MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM 3
I. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TÁI BẢO HIỂM 3
1. Sự cần thiết và bản chất của tái bảo hiểm 3
1.1 Sự cần thiết của tái bảo hiểm 3
1.2 Bản chất và chức năng của tái bảo hiểm . 6
1.3 Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm 7
1.3.1 Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm (từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19). 7
1.3.2 Giai đoạn từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 8
1.3.3 Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay . 9
2. Các hình thức tái bảo hiểm 10
2.1 Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn 10
2.2 Tái bảo hiểm bắt buộc . 12
2.3 Tái bảo hiểm lựa chọn - bắt buộc (Tái bảo hiểm để ngỏ) . 13
3. Các phương thức tái bảo hiểm . 14
3.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ 14
3.1.1 Tái bảo hiểm số thành: 14
3.1.2 Tái bảo hiểm mức dôi 16
3.1.3 Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi . 17
3.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ 17
3.2.1 Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường 18
3.2.2 Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường 21
3.2.3 Tái bảo hiểm kết hợp: 22
4. Hợp đồng tái bảo hiểm . 23
4.1 Các loại hợp đồng tái bảo hiểm 23
4.1.1 Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời . 23
4.1.2 Hợp đồng tái bảo hiểm cố định 24
4.1.3 Hợp đồng tái bảo hiểm mở . 24
4.2 Nội dung cơ bản của hợp đồng . 24
4.2.1 Hoa hồng tái bảo hiểm - thủ tục phí tái bảo hiểm . 24
4.2.2 Phí tạm giữ . 26
4.2.3 Bồi thường tạm giữ 26
4.2.4 Bồi thường trả ngay . 26
II. NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM CỦA DNBH . 26
1. Năng lực nhận tái 27
1.1 Khả năng tài chính . 28
1.2 Quan hệ hợp tác kinh doanh trên thị trường . 30
1.3 Trình độ chuyên môn của cán bộ tái bảo hiểm 31
2. Các biện pháp nâng cao năng lực nhận tái bảo hiểm của DNBH . 31
2.1 Tăng vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư 31
2.2 Tăng cường quan hệ với các DNBH trong và ngoài nước . 32
2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực . 32
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬN TÁI BẢO HIỂM CỦA VINARE (2004 – 2007) 33
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN TÁI BẢO HIỂM QUỐC GIA VIỆT NAM 33
1. Lịch sử hình thành và phát triển . 33
2. Địa vị pháp lý của VINARE 34
2.1 Chức năng hoạt động . 34
2.2 Quyền hạn và nghĩa vụ của công ty . 35
2.2.1 Quyền hạn của công ty 35
2.2.2 Nghĩa vụ của công ty . 35
2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy của VINARE . 36
2.4 Ngành nghề kinh doanh . 38
3. Tình hình hoạt động kinh doanh của VINARE 38
3.1 Giai đoạn 1995 - 2004 . 38
3.2 Giai đoạn 2005 - 2007 . 40
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬN TÁI BẢO HIỂM CỦA VINARE (2004 – 2007) 41
1. Tình hình nhận tái bảo hiểm . 41
1.1Theo hình thức tái bảo hiểm cam kết/bắt buộc - tự nguyện . 41
1.2.Theo thị trường nhận tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài 44
1.3. Theo loại hình nghiệp vụ 44
2. Tình hình nhượng tái của VINARE 49
3. Kết quả kinh doanh nhận tái bảo hiểm của VINARE 51
3.1 Mức phí nhận tái bảo hiểm giữ lại 51
3.2 Bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại . 52
3.2.1 Bồi thường thuộc trách nhiệm phát sinh 52
3.2.2 Bồi thường thuộc trách nhiệm hợp đồng nhượng tái 53
3.2.3 Bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại 54
3.3 Kết quả thu – chi nghiệp vụ tái bảo hiểm . 55
3.3.1 Kết quả thu nghiệp vụ tái bảo hiểm 55
3.3.3 Kết quả thu – chi nghiệp vụ tái bảo hiểm . 57
IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC NHẬN TÁI CỦA VINARE 58
1. Đánh giá chung hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm của VINARE . 58
1.1 Những mặt đạt được: . 58
1.2 Những mặt hạn chế: . 60
1.3 Nguyên nhân: . 61
2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực nhận tái của VINARE 62
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NHẬN TÁI CỦA VINARE TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – WTO. 64
I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬN TÁI CỦA VINARE KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO . 64
1. Cam kết của ngành bảo hiểm khi gia nhập WTO 64
2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động nhận tái bảo hiểm của VINARE 66
2.1 Cơ hội . 66
2.2 Thách thức 68
II.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NHẬN TÁI CỦA VINARE 69
1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước 69
1.1 Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật 69
1.2. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm 71
1.3.Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam . 71
2.Giải pháp đối với VINARE . 72
2.1 Tăng cường khả năng tài chính 72
2.2 Hoàn thiện các sản phẩm tái bảo hiểm . 74
2.3 Mở rộng khai thác nhận tái bảo hiểm trong và ngoài nước . 75
2.4 Xây dựng chính sách khách hàng, dịch vụ khách hàng . 76
2.5 Phát triển nguồn nhân lực . 77
2.6 Hiện đại hoá hệ thống thông tin trong khai thác và quản lý doanh nghiệp. 78
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1.BẢNG
Bảng 2.1: Doanh thu phí nhận TBH của VINARE theo hình thức cam kết/bắt buộc - tự nguyện (2004 – 2007) . 42
Bảng 2.2: Cơ cấu doanh thu phí nhận tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài của VINARE (2004 - 2007) 44
Bảng 2.3: Doanh thu phí nhận tái bảo hiểm theo loại hình nghiệp vụ tại VINARE (2004 – 2007) 45
Bảng 2.4: Cơ cấu phí chuyển nhượng TBH cho thị trường trong nước và nước ngoài của VINARE (2004 – 2007) 50
Bảng 2.5: Mức phí giữ lại VINARE (2004 – 2007) . 51
Bảng 2.6: Tình hình bồi thường thuộc trách nhiệm hợp đồng nhận tái bảo hiểm của VINARE (2004 – 2007) . 52
Bảng 2.7: Tình hình tổn thất thuộc trách nhiệm hợp đồng nhượng tái bảo hiểm của VINARE giai đoạn 2004 – 2007 53
Bảng 2.8: Bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại của VINARE giai đoạn 2004 – 2007 54
Bảng 2.9: Kết quả thu nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 55
Bảng 2.10: Kết quả chi nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007. 56
Bảng 2.11: Kết quả thu - chi nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 57
Bảng 2.12: Biên khả năng thanh toán của VINARE (20040-2007) 59
Bảng 2.13: Chỉ tiêu về khả năng thanh toán của VINARE 60
2. BIỂU ĐÔ
Biểu đồ 2.1: So sánh giữa tỷ lệ bồi thường giữ lại, bồi thường nhận tái và bồi thường nhượng tái. 55
Nếu có thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới số ***********
86 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2983 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nhân giúp cho kết quả kinh doanh nghiệp vụ của VINARE liên tục có lãi qua các năm.
