón đầu học tập những kiến thức khoa học công nghệ về dược phẩm trên thế giới. Đây là cơ hội lớn giúp doanh nghiệp có thể trưởng thành hơn khi muốn cạnh tranh một cách công bằng với các doanh nghiệp dược phẩm trên thế giới.
Về luật pháp và quy định quốc tế: Gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện các cam kết về quền sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp dược trong nước sẽ được bảo vệ quyền lợi nhất là bảo vệ công thức bào chế. Do đó các doanh nghiệp trong và ngoài nước có thể yên tâm tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Có thể coi đây là chính sách thu hút đầu tư cho lĩnh vực dược phẩm. Trong thời gian gần đây chính sách và luật pháp Việt Nam có nhiều thay đổi để tạo điều kiện cho doanh nghiệp dược nước ngoài kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam. Nhờ các chính sách này mà các doanh nghiệp trong nước có được môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lợi hơn.
Điểm yếu và thách thức đối với dược phẩm Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
2.1. Điểm yếu của dược phẩm Việt Nam
Về tài chính, nguồn vốn và nguồn lực: đối với lĩnh vực sản xuất thuốc, các nhà máy đòi hỏi phải có trang thiết bị máy móc hiện đại để đảm bảo thuốc đạt tiêu chuẩn chất lượng. Do đó cần một nguồn vốn đầu tư rất lớn mà không phải doanh nghiệp dược nào cũng đáp ứng được dẫn đến tình trạng nhiều nơi sản xuất các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Đồng thời chi phí sản xuất một hoạt chất dược mới rất tốn kém, khoảng trên 100 tỉ đồng cho một loại hoạt chất dược. Đây là khó khăn lớn khi doanh nghiệp muốn nghiên cứu các loại thuốc mới. Mặc dù, dược phẩm được Nhà nước xác định là ngành cần quan tâm đầu tư nhưng do ngân sách Nhà nước có hạn và sự đầu tư còn dàn trải làm lãng phí nguồn vốn.
Hiện nay, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào nhưng chủ yếu là lao động phổ thông nên tình trạng thiếu các cán bộ quản lý có kinh nghiệm và các bác sĩ, dược sĩ là điều khó tránh khỏi. Còn nhiều doanh nghiệp còn tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự bao cấp và bảo vệ của Nhà nước dẫn đến làm mất đi thị phần, mất thị trường.
Về cân bằng giữa lợi ích và đảm bảo phúc lợi xã hội: bất cứ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng đều đặt việc đạt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Tuy nhiên đối với lĩnh vực dược phẩm, thì hoạt động của nó còn mang tính xã hội. Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa chính vì vậy mà việc đảm bảo phúc lợi về mặt y tế cũng là một nhiệm vụ cần thực hiện. Một khi phải đối diện với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì các doanh nghiệp sẽ khó có thể cân bằng giữa hai nhiệm vụ này.
Về đầu vào: hiện nay, dược nội địa phải nhập khẩu 90% nguyên liệu cho sản xuất chủ yếu là từ các nước như Ấn Độ, Trung Quốc. Đây là nguồn nguyên liệu giá rẻ nên cũng tiềm ẩn trong đó nhiều rủi ro về chất lượng. Mặt khác nước ta có tiềm năng về vùng dược liệu rộng lớn nhưng chưa thực sự được quy hoạch và chú trọng khai thác. Nguồn cung cấp dược liệu trong nhiều năm chủ yếu dựa vào thu hái tự nhiên, các địa phương khai thác dược liệu một cách ồ ạt, không có kế hoạch bảo vệ, nên các cây thuốc bị triệt phá, sản lượng giảm sút, nhiều loài ngày càng trở nên hiếm và có khả năng mất giống.Với tình hình rừng bị tàn phá nghiêm trọng như hiện nay và các nguyên nhân khác như đã nêu, nguồn dược liệu sẽ dần bị mất đi.
Nước ta là một nước nông nghiệp có xuất phát điểm tương đối thấp và không có công nghệ nguồn. Đồng thời, sản xuất dược phẩm đòi hỏi phải có công nghệ máy móc hiện đại để đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng nên đây sẽ là một khó khăn lớn đối với dược nội địa.
Về chất lượng, giá cả sản phẩm: thuốc là mặt hàng rất nhạy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người tiêu dùng do đó chất lượng thuốc phải luôn được đảm bảo. Việt Nam là quốc gia có khí hậu nóng ẩm nhiệt đới tác động trực tiếp đến độ ổn định và tuổi thọ của thuốc làm giảm chất lượng sản phẩm.
Hiện nay hành lang pháp lý để nghiên cứu và thử nghiệm trên người tại Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoang chỉnh nên công tác thử nghiệm gặp nhiều khó khăn.
Do dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt, mà ai cũng phải sử dụng: người khỏe muốn phòng chống bệnh tật và nâng cao sức khỏe, người bệnh thì muốn chữa bệnh, có thể nói người tiêu dùng không có nhiều quyền lựa chọn và hầu như không ai mặc cả thuốc dẫn đến giá cả dược phẩm là điều Nhà nước luôn quan tâm, theo dõi để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời. Sự quy định hạn chế giá đầu ra sản phẩm làm tăng lợi ích cho người tiêu dùng nhưng đồng thời cũng tạo nên khó khăn cho các nhà sản xuất vì hiện nay, chủ yếu nguyên liệu sản xuất là nhập khẩu từ nước ngoài nên giá đầu vào luôn biến đổi.
