MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU VÀ NHẬT BẢN 5
1.1. Tổng quan về năng lực canh tranh của sản phẩm và các nhân tố ảnh hưởng 5
1.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm 5
1.1.1.1. Định nghĩa năng lực cạnh tranh của sản phẩm 5
1.1.1. 2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm 6
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm 8
1.1.2.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 8
1.1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô 10
1.1.3.Các yếu tố chính tạo nên năng lực cạnh tranh của hàng nông sản 11
1.1.3.1.Điều kiện sản xuất vốn có 11
1.1.3.2.Giống 13
1.1.3.3.Năng suất, sản lượng 13
1.1.3.4.Giá cả sản phẩm 13
1.1.3.5.Chất lượng sản phẩm 14
1.1.3.6.Công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến 15
1.1.3.7.Bao bì, bao gói, bảo quản, vận chuyển 16
1.1.3.8.Các yếu tố gián tiếp tạo nên năng lực cạnh tranh của hàng nông sản 17
1.2. Những cơ hội và thách thức đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt nam trong quá trình hội nhập WTO. 18
1.2.1. Cơ hội . 18
1.2.1.1.Mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông sản 18
1.2.1.2.Nâng cao trình độ khoa học công nghệ 19
1.2.1.3.Tăng cường thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp và nông thôn 20
1.2.2.Thách thức . 20
1.2.2.1.Nền nông nghiệp xuất phát điểm ở trình độ thấp 20
1.2.2.2.Cơ sở hạ tầng, dịch vụ yếu kém, năng lực quản lý yếu 21
1.2.2.3.Khí hậu nhiệt đới thất thường thường xuyên đe doạ đến năng suất và chất lượng của nền nông nghiệp 21
1.2.2.4.Các rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu nông sản ngày càng gay gắt 22
1.2.2.5.Các đối thủ cạnh tranh ngày càng mạnh 23
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam sang thị trường EU và Nhật Bản 24
1.3.1.Nguyên nhân chủ quan . 24
1.3.1.1.Hàng nông sản Việt Nam nhìn chung chưa có sức cạnh tranh cao trên thị trường EU và Nhật Bản 24
1.3.1.2.Hàng nông sản Việt Nam chưa tạo được dấu ấn thương hiệu 24
1.3.2.Nguyên nhân khách quan . 25
1.3.2.1.EU và Nhật Bản đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ đối với hàng nông sản 25
1.3.2.2.Khả năng cạnh tranh của quốc gia có ưu thế về xuất khẩu nông sản vào EU và Nhật Bản ngày càng nâng cao 27
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG EU VÀ NHẬT BẢN 28
2.1. Tổng quan năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam 28
2.1.1. Tổng quan về thực trạng trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt nam 28
2.1.1.1.Kim ngạch xuất khẩu 28
2.1.1.2.Giá cả xuất khẩu 29
2.1.1.3.Thị trường xuất khẩu 30
2.1.1.4.Mặt hàng xuất khẩu 32
2.1.2.Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam . 33
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt nam sang thị trường EU và Nhật Bản 35
2.2.1.Năng lực cạnh tranh trên thị trường EU . 35
2.2.1.1.Thực trạng chung về năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường EU 35
2.2.1.2.Năng lực cạnh tranh của một số hàng nông sản chủ yếu Việt Nam trên thị trường EU 40
2.2.2.Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Nhật Bản . 48
2.2.2.1.Thực trạng chung về năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. 48
2.2.2.2.Năng lực cạnh tranh của một số hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. 52
2.3. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản 58
2.3.1.Ưu điểm 58
2.3.1.1.Nhiều mặt hàng nông sản được đánh giá tốt dần dần đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 58
2.3.1.2.Giá cả hàng nông sản Việt Nam tương đối cạnh tranh so với các mặt hàng tương đương. 58
2.3.1.3.Tỷ lệ hàng nông sản chế biến ngày càng cao tăng. 59
2.3.2.Hạn chế 59
2.3.2.1.Chất lượng hàng nông sản chưa đáp ứng được tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm. 59
2.3.2.2.Nguồn hàng không ổn định. 60
2.3.2.3.Kênh phân phối hàng nông sản vào EU và Nhật Bản chưa đa dạng và linh hoạt, công tác xúc tiến thương mại kém. 61
2.3.2.4.Chưa xây dựng được thương hiệu hàng nông sản Việt Nam. 61
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM SANG EU VÀ NHẬT BẢN 63
3.1. Tổng quan định hướng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU và Nhật Bản 63
3.1.1.Định hướng xuất khẩu vào thị trường EU và Nhật Bản 63
3.1.1.1.Thị trường EU 63
3.1.1.2.Thị trường Nhật Bản 64
3.1.2.Những thuận lợi và khó khăn trong việc xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang EU và Nhật Bản 64
3.1.2.1.Thuận lợi 64
3.1.2.2.Khó khăn 66
3.2. Kinh nghiệm xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường EU và Nhật Bản của một số nước 68
3.2.1.Trung Quốc . 68
3.2.2.Thái Lan 70
3.3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam sang EU và Nhật Bản 71
3.3.1.Nhóm giải pháp vĩ mô 71
3.3.1.1.Tạo môi trường pháp luật hoàn thiện và môi trường kinh doanh thuận lợi cho xuất khẩu nông sản vào EU và Nhật Bản 72
3.3.1.2.Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu vào EU và Nhật Bản của nhà nước. 74
3.3.1.3.Các giải pháp khác 78
3.3.2.Nhóm giải pháp vi mô . 79
3.3.2.1.Nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản xuất khẩu 79
3.3.2.2.Các giải pháp về giá (price) 82
3.3.2.3.Các giải pháp về phân phối (Place) 84
3.3.2.4.Nhóm giải pháp xúc tiến thương mại (promotion) 86
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
101 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3474 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản trong thời kỳ hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường.
Cách thức hàng nông sản của chúng ta đến tay người tiêu dùng còn đơn điệu. Hầu hết mặt hàng nông sản của chúng ta đều xuất cho các nhà nhập khẩu bán buôn của EU và Nhật Bản, sau đó các nhà nhập khẩu này lại tiếp tục thực hiện phân phối cho các thị trường này dưới tên của họ, do đó chúng ta phụ thuộc rất lớn vào các nhà nhập khẩu này.
Chưa xây dựng được thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.
Vấn đề thương hiệu đối với hàng hoá nói chung và hàng nông sản Việt Nam nói riêng luôn được đề cập đến trong các hội thảo về xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa xây dựng được một thương hiệu nông sản đúng nghĩa. Những Bưởi năm roi, Cà phê Trung Nguyên ... quá ít ỏi so với tiềm năng của chúng ta. Trên thị trường EU và Nhật Bản, việc không xây dựng được thương hiệu làm giảm giá trị xuất khẩu nông sản của chúng ta. Trong khi Chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến vai trò của thương hiệu thì các doanh nghiệp ngành nông nghiệp chưa hiểu rõ vai trò của thương hiệu, thường lẫn lộn giữa thương hiệu và nhãn hiệu hàng hóa. Các đơn vị, doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm xây dựng và đăng ký thương hiệu nhất là ở nước ngoài. Nhiều khi trái cây Việt Nam xuất khẩu "phải" mang tên của thái Lan, 80% lượng hàng nông sản trong nước khi xuất khẩu phải mang tên nước khác.