1.2 Những mặt hạn chế:
Bên cạnh những thành tích đạt được trong 4 năm qua, cũng cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng trong công ty vẫn tồn tại khá nhiều mặt hạn chế như:
Doanh thu phí nhận tái toàn công ty có xu hướng tăng nhưng thiếu tính ổn định (doanh thu phí năm 2006 giảm 5,12% so với năm 2005). Trong đó nguồn phí từ nhận tái bảo hiểm tự nguyện lại giảm cả về số tuyệt đối và tương đối. Phải chăng chất lượng dịch vụ mà VINARE cung cấp không còn hấp dẫn các nhà nhượng tái bảo hiểm. Vậy yêu cầu đặt ra lúc này chính là nâng cao chất lượng dịch vụ của VINARE đối với các nhà nhượng tái.
Mặt khác, doanh thu phí nhận tái giữa các nghiệp vụ có sự chênh lệch lớn. Phần lớn lượng phí nhận tái lại chỉ do một số ít nghiệp vụ mang lại. Chính vì thực trạng này mà khi doanh thu phí nhận tái của một trong những nghiệp vụ đó giảm sẽ ảnh hưởng lớn đến doanh thu phí nhận tái của cả công ty trong năm đó. Và điều đó đã được chứng minh trong năm 2006, mặc dù doanh thu phí nhận tái tất cả các nghiệp vụ khác đều tăng so với năm 2005 nhưng chỉ một nghiệp vụ hàng không giảm đã kéo theo sự giảm sút của tổng doanh thu phí nhận tái trong năm đó.
Mặc dù mức phí bảo hiểm giữ lại công ty có xu hướng tăng qua các năm nhưng tỷ trọng của nó trong tổng doanh thu phí nhận tái còn quá khiêm tốn, trung bình trong 4 năm mới chỉ chiếm 19,23%. Điều đó cũng có nghĩa là phần lớn dịch vụ khai thác được đều chuyển nhượng tái bảo hiểm. Nó làm tăng chi nghiệp vụ tái bảo hiểm của VINARE, từ đó làm giảm kết quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm giai đoạn 2004 – 2007.
Tỷ lệ phí nhượng tái ra thị trường nước ngoài có xu hướng giảm song tỷ trọng của lượng phí này so với phí nhận tái qua các năm vẫn còn rất cao. Bình quân phí nhượng tái bảo hiểm nước ngoài đạt 58,36% tổng phí nhận tái. Điều này cũng cho thấy năng lực nhận tái của thị trường bảo hiểm trong nước còn thấp, làm lãng phí một nguồn ngoại tệ lớn của đất nước.
Trong khi phí nhượng tái nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng cao (khoảng 58,36%) trong doanh thu phí nhận tái thì nguồn thu phí nhận tái từ thị trường nước ngoài còn chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn, trung bình là 3,18%. Đó là tình trạng bất cân đối giữa nhận và nhượng tái bảo hiểm nước ngoài không chỉ của riêng VINARE mà còn là của chung các DNBH trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
1.3 Nguyên nhân:
Mặc dù khả năng tài chính của VINARE đã được tăng cường đáng kể so với giai đoạn trước từ nguồn vốn góp của các cổ đông và vốn tích luỹ song vẫn còn quá nhỏ so với quy mô vốn của một công ty chuyên tái.
Cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề nan giải của thị trường bảo hiểm Việt Nam, mặc dù đã được nêu lên rất nhiều lần trong các bài tổng kết thị trường cũng như tại các cuộc họp chuyên ngành song dường như cơn sốt này vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Hình thức là giảm phí phi kỹ thuật, mở rộng điều kiện điều khoản hợp đồng trong khi công tác đánh giá rủi ro lại bị các DNBH xem nhẹ… làm không chỉ ảnh hưởng đến doanh thu phí nhận tái mà còn làm tăng trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm nói chung và của VINARE nói riêng.
Sự tăng trưởng nhanh chóng về vốn dẫn đến hầu như các công ty bảo hiểm gốc đều tăng mức giữ lại, do đó lượng dịch vụ tái bảo hiểm chuyển sang VINARE không tăng tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung của thị trường.
Phần lớn những tổn thất lại rơi vào hợp đồng cố định nên yêu cầu đặt ra cho công ty lúc này là phải tiến hành rà soát lại các điều kiện trong hợp đồng này một cách cẩn trọng và chặt chẽ hơn, có những điều chỉnh phù hợp với tình hình mới để loại bỏ được những rủi ro xấu được chuyển nhượng cho VINARE.
Tình hình tổn thất trên thị trường bảo hiểm nhìn chung đang diễn biến theo chiều hướng xấu. Rủi ro xảy ra ngày càng nhiều với tổn thất ngày càng nghiêm trọng. Có những vụ tổn thất toàn bộ ước thiệt hại lên đến hàng chục triệu USD. Thêm vào đó, nước ta lại thường xuyên bị tàn phá bởi thiên tai như lũ lụt, hạn hán, mưa bão…lại là một trong những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến động khí hậu toàn cầu. Và thực tế mỗi năm, bão lụt đã cuốn đi của nước ta hàng trăm tỷ đồng, làm thiệt hại nghiêm trọng nền kinh tế cũng như của ngành bảo hiểm. Và VINARE cũng không nằm ngoài khỏi những tiêu cực đó.
Mặc dù có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tái bảo hiểm, song với yêu cầu về trình độ chuyên môn của một cán bộ chuyên tái là tinh thông nghiệp vụ bảo hiểm gốc, nghiệp vụ tái bảo hiểm - giỏi ngoại ngữ - giỏi quản lý và tác nghiệp theo yêu cầu của chuẩn mực quốc tế thì dường như khả năng đáp ứng của các cán bộ tại VINARE là còn thấp. Đa phần cán bộ tốt nghiệp ở các khối chuyên ngành khác nên cũng bị hạn chế trong khâu đánh giá rủi ro hợp đồng nhận tái cũng như việc lựa chọn hình thức, phương pháp tái bảo hiểm phù hợp, an toàn và mang lại hiệu quả cao. Việc đào tạo chuyên ngành bảo hiểm, tái bảo hiểm cho đội ngũ cán bộ này là hết sức cần thiết song thị trường lại chưa có tổ chức đào tạo cán bộ chuyên tái, cũng là một hạn chế lớn cho VINARE.
Mặt khác bản thân công ty mặc dù đã hoạt động được trong nhiều năm, đi đầu thị trường về lĩnh vực tái bảo hiểm song vẫn chưa đưa ra được một “qui trình hướng dẫn nghiệp vụ” cụ thể nào. Phần lớn việc chấp nhận hợp đồng nhận tái là dựa trên kinh nghiệm của cán bộ tái mà không căn cứ theo số liệu thống kê của công ty về tình hình tổn thất, tỉ lệ bồi thường hay hạn mức trách nhiệm, mức giữ lại…đối với từng rủi ro cụ thể. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh nghiệp vụ của công ty trong thời gian tới khi mà tổn thất ngày càng có diễn biến thất thường và khó dự đoán.
