Năng lực tài chính của công ty bảo hiểm nhân thọ.
1.Năng lực tài chính của công ty bảo hiểm nhân thọ
1.1.Khái niệm về năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là loại hình doanh nghiệp thực hiện kinh doanh dịch vụ tài chính,do vậy, năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là khả năng về tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, thể hiện ở quy mô vốn chủ sở hữu, chất lượng các khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Mọi doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều có hai mục tiêu kinh doanh cơ bản đó là doanh nghiệp bảo hiểm phải có khả năng đáp ứng tất cả các nghĩa vụ tài chính của mình khi các nghĩa vụ đó phát sinh hoặc đến hạn. Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính này của doanh nghiệp được gọi là khả năng thanh toán. Mục tiêu thứ hai là tối đa hoá giá trị của bản thân doanh nghiệp vì lợi ích của các cổ đông. Mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận cho những người chủ của doanh nghiệp - bao gồm cả khả năng của doanh nghiệp về tạo ra lợi nhuận và nâng cao giá trị của doanh nghiệp - được gọi là khả năng sinh lời. .
1.2.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể được đánh giá dựa vào các yếu tố định lượng. Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có bao gồm quy mô vốn, chất lượng dự phòng nghiệp vụ, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời.
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: vốn điều lệ ban đầu, lợi nhuận không chia và tăng vốn bổ sung vốn điều lệ.
Vốn điều lệ ban đầu của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được các cổ đông đóng góp. Vốn điều lệ của doanh nghiệp không được thấp hơn vốn pháp định theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Theo khoản 1 điều 4 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, "Mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm:
a) Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300.000.000.000 đồng Việt Nam
b) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 600.000.000.000 đồng Việt Nam"
Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều có vốn điều lệ ban đầu cao hơn so với vốn pháp định theo quy định của pháp luật.Hiện tại Bảo Việt nhân thọ đang có số vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng,đã vượt mức quy định rất nhiều.
Theo thông lệ chung, doanh nghiệp bảo hiểm thường phải trích lập một quỹ dự trữ bắt buộc từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp để bổ sung vào vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo mức độ an toàn và thận trọng hơn. Theo điều 31 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, “doanh nghiệp bảo hiểm phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc. Mức tối đa của quỹ dự trữ bắt buộc bằng 10% mức vốn điều lệ của doanh nghiệp”.
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3062 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Năng lực tài chính của công ty bảo hiểm nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, thể hiện ở quy mô vốn chủ sở hữu, chất lượng các khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Mọi doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều có hai mục tiêu kinh doanh cơ bản đó là doanh nghiệp bảo hiểm phải có khả năng đáp ứng tất cả các nghĩa vụ tài chính của mình khi các nghĩa vụ đó phát sinh hoặc đến hạn. Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính này của doanh nghiệp được gọi là khả năng thanh toán. Mục tiêu thứ hai là tối đa hoá giá trị của bản thân doanh nghiệp vì lợi ích của các cổ đông. Mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận cho những người chủ của doanh nghiệp - bao gồm cả khả năng của doanh nghiệp về tạo ra lợi nhuận và nâng cao giá trị của doanh nghiệp - được gọi là khả năng sinh lời. .
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể được đánh giá dựa vào các yếu tố định lượng. Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có bao gồm quy mô vốn, chất lượng dự phòng nghiệp vụ, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời.
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: vốn điều lệ ban đầu, lợi nhuận không chia và tăng vốn bổ sung vốn điều lệ.
Vốn điều lệ ban đầu của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được các cổ đông đóng góp. Vốn điều lệ của doanh nghiệp không được thấp hơn vốn pháp định theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Theo khoản 1 điều 4 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, "Mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm:
Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300.000.000.000 đồng Việt Nam
Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 600.000.000.000 đồng Việt Nam"
Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều có vốn điều lệ ban đầu cao hơn so với vốn pháp định theo quy định của pháp luật.Hiện tại Bảo Việt nhân thọ đang có số vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng,đã vượt mức quy định rất nhiều.
Theo thông lệ chung, doanh nghiệp bảo hiểm thường phải trích lập một quỹ dự trữ bắt buộc từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp để bổ sung vào vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo mức độ an toàn và thận trọng hơn. Theo điều 31 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ, “doanh nghiệp bảo hiểm phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc. Mức tối đa của quỹ dự trữ bắt buộc bằng 10% mức vốn điều lệ của doanh nghiệp”.
Vốn chủ sở hữu cung cấp năng lực tài chính cho doanh nghiệp trong quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô hoạt động, cũng như việc phát triển và khuyếch trương các sản phẩm dịch vụ mới; tạo niềm tin, sự cam kết và gây dựng uy tín với chủ hợp đồng. Vốn chủ sở hữu có chức năng bảo vệ doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chống lại các rủi ro về khả năng thanh toán, phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ chủ hợp đồng trước những cam kết đã được thiết lập với doanh nghiệp. Do đó, có thể khẳng định, vốn chủ sở hữu là yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sức mạnh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Dự phòng nghiệp vụ
Dự phòng nghiệp vụ là một đặc thù riêng có của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Đó là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, tương ứng với trách nhiệm của từng hợp đồng bảo hiểm. Theo điều 96 Luật kinh doanh bảo hiểm, dự phòng nghiệp vụ là:
"1. Dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
2. Dự phòng nghiệp vụ phải được trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải tương ứng với phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
3. Bộ Tài chính quy định cụ thể về mức trích lập, phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm."
Dự phòng nghiệp vụ bao gồm:
a) Dự phòng toán học là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số tiền bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu được trong tương lai, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;
b) Dự phòng phí chưa được hưởng: là khoản dự phòng cho phần doanh thu chưa được hưởng từ phần phí bảo hiểm đã thanh toán trước tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm,và được tính cho tất cả các hợp đồng còn hiệu lực vào ngày kết thúc năm tài chính.
c) Dự phòng bồi thường: là khoản dự phòng cho tất cả các khoản bồi thường đã nộp nhưng đang trong quá trình giải quyết giải quyết vào ngày kết thúc kỳ kế toán năm.
d) Dự phòng chia lãi: là khoản dự phòng cho phần lãi tích lũy chưa trả đối với các hợp đồng được chia lãi.
đ) Dự phòng bảo đảm cân đối: là khoản dự phòng chung cho số tiền bảo hiểm phải trả trong trường hợp có sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ lệ tử vong giả định hoặc lãi suất kỹ thuật so với thực tế.
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ được phép lựa chọn và đề nghị Bộ Tài chính phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm theo quy định tại điểm 3.4 khoản 3 Mục III Thông tư này. Trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng nghiệp vụ khác thì phải bảo đảm cho kết quả dự phòng nghiệp vụ cao hơn và được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản trước khi áp dụng.
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không được phép thay đổi phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trong năm tài chính. Trong trường hợp thay đổi phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cho năm tài chính kế tiếp, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phải đề nghị và được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản trước khi áp dụng.
Phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ:
Dự phòng toán học:
Phương pháp trích lập:
theo phương pháp phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh bởi hệ số Zillmer 3% số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh dùng để tính dự phòng không được cao hơn 90% phí bảo hiểm thực tế thu được.