Vấn đề thương hiệu cũng là một điểm yếu lớn của hàng nông sản nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung. Không xây dựng được thương hiệu có tiếng, tạo uy tín và dấu hiệu riêng thì hàng hoá chúng ta sẽ bị lấp dưới thương hiệu của nước khác chưa nói đến việc cạnh tranh hay “đối đầu” với các thương hiệu nổi tiếng của thế giới.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM SANG EU VÀ NHẬT BẢN
Tổng quan định hướng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU và Nhật Bản
Định hướng xuất khẩu vào thị trường EU và Nhật Bản
Thị trường EU
Đây là thị trường khó tính với các yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn dịch tễ. Tuy nhiên, việc buôn bán xuất khẩu sang thị trường này thu được hiệu quả cao và cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như cà phê, chè, các loại quả có múi, cao su tự nhiên... Hiện nay thị trường EU mới chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn có kế hoạch nâng tỷ lệ này lên 30% với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cao su, cà phê, chè, rau quả, hạt có dầu... Theo Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối, nên thành lập một số trung tâm thương mại (có kho ngoại quan, phòng trưng bày, giao dịch nông sản...) tại các nước EU; cần có các hình thức thưởng xuất khẩu mạnh hơn đối với mặt hàng phải cạnh tranh và đang gặp khó khăn như rau quả, chè; đồng thời mở rộng các hoạt động xúc tiến thương mại ở các địa phương. Bộ Nông Nghiệp và PTNT đề nghị Bộ Thương mại hỗ trợ xây dựng một chương trình tôn vinh nông sản Việt Nam đối với cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu... Do vậy các doanh nghiệp phải nhận thức đúng và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và quảng bá cho sản phẩm của mình
Thị trường Nhật Bản
Trong thời gian tới, chúng ta xác định Nhật Bản cũng là một trong những thị trường xuất khẩu nông sản trọng điểm. Hàng năm Nhật Bản cần nhập khẩu khoảng 5,9 ngàn tỷ Yên lương thực tương đương với 12% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản. Tuy nhiên thị phần nông sản của Việt nam chỉ mới khoảng 1%, trong thời gian tới chúng ta cố gắng nâng thị phần này lên. uy nhiên, triển vọng xuất khẩu hoa, rau và quả tươi sang đất nước Mặt Trời mọc còn nhiều khó khăn, do việc trồng các loại nông sản này để xuất khẩu chưa được quy hoạch trên diện rộng nên khó có thể đáp ứng được khi khách hàng mua số lượng lớn. Ngoài ra, các mặt hàng trên cũng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản.
Chúng ta sẽ tăng cường xuất khẩu các loại ngũ cốc, các sản phẩm thức ăn gia súc, mặt hàng thuỷ hải sản, các loại nông sản thô ít qua chế biến phục vụ cho công nghiệp chế biến. Hơn nữa, Việt Nam sẽ xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra hàng hoá trước khi xuất khẩu vào Nhật Bản nhằm đáp ứng nhu cầu của họ.
Những thuận lợi và khó khăn trong việc xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang EU và Nhật Bản
Thuận lợi
Nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản của thị trường EU và Nhật Bản khá cao
Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU và Nhật Bản đã có những bước tiến triển thuận lơi nhất định. Thị trường EU và Nhật Bản rất rộng lớn và còn nhiều thị phần để hàng nông sản Việt Nam có thể chiếm lấy . Hai thị trường lớn này có nhu cầu về hàng nông sản nhập khẩu rất cao do sản xuất nông nghiệp trong nước chưa đáp ứng đủ cầu tiêu dùng. Hai thị trường này chiếm hơn 13% tổng giá trị nhập khẩu nông sản hằng năm của thế giới. Trong thời gian qua, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông- lâm sản vào EU và Nhật Bản ngày càng gia tăng với sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng ngày càng cao. Điều này cho thấy, tiềm năng xuất khẩu hàng nông vào EU và Nhật Bản là rất lớn và đang được các doanh nghiệp bước đầu khai thác một cách tương đối có hiệu quả.
Một số hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng bước đầu đã được thị trường EU và Nhật Bản chấp nhận
Mặt khác, hàng nông sản Việt Nam bước đầu đã tạo được uy tín và gây dựng được một số thương hiệu trên thị trường này. Có thể nói chúng ta bước đầu đã có những dấn ấn trên thị trường EU và Nhật Bản. Một số thương hiệu như Cà phê Trung Nguyên, Bưởi năm roi, Bưởi da xanh … gây ấn tượng tốt với người tiêu dùng Nhật Bản. Tuy nhiên, con số này đang còn hết sức khiêm tốn, chúng ta có cơ hội để tạo được những ấn tượng tốt hơn nữa về thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.
Quan hệ chính trị giữa Việt Nam và EU, Nhật Bản tương đối thân thiện tạo điều kiện hợp tác cho các doanh nghiệp hai bên.
Mối thuận lợi chúng ta có thể khai thác là quan hệ hợp tác giữa EU, Nhật Bản và Việt nam tương đối thân thiện, tạo điều kiện cho hàng nông sản của chúng ta có thể phát huy thế mạnh. EU và Nhật Bản cũng là một trong những nước đầu tư và có viện trợ ODA tương đối lớn cho Việt Nam, đặc biệt là Nhật Bản. Quan hệ hợp tác giữa VIệt Nam và EU và Nhật Bản có những bước tiến hơn nữa từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Hàng nông nghiệp của chúng ta đang có khá nhiều thế mạnh để xuất khẩu vào Nhật, đặc biệt rau và quả tươi. Sự tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật giữa Nhật Bản và Việt Nam có thể hỗ trợ hàng nông sản Việt Nam vào Nhật dễ dàng hơn. Chẳng hạn, trong hợp tác khoa học kỹ thuật, cả 2 bên sẽ cùng đưa ra các tiêu chí về kiểm nghiệm hàng hóa gắn với việc hỗ trợ máy móc thiết bị. Ví dụ, khi xuất khẩu mặt hàng trái cây, cần phải có các loại máy móc để khử trùng, đạt tiêu chuẩn quy định thì mới có thể xuất khẩu vào Nhật. Tương tự, với các sản phẩm khác cũng sẽ phải thực hiện theo các trình tự nêu trên. Để làm được những việc này, nếu không có sự hợp tác thì phía VN sẽ không đủ lực để thực hiện.
Khó khăn
EU và Nhật Bản đều thực hiện chính sách bảo hộ nông nghiệp chặt chẽ
Nông nghiệp là lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở hai thị trường này, chính vì thế mà các quốc gia đều thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất nông nghiệp của họ. Các quốc gia EU và Nhật Bản thực hiện trợ cấp cho nông nghiệp rất cao. Năm 2004 EU đã chi cho lĩnh vực này 2,1 tỷ Euro, năm 2005 là 3,6 tỷ Euro tăng 30%, năm 2006 là 3,9 tỷ Euro tăng 35% và đến năm 2013 sẽ là 100% so với mức hỗ trợ hiện nay. Hiện tại, một con bò sữa của EU được trợ cấp tới hơn 2 USD/ngày, Nhật Bản cũng thực hiện trợ cấp cho ngành trông lương thực đặc biệt là lúa gạo rất cao.
Chính vì thế, ở các quốc gia này, khi một mặt hàng nông sản của một quốc gia nào đó có xu hướng lấn lướt cạnh tranh mặt hàng đó ở thị trường các quốc gia này, ngay lập tức quốc gia đó có khả năng sẽ gánh chịu các vụ kiện chống phá giá…
EU và Nhật Bản yêu cầu các sản phẩm nông sản có độ an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ môi trường
Hiện tại, xu thế tiêu dùng nông sản “sạch”, không có hại cho môi trường tại EU và Nhật Bản ngày càng cao, trong khi Việt Nam mới ở giai đoạn xuất khẩu ban đầu mặt hàng này, nên chưa có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển.
Công tác xúc tiến thương mại còn yếu kém, chưa tạo được thương hiệu quốc gia trên hai thị trường này.
Theo các chuyên gia kinh tế, hàng nông sản Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức khi mở rộng thị phần tại EU và Nhật Bản do chủng loại sản phẩm đơn điệu, chưa đáp ứng được thị hiếu của thị trường. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm hàng nông sản của Việt Nam còn hạn chế, chưa mở rộng được thị trường tại tất cả các nước EU và Nhật Bản.