2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực nhận tái của VINARE
Thị trường bảo hiểm Việt Nam thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường mới chỉ hơn 10 năm nên tiềm năng khai thác là còn vô cùng lớn. Nhu cầu bảo hiểm của xã hội ngày một tăng lên, giá trị bảo hiểm của các đối tượng ngày càng là những thuận lợi lớn cho thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên, trước tốc độ tăng trưởng doanh thu phí nhận tái cũng như mức giữ lại của VINARE còn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm. Để duy trì vị trí là một công ty tái bảo hiểm hàng đầu trong nước, việc nâng cao năng lực nhận tái trong giai đoạn sắp tới là một yêu cầu hết sức cấp thiết với VINARE.
Các công ty bảo hiểm trên thị trường đều đang có xu hướng gia tăng nguồn vốn trong doanh nghiệp nên các DNBH gốc đều tăng mức giữ lại do đó lượng dịch vụ chuyển sang VINARE tăng không đáng kể so với tốc độ tăng trưởng chung của thị trường. Do vậy VINARE cần mở rộng quan hệ với các công ty nhượng tái cả trong và ngoài nước để gia tăng nguồn thu phí nhận tái bảo hiểm, giúp hoạt động của công ty đi vào ổn định.
Mặt khác do tình trạng cạnh tranh giảm phí diễn ra một cách chóng mặt, nhiều nghiệp vụ tỷ lệ phí đã giảm xuống chỉ còn 0,03% – 0,04% gây ảnh hưởng lớn đến doanh thu phí bảo hiểm gốc, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu phí nhận tái bảo hiểm của VINARE. Bởi với những trường hợp các dịch vụ có tỷ lệ phí thấp hoặc điều kiện bảo hiểm mở rộng không hợp lý VINARE đã kiên quyết từ chối nhận tái bảo hiểm. Và một thực tế đáng lo ngại là hầu hết các dịch vụ xấu này đang được thu xếp trong thị trường nội địa giữa các công ty bảo hiểm trong nước với nhau do không thể chào tái ra nước ngoài. Nếu tổn thất đồng loạt xảy ra thì khả năng tài chính của toàn thị trường sẽ có nguy cơ sụp đổ. Tuy nhiên biện pháp mà VINARE lựa chọn là từ chối chấp nhận tái bảo hiểm về lâu dài không phải là giải pháp tối ưu. Chính vì vậy VINARE cần nỗ lực nhiều hơn để nâng cao năng lực nhận tái cũng như việc tư vấn, hỗ trợ các DNBH gốc trong quy trình khai thác dịch vụ.
Một lý do quan trọng khác phải nâng cao năng lực nhận tái của VINARE nữa là bắt đầu từ năm 2008, một năm sau khi chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, các cam kết về tái bảo hiểm bắt buộc sẽ hết hiệu lực. Như vậy một nguồn thu đáng kể từ phí nhận tái bảo hiểm bắt buộc sẽ không còn. Để bù đắp vào khoảng thiếu hút này buộc VINARE phải mở rộng lĩnh vực cũng như thị trường nhận tái bảo hiểm, trong đó cần quan tâm đặc biệt hơn nữa đối với nhận tái bảo hiểm từ nước ngoài.
Lý do cuối cùng phải nâng cao năng lực nhận tái của VINARE là mặc dù tỷ lệ nhượng tái ra nước ngoài hàng năm có xu hướng giảm dần song thực tế nó vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn, gây lãng phí nguồn ngoại tệ của quốc gia. Để củng cố hơn nữa vai trò của VINARE trên thị trường cũng như hoàn thành tốt mục tiêu mà Chính phủ, Bộ tài chính đặt ra khi thành lập VINARE là hạn chế tối đa lượng dịch vụ bằng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, VINARE cần tìm biện pháp nâng phần giữ lại dịch vụ trong nước cũng như mức giữ lại của công ty.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
NHẬN TÁI CỦA VINARE TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – WTO
I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬN TÁI CỦA VINARE KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Sau nhiều năm đàm phán và thực hiện những thủ tục cần thiết, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới –WTO vào tháng 11/2006. Sự kiện này có thể được xem là một dấu mốc lịch sử quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên cùng với những cơ hội mà hội nhập WTO mang lại thì cũng không ít những thách thức đang chờ đón các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ở phía trước. Là một doanh nghiệp tái bảo hiểm duy nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, hoạt động nhận tái của VINARE cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi cả yếu tố tích cực cũng như tiêu cực như các doanh nghiệp khác, song có phần rõ nét hơn. Để thấy rõ những nhận định trên, cần điểm qua những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam tại WTO.
1. Cam kết của ngành bảo hiểm khi gia nhập WTO
Về cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số loại hình bảo hiểm phi nhân thọ và giới hạn trong nhóm đối tượng người nước ngoài và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín và năng lực tài chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều, một phần do tâm lý khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có trụ sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông tin về rủi ro tốt nhất do đó có khả năng bảo hiểm tốt nhất, mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung cấp dịch vụ tốt hơn.
Hơn nữa, theo xu thế chung và triển vọng phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam, tỷ trọng phí bảo hiểm phi nhân thọ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của cả thị trường sẽ giảm dần so với nhân thọ, do đó những tác động của cam kết này đối với ngành bảo hiểm sẽ giảm dần theo thời gian.
Về các cam kết hiện diện thương mại
Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị trường.
Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam.
Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi phí bảo hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh doanh của các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển, vì vậy giảm giá thành đầu vào đối với chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng được đẩy mạnh.
Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường.
Tuy nhiên, song song với các khía cạnh tích cực như vậy, điều kiện thị trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này, song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường.
Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc
Hiện nay, bảo hiểm bắt buộc theo luật định gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ; và các loại bảo hiểm khác được quy định theo điều kiện phát triển của nền kinh tế.
Trong những năm gần đây, tỷ trọng phí bảo hiểm thu từ bảo hiểm bắt buộc khá lớn trong tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, tỷ trọng phí bảo hiểm từ loại hình bảo hiểm bắt buộc này sẽ giảm tương đối qua thời gian khi các nhu cầu bảo hiểm tiềm năng trên thị trường được khai thác tốt hơn do các doanh nghiệp ngày càng trưởng thành về năng lực vốn cũng như về trình độ chuyên môn. Do đó, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cung cấp các dịch vụ này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thị trường bảo hiểm mà chỉ ảnh hưởng đến thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường và chỉ trong lĩnh vực phi nhân thọ.
Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm
Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước ngoài đều phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiểu 20% với Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE). Vì vậy thực hiện cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có tác động kép, trước tiên là ảnh hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến tổng mức phí giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, cam kết này nếu được áp dụng chung sẽ tạo điều kiện cho họ linh hoạt hơn trong công tác tái bảo hiểm và tạo điều kiện tái bảo hiểm có lợi hơn xét về mặt kinh tế.
2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động nhận tái bảo hiểm của VINARE
2.1 Cơ hội
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế vẫn luôn giữ ở mức cao và ổn định. Năm 2007, năm đầu tiên nước ta gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình tích cực. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 8,44% so với năm trước và là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 48 tỷ USD, tăng 21%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao, riêng năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD( thực hiện đạt 4,6 tỷ USD) cùng với đó là lượng kiều hối ồ ạt chảy về nước với 6 tỷ USD cao hơn số vốn FDI thực tế chuyển vào Việt Nam. Hàng loạt các dự án lớn về thuỷ điện và cơ sở hạ tầng được triển khai xây dựng trên toàn quốc. Đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Thực tế đó đã làm gia tăng nhu cầu bảo hiểm của người dân cũng như các tổ chức kinh tế xã hội, mở ra nhiều tiềm năng cho thị trường bảo hiểm tài sản, thị trường bảo hiểm kỹ thuật và các thị trường bảo hiểm khác.