Thách thức đối với dược phẩm Việt Nam khi gia nhập WTO
Về thị phần: Với tình trạng năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh còn yếu kém nên khi hội nhập dẫn đến nguy cơ bị mất thị phần hoặc có thể dẫn tới nguy cơ bị phá sản. Thị trường dược phẩm Việt Nam hiện nay vốn phải chia làm nhiều phần cho dược phẩm trong nước và nước ngoài. Trong đó phân khúc thuốc đặc trị đã bị thuốc ngoại chiếm trọn và đang có xu hướng tấn công sang phân khúc thuốc thông thường. Mặt khác các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam được quyền nhập khẩu trực tiếp làm cho thị trường dược phẩm trở nên khốc liệt hơn. Đây sẽ là khó khăn lớn cho dược nội địa.
Về tài chính, vốn và nguồn lực: đối với lĩnh vực sản xuất thuốc, các nhà máy phải đạt được các tiêu chuẩn để hội nhập: tiêu chuẩn cao đòi hỏi cơ cấu đầu tư cao làm cho giá cả bị đội lên dẫn đến năng lực cạnh tranh của dược nội địa giảm; phải cạnh tranh với thuốc ngoại về giá, chất lượng dịch vụ hậu mãi so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các nước vốn chiếm phần lớn lượng thuốc trên thị trường Việt Nam sẽ càng có ưu hế hơn để lấn át nếu chúng ta không có biện pháp đối phó. Do có tiềm lực lớn hơn về tài chính và kinh nghiệm, cá hãng dược phẩm lớn thường sử dụng nhiều biện pháp thu hút kéo khách hàng về phía mình. Như vậy, để có thể cạnh tranh về chất lượng thì các doanh nghiệp cần đạt được các tiêu chuẩn cần thiết, nhất là phải đạt tiêu chuẩn GMP.
Về luật pháp và các quy định quốc tế: đối với các doanh nghiệp dược, do chúng ta còn ít hiểu biết về thị trường thế giới nên khi tham gia vào cạnh tranh với các hàng dược phẩm chúng ta sẽ gặp vấn đề khó khăn khi phải theo kịp các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật thế giới. Để có thể tham gia vào một sân chơi mới chúng ta cần phải hiểu rõ được luật lệ của sân chơi đó. Có rất nhiều quy định quốc tế mới mà doanh nghiệp dược nội địa chưa biết dẫn đến khó khăn cho dược trong nước khi tham gia vào thị trường thế giới.
Về cơ quan quản lý Nhà nước về dược phẩm: gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện vấn đề sở hữu trí tuệ, mặc dù Cục quản lý dược Việt Nam đã có nhiều biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tuy nhiên đây vẫn là vấn đề thách thức lớn. Công thức bào chế là điều quan trọng nhất đối với mọi doanh nghiệp sản xuất dược phẩm. Chính vì thế việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề nan giải, rất dễ bị vi phạm. Việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ là một khó khăn khi mà ngành công nghiệp dược Việt Nam đang chủ yếu sản xuất các loại thuốc generic. Việc chi trả cho các bằng phát minh của nước ngoài để được phép sản xuất là nằm ngoài tầm với của các doanh nghiệp dược Việt Nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải đối mặt với các tình huống vi phạm phức tạp hơn.
Kết luận chương II
Như vậy, trong những năm qua, dược phẩm Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trong quá trình hoạt động. Chúng ta đã có thể từng bước cung cấp cho thị trường những loại dược phẩm có giá trị, cung ứng tốt cho nhu cầu trong nước và bước đầu xuất khẩu dược phẩm. Đồng thời việc nghiên cứu và sản xuất một số loại nguyên liệu cung ứng cho nhu cầu sản xuất trong nước đã làm cho việc sản xuất dược phẩm nước ta trở nên đa dạng hơn. Dược nội địa không còn phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu mà thay vào đó đã từng bước sản xuất nguyên liệu và thành phẩm tân dược, bước đầu nâng cao năng lực cạnh tranh của thuốc trong nước.
Bên cạnh những gì chúng ta đã đạt được trong những năm qua thì dược Việt Nam vẫn mắc phải những hạn chế như việc đầu tư không hiệu quả, cơ cấu sản xuất sản phẩm chưa hợp lý, các mặt hàng hầu như là sản phẩm thông thường…Các sản phẩm dược nội địa đã chưa thực sự chuyển đổi để có thể đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Với những điểm còn chưa hoàn thiện đó, chắc chắn dược Việt Nam phải từng bước hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển.