Một khó khăn nữa là Hàng nông sản Việt Nam chưa tạo được thương hiệu trên cả hai thị trường này. Hàng nông sản Việt Nam không chỉ mới xuất khẩu dạng thô vào thị trường châu Âu và Nhật Bản mà thương hiệu cũng rất ít được biết đến. Người tiêu dùng chỉ biết tên tuổi của nhà làm ra sản phẩm chứ không quan tâm đến những thứ trong sản phẩm ấy xuất xứ từ đâu. Vì vậy, nếu chỉ mãi xuất khẩu sản phẩm thô sẽ không thể có được thương hiệu. Hàng nông sản Việt Nam gần như không để lại dấu ấn trong lòng người tiêu dùng EU và Nhật Bản
Kênh phân phối sản phẩm nông nghiệp đơn điệu, kiến thức doanh nghiệp Việt Nam về thị trường EU và Nhật Bản chưa sâu
Một vấn đề chúng ta gặp phải là việc xâm nhâm nhập vào các thị trường này có những khó khăn nhất định. Chẳng hạn, đối với các nước thuộc liên minh Châu Âu, chính sách của họ đối với Việt Nam mới được hình thành, đang trong quá trình hoàn thiện, nhận thức về thị trường EU của doanh nghiệp chưa đầy đủ, việc sản xuất chế biến và tiêu thụ hàng nông sản chưa đa dạng, chưa chuyên sâu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng còn yếu. Những quốc gia thuộc EU chưa có nhiều thông tin về hàng hóa Việt Nam, ngược lại các doanh nghiệp xuất khẩu của chúng ta cũng thiếu thông tin, chưa nói là không cập nhật được thông tin ngay ở thị trường mà doanh nghiệp đã xuất khẩu.
Trong khi đó, mặc dù đối với thị trường Nhật Bản chúng ta có những hiểu biết nhất định nhưng hàng hoá của chúng ta thiếu các tiêu chuẩn để có thể xuất khẩu đều đăn, số lượng lớn sang thị trường này.
Do đó, chúng ta phải có những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên hai thị trường này là việc cần thiết nếu chúng ta không muốn mất thị phần quan trọng này.
Kinh nghiệm xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường EU và Nhật Bản của một số nước
Trung Quốc
Hiện nay, Trung Quốc đã đứng hạng 8 thế giới về xuất khẩu nông sản và chiếm giữ vị trí hàng đầu ở châu Á. Thời gian qua, hàng nông sản của Trung Quốc cũng thực hiện cuộc xâm lấn sang thi trường EU và Nhật Bản với tốc độ ngày càng nhanh. Năm 2006, xuất khẩu sang Nhật Bản tăng 1,7% so với năm 2006 lên 900 triệu USD, còn xuất khẩu sang EU tăng 16% lên 420 triệu USD.
Có được tốc độ tăng trưởng đáng kể sang thi trường EU và Nhật Bản như thế là nhờ các chính sách nông nghiệp đúng đắn của Trung Quốc, đặc biệt là chính sách về xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm như EU và Nhật Bản. Hiện tại, nhiều mặt hàng Trung Quốc có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU và Nhật Bản như mặt hàng rau khô và rau đông lạnh, nấm chế biến, tỏi và quả đóng hộp...
Để có được thành tựu như trên là nhờ vào chính sách nông nghiệp nói chung và chính sách xuất khẩu nông sản sang EU và Nhật Bản nói riêng rất đúng đắn của Trung Quốc,cụ thể là:
Duy trì mức bảo hộ hợp lý đối với ngành nông nghiệp, điều chỉnh các chính sách bảo hộ và hỗ trợ cho nông nghiệp đang áp dụng để phù hợp với các quy định của EU và Nhật Bản, tái cấu trúc nghiên cứu khoa học - công nghệ nông nghiệp và hệ thống khuyến nông.
Thúc đẩy việc tái cơ cấu và điều chính chính sách xuất khẩu nông sản sang EU và Nhật Bản: Đa dạng hóa nông sản và cải thiện chất lượng sản phẩm theo hướng toàn diện, phát triển việc chế biến nông sản; khai thác lợi thế so sánh của sản phẩm địa phương đặc sắc; thúc đẩy xây dựng môi trường sinh thái và thực hiện phát triển bền vững, điều này các nước EU và Nhật Bản đang rất chú ý. Để từ đó tạo ra nguồn hàng có chất lượng cao và ổn định cho xuất khẩu sang EU và Nhật Bản.
Điều chỉnh xuất khẩu nông nghiệp theo theo hướng thúc đẩy hình thành hệ thống thông tin thị trường EU và Nhật Bản, hệ thống tiêu chuẩn, an ninh và chất lượng được EU và Nhật Bản chấp nhận
Phát triển xuất khẩu nông sản theo hướng sản xuất những nông sản Trung Quốc có lợi thế so sánh trên hai thị trường này. Coi trọng hơn nữa tới hỗ trợ cho việc phát triển công nghiệp chế biến. Phát triển công nghiệp chế biến tạo ra giá trị gia tăng cao, và tạo đầu ra ổn định hơn cho ngành trồng trọt và chăn nuôi. Hơn nữa việc chế biến nông sản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của EU và Nhật Bản sẽ gíup Trung Quốc giành được thị phần cho hàng hóa của mình trên hai thị trường này.
Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm tới việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu nông sản sang EU và Nhật Bàn, và có sự cân đối lợi ích giữa các ngành, các khu vực để đảm bảo cho nông dân tiếp cận với đầu vào quan trọng như thủy lợi, điện, phân bón với chất lượng cao và giá thấp.
Thành lập và củng cố các Hiệp hội ngành hàng là nông nghiệp đặc biệt là các ngành hàng có ưu thế xuất khẩu vào EU và Nhật Bản.
So với Việt Nam, Trung Quốc là một quốc gia lớn và có tiềm lực hơn rất nhiều và khả năng cạnh tranh của Trung Quốc trên hai thị trường này cũng cao hơn. Tuy nhiên, Việt Nam đã và đang khẳng định mình trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế và vừa qua cũng như sự tăng trưởng ngoạn mục về xuất khẩu nông sản là những minh chứng rõ ràng và cụ thể nhất. Việt Nam đã có thời cơ, đã nhìn ra hướng đi. Điều chúng ta cần là những hành động và biện pháp cụ thể để có thể đạt được những thắng lợi tiếp theo về xuất khẩu trên con đường hội nhập
Thái Lan
Thời gian qua, Thái Lan là một trong những nước xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu của thế giới với nhiều mặt hàng nổi trội như gạo, cao su, điều, rau quả... rất được thị trường EU và Nhật Bản yêu thích. Sự phát triển vượt bậc đó nhờ vào chính sách đổi mới của Chính phủ Thái Lan (coi nông nghiệp nông thôn là xương sống của đất nước; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp chế biến bảo quản nông sản, nâng cao chất lượng sản phẩm; đưa ra nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản đặc biệt là xuất khẩu sang những thị trường trọng điểm).
Từ những chính sách và thành công trong xuất khẩu nông sản sang EU và Nhật Bản của Thái Lan, Việt Nam có thể học hỏi các kinh nghiệm sau:
Thái Lan đã xác định đúng vị trí đặc biệt quan trọng của việc xuất khẩu nông sản sang các thị trường tiềm năng như EU và Nhật Bản; tập trung mọi nỗ lực để phát triển nông nghiệp xuất khẩu, thực hiện đa dạng hóa sản xuất mặt hàng nông sản;
Đầu tư kịp thời và đồng bộ cho công nghiệp chế biến hàng nông sản xuất khẩu sang EU và Nhật Bản; đổi mới công nghệ sinh học, bảo quản và đa dạng hóa sản phẩm nông sản đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng EU và Nhật Bản
Phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ đối với thị trường EU và Nhật Bản, đặc biệt ngành hàng xuất khẩu vào hai thị trường này được hỗ trợ bởi chương trình khoa học công nghệ và vốn.
Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều tiết sản xuất nông sản có hiệu quả.
Chú trọng phát huy các lợi thế so sánh của các mặt hàng nông sản Thái Lan được ưa thích trên thị trường EU và Nhật Bản, thực hiện chiến lược sản phẩm, quy hoạch, đầu tư đồng bộ cho các vùng sản xuất chuyên canh tập trung sản xuất nông sản sang EU và Nhật Bản nhằm phát huy lợi thế về quy mô.
Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, phản ứng nhanh nhẹn trước yêu cầu và thị hiếu của thị trường Nhật Bản và EU về hình thức chất lượng nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất hàng nông sản vào EU và Nhật Bản
Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh sản xuất tiêu thụ xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập các bạn hàng mới ở thị trường EU và Nhật Bản. Đồng thời chú trọng đào tạo nguồn nhân lực được xem là một trong những nhân tố quyết định sự thành công.
Thành tựu về xuất khẩu nông sản sang thị trường EU và Nhật Bản và những kinh nghiệm của Thái Lan đáng để chúng ta học hỏi và xây dựng các giải pháp phù hợp để phát triển công nghiệp xuất khẩu nông sản của quốc gia.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam sang EU và Nhật Bản
Nhóm giải pháp vĩ mô
Trong thời kỳ của sự cạnh tranh quốc tế gay gắt, việc xuất khẩu nhiều hàng hoá ra thị trường thế giới chưa đủ mà phải làm sao để hàng hoá đó đủ sức đứng vững trong một thời gian dài. Điều này cần sự nỗ lực của mỗi quốc gia, sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp. Như vậy trong nền kinh tế toàn cầu, “bàn tay” của Nhà nước điều tiết nền kinh tế nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng là rất cần thiết. Đối với những nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như chúng ta, vai trò của Nhà nước lại càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ của Nhà nước, phương pháp hỗ trợ như thế nào lại cần được cân nhắc kỹ , nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Cũng trong lĩnh vực nông sản và thuỷ sản, thời gian qua chúng ta phải đối mặt với nhiều tranh chấp mang tính quốc tế. Nhóm giải pháp vĩ mô của chính phủ không chỉ có tác dụng đối với việc xuất khẩu nông sản sang thị trường EU và Nhật Bản nói riêng mà còn đối với thị trường nông sản thế giới nói chung.
Tạo môi trường pháp luật hoàn thiện và môi trường kinh doanh thuận lợi cho xuất khẩu nông sản vào EU và Nhật Bản
Tăng cường vai trò ngoại giao của nhà nước
Vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc tạo ra mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam – EU và Nhật Bản. Nếu chính phủ Việt Nam có thể tạo ra chính sách thương mại thuận lợi, nâng cao sự hợp tác cấp chính phủ có thể tạo cơ hội ký kết hợp đồng giữa doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp EU và Nhật Bản. Để tăng cường khả năng hợp tác giữa hai bên, nhà nước cần:
Tăng cường công tác ngoại giao và tiếp xúc với các chính phủ thuộc EU và Nhật Bản, các tổ chức quốc tế, thực hiện các ký kết để mở rộng hai thị trường lớn này. Công tác ngoại giao tạo ra mỗi quan hệ chính trị hòa hảo giữa hai bên, và mối quan hệ đó sẽ đặt nền tảng cho các hợp đồng xuất nhập khẩu nông sản.
Tiến hành đàm phán trực tiếp với các nước nhập khẩu hàng nông sản thuộc khối EU và Nhật Bản để có thể ký kết các hợp đồng liên chính phủ (government-to-government). Tranh thủ các cơ hội giao tiếp quốc tế thông qua các Hội nghị lớn như Hội nghị thượng đỉnh APEC, Hội nghị Thương đỉnh Lương thực thế giới, Hội nghị kinh doanh hàng nông sản... thông qua các hội nghị như thế này, nhà nước có thể quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam cho các bạn hàng ở EU và Nhật Bản.
Tăng cường liên minh với các nước xuất khẩu hàng nông sản vào EU và Nhật Bản. Chẳng hạn đối với gạo, Việt Nam có thể hợp tác với Thái Lan để học hỏi kinh nghiêm xuất khẩu gạo, nhất là công nghệ lai tạo giống mới, công nghiệp chế biến và kinh nghiệm thị trường. Gạo Thái Lan rất được yêu thích tại thị trường Nhật Bản. Thay vì cạnh tranh giá gạo như từng xảy ra, hai nước có thể hợp tác về vấn sức sản xuất và thị trường để phát huy sức mạnh chung. Đối với các mặt hàng như cà phê, hạt điều, hạt tiêu, Việt Nam có thể tham gia hiệp hội cà phê, hiệp hội hạt điều thế giới ... để ổn định giá và phòng ngừa rủi ro. Có như thế hàng nông sản chúng ta mới tránh được sự biến động của thị trường xuất khẩu và đạt được hiểu quả cao hơn
Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Các luật lệ, quy định ban hành đối với việc xuất khẩu nông sản nói chung sẽ tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sang EU và Nhật Bản hoạt động hiệu quả đồng thời cũng ngăn chặn những doanh nghiệp xuất khẩu sang EU và Nhật Bản có hành vi đầu cơ, chộp giật hoặc thao túng thị trường, ảnh hưởng đến hình ảnh của hàng nông sản Việt Nam. Đối với giải pháp này, nhà nước cần:
Ban hành các quy định bắt buộc đối với việc kiểm dịch hàng nông sản xuất khẩu đặc biệt là sang EU và Nhật Bản, đảm bảo cho hàng nông sản của chúng ta đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu này và không làm ảnh hưởng đến uy tín của hàng nông sản Việt Nam.
Các công ty được chọn làm đầu mối xuất khẩu phải chứng minh được năng lực tài chính, năng lực kinh tế ở một mức nhất định dựa trên các tiêu chí về năng lực chế biến, năng lực kho hàng bến bãi, hệ thống đại lý...
Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển bằng các cơ chế, chính sách và tạo hành lang pháp lý để họ hoạt động có hiệu quả. Có như vậy thì các giải pháp này mới được phổ biến rộng rãi đối với nhiều doanh nghiệp.
Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu vào EU và Nhật Bản của nhà nước.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Hiện tại, trên thị trường EU và Nhật Bản các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam phải cạnh tranh rất gay gắt với các đối thủ mạnh của Thái Lan, Trung Quốc... chưa kể đến các nước phát triển khác. Tiềm lực của doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh để có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn nếu không có sự trợ giúp của chính phủ, việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu như sau là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam:
Thực hiện các chuyến đi khảo sát sang EU và Nhật Bản cho các doanh nghiệp xuất khẩu với sự hỗ trợ thông tin từ phía chính phủ, phát huy sự khai thác thông tin thông qua các đại sứ quán, lãnh sự quán, tổ chức các triển lãm, hội chợ giới thiếu sản phẩm nông sản Việt Nam ờ các nước thuộc khối EU và Nhật Bản, qua đó các doanh nghiệp có cơ hội hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp nhập khẩu nông sản vào EU và Nhật Bản.
Tăng cường vai trò của cục xúc tiến thương mại Việt Nam (Vietrade) để tích cực hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tìm kiếm các bạn hàng thuộc EU và Nhật Bản, khuyến khích đầu tư, trao đổi thông tin, khoa học và công nghệ, tuyên truyền đến khách hàng những ưu điểm của sản phẩm nông sản Việt Nam thông qua các cơ hội giới thiệu sản phẩm như các hội chợ triển lãm ở các nước EU, ở Nhật Bản, thậm chí các hội nghị quốc tế, các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế. Có như thế hàng nông sản Việt Nam mới có cơ hội giới thiệu rộng rãi hơn đến với doanh nghiệp và người tiêu dùng EU và Nhật Bản.