Với động lực mạnh mẽ từ nền kinh tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có bước tăng trưởng nhảy vọt trong năm 2007 với tổng doanh thu phí ước đạt 18.000 tỷ VND, tăng 20,5% so với năm 2006. Trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỷ đồng, tăng 30% so với năm trước và là mức cao nhất trong 5 năm qua. Một số loại hình nghiệp vụ chính đạt mức tăng trưởng cao như bảo hiểm kỹ thuật tăng 30%, bảo hiểm hàng hoá tăng 30%, bảo hiểm cháy tăng 19%. Đây được xem là những nghiêp vụ thế mạnh của VINARE do đó có thể là những tín hiệu vui để VINARE có thể nâng cao khả năng nhận tái bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm trong nước, từ đó có thể nâng mức giữ lại cho toàn thị trường bảo hiểm.
Lộ trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ kết thúc vào năm 2009, số lượng các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tăng kéo theo tập quán mua bảo hiểm để an toàn trong sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài sẽ lan rộng trong khối các tổ chức kinh tế xã hội.
VINARE cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước sẽ học tập được kinh nghiệm phát triển sản phẩm, phát triển kênh phân phối (qua môi giới và đại lý bảo hiểm) kinh nghiệm quản lý rủi ro, sử dụng công nghệ thông tin và thái độ phục vụ chăm sóc khách hàng.
Bên cạnh đó việc mở cửa cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh hơn, thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm sẽ không bằng hình thức giảm phí phi kỹ thuật như hiện nay, mà họ sẽ sử dụng những kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Bởi trình độ dân trí ngày càng tăng làm cho sự lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng khắt khe hơn, doanh nghiệp bảo hiểm có thương hiệu mạnh, có uy tín thực hiện đúng cam kết về phương thức, cách thức, thời hạn bồi thường, đem lại nhiều giá trị dịch vụ gia tăng cho khách hàng sẽ được lựa chọn. Cạnh tranh giảm phí hạ nhiệt, VINARE sẽ có điều kiện tăng doanh thu phí nhận tái bảo hiểm từ các nhà nhượng tái, thuận lợi hơn trong việc thu xếp tái bảo hiểm ra nước ngoài.
Hội nhập cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng quan hệ hợp tác với các tập đoàn bảo hiểm, tái bảo hiểm hàng đầu khu vực và thế giới như AXA, HSBC, AIG…Đầu năm 2008, VINARE đã tổ chức lễ ký kết hợp tác chiến lược với SWISS RE, tập đoàn tái bảo hiểm số một thế giới. Việc lựa chọn SWISS RE là đối tác chiến lược sẽ giúp VINARE tăng cường khả năng trao đổi dịch vụ, mở rộng thị trường nhận tái từ nước ngoài. Mặt khác tập đoàn này cũng sẽ hỗ trợ VINARE nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng vị thế của công ty tái bảo hiểm hàng đầu trong khu vực thông qua việc thực hiện các mục tiêu của hợp đồng hợp tác kỹ thuật: cung cấp sản phẩm tái bảo hiểm, nâng cao khả năng quản lý, củng cố tiềm lực tài chính và năng lực nhận dịch vụ, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và tăng cường hoạt động đầu tư tài chính của VINARE.
2.2 Thách thức
Trong điều kiện khả năng tài chính chưa lớn, kinh nghiệm hoạt động trên thị trường chưa nhiều và trình độ quản trị doanh nghiệp vẫn còn thấp, kết quả hoạt động đầu tư còn hạn chế, còn thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi đặc biệt là trong lĩnh vực tính phí bảo hiểm và trích lập dự phòng nghiệp vụ, thẩm định bảo hiểm, quản lý rủi ro và đầu tư thì VINARE cũng găp không ít những thách thức khi hội nhập WTO như:
VINARE là doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhiều nhất từ những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm khi gia nhập WTO. Bởi bắt đầu từ ngày 1/1/2008, quy định tái bảo hiểm bắt buộc sẽ không còn hiệu lực. Mặc dù đã có sự chuẩn bị từ trước song không thể phủ định rằng nguồn thu từ phí nhận tái bảo hiểm bắt buộc đã chiếm một phần không nhỏ trong tổng doanh thu phí nhận tái của VINARE trong những năm qua.
Áp lực cạnh tranh khi hội nhập đã khiến các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng tìm mọi cách nâng cao năng lực tài chính của mình. Đồng loạt các công ty bảo hiểm lớn tiến hành bán đấu giá cổ phần, niêm yết trên thị trường chứng khoán, mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực tài chính khác như Bảo Việt, Bảo Minh…Và thực tế có khoảng 90% doanh nghiệp bảo hiểm có vốn chủ sở hữu cao gấp nhiều lần vốn pháp định. Tiềm lực tài chính được tăng cường, các doanh nghiệp này đều có xu hướng nâng mức giữ lại đồng nghĩa với nó là giảm mức tái bảo hiểm cho các công ty nhượng. Do đó mà doanh thu phí nhận tái của VINARE trong thời gian gần đây cũng như trong tương lai sẽ bị ảnh hưởng tương đối nhiều.
Khi hoạt động tái bảo hiểm của VINARE vươn ra tầm khu vực và quốc tế, thì doanh thu phí nhận tái của VINARE sẽ không chỉ chịu ảnh hưởng từ diễn biến của thị trường bảo hiểm trong nước mà còn chịu sự chi phối từ những biến động của thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm khu vực và thế giới.
Cạnh tranh trong lĩnh vực nhận tái bảo hiểm cũng có xu hướng gia tăng, có nhiều doanh nghiệp đã tăng dần hoa hồng nhượng tái bảo hiểm, từ đó gây khó khăn nhất định cho hoạt động nhận tái bảo hiểm của VINARE.
Biến động về nhân sự cũng là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường Việt Nam nói chung và với VINARE riêng. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân sự trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Nếu VINARE không có những điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự thì khả năng các cán bộ có kiến thức và kinh nghiệm lâu năm trong nghề chuyển sang làm việc tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài là hoàn toàn có thể.
II.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NHẬN TÁI CỦA VINARE
1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước
1.1 Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và hoạt động tái bảo hiểm nói riêng chỉ có thể phát triển một cách lành mạnh và đúng hướng khi nó được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm đều tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có trật tự trên cơ sở của pháp luật, không như tình trạng “mạnh ai nấy làm” hiện nay của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh là hết sức cần thiết. Chính vì vậy Bộ Tài chính cần có nhiều nỗ lực để không ngừng bổ sung, củng cố và hoàn thiện môi trường pháp lý về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp, kết hợp hài hoà giữa yêu cầu phát triển thị trường với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm.