Nguyên tắc tính dự phòng:
dự phòng toán học theo phương pháp phí bảo hiểm thuần được điều chỉnh Zillmer 3% số tiền bảo hiểm tính theo nguyên tắc sau:
Dự phòng toán học
=
Giá trị hiện tại của tổng số tiền bảo hiểm sẽ phải trả trong tương lai
-
Giá trị hiện tại của tổng số phí bảo hiểm thuần điều chỉnh Zillmer 3% số tiền bảo hiểm sẽ thu trong tương lai
c) Cơ sở tính dự phòng:
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ sử dụng các cơ sở sau đây để tính dự phòng toán học:
+ Bảng tỷ lệ tử vong quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này (Bảng tỷ lệ tử vong CSO 1980).
+ Lãi suất kỹ thuật tối đa bằng 80% lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm trích lập dự phòng.
d) Dự phòng toán học được coi là bằng 0 trong trường hợp tính theo phương pháp và cơ sở nêu trên cho ra kết quả là số âm.
Dự phòng phí chưa được hưởng
a) Phương pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm của tổng phí bảo hiểm:
+ Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường không: bằng 25% của tổng phí bảo hiểm giữ lại thuộc năm tài chính của nghiệp vụ bảo hiểm này.
+ Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm khác: bằng 50% của tổng phí bảo hiểm giữ lại thuộc năm tài chính của các nghiệp vụ bảo hiểm này.
b) Phương pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng bảo hiểm:
+ Phương pháp 1/8:
Phương pháp này giả định phí bảo hiểm thuộc các hợp đồng bảo hiểm phát hành trong một quý của doanh nghiệp bảo hiểm phân bố đều giữa các tháng trong quý, hay nói một cách khác, toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một quý cụ thể được giả định là có hiệu lực vào giữa quý đó. Dự phòng phí chưa được hưởng sẽ được tính theo công thức sau:
Dự phòng phí chưa được hưởng
=
Phí bảo hiểm giữ lại
X
Tỷ lệ phí bảo hiểm chưa được hưởng
Ví dụ: Dự phòng phí chưa được hưởng tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2007 được tính như sau:
Đối với các hợp đồng bảo hiểm có thời hạn 1 năm và còn hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2007:
Thời điểm hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực
Tỷ lệ phí bảo hiểm chưa được hưởng
Năm
Quý
2008
I
1/8
II
3/8
III
5/8
IV
7/8
Đối với hợp đồng bảo hiểm có thời hạn trên 1 năm: Tỷ lệ phí bảo hiểm chưa được hưởng theo công thức trên sẽ có mẫu số bằng thời hạn của hợp đồng bảo hiểm (tính bằng số năm) nhân với 8. Dự phòng phí chưa được hưởng tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2007 của hợp đồng bảo hiểm có thời hạn 2 năm và còn hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2007 được tính như sau:
Thời điểm hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực
Tỷ lệ phí bảo hiểm
chưa được hưởng
Năm
Quý
2008
I
1/16
II
3/16
III
5/16
IV
7/16
2009
I
9/16
II
11/16
III
13/16
IV
15/16
+ Phương pháp 1/24:
Phương pháp này giả định phí bảo hiểm thuộc các hợp đồng bảo hiểm phát hành trong một tháng của doanh nghiệp bảo hiểm phân bố đều trong tháng, hay nói một cách khác, toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một tháng cụ thể được giả định là có hiệu lực vào giữa tháng đó. Dự phòng phí chưa được hưởng sẽ được tính theo công thức sau:
Dự phòng phí chưa được hưởng
=
Phí bảo hiểm giữ lại
X
Tỷ lệ phí bảo hiểm chưa được hưởng
Ví dụ: Dự phòng phí chưa được hưởng tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2007 được tính như sau:
Đối với hợp đồng bảo hiểm có thời hạn 1 năm và còn hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2007:
Thời điểm hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực
Tỷ lệ phí bảo hiểm
chưa được hưởng
Năm
Tháng
2008
1
1/24
2
3/24
3
5/24
4
7/24
5
9/24
6
11/24
7
13/24
8
15/24
9
17/24
10
19/24
11
21/24
12
23/24
Đối với hợp đồng bảo hiểm có thời hạn trên 1 năm: Tỷ lệ phí bảo hiểm chưa được hưởng theo công thức trên sẽ có mẫu số bằng thời hạn của hợp đồng bảo hiểm (tính bằng số năm) nhân với 24. Dự phòng phí chưa được hưởng tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2007 của hợp đồng bảo hiểm có thời hạn 2 năm và còn hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2007 được tính như sau:
Thời điểm hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực
Tỷ lệ phí bảo hiểm
chưa được hưởng
Năm
Tháng
2008
1
1/48
2
3/48
3
5/48
4
7/48
5
9/48
6
11/48
7
13/48
8
15/48
9
17/48
10
19/48
11
21/48
12
23/48
2009
1
25/48
2
27/48
3
29/48
4
31/48
5
33/48
6
35/48
7
37/48
8
39/48
9
41/48
10
43/48
11
45/48
12
47/48
c) Phương pháp trích lập dự phòng phí theo từng ngày:
Phương pháp này có thể được áp dụng để tính dự phòng phí chưa được hưởng đối với hợp đồng bảo hiểm thuộc mọi thời hạn theo công thức tổng quát sau:
Dự phòng phí chưa được hưởng
Phí bảo hiểm giữ lại X Số ngày bảo hiểm còn lại của hợp đồng bảo hiểm
=
---------------------------------------------------------------
Tổng số ngày bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm
Dự phòng bồi thường:
được trích theo phương pháp từng hồ sơ với mức trích lập được tính trên cơ sở thống kê số tiền bảo hiểm phải trả cho từng hồ sơ đã yêu cầu đòi bồi thường doanh nghiệp bảo hiểm nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết.
Dự phòng chia lãi:
chỉ áp dụng với những hợp đồng có lãi chia được tích lũy qua các năm hợp đồng bảo hiểm và được tính theo công thức sau:
Dự phòng chia lãi
=
Tổng lãi công bố chia cho chủ hợp đồng trong năm tài chính
+
Giá trị tích lũy của lãi đã công bố chia cho chủ hợp đồng trong các năm tài chính trước nhưng chưa chi trả
Dự phòng bảo đảm cân đối:
được trích lập hàng năm cho đến khi khoản dự phòng này bằng 5% phí bảo hiểm thu được trong năm tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Mức trích lập hàng năm là 1% từ lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp bảo hiểm.
Khả năng thanh toán
C. Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán theo nghĩa chung là khả năng của doanh nghiệp đáp ứng ngay các nghĩa vụ tài chính phát sinh. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, khả năng thanh đề cập đến khả năng duy trì vốn và lợi nhuận để lại cao hơn mức tiêu chuẩn tối thiểu về vốn và lợi nhuận để lại do luật định.Việc không đáp ứng được tiêu chuẩn này có thể dẫn đến việc các cơ quan quản lý ngành bảo hiểm sẽ kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc thiếu khả năng duy trì mức tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc về vốn và lợi nhuận để lại của một doanh nghiệp bảo hiểm được gọi là mất khả năng thanh toán.