Đặt thêm các đại diện thương mại ở các nước Liên minh Châu Âu và Nhật Bản để tìm hiểu các khả năng thâm nhập thị trường, thực hiện đàm phán ký kết các hiệp định thương mại ở các cấp độ khác nhau nhằm đảm bảo quan hệ thương mại ổn định và dài lâu.
Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất nông sản. Hiện nay trình độ nhận thức của người nông dân về vấn đề thị trường, tiếp cận thông tin thị trường nói chung và thị trường EU và Nhật Bản nói riêng còn kém khiến họ bị thua thiệt rất nhiều. Chỉ khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường họ mới biết cách điều chỉnh sản xuất theo thị trường, để từ đó có thể chủ động hơn trong việc cung cấp nông sản, điều chỉnh giá cả.
Hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia vào việc nghiên cứu thị trường châu Âu và Nhật Bản, tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối hợp nhịp nhàng của các chủ thể này trong việc đưa hàng hoá thâm nhập vào các thị trường này.
Hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ
Mặt bằng khoa học công nghệ của Việt Nam nhìn chung là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, việc cải tiến công nghệ sản xuất, nuôi trồng, chế biến là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, đầu tư công nghệ vào lĩnh vực sản xuất chế biến để có thể tạo ra các mặt hàng “made in Vietnam” có sức cạnh tranh trên thị trường EU và Nhật Bản nói riêng cần có sự hỗ trợ về tài chính của nhà nước
Hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu: Hiện tại, các nước EU và Nhật Bản cần nhập khẩu các sản phẩm có độ tinh chế cao, các sản phẩm này sẽ mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho chúng ta, chính phủ cần hỗ trợ tìm các giây chuyền công nghệ hiện đại, tìm kiếm và trợ giúp các giây chuyền công nghệ hiện đại tập trung chế biến hàng nông sản xuất khẩu vào hai thị trường lớn này.
Chính phủ hỗ trợ các viện nghiên cứu, các viện nông học để tìm ra các giống cho chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng nông sản xuất khẩu sang EU và Nhật Bản. Ưu tiên hàng đầu cho việc hình thành quỹ gen về giống chất lượng cao cho xuất khẩu, tuyển chọn giống từ các địa phương đạt chất lượng tốt nhất và các giống đặc sản địa phương, ví dụ có thể chọn các giống gạo có chất lượng cao xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Thuần hoá các giống du nhập từ nước ngoài chất lượng cao để tạo ra những sản phẩm đặc biệt cho các thị trường có yêu cầu loại sản phẩm này
Sau khi xác định được giống mới tập trung cho EU hoặc Nhật Bản, trước khi đưa giống mới vào hoạt động sản xuất đại trà, cần có các phương pháp thử nghiệm một cách khoa học và chắc chắn, cần trồng thử ở các địa phương, nhằm đảm bảo giống cho năng suất và chất lượng như dự kiến, tránh rủi ro cho bà con nông dân.
Thực hiện các bước trên một cách khoa học và có chiến lược cụ thể, chúng ta có thành công đầu tiên trong chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu về chất lượng của từng thị trường tiêu dùng thế giới và tạo niềm tin cho khách hàng. Như vậy, mới có thể tạo ra những lượng cầu ổn định trên thị trường.
Hỗ trợ tạo nguồn cung ổn định, vững chắc xuất khẩu vào hai thị trường trên
Sau khi đã tạo được một mạng lưới nhân giống tốt ở khắp các địa phương, việc triển khai đem giống vào sản xuất để xuất khẩu có hiệu quả cũng hết sức quan trọng. Sản xuất một cách tập trung, trên cơ sở phát huy lợi thế từng vùng đem lại hiệu quả cao cho ngành nông nghiệp. Nhà nước hỗ trợ nguồn cung nông sản ổn định thông qua các giải pháp sau:
Thực hiện quy hoạch vùng sản xuất nông sản chất lượng cao dành cho xuất khẩu vào EU và Nhật Bản. Ở những vùng chiến lược này, đầu tư khoa học, kỹ thuật, vốn để cho những sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt
Trên cơ sở quy hoạch phát triển vùng sản xuất tập trung, tiến hành các chương trình dự án cụ thể đối với từng mặt hàng, ngành hàng để thu hút vốn đầu tư. Cần xây dựng những chính sách cụ thể, ưu tiên, sát thực với từng vùng, từng ngành sản xuất mũi nhọn để tạo ra những sản phẩm có tính chiến lược.
Tiếp tục sản xuất kinh doanh theo vùng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lớn và hiện đại. Hiện nay, tiềm năng và khả năng xuất khẩu của chúng ta còn rất lớn nhưng tổ chức sản xuất của chúng ta lại manh mún, lạc hậu nên lượng xuất khẩu của chúng ta chưa nhiều. Nhiều khi chúng ta có những đơn hàng lớn từ các nước Liên minh châu Âu và Nhật Bản, nhưng chúng ta lại không sản xuất đủ đáp ứng đơn hàng đó. Do đó, sản xuất kinh doanh theo vùng có tạo ra một lượng cung lớn, ổn định, giá thành không cao và có thể chiếm thị phần lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khi đó, các sản phẩm của chúng ta mới có chỗ đứng vững chắc trên hai thị trường lớn này.
Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực
Hỗ trợ về đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về xuất khẩu nông sản: Sự hỗ trợ này rất quan trọng vì hiện tại năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về xuất khẩu hàng nông sản chưa cao, chính vì thế các chính sách xuất khẩu nông sản vào hai thị trường này chưa nhạy bén, linh hoạt. Chính phủ cần trao đổi chuyên gia với nước ngoài để học tập kinh nghiệm trong xuất khẩu nông sản, cử các chuyên gia sang các nước có nền nông nghiệp tiên tiến, có kinh nghiệm xuất khẩu sang các nước EU và Nhật Bản để học hỏi kinh nghiệm.
Hỗ trợ kiến thức thị trường EU và Nhật Bản cho các nhà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nông sản, chuyên gia về nông sản, tổ chức các chương trình tập huấn, hội thảo nghiên cứu về thị trường EU và Nhật Bản cho các doanh nghiệp tham gia tìm hiểu nâng cao hiểu biết về hai thị trường này.
Các giải pháp khác
Bảo hiểm và hỗ trợ xuất khẩu
Việc nhà nước thực hiện bảo hiểm và hỗ trợ xuất khẩu có thể giúp cho các doanh nghiệp tránh rủi ro và an tâm xuất khẩu. Nhóm biện pháp này có thể phát huy tác dụng rất lớn khi thực hiện theo các bước sau :
Tăng cường mở rộng các nội dung hoạt động của quỹ hỗ trợ xuất khẩu vào EU và Nhật Bản để giúp các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu nhưng lại bị hạn chế bởi nguồn tài chính.
Mở rộng thêm diện các mặt hàng nông sản được hỗ trợ xuất khẩu vào các thị trường này. Cung cấp các tín dụng cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể thực hiện phương thức bán hàng trả chậm cho các doanh nghiệp nhập khẩu nông sản trên thị trường EU và Nhật Bản.
Hỗ trợ giảm chi phí đầu vào
Trong thời gian qua, có một nghịch lý là mặc dù nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu vào EU và Nhật Bản được giá nhưng nông dân lại lo lắng, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng không thu được nhiều lợi nhuận do giá dầu vào tăng nhanh hơn giá hàng nông sản xuất khẩu sang các thị trường này. Do đó, để có thể khuyến khích người nông dân và các doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu hàng nông sản sang EU và Nhật Bản, nhà nước cần phải hỗ trợ giảm các chi phí đầu vào:
Giảm thuế đối với các mặt hàng đầu vào, như thuế mua giây chuyền công nghệ chế biến, thuế các mặt hàng phân bón, giống …
Miễn giảm thuế đất nông nghiệp, tăng cường hỗ trợ tín dụng cho người nông dân và các hợp tác xã với lãi suất thấp, quy mô và thời hạn vay phù hợp để người nông dân có thể đầu tư hiệu quả vào sản xuất, tránh tình trạng chưa thu hoạch đã lo đi trả nợ.