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ nhận được rất nhiều cơ hội và thách thức. Trước hết chúng ta sẽ có được những lợi ích từ việc mở rộng thị trường, nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, máy móc thiết bị, kinh nghiệm quản lý…Tất cả những lợi ích này giúp cho nền sản xuất trong nước ngày càng trưởng thành hơn. Đây cũng là cơ hội để tiếp cận với các nền sản xuất tiến tiến hiện đại trên thế giới, từng bước giảm bớt sự phụ thuộc về các loại thuốc đặc trị của nước ngoài. Đặc biệt để có thể đạt được mục tiêu phát triển ngành dược trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn thì dược trong nước cần phải nắm chắc cơ hội này và biến chúng trở thành đà bật để tiến một nấc thang nữa của sự cạnh tranh. Song hành với những cơ hội, các nhà sản xuất dược Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt nhất là khi hàng rào thuế quan được rỡ bỏ, giá các loại sản phẩm sẽ theo xu hướng giảm dần. Ngoài ra chúng ta còn phải đối mặt với sự cạnh tranh trực diện với các nhà sản xuất trên thế giới vốn có sức mạnh về tài chính, công nghệ, kinh nghiệm…Các doanh nghiệp sẽ phải chịu sức ép từ nhiều phía. Mặc dù Nhà nước đã đưa ra một số định hướng cho dược nội địa trong thời kỳ hội nhập nhưng vấn đề sống còn là dược phẩm trong nước có biết tận dụng cơ hội và khắc phục những thách thức đó như thế nào.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DƯỢC PHẨM VIỆT NAM
Phương hướng, quan điểm, mục tiêu, dự báo của dược phẩm Việt Nam trong thời gian tới
Phương hướng, quan điểm, mục tiêu của dược phẩm Việt Nam
Bộ Y tế mà cụ thể là Cục quản lý dược Việt Nam đã xác định rõ phát triển ngành dược thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập trong khu vực và thế giới nhằm đảm bảo cung ứng đủ thuốc thường xuyên và có chất lượng, bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý và an toàn, phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Công nghệ hóa dược tại Việt Nam còn khá yếu với công nghệ lạc hậu. Chính phủ Việt Nam đã có kế hoạch phát triển ngành công nghệ hóa dược với mục tiêu đáp ứng 40% nguyên liệu kháng sinh phục vụ cho sản xuất trong nước vào năm 2015.
Dược phẩm sẽ tập trung phát triển công nghiệp bào chế thuốc, công nghiệp hóa dược, công nghiệp chế biến và sản xuất thuốc có nguồn gốc dược liệu, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư vào các hoạt động sản xuất, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sản xuất thuốc tiên tiến; tổ chức sản xuất bao bì dược phẩm trong nước để đến năm 2020 đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng bao bì trong nước; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và công nghệ thông tin trong các họat động phát triển công nghiệp dược Việt Nam.
Những dự báo trong thời gian tới
Dược phẩm chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó dân số và thu nhập của người dân là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng của ngành và tiền thuốc bình quân đầu người.
Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay dân số Việt Nam có trên 86 triệu người và chắc chắn nhu cầu chữa bệnh và phòng bệnh của người dân sẽ tăng lên. Sự gia tăng về dân số cũng như nhu cầu sẽ khiến Việt Nam trở thành một thị trường giàu tiềm năng. Mặt khác cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ dân trí được nâng cao kéo theo đó là sự hiểu biết về các mặt hàng dược phẩm cũng được nâng lên một cách nhanh chóng. Mặc dù, đơn thuốc do bác sĩ kê đơn tuy nhiên khi trình độ dân trí được nâng lên người tiêu dùng đã có thể nhận thức được đầy đủ về các loại dược phẩm. Như vậy, Việt Nam có thể coi là một thị trường đầy tiềm năng đối với hàng hóa nói chung và nhu cầu dược phẩm nói riêng.
Trong thời gian tới khi đời sống của người dân được nâng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng ngày càng được quan tâm hơn. Với nhu cầu sử dụng dược phẩm như vậy trên quy mô dân số tương đối lớn dược nội địa sẽ phải tìm cách đáp ứng được nhu cầu ngày một tăng này. Sự gia tăng về tiền thuốc bình quân đầu người cũng có nghĩa là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu về dược phẩm của người dân cũng ngày một lớn. Với một thị trường tương đối lớn và giàu tiềm năng như vậy, dược nội địa cũng phải chú ý đến sự xâm chiếm thị trường từ bên ngoài. Dược nước ngoài luôn biết tận dụng thời cơ lấn sâu vào thị trường đang lên. Nhất là đối với dược phẩm, một mặt hàng mà bất cứ giai đoạn nào, thời kỳ nào con người cũng cần đến.
Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam
Việc phát triển công nghiệp dược nội địa luôn luôn là mối quan tâm của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Các nước đang phát triển coi việc phát triển công nghiệp bào chế là vũ khí chống lại sự độc quyền của các công ty đa quốc gia dược phẩm khổng lồ nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân và đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, việc xác định bước đi đúng và trọng điểm đầu tư là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành bại. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện trên các tiêu chí: chất lượng, giá cả, các dịch vụ đi kèm…Để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước cũng như hoàn thành được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đề tài này xin đề xuất một số giải pháp sau:
Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
Thứ nhất: dược phẩm nội địa phải tận dụng lợi thế trong nước có đó là sự hiểu biết về cơ địa của người dân Việt Nam. Mặc dù các sản phẩm nước ngoài có ưu thế rất lớn về chất lượng sản phẩm, tuy nhiên các loại dược phẩm này lại khó điều chỉnh cho hợp với cơ địa của người Việt Nam. Chính vì vậy, các nhà sản xuất cần nhanh chóng sản xuất và cải tiến các loại thuốc phù hợp với người Việt Nam. Để có thể thực hiện được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động hơn trong việc điều tra đặc điểm nhu cầu cũng như mặt sinh lý của người dân. Đồng thời việc đầu tư cho nghiên cứu sản phẩm cũng là điều mà các doanh nghiệp sản xuất dược cần chú ý. Hiện nay công tác R&D của các doanh nghiệp trong nước còn chưa thực sực được chú trọng. Chính vì vậy đây là một nhiệm vụ cấp thiết đối với các doanh nghiệp nếu như muốn cạnh tranh được trên thị trường.