Tại Việt Nam, chỉ tiêu này được gọi là chỉ tiêu khả năng thanh toán, được quy định rất cụ thể theo Quyết định số 153/2003/QĐ-BTC "Chỉ tiêu khả năng thanh toán được tính bằng tỷ lệ giữa nguồn vốn, quỹ xác định biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định hiện hành. Nguồn vốn, quỹ để xác định biên khả năng thanh toán là nguồn vốn, quỹ trừ đi số vốn góp vào doanh nghiệp bảo hiểm khác và nợ không có khả năng thu hồi."
Chỉ tiêu này được tính như sau:
chỉ tiêu khả năng thanh toán
Nguồn vốn, quỹ xác định biên khả năng thanh toán
=
Biên khả năng thanh toán tối thiểu
Biên khả năng thanh toán tối thiểu bằng tổng của 4% dự phòng nghiệp vụ và 0,1 % số tiền bảo hiểm chịu rủi ro (đối với hợp đồng có thời hạn dưới 5 năm) hoặc 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro (đối với hợp đồng trên 5 năm).
Số tiền bảo hiểm chịu rủi ro là phần chênh lệch giữa tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực và tổng dự phòng nghiệp vụ”
Theo điều 15,NĐ 46 2007 ND-CP ,cũng quy định về khả năng thanh toán của DN Bảo Hiểm:
“Doanh nghiệp bảo hiểm được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu”
Trong đó:
Phần dự phòng được trích lập đầy đủ đã được nêu ở phần trên
Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm tại thời điểm tính biên khả năng thanh toán. Tính thanh khoản của các tài sản khi tính biên khả năng thanh toán được xác định như sau:
Các tài sản được chấp nhận toàn bộ giá trị hạch toán:
Các khoản tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, trái phiếu chính phủ.
Các tài sản tương ứng với các hợp đồng bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư.
Các tài sản bị loại trừ toàn bộ giá trị hạch toán:
Các khoản vốn góp để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm khác từ nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bảo hiểm;
Tài sản tương ứng với quỹ khen thưởng, phúc lợi (nếu có);
Các khoản nợ không có khả năng thu hồi theo quy định của pháp luật sau khi trừ đi các khoản trích lập dự phòng nợ khó đòi tương ứng;
Tài sản cố định vô hình trừ phần mềm máy tính;
Chi phí trả trước, cho vay không có bảo lãnh, các khoản tạm ứng, trang thiết bị và đồ dùng văn phòng, các khoản phải thu nội bộ;
Phải thu phí bảo hiểm và phí nhận tái bảo hiểm quá hạn trên 2 năm sau khi trừ đi các khoản trích lập dự phòng nợ khó đòi tương ứng theo quy định của pháp luật;
Các khoản cho vay, đầu tư trở lại cho các cổ đông hoặc người có liwên quan quy định tại Điều 4 Luật Doanh nghiệp trừ trường hợp là các khoản tiền gửi ngân hàng.
Các tài sản bị loại trừ một phần giá trị hạch toán:
Các tài sản đầu tư:
a) Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh: loại trừ 1% giá trị hạch toán;
b) Trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh: loại trừ 3% giá trị hạch toán;
c) Cổ phiếu được niêm yết: loại trừ 15% giá trị hạch toán;
d) Cổ phiếu không được niêm yết: loại trừ 20% giá trị hạch toán;
đ) Đầu tư trực tiếp vào bất động sản do chính doanh nghiệp sử dụng: loại trừ 8% giá trị hạch toán;
e) Đầu tư trực tiếp vào bất động sản để cho thuê, các khoản cho vay thương mại có bảo lãnh: loại trừ 15% giá trị hạch toán;
g) Vốn góp vào các doanh nghiệp khác trừ doanh nghiệp bảo hiểm: loại trừ 20% giá trị hạch toán.
Các khoản phải thu:
a) Phải thu phí bảo hiểm và phí nhận tái bảo hiểm quá hạn từ 90 ngày đến dưới 1 năm sau khi trừ đi các khoản trích lập dự phòng nợ khó đòi tương ứng theo quy định của pháp luật: loại trừ 30%;
b) Phải thu phí bảo hiểm và phí nhận tái bảo hiểm quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm sau khi trừ đi các khoản trích lập dự phòng nợ khó đòi tương ứng theo quy định của pháp luật: loại trừ 50%.
Tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình là phần mềm máy tính và hàng tồn kho: loại trừ 25% giá trị hạch toán.
Tài sản khác: loại trừ 15% giá trị hạch toán.
STT
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
1
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành (lần)
2,89
1,56
0,39
2
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh (lần)
2,85
1,54
0,388
Xét chỉ tiêu tỷ số khả năng thanh toán hiện hành, tỷ số khả năng thanh toán nhanh trong giai đoạn 2008-2010, xu hướng giảm dần của cả ba chỉ tiêu cũng có thể nhìn thấy rõ trong bảng trên,đặt biệt là từ năm 2008 từ 2,89 xuống còn 0,39 năm 2010. Doanh nghiệp bảo hiểm thường có tỷ số thanh toán nhanh và tỷ số khả năng thanh toán hiện hành khá cao, nhằm đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ chi trả phát sinh của doanh nghiệp bảo hiểm khi các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm. Không chỉ có vậy, trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, không có sự khác biệt lớn giữa tỷ số khả năng thanh toán hiện hành và tỷ số khả năng thanh toán nhanh do giá trị hàng tồn kho của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không lớn. Hàng tồn kho của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chủ yếu là các vật dụng,phiếu thu chi các loại ... Do vậy, đây là một dấu hiệu cho thấy khả năng thanh toán của Bảo Việt đang gặp một số vấn đề,cho dù vẫn đảm bảo khả năng chi trả .Một phần nguyên nhân có thể là do trong cơ cấu nợ ngắn hạn của Bảo Việt Nhân Thọ, tốc độ gia tăng về các khoản phải nợ tăng nhanh chóng.Nếu như trong năm 2008 các khoản nợ ngắn hạn là 351.179 tỷ đồng thì đến năm 2010 là 3,222,730 tỷ đồng, tức là tăng tới 8 lần dẫn tới tỷ số khả năng thanh toán hiện thời của Bảo Việt Nhân Thọ đã có xu hướng giảm dần khá lớn, đặc biệt năm 2009 là 1,54 và năm 2010 là chỉ còn 0,388. Điều này cho thấy Bảo Việt nhân thọ đang sử dụng đòn bẩy tài chính quá nhiều,việc này sẽ khiến khả năng chi trả lãi vay tăng mạnh,ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thanh toán của Bảo Việt Nhân Thọ.