Nhóm giải pháp vi mô
Nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản xuất khẩu
Chúng ta biết rằng, người tiêu dùng EU và Nhật Bản đặc biệt khó tính trong việc lựa chọn sản phẩm tiêu dùng, nhất là các sản phẩm nông sản trực tiếp thoả mãn nhu cầu ăn uống hàng ngày của họ. Chính vì thế mà chất lượng sản phẩm chính là yếu tố cạnh tranh cần thiết và hàng đầu của bất kỳ loại nông sản nào khi muốn xuất khẩu sang 2 thị trường này. Trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, các doanh nghiệp trước hết phải nhớ đến việc xây dựng hình ảnh chất lượng sản phẩm đó. Nâng cao chất lượng là một giải pháp có tính chiến lược, trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên với những đặc trưng riêng, hàng nông sản để đến tay người tiêu dùng thường trải qua một quá trình khá lâu và phức tạp, từ khâu nuôi trồng, thu hái, chế biến, bảo quản đều cần có những biện pháp thích hợp. Chất lượng cuối cùng của sản phẩm phụ thuộc chất lượng của sản phẩm qua từng khâu, giải quyết vấn đề chất lượng hàng hoá qua từng khâu một cách thấu đáo, chúng ta sẽ có chất lượng tối ưu cuối cùng của sản phẩm. Do đó chúng ta phải để ý sản phẩm ngay từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
Giải pháp nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào:
Để có sản phẩm “đầu ra” tốt phục vụ cho xuất khẩu vào thị trường EU và Nhật Bản, thì ngay từ yếu tố đầu vào các doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược phù hợp theo các hướng sau:
Lựa chọn các giống có chất lượng tốt phù hợp với sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng EU và Nhật Bản: Chẳng hạn, đối với người Nhật Bản họ thích gạo trắng, tròn, có độ dẻo và thơm, do đó chọn những giống phù hợp với nhu cầu của họ. Hoặc người tiêu dùng châu Âu rất quan tâm đến màu sắc hạt, độ to nhỏ của hạt, độ thơm ngon của hạt, hạt nguyên hay vỡ của các mặt hàng cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cần lựa chọn những giống cho sản phẩm phù hợp với thị trường này. Đối với các loại nông sản như rau, chè... giống cũng tác động đến chất lượng thơm ngon của sản phẩm, khả năng chống sâu bệnh và sự thay đổi thất thường của thời tiết...
Đảm bảo chất lượng sản phẩm trong quá trình thu hoạch và phơi sấy sản phẩm: bằng cách vận dụng ánh nắng mặt trời trong phơi sấy sản phẩm kết hợp các phương pháp phơi sấy truyền thống và tiết kiệm với các phương pháp phơi sấy hiện đại. Sử dụng công nghệ khoa học hiện đại trong các khâu này. Sử dụng các máy móc hiện đại, nhập từ nước ngoài kết hợp với các máy móc do chúng ta chế tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện sản xuất của nước ta.
Nhóm giải pháp hiện đại hoá khâu chế biến và bảo quản nhằm nâng cao giá trị của hàng nông sản xuất khẩu vào EU và Nhật Bản.
Hiện nay, một trong những điểm yếu hạn chế năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam là khâu chế biến. Phần lớn sản phẩm xuất khẩu của chúng ta là sản phẩm thô, hoặc chỉ mới sơ chế nên giá trị không cao. Để nâng cao chất lượng sản phẩm trong khâu này, cần thực hiện các biện pháp sau:
Ra soát lại tất cả các nhà máy chế biến hiện nay, loại bỏ những công nghệ đã quá cũ kỹ, lạc hậu, không đáp ứng hiệu quả kinh tế. Đồng thời, xây dựng thêm các nhà máy tại vùng nguyên liệu, xây dựng một số nhà máy có trình độ công nghệ chế biến cao, tạo ra các sản phẩm phù hợp với một số thị trường yêu cầu các sản phẩm chất lượng như Nhật Bản và EU.
Ưu tiên công nghệ bảo quản nông sản, nhất là rau quả tươi kéo dài thời gian sử dụng và tăng giá trị thương phẩm, chú ý khâu bao bì nhãn mác, đóng gói sản phẩm.
Trên cơ sở nắm bắt nhu cầu của thị trường, xây dựng các chương trình công nghệ đáp ứng nhu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp cũng như vệ sinh thực phẩm, đặc biệt cần nghiên cứu tiêu chuẩn của các nước EU và Nhật Bản.
Hoàn thiện chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng sản phẩm đối với hàng xuất khẩu nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của EU và Nhật Bản
EU và Nhật Bản là hai thị trường tiêu dùng khắt khe và còn nhiều rào cản kỹ thuật. Trên 80% hàng hóa của EU và Nhật Bản là theo tiêu chuẩn quốc tế. Để có thể thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng Châu Âu và Nhật Bản và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, thì vấn đề đăng ký và kiểm tra chất lượng sản phẩm cần phải được thực hiện nghiêm túc chặt chẽ theo các chỉ tiêu đã quy định. Thông qua biện pháp này có thể giúp các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ (đặc biệt là vấn đề công nghệ sạch) trong từng khâu sản xuất - chế biến - bảo quản - vận chuyển - xuất khẩu, vừa nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, lại vừa xây dựng uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế được EU và Nhật Bản chấp nhân: hiện tại, cần áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000, HACCP, ISO 14000, SA 8000. Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hàng nông sản theo tiêu chuẩn của HACCP và ISO là một trong những giải pháp hàng đầu nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng của hàng nông sản. HACCP và ISO 9000 là các tiêu chuẩn quốc tế được nhiều nước thừa nhận, việc áp dụng các tiêu chuẩn này có thể đảm bảo về chất lượng và vệ sinh dịch tễ. Trong lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm đặc biệt chú ý đến tiêu chuẩn HACCP. T7
Ngoài việc áp dụng các tiêu chuẩn chung, đối với mỗi một mặt hàng, thị trường các nước này lại có những tiêu chuẩn áp dụng riêng. Chẳng hạn ở Châu Âu, đối với mặt hàng rau quả tươi yêu cầu đạt chứng chỉ chất lượng GAP. Nhập khẩu nông sản vào Nhật Bản cần có giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm của Chính phủ nước xuất khẩu cấp. Thực hiện tốt công tác nêu trên là một giải pháp hữu ích giúp hàng nông sản của chúng ta thâm nhập sâu hơn vào thị trường khó tính nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao như EU, Nhật Bản trước các rào cản kỹ thuật ngày càng chặt chẽ và nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu như hiện nay.
Các giải pháp về giá (price)
Xây dựng chiến lược giá hợp lý bằng cách giảm chi phí sản xuất
Theo Marketing Mix, giá cả là một yếu tố quan trọng trong chiến lược nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Nếu sử dụng chiến lược giá cả một cách đúng đắn, thích hợp với từng thị trường có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. Trong nhóm giải pháp về giá này, chúng ta cũng cần cân nhắc đến vấn đề chi phí, bởi chi phí có tính chất quan trọng trong việc quy định giá.