Thứ hai: đưa ngành dược Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp thực sự, tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy thì cần phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngành dược, mà yếu tố vốn sẽ là yếu tố quyết định. Các doanh nghiệp cần phải tăng cường tích lũy, đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho các trang thiết bị kỹ thuật cùng với việc hoàn thiện và nâng cao trình độ sản xuất của dược phẩm trong nước. Như đã nói ở trên, trang thiết bị kỹ thuật luôn đóng một vai trò rất quan trọng đối với dược phẩm nhất là khi sự cạnh tranh ngày càng mạnh. Việc dược nội địa sử dụng nguồn vốn của mình để nâng cao cơ sở kỹ thuật sẽ là điều hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp cần phải đầu tư theo chiều sâu, từ đó tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Sử dụng nguồn vốn của mình để có thể tập trung cho một dòng sản phẩm cụ thể có chất lượng, và từng bước chiếm lĩnh thị trường. Vậy nguồn vốn đó ở đâu ra? Trước hết chính bản thân doanh nghiệp phải có ý thức sử dụng và tích lũy vốn của mình tránh thất thoát lãng phí. Muốn tồn tại và phát triển thì chúng ta cần phải biết dựa vào chính nguồn lực của bản thân doanh nghiệp. Nếu như các nhà sản xuất có thể giải quyết được việc sử dụng và tích lũy vốn đầu tư cho sản xuất, cơ cấu đầu tư hợp lý chắc chắn có thể khắc phục được tình trạng lạc hậu về trang thiết bị kỹ thuật như hiện nay.
Thứ ba: Cần phải giải quyết vấn đề nguồn nhân lực. Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là một ngành nghề đòi hỏi hàm lượng chất xám và công nghệ cao như ngành sản xuất dược phẩm. Công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể tiếp thu một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất công nghệ kỹ thuật hiện đại trên thế giới cần phải được tập trung giải quyết. Khi có một đội ngũ nhân lực về chất lượng sẽ tạo đà cho việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong đó cần chú ý đến các bộ phận sau: + Cán bộ quản lý: họ chính là người quyết định hướng đi cho doanh nghiệp. Toàn bộ những giải pháp phát triển doanh nghiệp có được thực hiện thành công hay không là do bộ phận này quyết định. Muốn doanh nghiệp phát triển được thì người lãnh đạo doanh nghiệp phải nắm được xu hướng của thị trường, từ đó đưa ra những hướng đi cụ thể và đúng đắn. Vì vậy, cần tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý trẻ, có năng lực, có sáng tạo thực hiện hoạt động quản lý kinh doanh.
+ Lực lượng trong sản xuất: là những người giữ vai trò quyết định tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, độ ổn định cao hay không. Việc sản xuất ra một mặt hàng sản phẩm không phải đơn giản. Từ công thức bào chế đến thành phẩm phải trải qua một giai đoạn khá dài. Người thực hiện việc sản xuất đều phải là những người được đào tạo trong ngành dược. Bên cạnh đó dược phẩm là một mặt hàng mà tác động trực tiếp đến sức khỏe con người. Chính vì thế người sản xuất phải được đào tạo và củng cố về kiến thức để có thể đáp ứng được yêu cầu của sản xuất. Các doanh nghiệp nên thường xuyên giúp cho những người công nhân trực tiếp sản xuất nâng cao trình độ tay nghề có như vậy họ mới có thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất từ đó làm tăng chất lượng dược phẩm làm ra. Đặc biệt, để có thể có đội ngũ sản xuất có chất lượng cao, ngoài công tác đào tạo còn phải có chế độ kiểm tra giám sát chặt chẽ đội ngũ lao động, đưa họ vào nề nếp hoạt động sản xuất theo một trật tự đảm bảo các quy trình chất lượng.
+ Đối với các cán bộ nghiên cứu: đây sẽ là đội ngũ chính ảnh hưởng tới sự phát triển của sản phẩm. Việc nghiên cứu sản phẩm mới, các nhân tố cải thiện chất lượng sản phẩm sẽ giúp sản phẩm đứng vững được trên thị trường. Nhất là khi chúng ta gia nhập WTO, dược phẩm nước ngoài tràn vào thị trường Việt Nam, sự cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Yếu tố quyết định trong ngành dược phẩm đó chính là công thức bào chế điều này sẽ do dược sĩ đảm nhận. Dược nội địa muốn phát triển được thì cần có đội ngũ dược sĩ có trình độ cao. Chính vì vậy mà việc đầu tư cho nguồn nhân lực có trình độ cao chính là yếu tố quyết định tương lai của dược trong nước. Một yếu tố quan trọng mà dược phẩm cần phải chú ý đó là chính sách đãi ngộ nhân tài. Các doanh nghiệp dược nước ngoài thường có chế độ ưu đãi hết sức hấp dẫn, chính vì vậy mà hầu hết nguồn nhân lực có chất lượng cao thường rơi vào tay các công ty dược phẩm nước ngoài. Ngay từ bây giờ dược trong nước cần có chiến lược cụ thể cho việc thu hút cũng như chế độ đãi ngộ cho bộ phận nhân lực có chất lượng cao này. Điều này chắc chắn sẽ giúp dược nội địa tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao và có tính cạnh tranh cao trên thị trường.