Khả năng sinh lời
Mặc dù khả năng sinh lời có thể đạt được và đo lường trong một thời kỳ ngắn hạn, nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải luôn nỗ lực theo đuổi khả năng sinh lời dài hạn. Khả năng sinh lời dài hạn giúp cho một doanh nghiệp bảo hiểm có thể:
Có các nguồn tài chính để tài trợ đầu tư
Trả lãi chia cho các hợp đồng có chia lãi
Trả cổ tức cho các cổ đông và tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư
Nâng cao thứ hạng từ các tổ chức đánh giá xếp hạng
Cung cấp nguồn tài chính cho việc phát triển sản phẩm, các nhóm sản phẩm, và các kênh phân phối
Cung cấp nguồn tài chính để mở rộng và mua lại các doanh nghiệp khác
Thước đo khả năng sinh lời sử dụng cả báo cáo kết quả kinh doanh và bảng tổng kết tài sản là tỉ lệ lợi tức trên vốn (ROE. Tỉ lệ này thường được biểu diễn như sau:
ROE = Thu nhập sau thuế/Vốn chủ sở hữu
Tỉ lệ lợi tức trên vốn thể hiện doanh nghiệp bảo hiểm đã sử dụng vốn và lợi nhuận để lại hiệu quả đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận trong một thời kỳ xác định.Tỉ lệ lợi tức trên vốn càng cao thì doanh nghiệp càng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thu lợi nhuận. Các tỉ lệ lợi tức trên vốn có thể được tính cho toàn bộ doanh nghiệp, cho từng lĩnh vực kinh doanh, cho một sản phẩm cụ thể, hoặc cho một hệ thống phân phối.
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE như sau:
ROE = (Thu nhập sau thuế)/(Tài sản) x (Tài sản/Vốn chủ sở hữu)
= ROA x EM
= (Thu nhập sau thuế)/(Doanh thu) x (Doanh thu)/(Tài sản) x (Tài sản)/(Vốn chủ sở hữu)
= PM x AU x EM
2008
2009
2010
Lợi nhuận sau thuế
125,969,153,573
362,849,593,644
474,998,000,000
Vốn chủ sở hữu
1,516,892,982,695
1,546,677,981,546
1,581,013,000,000
ROE
8.3
23.46
30.04
ROA
0.829
2.115
2.306
EM
1001
1108.8
1302.7
PM
3.7
6.82
7.767
AU
0.224
0.316
0.262
ROA: Doanh lợi tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư, phản ánh mức sinh lời của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp - khả năng quản trị tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp.
PM: Hiệu suất doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả
AU: Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
EM: Hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài.
Qua 3 năm , hệ số ROE tăng mạnh , chứng tỏ 1 đồng vốn đầu tư của BV mang lại lợi nhuận ngày càng nhiều . trong năm đầu , 1 đồng vốn chỉ sinh lợi 0.829d…năm 2009 , 1đ vốn có thể sinh ra gần 2.2d lời và con số này là 2.306 năm 2010ROE tăng là do đâu? Xét 3 nhân tố cấu thành ROE , ta thấy , ROE tăng là do cả 3 nhân tố PM , AU , EM cùng tăng (ngoại trừ AU giảm nhẹ trong năm 2010)
EM tăng từ 1001 lên 1108.8 chỉ sau 1 nằm và tiếp tục tăng mạnh lên 1302.7 . Hệ số nhân vốn chủ sỡ hữu tăng chứng tỏ rằng , DN đã gia tăng nguồn vốn huy động từ bên ngoài.Thật vậy , năm 2009 , tập đoàn BV đã tổ chức niêm yết thành công cổ phiếu của BV tại sở giao dịch chứng khoán TPHCM HOSE, đồng thời phát hành riêng lẻ cho cổ đông chiến lược HSBC Insurance với nguồn vốn đầu tư 1.878 tỷ đồng được bổ dung vào đầu 2010.
Mặt khác , xét về hiệu suất doanh lợi tiêu thụ :
2008
2009
2010
Lợi nhuận
125,969,153,573
362,849,593,644
474,998,000,000
Doanh thu
4,928,467,637,270
5,323,825,278,523
6,113,859,000,000
2009
2010
%tăng trưởng lợi nhuận
1.880463854
0.309076842
%tăng trưởng doanh thu
0.080219182
0.148395877
Nguyên nhân của việc tăng nhanh trong hiệu suất sinh lợi tiêu thụ là do tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng doanh thu.Theo bảng số liệu trên , năm 2009 , khi lợi nhuận tăng 188% thì doanh thu chỉ tăng trưởng 8% , và trong năm 2010 , doanh thu chỉ tăng 14% trong khi lợi nhuận tăng 31% . Có thể thấy rằng , do tốc độ tăng năm 2009 quá cao nên hệ số PM đã tăng đột biến từ 3.7 lên 6.82 và tăng ổn định lại trong năm 2010 với mức 7.767 khi mà tăng trưởng lợi nhuận giảm bớt trong khi tăng trưởng doanh thu tăng mạnh .
Dễ dàng nhận thấy , doanh thu của Bảo Việt trong năm 2009 và 2010 không tăng mạnh nhưng lợi nhuận lại tăng cao . chứng tỏ Bảo Việt đã thành công trong việc cắt giảm bớt các chi phí không hợp lí
Xét về hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp :
2008
2009
2010
Doanh thu
4,928,467,637,270
5,323,825,278,523
6,113,859,000,000
Tài sản
15,191,878,236,565
17,150,080,755,258
20,593,914,000,000
AU
0.224
0.316
0.262
Năm 2009 ,những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có dấu hiệu dịu lại và nền kinh tế ViệtNam đã có những tín hiệu phục hồi. GDP trong 6 tháng đầu năm tăng trưởng 3,9%, chỉ số giá tiêu dùng ở mức tương đối ổn định, chỉ số lạc quan của người dân vào khả năng hồi phục của nền kinh tế cũng tăng lên. Điều này đã cởi bỏ bớt áp lực và tạo điều kiện để thị trường bảo hiểm nhân thọ tiếp tục phát triển.Ngoài ra, đầu năm 2009 ,Bảo Việt Nhân thọ cho ra mắt 2 sản phẩm mới An Phát Hưng Gia và An Phát Trọn Đời thuộc dòng sản phẩm bảo hiểm với các quyền lợi ưu việt và sự linh hoạt nổi trội này đã được các khách hàng nồng nhiệt tiếp nhận cũng như góp phần vào mức tăng trưởng doanh thu mạnh mẽ của Bảo Việt Nhân thọ trong 6 tháng đầu năm , góp phần làm gia tăng hiệu suất sử dụng tài sản lên cao . Năm 2010 , Bảo Việt nhân thọ gia tăng mạnh đầu tư tài chính dài hạn , trong khi tốc độ gia tăng của doanh thu không tăng kịp , dẫn đến việc sụt giảm trong hiểu suất sử dụng tài sản.
2)Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
2.1)Hoạt động đầu tư tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp “bảo hiểm nhân thọ” được BTC quy định chặt chẽ. Theo 46/2007/NĐ-CP hoạt động đầu tư đuọc quy đinh như sau:
Nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao gồm:
1. Nguồn vốn chủ sở hữu.
2. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
3. Các nguồn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu
1. Việc đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được phép đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với phần vốn chủ sở hữu vượt quá mức vốn pháp định hoặc biên khả năng thanh toán tối thiểu, tùy theo số nào lớn hơn.
Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
1. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm là tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ.
2. Khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
3. Khoản tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
Đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định này được thực hiện trực tiếp bởi doanh nghiệp bảo hiểm hoặc thông qua uỷ thác đầu tư và chỉ được đầu tư tại Việt Nam trong các lĩnh vực sau:
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
a) Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế;
b) Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;
c) Kinh doanh bất động sản, cho vay tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Tình hình đầu tư của bảo việt nhân thọ qua các năm từ 2008-2010
Ký quỹ:
Theo Điều 6 Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2007, doanh nghiệp bảo hiểm phải sử dụng một phần vốn điều lệ đã góp để ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam. Tiền ký quỹ được hưởng lãi theo thoả thuận với ngân hàng nơi ký quỹ. Mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm bằng 2% vốn pháp định. Doanh nghiệp bảo hiểm được rút toàn bộ tiền ký quỹ chỉ khi chấm dứt hoạt động. Nghĩa là Bảo Việt Nhân Thọ phải ký quỹ 12 tỷ đồng ở một NHTM
Tiền gửi không kỳ hạn:
Đơn vị: VND
Ngày
31/12/2008
31/12/2009
31/12/2010
Tiền gửi không kỳ hạn
416,835,095
146,471,440
Tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn ngắn:
Đơn vị: VND
Ngày
31/12/2008
31/12/2009
31/12/2010
Tiền gửi kỳ hạn ngắn
776,100,000,000
416,700,000,000
438,529,105,556
Tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn dài:
Đơn vị: VND
Ngày
31/12/2008
31/12/2009
31/12/2010
Tiền gửi kỳ hạn dài
34,100,000,000
--
--
Báo cáo thường niên của Bảo Việt(
Tiền gửi kỳ hạn dài trong 2 năm 2009 và 2010 của Bảo Việt Nhân Thọ không được đề cập. Khoản đầu tư này chủ yếu do tập đoàn Bảo Việt thực hiện
Đầu tư vào công ty liên kết:
Đơn vị: VND
31/12/2008
31/12/2009
31/12/2010
Công ty cổ phần Khách sạn và Du lịch Bảo Việt
4,250,000,000
4,250,000,000
9,450,000,000
Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng quốc tế VIGEBA
39,000,000,000
39,000,000,000
39,000,000,000
Công ty cổ phần xây dựng long việt
31/12/2009
31/12/2010
4,462,440,440
29,296,440,000
2.2)Hoạt động thu chi của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thường có nguồn thu nhập từ 2 nguồn chính là hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động đầu tư tài chính . Ngoài ra , các doanh nghiệp cũng có thu nhập từ các hoạt động không thường xuyên khác . Chính vì vậy , sẽ tạo nên doanh thu và chi phí từ các hoạt động trên
Doanh thu
Theo điều 20 của nghị định Chính Phủ, Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ bao gồm:
1. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ:
a) Số tiền phải thu phát sinh trong kỳ bao gồm:
- Thu phí bảo hiểm gốc;
- Thu phí nhận tái bảo hiểm;
- Thu hoa hồng nhượng tái bảo hiểm;
- Thu phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%;
- Thu phí giám định tổn thất không kể giám định hộ giữa các đơn vị thành viên hạch toán nội bộ trong cùng một doanh nghiệp bảo hiểm hạch toán độc lập.
b) Các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ bao gồm:
- Hoàn phí bảo hiểm;
- Giảm phí bảo hiểm;
- Phí nhượng tái bảo hiểm;
- Hoàn phí nhận tái bảo hiểm;
- Giảm phí nhận tái bảo hiểm;
- Hoàn hoa hồng nhượng tái bảo hiểm;
- Giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm.
2. Doanh thu hoạt động tài chính:
a) Thu hoạt động đầu tư theo quy định tại Mục 3 Chương II Nghị định này;
b) Thu từ hoạt động mua bán chứng khoán;
c) Thu lãi trên số tiền ký quỹ;
d) Thu cho thuê tài sản;
đ) Thu khác theo quy định của pháp luật.
3. Thu nhập hoạt động khác:
a) Thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định;
b) Các khoản nợ khó đòi đã xoá nay thu hồi được;
c) Thu khác theo quy định của pháp luật.
Chi phí
Dựa theo điều 21 nghị định 46 chính phủ , Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm:
1. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phát sinh trong kỳ:
a) Số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm:
- Bồi thường bảo hiểm gốc đối với bảo hiểm phi nhân thọ; trả tiền bảo hiểm đối với bảo hiểm nhân thọ;
- Chi bồi thường nhận tái bảo hiểm;
- Trích lập dự phòng nghiệp vụ;
- Chi hoa hồng bảo hiểm;
- Chi giám định tổn thất;
- Chi phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn;
- Chi xử lý hàng bồi thường 100%;
- Chi quản lý đại lý bảo hiểm;
- Chi đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất;
- Chi đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm;
- Các khoản chi, trích khác theo quy định của pháp luật.
b) Các khoản phải thu để giảm chi phát sinh trong kỳ bao gồm:
- Thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm;
- Thu đòi người thứ ba bồi hoàn;
- Thu hàng đã xử lý, bồi thường 100%.
2. Chi phí hoạt động tài chính:
a) Chi phí hoạt động đầu tư theo quy định tại Mục 3 Chương II Nghị định này;
b) Thu nhập đầu tư phải trả cho bên mua bảo hiểm theo cam kết tại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ;
c) Chi phí cho thuê tài sản;
d) Chi thủ tục phí ngân hàng, trả lãi tiền vay;
đ) Chi, trích khác theo quy định của pháp luật.
3. Chi phí hoạt động khác:
a) Chi nhượng bán, thanh lý tài sản cố định;
b) Chi phí cho việc thu hồi khoản nợ phải thu khó đòi đã xoá nay thu hồi được;
c) Chi, trích khác theo quy định của pháp luật.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm kết quả của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kết quả hoạt động đầu tư tài chính và kết quả hoạt động khác. Lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được xác định là khoản chênh lệch dương giữa tổng doanh thu trừ tổng chi phí.
2.3.Hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có hai nguồn quỹ: quỹ chủ sở hữu của doanh nghiệp và quỹ chủ hợp đồng bảo hiểm: “Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải tách riêng nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn phí bảo hiểm thu được của bên mua bảo hiểm”, theo điều 23 Nghị định 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ .
Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau: vốn điều lệ ban đầu, lợi nhuận không chia và tăng vốn bổ sung. Khi Bảo Việt được thành lập thì có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp với số vốn là 1,500 tỷ đồng. Bảo Việt nhân thọ là công ty thành viên của tập đoàn Bảo Việt, cho nên nguồn vốn của BVNT phụ thuộc rất nhiều vào tập đoàn BV.100% nguồn vốn kinh doanh của BVNT là do tập đoàn bảo việt rót xuống,chỉ một khi tập đoàn BV tăng nguồn vốn đầu tư thì BVNT mới có thể tăng nguồn vốn kinh doanh của mình. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu thông qua việc tăng vốn (bổ sung) vốn điều lệ. Tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó mà có cách thức huy động vốn phù hợp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn có nguồn vốn bổ sung từ các quỹ dự trữ bắt buộc theo luật định hoặc từ quỹ dự trữ tự nguyện của doanh nghiệp.