Hiện nay các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện hành cơ bản đã khá hoàn chỉnh với việc ban hành hai nghị định mới là Nghị định 45/2007/NĐ - CP và Nghị định 46/2007/NĐ - CP nhằm thay thế cho hai nghị định cũ là Nghị định 42 và 43 năm 2001 quy định về việc thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đều đã đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện một số cam kết còn lại và đảm bảo sự ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm:
Hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng phù hợp với các cam kết trong đàm phán gia nhập WTO và các thông lệ chuẩn mực quốc tế trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm như xây dựng và điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp lý về cấp giấy phép thành lập và tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng không phân biệt đối xử; nâng cao tính công khai minh bạch và bình đẳng đối với việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm; năng lực tài chính, năng lực pháp lý của chủ đầu tư cả trong nước lẫn ngoài nước, công tác quản trị điều hành doanh nghiệp.
Bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Các quy định này giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao gồm :đơn giản hoá thủ tục hành chính trong các khâu cấp giấy phép, thẩm định hồ sơ phê chuẩn, đăng ký sản phẩm đáp ứng các yêu cầu công khai, minh bạch và thận trọng, bổ sung các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng khác liên quan như đại lý, môi giới bảo hiểm.
Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường bảo hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm.
1.2. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm cần tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo thực thi theo đúng chế độ quy định; đề cao công tác phân tích, đánh giá doanh nghiệp, quản lý giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ doanh nghiệp. Quan hệ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp cần dựa trên tinh thần hợp tác và xây dựng.
Bên cạnh đó cũng cần kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; giữ vững trật tự, kỷ cương và đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cạnh tranh lành mạnh và đúng pháp luật.
Ngoài ra cơ quan quản lý cần thực hiện việc giám sát, kiểm tra thận trọng về các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp như: năng lực tài chính, trách nhiệm tuân thủ pháp luật, hệ thống thông tin quản lý, điều kiện tiêu chuẩn người quản trị, điều hành trong quá trình kinh doanh.
Để có thể làm được những việc trên, cơ quan quản lý trong nước cần mở rộng quan hệ hợp tác với cơ quan quản lý bảo hiểm các nước, các tổ chức quốc tế để tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, chuyên gia…nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập với thị trường bảo hiểm khu vực và thế giới. Mặt khác cần nhanh chóng triển khai xây dựng hệ thống công nghệ thông tin kết nối các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đáp ứng yêu cầu về nghiên cứu, phân tích dự báo, xây dựng cơ chế chính sách phục vụ cho công tác quản lý, giám sát các doanh nghiệp được kịp thời và hiệu quả.
1.3.Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Trong những năm vừa qua hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã ngày một tích cực và có hiệu quả hơn trước. Từng bước khẳng định vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phát triển. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu của hội nhập, Hiệp hội cần nhạy bén và nhanh nhạy hơn trong việc đề ra những quy tắc cho hoạt động bảo hiểm. Đối với khối doanh nghiệp bảo hiểm, vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm có một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có không ít những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin công khai, minh bạch tài chính kế toán.
Mặt khác với tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay trên thị trường mà không sớm có sự can thiệp từ Hiệp hội thì tương lai “các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ sẽ kéo nhau vào chỗ chết” (như một số chuyên gia đã nhận định). Nhiều nghiêp vụ xấu có tỷ lệ phí thấp trong khi phạm vi cũng như điều kiện bảo hiểm bảo hiểm mở rộng, công tác đánh giá rủi ro sơ sài là những nguyên chính khiến các doanh nghiệp bảo hiểm gốc khó thu xếp tái bảo hiểm ra nước ngoài. Kết quả là hầu hết các dịch vụ này được thu xếp tái giữa các doanh nghiệp trong nước. Như vậy khi nhiều vụ tổn thất đồng loạt xảy, khả năng tài chính của thị trường bảo hiểm sẽ có nguy cơ bị đe doạ. Chính vì vậy Hiệp hội cần đứng ra làm trọng tài của các doanh nghiệp, đưa ra các biện pháp để các doanh nghiệp phải cam kết với nhau, nói “không” với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm hàng năm phải ký quỹ tại Hiệp hội với số tiền nhất định, như 5 tỷ chẳng hạn với cam kết nếu vi phạm một trong những quy định chung do Hiệp hội đề ra sẽ bị xử phạt theo nguyên tắc. Và mức phạt này sẽ tăng dần cùng với những vụ việc vi phạm về sau.
Hoạt động tái bảo hiểm bên cạnh chức năng là tấm lá chắn bảo vệ các công ty bảo hiểm gốc, thì chính sự phát triển và ổn định của công ty bảo hiểm gốc sẽ là động lực phát triển của hoạt động tái nhận tái bảo hiểm.Với hy vọng những nỗ lực trên được cải thiện thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ phát triển lành mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh với thị trường bảo hiểm khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó, hoạt động nhận tái của VINARE mong sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn trong tương lai.
2.Giải pháp đối với VINARE
2.1 Tăng cường khả năng tài chính
Như đã phân tích ở các phần trên, hiện nay các công ty bảo hiểm gốc đều có xu hướng nâng cao mức giữ lại, chính vì vậy mà số đơn và lượng dịch vụ có tái chuyển nhượng cho VINARE không tăng tương ứng với tốc độ tăng trưởng dịch vụ có tái trên thị trường, nếu như không muốn nói là thiếu tính ổn định. Bởi vậy tăng cường khả năng tài chính có thể được coi là một yêu cầu cấp thiết đối với VINARE, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập như hiện nay.
Vậy giải pháp tối ưu có thể đặt ra với VINARE lúc này đó chính là phát hành thêm cổ phiếu, hoặc cũng có thể liên doanh, liên kết với các tổ chức là các công ty bảo hiểm lớn nhằm mục đích trao đổi dịch vụ tái bảo hiểm, trong đó các công ty này sẽ tái cho VINARE những dịch vụ bảo hiểm có tái, ngược lại VINARE cũng ưu tiên chuyển nhượng cho các công ty này trước khi tái bảo hiểm cho các công ty khác trên thị trường. Ngoài ra, VINARE cần tiếp tục mở rộng việc liên kết với các tổ chức sản xuất kinh doanh lớn, để khi các tổ chức này có nhu cầu bảo hiểm, VINARE sẽ thu xếp cho họ với một công ty bảo hiểm gốc nào đó, rồi yêu cầu phải tái bảo hiểm cho VINARE theo chỉ định…
Bên cạnh việc gia tăng vốn sau cổ phần hoá cũng như từ hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, VINARE cũng cần chú trọng hơn đến hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi có được từ kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm. Bên cạnh việc đa dạng hoá các danh mục đầu tư cũng cần cấu trúc lại cơ cấu sử dụng vốn đầu tư trong từng lĩnh vực nhằm đảm bảo sử dụng một cách có hiệu quả, linh hoạt đồng vốn đầu tư.
Ưu tiên đầu tư vào các dự án ngoài mục đích sinh lời trực tiếp phải có quan hệ cung cấp/trao đổi dịch vụ tái bảo hiểm với VINARE. Các dự án đó chính là các doanhn nghiệp bảo hiểm trên gốc hoạt động hoạt động tại thị trường trong nước. Ngoài việc sinh lời trực tiếp do khoản tiền đầu tư mang lại, VINARE sẽ thông qua việc hỗ trợ, hợp tác trong kinh doanh bảo hiểm/tái bảo hiểm nhận dịch vụ tái bảo hiểm từ các công ty này.