Thứ tư: đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu sản xuất các loại thuốc đặc trị để có thể cạnh tranh với các loại thuốc nhập khẩu hiện nay.
Theo đánh giá của WHO, hiện nay, dược Việt Nam đang ở cấp độ 2.5 – 3 theo thang phân loại của WHO. Chúng ta có thể tự sản xuất ra được một số dược phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và cũng đã có xuất khẩu ra nước ngoài, tuy nhiên phần lớn các loại thuốc đặc trị vẫn phải nhập từ nước ngoài. Như vậy, chúng ta cần khắc phục tình trạng này bằng cách cần có chiến lược đầu tư cho công tác nghiên cứu các loại thuốc đặc trị, từng bước thay thế các loại thuốc nhập khẩu đang chiếm lĩnh thị trường hiện nay. Tuy nhiên đây là một công việc hết sức khó khăn. Các hãng dược phẩm lớn trên thế giới để có được một công thức bào chế dược phẩm, họ không chỉ mất một thời gian khá dài mà còn phải mất những khoản chi phí lớn. Vì vậy với năng lực cạnh tranh hiện có của dược phẩm Việt Nam, chúng ta cần phải có những chiến lược lâu dài, từng bước một thì mới có thể đạt được mục đích của mình. Với khả năng trình độ công nghệ, kỹ thuật như hiện tại, chúng ta có thể hoàn thiện và cải tiến các sản phẩm đặc trị để phù hợp với cơ thể của người Việt Nam. Một số giải pháp tập trung đầu tư vào công tác phát triển cơ cấu sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm:
- Nghiên cứu thị trường ngoài nước và trong nước để phát triển cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường.
- Tập trung nghiên cứu các dạng bào chế đặc biệt, công nghệ bào chế cao, các hoạt chất mới phục vụ chuyên khoa đặc trị.
- Khắc phục quan điểm phát triển sản phẩm dựa trên các tiêu chí: Lợi nhuận cao, đầu tư ít, khả năng quay vòng vốn nhanh, vòng đời sản phẩm ngắn, đăng ký chờ, đăng ký “giành chỗ”.
- Xây dựng cơ cấu mặt hàng mới để phong phú hoá sản phẩm, trong một cơ chế thông thoáng của quản lý nhà nước về đăng ký thuốc.
Nếu như các doanh nghiệp thực hiện tốt các giải pháp trên thì chắc chắn Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu về các loại thuốc đặc trị của người dân.
Thứ năm: đẩy mạnh quá trình hợp tác quốc tế thông qua việc liên kết với các hãng dược phẩm trên thế giới để từ đó có thể nâng cao chất lượng sản phẩm trong nước. Đồng thời chúng ta còn có thể tận dụng cơ hội này học hỏi tiếp nhận những kiến thức khoa học công nghệ kỹ thuật, hoạt động quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài.
Với những giải pháp về chất lượng sản phẩm nêu ở trên, việc thực hiện ban đầu sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với nền kỹ thuật sản xuất trong nước còn phát triển ở trình độ thấp như hiện nay. Tuy nhiên, nếu dược phẩm nội địa biết tận dụng những cơ hội và thế mạnh của mình chắc chắn sản phẩm Việt Nam có thể vươn lên ở mức độ cạnh tranh cao hơn.
Giải pháp về giá của sản phẩm
Việc gia nhập WTO làm biểu thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm xuống làm cho giá của các mặt hàng dược phẩm giảm xuống. Hay nói cách khác sự cạnh tranh về giá cả sẽ diến ra hết sức khốc liệt. Vậy dược phẩm Việt Nam phải làm gì để có thể cạnh tranh trên thị trường dược phẩm trong thời gian tới?
Liên kết để giảm chi phí: để có thể đạt được mục tiêu là thuốc trong nước đáp ứng được nhu cầu dược phẩm trong nước, dược trong nước để cạnh tranh vẫn phải thực hiện biện pháp giảm thiểu chi phí cùng với việc nâng cao chất lượng thuốc trong nước. Có nhiều biện pháp để giảm thiểu chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất dược trong nước có thể thực hiện “ chiến lược liên minh giữa các đối tác không cạnh tranh ”. Hiện nay, do nhu cầu trong nước ngày càng tăng nên doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô của mình để đáp ứng nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp sản xuất tân dược trong nước có thể ký kết thỏa thuận liên ngành, liên hệ với các nhà cung cấp ( nguyên liệu, máy móc ) trong và ngoài nước để có thể giảm bớt các chi phí đầu vào không cần thiết. Làm như vậy có thể giúp cho các doanh nghiệp có thể giảm bớt áp lực từ phía nhà cung cấp, tạo một nguồn cung cấp đầu vào ổn định và có chất lượng. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau có thể giúp cho dược phẩm Việt Nam tập trung sức mạnh và đủ sức cạnh tranh trên thị trường dược phẩm.