Yếu tố này càng trở nên quan trọng trong cuộc cạnh tranh mang tính toàn cầu. Hàng nông sản trước khi đến tay người tiêu dùng EU và Nhật Bản thường phải qua rất nhiều khâu, và mỗi khâu lại phát sinh nhiều chi phí, làm tăng giá thành sản phẩm. Do vậy giảm chi phí là một yêu cầu cho tất cả các doanh nghiệp muốn tăng hiệu quả xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải cứ giảm chi phí càng nhiều càng tốt mà cần giảm ở một mức phù hợp mà vẫn đảm bảo tạo ra những sản phẩm có chất lượng như yêu cầu. Có thể sử dụng các biện pháp sau để giảm chi phí hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá:
Sử dụng các giống tốt cho năng suất cao, sử dụng các phương pháp nuôi trồng hiện đại nâng cao năng suất, giảm chi phí lao động, xây dựng vùng chuyên canh xuất khẩu để khai thác lợi thế do quy mô nhờ đó mà chi phí trên mỗi sản phẩm giảm. Ổn định giá cả các đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc thiết bị trong nông nghiệp.
Tổ chức lại hệ thống phân phối ở nước ta. Hiện nay, chi phí vận chuyển, bảo quản, tỷ lệ hao hụt trong các khâu trung gian làm tăng đáng kể chi phí tổng thể, tăng giá thành và giá bán, dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Giảm chi phí hoa hồng cho các khâu trung gian bằng cách xuất khẩu trực tiếp ra thị trường EU và Nhật Bản. Muốn được như thế phải tăng cường công tác quảng cáo, xây dựng chiến lược phù hợp với từng thị trường nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường nhập khẩu với khối lượng lớn và thường xuyên. Điều quan trọng là các doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu hàng hoá có tiếng trên thị trường để có thể đến trực tiếp người tiêu dùng nước ngoài mà không phải qua trung gian.
Định giá hợp lý linh hoạt đối với thị trường EU và Nhật Bản
Song song với việc giảm chi phí một cách thích hợp thì việc định giá như thế nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của nông sản chúng ta trên thị trường EU và Nhật Bản. Đối với một số thị trường, giá rẻ là một vũ khí cạnh tranh lợi hại nhưng ở thị trường Nhật Bản và EU thì giá rẻ chưa hẳn đã là một ưu thế. Hơn nữa, các doanh nghiệp cần phải tuỳ vào tình hình cung cầu của thị trường naỳ mà đưa ra mức giá tối ưu. Việc định giá sản phẩm không phải tuỳ tiện mà nên theo những bước hợp lý: Định giá theo chất lượng sản phẩm và loại thị trường.
Các doanh nghiệp nên tìm kiếm các hợp đồng dài hạn thay vì các hợp đồng chuyến để ổn định giá. Cố gắng xuất khẩu giá CIF thay vì giá FOB. Việc đưa ra mức giá ổn định hợp lý không chỉ làm tăng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản trên hai thị trường lớn mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, người nông dân và lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, giải pháp về giá cả cần đi kèm với giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể phát huy hết tác dụng của nó trong thời gian dài.
Nghiên cứu giá nhập khẩu của từng chủng loại mặt hàng của những đối thủ cạnh tranh khác như Thái Lan, Trung Quốc trên hai thị trường này trên cơ sở đó đưa ra mức giá hợp lý ở từng thị trường mục tiêu, tránh tình trạng găm hàng hay bán tống bán tháo làm tổn hại đến các ngành nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Các giải pháp về phân phối (Place)
Đa dạng hoá hình thức phân phối nhằm tăng khả năng xâm nhập vào thị trường EU và Nhật Bản
Đối với một doanh nghiệp, việc nghiên cứu thị trường để đưa ra loại sản phẩm nào, hay định giá thế nào cho phù hợp vẫn chưa đủ mà doanh nghiệp đó cần xét xem nên đưa sản phẩm đó ra thị trường bằng phương thức nào. Trong Marketing quốc tế, vấn đề phân phối lại càng trở nên quan trọng và đòi hỏi sự đầu tư cẩn thận nghiêm túc của các doanh nghiệp, có thể thực hiện các giải pháp sau:
Áp dụng nhiều phương thức kinh doanh để thâm nhập vào thị trường EU và Nhật Bản như xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp, liên doanh, đầu tư trực tiếp. Người tiêu dùng EU và Nhật Bản có sở thích và thói quen sử dụng những sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng. Do vậy liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa là biện pháp hữu hiệu để các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường này.
Cần tận dụng và khai thác tối đa những công ty của người Việt Nam ở EU, bởi họ hiểu rất rõ thị trường tiêu dùng đến phương thức tiếp cận và thâm nhập vào các kênh phân phối của EU.
Tạo nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu vào thị trường EU và Nhật Bản
Hàng nông sản có đặc trưng là phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên nên cung cầu trên thế giới thường xuyên biến động hơn các loại hàng hoá khác. Do đó, cần có những biện pháp để các doanh nghiệp có thể ổn định nguồn hàng cho xuất khẩu, đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng, nâng cao uy tín trên thị trường, từ đó nâng sức cạnh tranh của hàng hoá và thu lợi nhuận lâu dài. Tổ chức liên kết giữa các doanh nghiệp và hộ nông dân, hợp tác xã thông qua các hợp đồng tiêu thụ nông sản để các doanh nghiệp sẽ mua nông sản của người nông dân thông qua hợp đồng với các nội dung quy định rõ ràng các điều kiện về chất lượng, số lượng... và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc cung cấp vốn, các trợ giúp kỹ thuật công nghệ đầu vào sản xuất, các dịch vụ khác cho người nông dân. Bằng cách này, sẽ nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp xuất khẩu đối với nguồn cung nông sản trên thị trường cũng như ổn định nguồn cung có thể xuất khẩu vào EU và Nhật Bản
Hoàn thiện các kênh trung chuyển và phân phối trong nước đảm bảo cho kênh phân phối ra thị trường EU và Nhật Bản
Chuyên nghiệp hoá dịch vụ thu mua nông sản xuất khẩu cho các thị trường này. Nâng cao vai trò của các hợp tác xã, chủ vựa, tư thương có kinh nghiệm, phương tiện như là các đại lý của các doanh nghiệp và được hưởng dịch vụ đại lý. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cần xây dựng mạng lưới thu mua ngay tại các nhà kho, các nhà máy xay xát.
Tổ chức lại mạng lưới thu mua hàng nông sản của các công ty và công ty lương thực quốc doanh, khắc phục tình trạng dựa vào thị trường, đầu lậu như những năm qua, thực hiện thống nhất phương thức và địa điểm thu mua lúa, tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân bán lúa cho nhà nước.
Sau quá trình sản xuất, thu gom hàng nông sản trong nước để xuất khẩu thì việc phân phối, đưa sản phẩm của chúng ta ra thị trường EU và Nhật Bản như thế nào cũng là một bài toán mà nhà nước và các doanh nghiệp hết sức quan tâm. Do đó, Việt Nam cần xây dựng đồng bộ các loại thị trường, tạo môi trường năng động cho sự vận động của hàng hoá theo hướng cơ chế thị trường có trật tự
Nhóm giải pháp xúc tiến thương mại (promotion)
Xây dựng thương hiệu hàng nông sản để nâng cao giá trị hàng nông sản trên thị trường EU và Nhật Bản là một việc làm cấp thiết, trước mắt để đưa thương hiệu nông sản Việt nam tiến nhanh hơn tới người tiêu dùng EU và Nhật Bản, công tác xúc tiến thương mại cần thực hiện theo các hướng sau:
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xác định về năng lực kinh doanh của mình, chịu bỏ sức thực hiện hoạt động quảng bá tiếp cận thị trường và đổi mới hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, vì một khi thương hiệu đã có thì giá trị hàng hóa sẽ được nâng lên cao hơn.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại nông sản thông qua các hoạt động hội chợ, triển lãm trong và ở EU cũng như Nhật Bản, qua đó quảng bá hàng nông sản của chúng ta và tăng cơ hội tìm kiếm các đơn đặt hàng quốc tế dài hạn, ổn định. Tiến tới xây dựng các trung tâm giao dịch hàng nông sản chuyên nghiệp.