Từng bước cụ thể hoá các mục tiêu, giải pháp trong lĩnh vực đầu tư đã hoạch định trong chiến lược phát triển kinh doanh. Phát triển hoạt động đầu tư phải đi đôi với nguyên tắc “an toàn - hiệu quả”.
Ngoài ra hoạt động đầu tư của VINARE cũng có thể được mở rộng sang lĩnh vực tài chính như liên doanh, liên kết với các ngân hàng, công ty chứng khoán. Thực tế cho thấy mô hình này trên nhiều nước cũng như ở Việt Nam đã và đang mang lại những hiệu quả vô cùng to lớn. Nó giúp gia tăng tiềm lực tài chính cho các công ty bảo hiểm bởi với mô hình này sẽ cho phép các công ty có thể tận dụng tối đa lợi thế về vốn của ngân hàng và nguồn vốn nhàn rỗi của bảo hiểm để đầu tư, ngoài ra cũng có thể huy động vốn qua kênh giao dịch chứng khoán.
Bên cạnh đó, lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm được tích luỹ qua các năm sẽ cũng có những đóng góp không nhỏ vào tổng vốn chủ sỏ hữu của VINARE. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng có tác động trực tiếp làm tăng khả năng tài chính và gián tiếp tăng khả năng nhận tái bảo hiểm ở những năm tiếp theo.
Cuối cùng, khi khả năng tài chính đã đủ lớn mạnh, VINARE cần nghiên cứu, xem xét khả năng nâng phần giữ lại cho công ty. Mặt khác để hoàn thành tốt vai trò là đầu mối thu hút hoạt động nhận tái bảo hiểm trên thị trường Việt Nam, nâng phần giữ lại bảo hiểm trong nước, hạn chế tối đa lượng dịch vụ bằng ngoại tệ chảy ra nước ngoài như mong muốn của Chính phủ khi xúc tiến thành lập VINARE, công ty cần cấu trúc lại cơ cấu giữa nhận và nhượng dịch vụ tái bảo hiểm. Theo đó, giảm dần lượng dịch vụ chuyển nhượng ra nước ngoài, tăng dần mức giữ lại công ty cho phù hợp với khả năng tài chính mới và những diễn biến mới trên thị trường tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
2.2 Hoàn thiện các sản phẩm tái bảo hiểm
Có thể nói trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, thì việc cấu trúc các điều kiện/điều khoản của hợp đồng một cách hợp lý là yếu tố hết sức quan trọng để thu hút các dịch vụ bảo hiểm nói chung, và dịch vụ nhượng tái bảo hiểm nói riêng. Chính vì vậy để tăng cường hoạt động nhận tái, việc cần làm trước tiên của VINARE là cần tập trung nghiên cứu, chuẩn hoá phương án tái bảo hiểm cho từng nghiệp vụ, đảm bảo hiệu quả, hấp dẫn, cạnh tranh, an toàn cho doanh nghiệp bảo hiểm gốc và người được bảo hiểm thông qua một số giải pháp như:
Thứ nhất, tăng tỷ lệ hoa hồng nhận tái bảo hiểm: Có thể nói đây là một biện pháp cần thiết để thu hút thêm nguồn phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện. Bởi trong thực tế, khi các công ty nhượng tìm kiếm các nhà tái bảo hiểm, họ thường so sánh hoa hồng của các công ty tái trả cho họ. Và đương nhiên, công ty nào trả cho họ hoa hồng cao hơn, thì họ cũng sẽ ưu tiên hơn trong việc nhượng tái bảo hiểm. Mặt khác, việc tăng tỷ lệ hoa hồng cũng giúp công ty tạo dựng hình ảnh, uy tín, mối quan hệ lâu dài với các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
Tăng tỷ lệ hoa hồng cũng làm tăng chi nghiêp vụ, nhưng nếu doanh thu từ phí nhận tái bảo hiểm tăng cao hơn thì cuối cùng kết quả kinh doanh vẫn tăng và vẫn mang lợi nhuận cho công ty.
Tuy nhiên cũng chính vì yếu tố này, việc tăng tỷ lệ hoa hồng cũng cần được xem xét, cân nhắc trên cơ sở của kết quả kinh doanh của nghiệp vụ năm trước đó, diễn biến của tổn thất trên thị trường cũng như từ kết quả đánh giá rủi ro được bảo hiểm…và cần có sự thống nhất chung giữa ban lãnh đạo công ty cùng với các cán bộ của từng phòng ban tái bảo hiểm.
Thứ hai, bổ sung và hoàn thiện các điều kiện/điều khoản, phạm vi bảo hiểm một cách hợp lý. Việc xây dựng một phương án nhận tái với các hợp đồng mang tính cạnh tranh cao sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho VINARE trong việc nâng cao phần phí nhận tái bảo hiểm tự nguyện, cũng như khuyến khích các cổ đông gia tăng lượng phí nhượng tái cho VINARE ngoài phần theo cam kết.
2.3 Mở rộng khai thác nhận tái bảo hiểm trong và ngoài nước
Nhận tái bảo hiểm là một lĩnh vực mang tính chất quốc tế, song với những gì đạt được trong những năm vừa qua về doanh thu phí nhận tái từ thị trường nước ngoài của VINARE là còn khá hạn chế. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra là xây dựng VINARE trở thành một công ty tái bảo hiểm hàng đầu trong nước và khu vực thì việc mở rộng quan hệ hợp tác trên thị trường bảo hiểm trong nước và thế giới là một giải pháp rất đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Trước hết là tìm kiếm những biện pháp nhằm chiếm lĩnh thị trường tái bảo hiểm trong nước. Thu hút các công ty bảo hiểm gốc tăng cường thu xếp hoạt động nhượng tái với VINARE. Có thể là thông qua việc tư vấn, hợp tác toàn diện: trao đổi dịch vụ, cung cấp thông tin, công nghệ tái bảo hiểm…xây dựng và củng cố vị thế số một của một công ty chuyên tái trong nước.
Đối với thị trường bảo hiểm nước ngoài, ngoài việc củng cố phát triển quan hệ với các bạn hàng truyền thống là các doanh nghiệp trong hiệp hội bảo hiểm Châu Á, các nhà nhận tái bảo hiểm hàng đầu thế giới như Munich Re, Hannover Re, Lloy’d, Korean Re, Swiss Re…mà VINARE đã có quan hệ kinh doanh trong nhiều năm, thì công ty cũng cần xúc tiến việc hợp tác toàn diện trong mọi lĩnh vực: trao đổi dịch vụ nhận/nhượng tái bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, đào tạo, cung cấp thông tin…với các nhà nhận tái đến từ các thị trường tiềm năng khác Trung Quốc, Ấn Độ…
Tuy nhiên việc mở rộng hoạt động nhận tái tử thị trường nước ngoài cũng cần có những bước đi phù hợp. Bởi bên cạnh những tiềm năng to lớn mà thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm nước ngoài mang lại như nguồn dịch vụ khổng lồ với hạn mức trách nhiệm lên đến hàng triệu USD, mức phí cạnh tranh hơn…thì cũng không ít những rủi ro có thể tiềm ẩn như thiên tai, dịch bệnh, khủng bố…Và cho đến nay bài học từ vụ khủng bố 11/9/2001 vẫn còn nguyên giá trị về cảnh báo khả năng ảnh hưởng di truyền trong tái bảo hiểm.