Tận dụng lợi thế cạnh tranh: Muốn hạ giá thành sản phẩm thì cần tập trung phát triển những lĩnh vực mà ta có lợi thế cạnh tranh hoặc có khả năng cạnh tranh cao nhất để tạo hiệu quả kinh tế, trên cơ sở đó cân đối nguyên liệu tốt để sản phẩm trong nước. Do đặc điểm khí hậu và thời tiết nước ta rất thuận lợi cho sự phát triển của các loài thực vật, trong số đó có nhữn loại được sử dụng làm thuốc. Chính vì thế chúng ta cần có những biện pháp để có thể tận dụng tối đa nguồn dược liệu trong thiên nhiên. Đây sẽ là nguồn nguyên liệu đầu vào tương đối tốt giúp cho việc sản xuất dược có thể giảm chi phí khi nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Việc khuyến khích sản xuất thuốc có nguồn gốc từ dược liệu trong nước đặc biệt là việc quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu làm thuốc là nhiệm vụ hết sức quan trọng của dược phẩm trong nước trong thời gian tới. Để đáp ứng được nhu cầu sản xuất dược phẩm trong nước thì khối lượng dược liệu phải đủ lớn. Vì vậy mà Việt Nam cần phải có biện pháp quy hoạch vùng nguyên liệu thật cụ thể và với quy mô lớn. Việc quy hoạch vùng nguyên liệu chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tương đối dài. Đi liền với việc trồng các loại dược liệu, các doanh nghiệp cần kết hợp với các viện nghiên cứu không ngừng tìm hiểu và nghiên cứu mở rộng danh mục các loại cây thuốc có thể áp dụng cho sản xuất. Các loại dược liệu này sẽ đóng góp rất lớn cho sự phát triển của sản xuất dược phẩm. Như vậy để có thể thực hiện được việc quy hoạch các vùng nguyên liệu cần phải có sự đóng góp, chung sức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Có như vậy thì ngành sản xuất dược phẩm trong nước sẽ có được một sự hậu thuẫn quan trọng về nguyên liệu để phát triển.
Tận dụng tối đa cơ hội của việc gia nhập WTO: đó chính là việc khai thác nguồn nguyên liệu đầu vào có giá thấp, máy móc thiết bị được phép bán tại Việt Nam. Các nhà sản xuất trong nước nên tận dụng cơ hội này để có thể sản xuất với chi phí đầu vào thấp. Từ đó các sản phẩm trong nước có thể cạnh tranh về giá các sản phẩm trên thị trường.
Một số giải pháp khác
Các doanh nghiệp phải giải quyết được vấn đề thông tin thị trường dược phẩm trên thế giới và những luật lệ nguyên tắc của WTO. Khi tham gia vào bất kể tổ chức kinh tế chính trị nào thì bao giờ chúng ta cũng cần phải hiểu rõ môi trường đó như thế nào. Điều này phụ thuộc vào nguồn thông tin mà chúng ta có thể nắm giữ. Chính vì thế yếu tố thông tin cũng đóng góp một phần quyết định trong chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc thu thập thông tin về các loại sản phẩm, về giá cả có thể giúp doanh nghiệp xác định được những thời cơ và trở ngại trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm, quy trình sản xuất luôn phải tuân thủ theo những quy định của Bộ Y tế như GMP,GSP…Việc nắm vững các quy định, yêu cầu đòi hỏi của trong nước và quốc tế về chất lượng sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể hoàn thiện, nhanh chóng bổ sung cho phù hợp. Để có thể tiến nhanh hơn trên bậc thang cạnh tranh, các doanh nghiệp giờ đây phải làm chủ thông tin và sử dụng thông tin một cách hiệu quả nhất.
Chuẩn bị về việc nghiên cứu thị trường: đây là nhiệm vụ dự báo thị trường mà doanh nghiệp chắc chắn phải thực hiện. Các doanh nghiệp phải trả lời được câu hỏi: Sản xuất sản phẩm gì? Bán cho ai? Bán với giá nào?...Tất cả các yếu tố đó quyết định đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm từ đó tạo ra được thương hiệu cho sản phẩm. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, đưa dược phẩm trong nước đến gần với người dân hơn. Đây sẽ là nhiệm vụ hết sức khó khăn vì trình độ ngành dược của chúng ta vẫn còn khá thấp, cùng với tâm lý chuộng thuốc ngoại cũng ảnh hưởng lớn đến xây dựng thương hiệu dược phẩm lớn mạnh trên thị trường.
Khuyến nghị
4.1. Công tác quản lý nhà nước
* Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là những văn bản không phù hợp với thực tế và cam kết hội nhập quốc tế, theo hướng đảm bảo tính đồng bộ với hệ thống pháp luật chung, phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, minh bạch và tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động của doanh nghiệp.
* Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về dược từ trung ương đến địa phương, chú trọng công tác đào tạo và bố trí nhân lực ở tuyến tỉnh, tuyến huyện, quan tâm đến những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa:
- Tại Cục Quản lý dược: bổ sung và củng cố đội ngũ cán bộ của Cục . Phối hợp chặt chẽ với Vụ Khoa học - Đào tạo để thực hiện tốt cơ chế đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ cho những địa phương gặp khó khăn về nhân lực dược.