Nguồn phí bảo hiểm
Nguồn phí bảo hiểm được coi là một kênh huy động vốn vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và công ty bảo hiểm Bảo Việt Nhân Thọ nói riêng,tính đến năm 2010 số tiền doanh thu bảo hiểm đạt tới 4.023 tỉ đồng,so với năm 2009 là Bảo Việt 3.718 tỉ đồng,tương ứng là 8.2 %. Nếu xét trên toàn thị trường thì doanh thu này của Bảo Việt chỉ xếp sau Prudential, 5.374 tỉ đồng.Bên cạnh đó doanh thu khai thác mới trên toàn thị trường cũng không ngừng gia tăng,trên toàn thị trường đạt 3.743 tăng 28,5% so với năm 2009,trong đó Bảo Việt nhân thọ là 826 tỷ đồng. Bảo Việt Nhân thọ đã có trên 50 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thuộc các nhóm cơ bản như: bảo hiểm kết hợp tiết kiệm, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm đơn thuần rủi ro. Các sản phẩm này mang đầu đủ các tiêu chí “Bảo vệ, Tiết kiệm và Đầu tư” nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu và mong muốn của khách hàng,đồng thời là kênh huy động của Bảo Việt nhân thọ
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực tài chính của công ty bảo hiểm nhân thọ
3.1.Các yếu tố bên ngoài
Môi trường kinh tế
Lạm phát
Năm 2010 con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%.
Kết luận về ảnh hưởng của lạm phát:
Nhìn các chỉ số thống kê về lạm phát bên trên cho thấy lạm phát 2010 và 8 tháng đầu năm 2011 ở mức cao. Đó là nhân tố tác động khá lớn đến khách hàng khi ra quyết định mua bảo hiểm. Đa số người Việt Nam khi mua các sản phẩm bảo hiểm thường quan tâm đến số tiền mà họ nhận được khi đáo hạn họp đồng hơn là quan tâm đến rủi ro. Lạm phát cao sẽ làm giảm đi đáng kể giá trị thực của số tiền bảo hiểm mà khách hàng nhận được khi đáo hạn ( vì khách hàng không thể lường trước được tỷ lệ lạm phát trong tương lai). Vì thế, trong hoàn cảnh lạm phát ở mức cao, thì các họp đồng bảo hiểm ngắn hạn (5 năm) sẽ được quan tâm hơn các họp đồng dài hạn (10 năm, 20 năm). Doanh nghiệp bảo hiểm cũng gặp áp lực lớn trong việc tính toán và đưa ra các sản phẩm phù hợp, áp lực sử dụng hiệu quả số tiền thu được từ phí bảo hiểm của khách hàng.
Tăng trưởng GDP
Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội qua các năm
Tổng sản phẩm quốc nội của toàn nền kinh tế trong năm 2010 tăng gần 13 tỷ USD so với năm 2009, đưa GDP của Việt Nam đạt 104,6 tỷ USD.
Kết luận về ảnh hưởng của tăng trưởng GDP đến doanh nghiệp bảo hiểm
Tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với doanh thu của ngành bảo hiểm.
Thu nhập bình quân đầu người có được cải thiện thì đời sống của dân cư mới không ngừng được cải thiện. Người dân mới đã bắt đầu có tích luỹ và yên tâm sử dụng tiền tích luỹ này để đầu tư trở lại nền kinh tế trong đó bảo hiểm nhân thọ là một trong những kênh đầu tư Vốn được người dân lựa chọn. Đây chính là những yếu tố rất quan trọng và là cơ sở cho sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
GDP tuy cao nhưng nếu so với tỷ lệ lạm phát ở mức cao thì GDP thực lại thấp. Đời sống của người dân gặp nhiều khó khắn, tiền tích lũy không nhiều, họ sẽ khó tìm đến với các sản phẩm bảo hiểm è một yếu tố không thuận lợi cho các công ty bảo hiểm phát triển.
Lãi suất
Năm 2010, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Các ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá 14%/năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm.
Kết luận lãi suất ảnh hưởng đến doanh nghiệp bảo hiểm:
Với lãi suất cao trên thị trường sẽ ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn cũng như sử dụng nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả, đòi hỏi tỷ suất sinh lợi của các dự án đầu tư phải cao để bù đấp cho chí phí sử dụng vốn cao…
Điều kiện văn hóa xã hội và giáo dục
- Việt Nam mang một nét văn hóa Á Đông, ảnh hưởng lớn bởi Nho giáo, gia đình và tình cảm ruột thịt luôn được người Việt Nam hết sức coi trọng. Nét đặc trưng về văn hóa của người Việt Nam đã tạo nên một thị trường hết sức hấp dẫn cho bảo hiểm nhân thọ, bởi bảo hiểm nhân thọ là sự biểu lộ sâu sắc trách nhiệm và tình thương đối với người thân, gia đình và xã hội. Người Việt Nam còn có nét đặc trưng về tính cách đó là tiết kiệm, “lo xa” để đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân mình và những người thân trong tương lai. Và, bảo hiểm nhân thọ là một công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề này.
- Người Việt Nam có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo rất lâu đời. Giáo dục con em luôn được các bậc cha mẹ quan tâm hàng đầu và coi đó là yếu tố đầu tiên trong trách nhiệm nuôi dạy con em của mình. Cha mẹ luôn sẵn sàng hy sinh những quyền lợi cá nhân của mình để tạo cho con em những điều kiện học tập tốt nhất. Bảo hiểm nhân thọ là một giải pháp kinh tế rất phù hợp cho mục tiêu này, nhất là khi chi phí cho giáo dục đại học ngày càng tốn kém.
4)Mức độ cạnh tranh
Ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ sau:
_ Số lượng DNBH tăng nhanh qua các năm.
Năm 2006, cả nước mới có 37 DNBH nhưng đến tháng 06/2010, con số này đã lên tới 50 doanh nghiệp với đầy đủ các loại hình sở hữu (DNNN, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty liên doanh).
_ Quy mô thị trường bảo hiểm ngày càng lớn
_ Khâu giải quyết sau bán hàng đã được các doanh nghiệp quan tâm chú trọng hơn.
Các DNBH Việt Nam đã từng bước đa dạng hóa các sản phẩm cũng như kênh phân phối trên cơ sở xác định rõ thị trường mục tiêu của mình.
DNBH Việt Nam đã chủ động nâng cao năng lực để có thể cạnh tranh bình đẳng với nhau và với các DNBH nước
Kết luận: Mức độ cạnh tranh cao là một thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, việc canh tranh giúp cho các Công ty bảo hiểm của Việt Nam không ngừng cải thiện và phát triển, cung cấp các sản phẩm ngày càng tốt hơn cho khách hàng
2.2)Các yếu tố bên trong
1)Phát triển sản phẩm
Hiện nay, Bảo Việt Nhân Thọ có khoảng gần 50 sản phẩm cung cấp cho thị trường, về cơ bản đã đáp ứng nhu cầu của khách hàng tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên sản phẩm của Bảo Việt Nhân Thọ giới hạn ở những sản phẩm có tính truyền thống, chủ yếu là tiết kiệm và có tính bảo vệ, chưa có nhiều sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh khác, thậm chí có phần còn kém linh hoạt hơn. Các sản phẩm có tính đầu tư dài hạn, bảo vệ dài hạn, các sản phẩm liên kết đầu tư còn thiếu. Nhu cầu thị hiếu của người dân Việt Nam cũng dần thay đổi. Chính sự thiếu đa dạng trong sản phẩm, không năng động trong quá trình cung cấp các sản phẩm mới để tung ra thị trường dẫn đến việc tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt Nhân Thọ có xu hướng giảm dần, ảnh hưởng đến tình hình trích lập dự phòng nghiệp vụ hàng năm của Bảo Việt Nhân Thọ.