Quảng bá hình ảnh bằng cách xây dựng thương hiệu hàng nông sản, những mặt hàng có thương hiệu được nhiều người biết như cà phê Trung Nguyên, bưởi Năm Roi cần phải đăng ký nhãn hiệu, để bảo vệ được uy tín thương hiệu của doanh nghiệp. Vấn đề thương hiệu cần được xem xét như một vũ khí cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính sách xúc tiến và hỗ trợ thương mại cần phải thực hiện được mục đích của nó là đầy mạnh việc tiêu thụ nông sản, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, truyền đạt thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm đến người tiêu dùng, kích thích nhu cầu người tiêu dùng, từ đó xây dựng được một hình ảnh thương hiệu nông sản Việt Nam trong lòng người tiêu dùng EU và Nhật Bản..
Hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý kinh doanh xuất khẩu: như nghiệp vụ và kiến thức kinh doanh, kiến thức về cơ chế thị trường EU và Nhật Bản, về ngoại ngữ, về nghiệp vụ marketing quốc tế, kỹ năng đàm phán.
Tìm hiểu thị trường EU và Nhật Bản để biết thị hiếu của người tiêu dùng để từ đó đưa ra các loại sản phẩm phù hợp với các thị trường này.
Các doanh nghiệp cần phải xác định tầm quan trọng của giải pháp xúc tiến để từ đó đưa ra những chiến dịch xúc tiến kịp thời mới có thể tạo sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam, một sự khác biệt có thể mang lại lợi ích cho người nông dân, các doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu sang EU và Nhật Bản.
Việc tăng cường xuất khẩu nông sản nước ta vào EU và Nhật Bản chỉ có thể thực hiện được khi có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, các ngành, các doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo sâu sát của Chính phủ vì lợi ích quốc gia và lợi ích của người sản xuất, kinh doanh nông sản xuất khẩu.
KẾT LUẬN
Một khi Việt Nam đã tham gia “sân chơi” WTO thì phải chấp nhận những “luật chơi” của WTO, chúng ta sẽ phải hiểu những quy định cam kết của tổ chức này về bảo hộ, trợ cấp nông nghiệp, đồng thời cũng cần phải biết “luật” của các nước nhập khẩu nông sản như EU và Nhật Bản đặt ra cho hàng nông sản xuất vào nước họ. Cạnh đó, Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ những nước đã và đang xuất khẩu nông sản thành công vào hai thị trường này, để từ đó phân tích hàng nông sản của chúng ta có những điểm mạnh gì cần phát huy và những hạn chế gì cần khắc phục để có thể xuất khẩu vào EU và Nhật Bản.
Việc nghiên cứu thực trạng hàng nông sản Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản, nhìn nhận những ưu điểm và khuyết điểm để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm là một việc làm cấp thiết, chính vì thế tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài ““Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản trong quá trình hội nhập WTO”. Trong suốt quá trình nghiên cứu và phân tích thực trạng hàng nông sản xuất khẩu nông sản Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản, tác giả rút ra những kết luận sau:
EU và Nhật bản là thị trường đầy tiềm năng cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Nhìn một cách tổng thể, hàng nông sản của Việt nam đang từng bước đáp ứng yêu cầu của hai thị trường này, chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, giá cả có tính cạnh tranh hơn cũng như công tác xúc tiến thương mại có những cải tiến đáng kể.
Mặt khác, các đối thủ cạnh tranh “láng giềng” của Việt Nam trên hai thị trường này như Thái Lan, Indonesia, Malaysia cũng ngày càng mạnh, chưa nói đến việc so sánh với các nước phát triển trên thế giới. Cạnh tranh trong hội nhập ngày càng trở nên gay gắt, cơ hội mang lại cho hàng nông sản Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản rất nhiều nhưng thách thức đặt ra cũng không phải là nhỏ.
Trên thực tế, thị trường quốc tế muôn hình vạn trạng với những biến động hàng ngày, hàng giờ, các nước muốn đứng vững trong cuộc cạnh tranh đó cần phải thích ứng với sự thay đổi và có những giải pháp phù hợp. Tuy nhiên, với những ưu thế vốn có về tài nguyên thiên nhiên, điều kiện khí hậu kết hợp cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nếu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam áp dụng một cách triệt để và đồng bộ các giải pháp mà luận văn đã đề cập và phân tích, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một thương hiệu “nông sản Việt Nam” trong lòng người tiêu dùng EU và Nhật Bản nói riêng và thị trường quốc tế nói chung.
Đây là một đề tài tương đối rộng, hơn nữa do sự hạn chế về năng lực cũng như thời gian nghiên cứu, Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý chỉ bảo của các giảng viên, bạn đọc và các bạn bè đồng nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Báo cáo thương niên Ngành Nông nghiệp Việt Nam 2007 và Triển vọng 2008(2007), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2.
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông sản (2004), Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam
3.
Nguyễn Duy Bột (2000), Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu trong điều kiện tự do hoá thương mại, Đề tài Nghiên cứu KH cấp bộ, Đại học Kinh tế Quốc dân.
5.
Phạm Thị Thu Hương, Mối quan hệ giữa xuất khẩu nông sản với tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam, Kinh tế và dự báo (9/2007).
6.
Niên giám thống kê
7.
www.agro.gov.vn
8.
www.gso.gov.vn
9.
www.hoinongdan.org.vn
10.
www.fao.org
Phụ lục
phụ lục 1: Các vấn đề trong dây chuyền giá trị ngành trái cây nhiệt đới Việt Nam
Cá nhân thu mua
Chợ
đầu mối
Khu vực trồng trọt
Thị trường quốc tế
Thị trường nội địa
Nhà máy chế biến
Nhà
xuất khẩu
Vấn đề tiếp cận khách hàng quốc tế:
Phương thức thanh toán và thực hiện hợp đồng: Không thuận lợi (chậm thanh toán, bán trả chậm mà thiếu bảo đảm L/C)
Thuế đánh vào đối thủ cạnh tranh nước ngoài: Giảm do tham gia AFTA
Rủi ro do sử dụng trung gian nhập khẩu: bị trung gian ép giá và không biết khách hàng cuối cùng là ai
Rủi ro thị trường: Thiếu thông tin thị trường
Xây dựng thương hiệu: kém
Vận tải: xa và đắt
Các vấn đề trong giai đoạn thu mua: Người thu mua phần lớn là các cá nhân nhỏ lẻ, có hiện tượng ép giá nông dân
Vấn đề trong giai đoạn sau thu hoạch:
Hạ tầng: yếu kém, chi phí thu hoạch rẻ nhưng tốc độ chậm
Kỹ thuật, công nghệ sau thu hoạch: kém
Vấn đề trong giai đoạn
canh tác:
Giống:
Chưa có giống đăng ký
Phương pháp trồng trọt:
Phi hữu cơ
Kiểm dịch, chất lượng:
Sử dụng nhiều phân bón,
thuốc trừ sâu
Năng suất lao động:
Thấp, không ổn định
Vốn và chi phí sản xuất:
Thiếu vốn trong khi các
phương pháp canh tác thiếu
đổi mới
Kỹ năng quản lý và khả
năng đổi mới: Thấp
Trợ giúp kỹ thuật: kém
Trợ giúp kỹ thuật
Kém
Rủi ro chung:
Năng lực sản xuất phân tán
Có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, thiếu hợp tác trong giây chuyền giá trị
Thị trường trong nước chưa đủ mạnh làm điểm tựa cho xuất khẩu
Phụ lục 2: Xuất nhập khẩu hàng hoá nông – lâm – thuỷ sản (tỷ USD)
Nguồn: Trung tâm thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn
Phụ lục 3: Tỷ trọng xuất khẩu nông - lâm - thuỷ sản trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá (%)
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Phụ lục 4: Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang EU
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Phụ lục 5: sản lượng cà phê thế giới
Đơn vị: (nghìn bao)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU và Nhật Bản trong thời kỳ hội nhập WTO.doc