- Tại địa phương: Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các Sở Y tế chủ động báo cáo UBND tỉnh/thành phố để kiện toàn tổ chức và cán bộ tại cơ quan quản lý dược; Tham mưu, đề xuất những chính sách thu hút cán bộ dược về công tác tại địa phương; có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại kiến thức chuyên môn về dược cho cán bộ y tế.
* Tăng cường và duy trì sự phối hợp giữa các Vụ- Cục trong Bộ Y tế, với các Bộ, Ban ngành có liên quan và các Hội nghề nghiệp để làm tốt hơn nữa công tác quản lý nhà nước về dược; giám sát việc thực thi pháp luật về dược nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nhà sản xuất về chất lượng thuốc và sở hữu trí tuệ của thuốc.
*. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Thực hiện hậu kiểm với hầu hết các lĩnh vực; thanh tra- kiểm tra đột xuất việc thực hiện các GP’s, đặc biệt là GMP để đảm bảo chất lượng thuốc từ khâu sản xuất đến lưu thông trên thị trường.
4.2. Công tác sản xuất, cung ứng thuốc cho nhân dân
* Tạo mọi điều kiện để phát triển sản xuất thuốc trong nước nhằm tăng nguồn cung cho nhu cầu sử dụng trong nước và tăng cường xuất khẩu thông qua việc ban hành, sửa đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch hơn nữa. Để thực hiện thành công chủ trương này, Bộ Y tế (Cục Quản lý dược) cũng cần nhiều hơn nữa ý kiến góp ý, kiến nghị của các Nhà sản xuất cũng như củacác Bộ, ngành có liên quan.
* Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất thuốc: đầu tư nhà máy, sản xuất nhượng quyền, chuyển giao công nghệ; ưu tiên cho những dự án sản xuất thuốc mới, thuốc chuyên khoa sâu, những dạng bào chế công nghệ cao, sản xuất vắc xin, vv ... Đảm bảo công khai, minh bạch và sửa đổi bất cập, tăng cường tiền kiểm trong đăng ký thuốc;
* Khẩn trương kiện toàn hệ thống phân phối thuốc nhằm mục tiêu cung ứng thường xuyên, kịp thời và đủ thuốc đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý và đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả phục vụ công tác điều trị thông qua việc: Tiếp tục triển khai Quyết định, Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Y tế về lộ trình GP’s ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh dược phẩm, đảm bảo chất lượng thuốc lưu thông trên thị trường. Kiên trì mục tiêu thực hiện GPP và GDP để tạo ra sự thay đổi về chất của hệ thống bán lẻ thuốc trên toàn quốc. Trên cơ sở đó, phát triển và giữ vững thị phần chủ đạo hệ thống bán lẻ thuốc, trong điều kiện thực thi quyền xuất nhập khẩu thuốc theo cam kết với WTO cho các thương nhân nước ngoài.
* Triển khai công tác quản lý dược bệnh viện. Triển khai thí điểm đấu thầu thuốc quốc gia, trước mắt ở một số sản phẩm có số lượng lớn và sử dụng ở cả 3 tuyến trung ương, tuyến tỉnh và tuyến huyện, đảm bảo quản lý chặt chẽ công tác cung ứng thuốc cho bệnh viện.
* Tiếp tục triển khai áp dụng đồng bộ các giải pháp quản lý giá thuốc, tăng cường nhân lực, sửa đổi quy chế trong kiểm soát giá thuốc, quan tâm quản lý giá thuốc tại nhà thuốc bệnh viện. Duy trì chỉ số giá nhóm hàng dược phẩm-y tế ở mức giá tăng thấp hơn so với tỉ lệ tăng chỉ số giá tiêu dùng. Đảm bảo không để xảy ra tăng giá thuốc đột biến, tăng giá đồng loạt trên thị trường.
4. 3. Công tác đảm bảo chất lượng Thuốc
* Tăng cường năng lực của cơ quan kiểm nghiệm thuốc và vắc xin sinh phẩm y tế: Thành lập các Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, trung tâm thông tin thuốc. Kiện toàn tổ chức và nâng cấp cơ sở vật chất cho hai trung tâm thử tương đương sinh học và đánh giá sinh khả dụng của thuốc tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Nâng cấp cơ sở vật chất, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Viện kiểm định quốc gia vắc xin và sinh phẩm y tế đạt tiêu chuẩn quốc tế
* Tăng cường công tác quản lý chất lượng thuốc:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát chất lượng thuốc: lấy mẫu thuốc kiểm tra chất lượng có trọng tâm, trọng điểm đối với hoạt chất, dạng bào chế, nhà sản xuất, nước sản xuất có nguy cơ cao vi phạm chất lượng, dễ bị biến đổi chất lượng trong quá trình lưu thông.
- Thực hiện tốt hơn cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm đối với chất lượng thuốc, chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan trong phòng chống thuốc giả, thuốc nhập lậu, thuốc không rõ nguồn gốc trên thị trường. Tăng cường kiểm tra, thanh tra đột xuất việc thực hiện các nguyên tắc GP’s ở các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dược phẩm.
- Nâng cao trách nhiệm các cở sở sản xuất kinh doanh về đảm bảo chất lượng thuốc, quan tâm giám sát chất lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chủ động phát hiện và thu hồi thuốc kém chất lượng. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy trình sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn, nguyên tắc GMP, GLP, GSP.