Với năng lực tài chính còn khiêm tốn so với quy mô của một công ty chuyên tái trên thị trường cũng như kinh nghiệm hoạt động trên thị trường bảo hiểm/tái bảo hiểm thế giới còn nhiều hạn chế, VINARE cần nỗ lực hơn nữa trong việc học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm quản lý với đối tác chiến lược là tập đoàn tái bảo hiểm hàng đầu Swiss Re trước khi vươn xa hơn trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, VINARE cũng cần thiết phải có một bộ phận nghiên cứu thị trường đủ mạnh nhằm đưa ra những giải pháp cạnh tranh hiệu quả. Bộ phận này cần thực hiện tốt các chức năng thu thập thông tin, điều tra, thăm dò, dự báo, nghiên cứu và phân tích xu hướng của thị trường, để tham mưu cho lãnh đạo doanh nghiêp thực hiện các chiến lược kinh doanh, nhằm củng cố thị trường và khách hàng đã có, mở rộng sang các thị trường khác và các khách hàng mục tiêu, bổ sung những dịch vụ còn khiếm khuyết để nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng.
Làm tốt được những công tác trên, khả năng VINARE có thể nâng cao vị thế của mình trên thị trường tái bảo hiểm trong nước, mở rộng phạm vi trên thị trường tái bảo hiểm khu vực và quốc tế là việc hoàn toàn có thể. Từ đó, sẽ tạo điều kiện cho VINARE tăng dần doanh thu phí nhận tái từ cả thị trường trong nước và nước ngoài.
2.4 Xây dựng chính sách khách hàng, dịch vụ khách hàng
Tăng cường khả năng tài chính và hoàn thiện sản phẩm tái bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở điều cần, bởi muốn thu hút hoạt động nhượng tái từ các công ty bảo hiểm gốc thì dịch vụ khách hàng là điều tối quan trọng.
Chính vì vậy yêu cầu đặt ra với VINARE là cần xây dựng chính sách khách hàng một cách hợp lý, xác định các dịch vụ trọng điểm, phức tạp để tiến hành tư vấn cho khách hàng từ khâu giám định rủi ro, xác định phạm vi bảo hiểm…trước khi cấp đơn bảo hiểm. Mặt khác trong quá trình thực hiện hợp đồng, VINARE cũng cần thường xuyên tham mưu các biện pháp kỹ thuật cho các công ty bảo hiểm gốc trong việc đề phòng, hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro và giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm, đảm bảo an toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phối hợp với khách hàng giải quyết bồi thường mau chóng, khắc phục hậu quả, ổn định kinh doanh. Bởi cũng như hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, để nâng tính hữu hình cho sản phẩm cũng như chiếm được niềm tin từ khách hàng tham gia bảo hiểm, thì việc tiến hành bồi thường nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời là hết sức cần thiết. Trong hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng vậy, để khuyến khích các công ty nhượng bằng nâng cao tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm thôi là chưa đủ, công ty cần rút ngắn thời gian bồi thường cho khách hàng, bồi thường một cách đầy đủ và kịp thời cho các công ty bảo hiểm gốc để họ có thể nhanh chóng ổn định hoạt động kinh doanh. Để có thể thực hiện được như trên, công ty cần trích lập đầy đủ các quỹ dự phòng nghiệp vụ như dự phòng phí, dự phòng bồi thường , dự phòng dao động lớn; thường xuyên kiểm tra khả năng thanh toán của công ty để đảm bảo bồi thường kịp thời cho khách hàng khi có rủi ro xảy ra.
Thường xuyên tổ chức hoặc phối hợp với khách hàng, các tổ chức bảo hiểm trên thế giới tổ chức đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của VINARE và thị trường thông qua các hình thức: tham dự các khoá học, hội thảo trong và ngoài nước. Phổ biến kiến thức, kinh nghiệm về tái bảo hiểm đến từng cán bộ khai thác. Công ty cần phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành là Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam xúc tiến việc xây dựng Học viện Bảo hiểm Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực trong bối cảnh bùng nổ các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao như hiện nay.
Ngoài ra, công ty cũng cần tiếp tục và nâng cao hơn nữa vai trò là trung tâm thông tin của thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm trong nước và quốc tế. Tăng cường các biện pháp thu thập thông tin, kịp thời phát hiện ra những biến động thất thường, những thay đổi từ thị trường trong nước cũng như quốc tế để có thể đưa ra những nhận định, đồng thời tham mưu tư vấn cho ban lãnh đạo các cơ quan quản lý để kịp thời đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập, khi thị trường bị chia cắt manh mún và khả năng rủi ro mang tính hệ thống là rất cao thì công tác trên là hết sức cần thiết.
Với những nỗ lực kể trên, uy tín của công ty trong mắt các nhà bảo hiểm gốc sẽ ngày được nâng cao, tạo được niềm tin vững chắc trong lòng khách hàng, khuyến khích họ tái tục bảo hiểm với mình…sẽ là những động lực tốt để VINARE nâng cao khả năng nhận tái bảo hiểm.
2.5 Phát triển nguồn nhân lực
Bản thân hoạt động trong một lĩnh vực mang đậm tính chất quốc tế, lại đang trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và thị trường bảo hiểm thế giới nói riêng, mà yêu cầu đặt ra đối với những cán bộ tái bảo hiểm là hết sức cao và khắt khe. Con người chính là trung tâm của mọi hoạt động, hoạt động nhận tái của VINARE sẽ không thể phát triển nếu như thiếu những cán bộ chuyên môn giỏi, dày dặn kinh nghiệm, am hiểu thị trường trong và ngoài nước…trong khi đặc điểm nguồn nhân lực của VINARE có khá nhiều người còn trẻ không chỉ ở tuổi đời mà còn ở kinh nghiệm trên thị trường. Bởi vậy, công tác tổ chức đào tạo và đào tạo lại và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ là cần được ưu tiên trong chiến lược phát triển dài hạn của công ty.
Để thực hiện được theo phương châm “Giỏi chuyên môn tái bảo hiểm, am hiểu chuyên môn bảo hiểm gốc”, VINARE cần chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thông qua các khoá đào tạo về tái bảo hiểm cho các cán bộ mới được tuyển dụng, cũng như các cán bộ tốt nghiệp ở các khối chuyên ngành khác; thường xuyên mở các cuộc hội thảo trao đổi về kinh nghiệm tái bảo hiểm, cố gắng mời các chuyên gia về tái bảo hiểm trong và ngoài nước đến truyền đạt kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong công ty, khuyến khích nâng đỡ các tài năng trẻ, chú trọng đến công tác tiến cử những cán bộ có tâm huyết và khả năng đi học tập và làm việc ở nước ngoài, trau dồi kiến thức.