2) Kênh phân phối
Với chiến lược đa dạng hóa kênh phân phối, bên cạnh kênh phân phối trực tiếp tại 66 Công ty thành viên và trên 300 phòng bảo hiểm khu vực trên toàn quốc, Bảo Hiểm Bảo Việt tiếp tục mở rộng kênh phân phối qua ngân hàng - Bancassurance; đẩy mạnh kênh đại lý thông qua việc phát huy thế mạnh của Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt trong việc bán chéo sản phẩm giữa các đơn vị thành viên. Bảo Hiểm Bảo Việt cũng đã bước đầu phát triển kênh phân phối mới như: E - commerce và Telesales trong năm 2010, triển khai xây dựng tổng đài dịch vụ khách hàng - Call Center để cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, đáp ứng nhu cầu thực sự của khách hàng bằng các dịch vụ tốt nhất.
Kết luận
Tuy có đa dạng hóa kênh phân phối, nhưng kênh chủ yếu vẫn là phân phối qua đại lý ( Các công ty thành viên và các phòng giao dịch ). Tuy có mạng lưới đại lý phủ khắp toàn quốc nhưng nhìn chung hệ thống phân phối của Bảo Việt còn yếu, cần đầu tư và phát triển sâu hơn các kênh phân phối mới.
3) Nguồn nhân lực
_ Nguồn nhân lực đang là một trong những điểm yếu của ngành bảo hiểm Việt Nam.Thiếu đào tạo bài bản về nghiệp vụ, các cán bộ bảo hiểm của Việt Nam có thể vẫn xử lý được các tình huống thường ngày chứ chưa thể tự xử lý được các nghiệp vụ khó.
._ Bảo Việt xác định nhân lực chính là yếu tố then chốt, quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu, là khâu đột phá trong chiến lược phát triển của Tập đoàn Bảo Việt. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực phải đi trước một bước trong sự phát triển của Tập đoàn
4) Công nghệ thông tin
Bảo Việt Nhân Thọ phải vừa học vừa làm trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Bảo hiểm nhân thọ là lĩnh vực đòi hỏi rất lớn về việc xử lý dữ liệu thông tin. Việc xử lý dữ liệu thông tin không chính xác sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ từ khâu định phí sản phẩm, đánh giá rủi ro, thu phí bảo hiểm, chi trả tiền bảo hiểm, quản lý giám sát đội ngũ đại lý bảo hiểm, phát triển hệ thống phân phối mới... Chính vì thế thách thức đối với Bảo Việt Nhân Thọ chính là một chiến lược đúng đắn về công nghệ thông tin cho doanh nghiệp đảm bảo sự ổn định của hệ thống, đồng bộ, hiện đại, tiên tiến và hiệu quả.
Tăng quy mô vốn chủ sở hữu
Tăng vốn chủ sở hữu sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn, từ đó góp phần làm tăng khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Bảo Việt Nhân Thọ là mô hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Tập đoàn Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ. Do đó sẽ có các giải pháp tăng quy mô vốn chủ sở hữu như sau :
Trong ngắn hạn cách tăng vốn điều lệ khả thi nhất là từ nguồn vốn điều lệ của Tập đoàn Bảo Việt (nguồn vốn điều lệ ban đầu hoặc lợi nhuận giữ lại của Bảo Việt sẽ được bổ sung cho vốn điều lệ của Bảo Việt Nhân Thọ( gặp khó khăn trong việc thuyết phục các cổ đông vì khi đó mức chi trả cổ tức sẽ thấp hơn).
Trong dài hạn, Công ty nên hướng đến việc phát hành cổ phiếu ra công chúng (đây là giải pháp lâu dài,khó thực hiện nhưng sẽ tăng nhanh vốn điều lệ, giúp Bảo Việt Nhân Thọ không quá phụ thuộc vào công ty Mẹ, với nguồn vốn điều lệ có hạn và phải phân phối cho các công ty con khác).
Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao sẽ làm tăng doanh thu và giảm chi phí, kéo theo lợi nhuận tăng, làm tăng lợi nhuận giữ lại bổ sung vốn điều lệ. Hiệu quả của sản xuất kinh doanh cũng là một trong những lý do để công ty Mẹ rót vốn cho Bảo Việt Nhân Thọ. Một tác dụng khác của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là giúp cải thiện các tỷ số tài chính của Bảo Việt Nhân Thọ như (tỷ số về chỉ tiêu khả năng thanh toán, các tỷ số về nợ, tỷ số hoạt động, tỷ số lợi nhuận...), tỷ số tài chính lành mạnh sẽ làm tăng giá trị thị trường của Bảo Việt Nhân Thọ, thu hút được ngày càng nhiều khách hàng và nhà đầu tư, từ đó nâng cao năng lực tài chính của Bảo Việt.
Các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
Sản phẩm của Bảo Việt Nhân Thọ
Cần phải xem xét, rà soát các sản phẩm nào đang phù hợp và bán chạy trên thị trường tiếp tục phát huy các tiện ích của các sản phẩm đó, mang đến độ thỏa dụng cao nhất cho khách hàng, giữ thị phần trên thị trường. (các sản phẩm chủ yếu của Bảo Việt Nhân Thọ hiện nay vẫn mang tính chất là “bảo vệ và tiết kiệm”, ví dụ như: An Phát Hưng Gia, An Phát Trọn Đời, An Phát Gia Lộc).
Phát triển của khoa học kỹ thuật, sự ra đời của các công nghệ mới đã tạo nên những xu hướng mới trong thói quen, nhu cầu tiêu dùng của người dân. Người ta ngày càng thích các sản phẩm mới, với những đòi hỏi về tiêu chuẩn chất lượng cao hơn. Do đó việc nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu khách hàng, không ngừng đưa ra các sản phẩm mới tiện dụng hơn, phù hợp hơn với cuộc sống hiện tại là điều cấp thiết đối với Bảo Việt Nhân Thọ. Các sản phẩm mới của Bảo Việt Nhân Thọ đã phần nào đáp ứng được xu hướng chung đó khi kết hợp được ba yếu tố « bảo vệ+tiết kiệm+đầu tư » ( ví dụ như : An Sinh Giáo Dục, An Sinh Hiếu Học, An Sinh Thành Đạt, An Gia Phát Lộc, An Khang Thịnh Vượng, và các sản phẩm mới khác như: Bảo hiểm trợ cấp phẫu thuật & điều trị ngoại khoa và Bảo hiểm trợ cấp nằm viện …cần được phát triển hơn nữa.