* Nâng cao kiến thức về GP’s: Tiếp tục mở các lớp GP’s, đào tạo và đào tạo lại để đảm bảo các cán bộ quản lý và cán bộ sản xuất đều được đào tạo GP’s.
4.4. Công tác đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn
* Tăng cường công tác tuyên truyền sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả bằng nhiều hình thức, nâng cao kiến thức trong việc sử dụng thuốc cho người dân, cụ thể:
- Thực hiện tốt hậu kiểm đối với Thông tin- quảng cáo thuốc, đảm bảo cho người dân được thông tin chính xác về thuốc. Phối hợp chặt chẽ với các Báo, Đài để hạn chế tối đa những quảng cáo thuốc chưa có hoặc không đúng với hồ sơ đăng ký quảng cáo thuốc tại Cục Quản lý dược.
- Xử lý nghiêm khắc, đúng pháp luật những trường hợp vi phạm thông tin thuốc, quảng cáo sai sự thật về thuốc; những trường hợp quảng cáo biến tướng dưới dạng tư vấn sử dụng thuốc, thư cảm ơn.
* Nâng cao vai trò, trách nhiệm và năng lực của Hội đồng thuốc và điều trị tại các bệnh viện. Sở Y tế, các trường, các viện có kế hoạch và tạo mọi điều kiện về tài liệu, thông tin và cơ chế để Hội đồng thuốc và điều trị phát huy được vai trò hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả. Phát hiện và báo cáo kịp thời các phản ứng có hại của thuốc. Duy trì các lớp tập huấn về dược lâm sàng cho cán bộ y tế địa phương.
4.5. Công tác hợp tác quốc tế
Duy trì, mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới và trong khối ASEAN, 3 nước Đông Dương và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ; chủ động hội nhập, trước hết là hài hoà quy chế trong lĩnh vực dược, cụ thể:
* Triển khai thực hiện lộ trình thoả thuận công nhận lẫn nhau trong thanh tra GMP đối với các cơ sở sản xuất dược trong khu vực ASEAN
* Tiếp tục triển khai các hoạt động trong khuôn khổ hợp tác với
* Tham gia các cuộc hội nghị, hội thảo, tập huấn, đào tạo quốc tế thường niên.
KẾT LUẬN
Dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của con người. Trong những năm vừa qua, dược nội địa đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Chúng ta đã có thể từng bước cung cấp cho thị trường những loại sản phẩm có giá trị, cung ứng tốt cho nhu cầu trong nước và bước đầu xuất khẩu dược phẩm. Tuy nhiên, hiện nay dược trong nước mới chủ yếu sản xuất các loại thuốc thông thường thiếu các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị; khoảng 90℅ nguyên liệu sản xuất dược phải nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến nhiều rủi ro cho các nhà sản xuất. Việt Nam là quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa hình thành nên một nguồn nguyên liệu dược phong phú; nhưng hiện nay nguồn dược liệu này được khai thác một cách bừa bãi thiếu quy hoạch dẫn đến mất dần các loại thuốc quý. Đây là một sự lãng phí to lớn. Việt Nam là nước có xuất phát điểm thấp: là một nước nông nghiệp không có công nghệ nguồn mà việc sản xuất thuốc tân dược đòi hỏi phải có khoa học kỹ thuật cao, nguồn vốn đầu tư lớn. Do đó, dược nội địa cần phải có chiến lược phát triển lâu dài, phải có kế hoạch đầu tư, tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí nguồn vốn. Đặc biệt hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO, ngoài các cơ hội dược trong nước phải đối mặt với nhiều thách thức: sự tràn ngập của dược nước ngoài. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển dược phẩm Việt Nam cần phát huy những lợi thế của đất nước như nguồn dược liệu phong phú, lịch sử y học từ lâu đới, nguồn nhân công được đào tạo cơ bản tốt… để có thể đưa dược nội địa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kế hoạch kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Thương mại quốc tế - Bộ môn Thương mại Quốc tế - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “ Đánh giá lợi thế so sánh của việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế bằng công cụ định lượng ”
Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê, năm 2005, 2006,2007,2008
Tạp chí kinh tê và phát triển, số 84 (2004), số 317(2004),
Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 11/ 2009.
Báo cáo tổng kết công tác dược năm 2008, triển khai kế hoạch năm 2009, TS. Trương Quốc Cường – Cục trưởng Cục quản lý dược – Bộ y
Các website tham khảo:
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
www.mof.gov.vn (Bộ Tài Chính)
(Trung tâm phát triển Thương mại điện tử, Cục thương mại điện tử và Công nghệ thông tin – Bộ Công thương)
( Viện dược liệu)
(Bộ y tế)
( Cục quản lý dược Việt Nam)
Và một số website khác.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
WEF : diễn đàn kinh tế thế giới.
GMP : Thực hành tốt sản xuất thuốc
GPP : Thực hành tốt nhà thuốc.
GLP : Thực hành tốt kiểm nghiệm thuốc
GDP : Thực hành tốt phân phối thuốc
R&D : nghiên cứu và phát triển
TCCL: tiêu chuẩn chất lượng
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của dược phẩm Việt Nam.doc