Mặt khác, công ty cũng cần thực hiện chính sách thu hút nhân tài thông qua các chính sách về thu nhập đối với người lao động, tổ chức văn hoá doanh nghiệp mang đậm nét riêng có của VINARE. Bên cạnh đó, công ty cũng cần chú trọng đến công tác trích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi từ lợi nhuận sau thuế. Bởi với việc khen thưởng động viên một cách kịp thời và thích hợp sẽ có tác động kích thích tinh thần hăng say lao động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ nhân viên xuất sắc như trong việc ký kết được nhiều hợp đồng nhận tái mang lại nguồn doanh thu lớn cho công ty, hoặc những hợp đồng có kết quả kinh doanh tốt nhằm gắn bó trách nhiệm của các cán bộ hơn trong việc chấp nhận các hợp đồng tái bảo hiểm, những cán bộ có nhiều sáng kiến hay và thiết thực…Đây cũng là một biện pháp tốt nhằm giữ được nhân tài, tránh tình trạng chảy máu chất xám.
2.6 Hiện đại hoá hệ thống thông tin trong khai thác và quản lý doanh nghiệp
Yều cầu về đổi mới hệ thống thông tin không chỉ đối với riêng VINARE, mà còn là yêu cầu chung cho toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Lợi ích mà nó mang lại là vô cùng lớn cho các doanh nghiêp như giao dịch thông tin, giao dịch bảo hiểm, thực hiện tính phí, quản lý hợp đồng, xử lý thông tin một cách nhanh gọn và chính xác…chính là một động lực lớn, thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày một phát triển hơn lên.
Chính vì vậy trong thời gian tới, VINARE cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu thống kê nghiệp vụ, thống kê và phân tích rủi ro làm dữ liệu cho việc định phí, đàm phán phương án tái bảo hiểm, tiến tới quản lý và quản trị doanh nghiệp trên mạng. Sử dụng một cách có hiệu quả nhất các phần mềm ứng dụng hiện có.
Mặt khác ban lãnh đạo công ty cần thúc đẩy việc thống kê số liệu của ngành trong và ngoài nước, nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể đưa ra một bản “hướng dẫn quy trình nghiệp vụ” thống nhất trong công ty. Văn bản này sẽ được tính toán trên nhiều chỉ tiêu như đối tượng bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, tỷ lệ tổn thất bình quân trong nhiều năm của từng nghiệp vụ, kết quả kinh doanh nghiệp vụ đó trong nhiều năm, diễn biến tổn thất trên thị trường…nhằm giúp các cán bộ có thể đưa ra những quyết định thích hợp, nhằm đem lại hiệu quả tối ưu cho VINARE.
KẾT LUẬN
So với thị trường bảo hiểm ở các nước khác trên thế giới, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường tái bảo hiểm Việt Nam nói riêng là còn khá non trẻ. Với kinh nghiệm hoạt động chưa nhiều, khả năng tài chính còn hạn chế, thị trường diễn biến phức tạp trong khi phải gánh vác trọng trách to lớn là nâng mức giữ lại cho thị trường trong nước, hạn chế tối đa lượng dịch vụ bằng ngoại tệ chảy ra nước ngoài mà hoạt động nhận tái của VINARE cần tiếp tục được quan tâm một cách đúng mức hơn nữa trong thời gian tới.
Tuy nhiên với những tín hiệu tốt từ nền kinh tế, đặc biệt là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới -WTO cùng với những nỗ lực của ban lãnh đạo cũng như của toàn thể cán bộ trong Tổng công ty mà hy vọng về một sự phát triển cao hơn nữa, xa hơn nữa của VINARE trên thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế là hoàn toàn có theer trở thành hiện thực.
Như vậy, chuyên đề thực tập đến đây đã được hoàn thành. Dù đã hết sức cố gắng, song do năng lực còn nhiều hạn chế, mà chuyên đề này chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót về nội dung và hình thức biểu đạt. Mặt khác, do được hoàn thành trong một thời gian tương đối gấp rút nên những thiếu sót, khuyết điểm đó càng không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo tận tình của các cán bộ trong công ty và của các thầy cô giáo.
Lời cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn chân thành đến các cô chú và các anh chị trong phòng Tái bảo hiểm Phi hàng hải, phòng Hành chính tổng hợp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em được thực tập tại công ty. Em cũng xin đặc biệt cảm ơn cô giáo - tiến sĩ Phạm Thị Định đã tận tình hướng dẫn cho em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Sinh viên: Nguyễn Thuỳ Dương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm, trường đại học Kinh tế Quốc dân.
NXB Thống kê, 2005
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, trường đại học Kinh tế Quốc dân.
NXB Thống kê, 2004
3. Giáo trình Kế toán bảo hiểm, Học viện Tài chính
NXB Tài chính, 2002
4. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành, Học viện Hoàng gia Anh.
NXB Tài chính, 1998
5. Tạp chí thị trường Bảo hiểm - Tái bảo hiểm Việt Nam số 2,3,4/2007 và số 1/2008
Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam
6. Tạp chí Annual Report
Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam
7. Tạp chí Tài chính - Bảo hiểm số 4/2007
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
8. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 4,11/2007
9. Tài liệu của phòng Hành chính tổng hợp, VINARE
10. Văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm - Nghị định 45/2007/NĐ –CP và Nghị định 46/2007/NĐ-CP
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1.BẢNG
Bảng 2.1: Doanh thu phí nhận TBH của VINARE theo hình thức cam kết/bắt buộc - tự nguyện (2004 – 2007) 42
Bảng 2.2: Cơ cấu doanh thu phí nhận tái bảo hiểm trong nước và nước ngoài của VINARE (2004 - 2007) 44
Bảng 2.3: Doanh thu phí nhận tái bảo hiểm theo loại hình nghiệp vụ tại VINARE (2004 – 2007) 45
Bảng 2.4: Cơ cấu phí chuyển nhượng TBH cho thị trường trong nước và nước ngoài của VINARE (2004 – 2007) 50
Bảng 2.5: Mức phí giữ lại VINARE (2004 – 2007) 51
Bảng 2.6: Tình hình bồi thường thuộc trách nhiệm hợp đồng nhận tái bảo hiểm của VINARE (2004 – 2007) 52
Bảng 2.7: Tình hình tổn thất thuộc trách nhiệm hợp đồng nhượng tái bảo hiểm của VINARE giai đoạn 2004 – 2007 53
Bảng 2.8: Bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại của VINARE giai đoạn 2004 – 2007 54
Bảng 2.9: Kết quả thu nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 55
Bảng 2.10: Kết quả chi nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 56
Bảng 2.11: Kết quả thu - chi nghiệp vụ tái bảo hiểm tại VINARE giai đoạn 2004 – 2007 57
Bảng 2.12: Biên khả năng thanh toán của VINARE (20040-2007) 59
Bảng 2.13: Chỉ tiêu về khả năng thanh toán của VINARE 60
2. BIỂU ĐÔ
Biểu đồ 2.1: So sánh giữa tỷ lệ bồi thường giữ lại, bồi thường nhận tái và bồi thường nhượng tái. 55
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Giáo viên hướng dẫn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao năng lực nhận tái của VINARE trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới - WTO.DOC