Triển khai nền tảng Công Nghệ Thông Tin hiện đại, áp dụng từng bước, phù hợp với mặt bằng phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam. Công nghệ thông tin là lĩnh vực phát triển nhanh, cần liên tục cập nhật những công nghệ mới nhất nên chí phí sẽ rất cao (ví dụ : Năm 2003, Bảo Việt dành khoảng 6 triệu USD, tương đương 70% lợi nhuận của công ty năm 2002, đầu tư cho CNTT). Một giải pháp khả thi, để thúc đẩy mạnh mẽ năng lực cạnh tranh của Bảo Việt Nhân Thọ là họp tác chiến lược với công ty chuyên về lĩnh vực CNTT, phát hành cổ phần với sự tham gia của các công ty này.
Thúc đẩy phát triển mạnh các kênh phân phối mới, đặc biệt là Bancassurance, phù hợp với xu hướng họp nhất ngày càng mạnh mẽ giữa ngân hàng và bảo hiểm ( Ký kết thỏa thuận làm đối tác chiến lược với các ngân hàng. Cần phải thiết kế thù lào cho các nhân viên và các lãnh đạo ngân hàng phù hợp, cho Ngân hàng thấy những lợi ích mang đến cho Ngân hàng khi hợp tác.Bancassurance còn mới mẻ, do đó phải quảng bá dịch vụ này, thuyết phục khách hàng bằng cách cho khách hàng thấy những lợi ích khi mua bảo hiểm qua ngân hàng. Tiếp cận với các khách hàng của ngân hàng bằng các sản phẩm phù hợp như: Credit Life, Depositor’s Insurance, bảo hiểm nhà tư nhân…Phối hợp với Ngân Hàng mang đến các dịch vụ hậu mãi tốt cho khách hàng như: sử dụng một vài dịch vụ nào đó của ngân hàng miễn phí, ưu đãi về lãi suất).
Cần phải chú trọng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngủ nhân viên. Phải có quy trình tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực một cách bài bản, đầu tư mạnh cho nguồn nhân lực cấp cao (liên kết đào tạo kiến thức chuyên môn với các trường đại học, các tổ chức uy tín trong việc cấp các chứng chỉ trong lĩnh vực Bảo Hiểm ở các nước phát triển).
Marketing hiệu quả hơn nữa cho thương hiệu Bảo Việt Nhân Thọ
Phải tích cực hành động theo phương châm ban đầu mà Bảo Việt Nhân Thọ đã đề ra "Đảm bảo lợi ích người Việt" để góp phần xây dựng một thương hiệu mang cá tính Việt và cần phải cho thấy được sự chuyên nghiêp, chất lượng của thương hiệu.
Cung cấp các sản phẩm ngày càng đa dạng qua nhiều kênh phân phối ( như đã nêu ở phần « a) » )
Hoạt động quan hệ công chúng (public relations) thông qua việc tổ chức các sự kiện, tổ chức các hoạt động từ thiện, tài trợ cho các hoạt động như thể thao, ca nhạc, giáo dục, an toàn giao thông, truyền hình,... nhằm quảng bá hình ảnh của Bảo Việt Nhân Thọ tới công chúng.
Thực hiện tốt việc đánh giá rủi ro
Nếu như 2 giải pháp trên là để tăng doanh thu của Bảo Việt thì giải pháp thứ 3 này là để giảm chí phí.
Nâng cao chất lượng đánh giá rủi ro của các nhân viên và đại lý trong quá trình thẩm định ban đầu khi tiếp xúc với khách hàng tiềm năng (Biệt đội ANPHA, chỉ số Red flags).
Tăng cường kết hợp với các cơ sở khám chữa bệnh y tế có chất lượng nhằm đảm bảo công tác đánh giá rủi ro được chính xác và hiệu quả.
Từng bước đưa công nghệ thông tin vào trong việc quản lý hồ sơ khách hàng, có các chuẩn để đánh giá từng khách hàng và có các mức độ rủi ro cụ thể (tham kháo hệ thống thông tin của CIC bên ngân hàng)
Nâng cao hiệu quả của các hoạt động đầu tư
Đẩy mạnh hợp tác với 2 công ty con của tập đoàn Bảo Việt là công ty chứng khoán Bảo Việt và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt trong việc đầu tư chứng khoán, chú trọng nghiên cứu về mảng sản phẩm phái sinh (sắp có hẵn một thị trường phái sinh, dự kiến trong 5 đến 10 nắm tới).
Thực hiện hiệu quả việc quản lý ngân quỹ
Việc thu phí bảo hiểm của Bảo Việt Nhân Thọ hiện nay chủ yếu qua các đại lý trên khắp cả nước dưới hình thức thu bằng tiền mặt. Một lượng tiền tiền mặt lớn như vậy nếu không được tập trung sẽ dẫn đến sử dụng vốn thiếu hiệu quả và gây khó khăn trong việc quản lý. Các giải pháp để thực hiện quản lý ngân quỹ hiệu quả.
Tập trung lượng phí tiền mặt
Nếu không phải là họp đồng bán bảo hiểm qua ngân hàng thì một giải pháp được đề ra là mỗi đại lý phải có một tài khoản qua một ngân hàng (thống nhất cùng một ngân hàng cho tất cả các đại lý, có thể là ngân hàng Bảo Việt). Các đại lý, hàng ngày, sẽ chuyển tiền phí bảo hiểm thu được vào một tài khoản chung của Bảo Việt Nhân Thọ chuyển về thu phí bảo hiểm tại ngân hàng. Công nghệ thông tin một lần nữa được nhắc đến, về lâu dài, Bảo Việt Nhân Thọ cần một hệ thống phần mềm liên kết với ngân hàng để tự động hạch toán quy trình trên. Nghĩa là khi đại lý thu tiền, tiền sẽ ngay lập tức được nhập vào tài khoản của Bảo Việt Nhân Thọ tại ngân hàng.
Cần phải trích đủ các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện theo quy định của pháp luật.
Thu phí đủ, kịp thời đúng hạn, hạn chế thấp nhất lượng phí nộp quá hạn. Bảo Việt Nhân Thọ cần xây dựng chương trình thi đua khen thưởng linh hoạt đối với đội ngũ đại lý chuyên thu phí nhằm khuyến khích năng suất làm việc của họ.
Cần giữ vừng hoặc nâng cao mối quan hệ tỷ lệ giữa tốc độ tăng trưởng doanh thu và tốc độ tăng trưởng chi quản lý sao cho tốc độ tăng trưởng doanh thu luôn lớn hơn tốc độ tăng trưởng chi quản lý nhằm đảm bảo khả năng cân đối ngân quỹ của Bảo Việt Nhân Thọ.
Hiện nay, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt Nhân Thọ có số tiền bảo hiểm tương đối thấp, nằm trong hạn mức chấp nhận rủi ro của Bảo Việt Nhân Thọ. Bảo Việt Nhân Thọ cần nghiên cứu thực hiện các phương án tái bảo hiểm hợp lý trong dài hạn khi thu nhập người dân ngày càng cao và hợp đồng bảo hiểm có số tiền lớn có xu hướng xuất hiện nhiều nhằm đảm bảo an toàn cho quỹ dự trữ bắt buộc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Năng lực tài chính của công ty bảo hiểm nhân thọ.doc