MỤC LỤC
Lời Nói Đầu
Nội Dung
Chương I: Những vấn đề lý luận về Ngân sách Nhà nước 1
Khái niệm Ngân sách Nhà nước 2
1.2. Bản chất của Ngân sách Nhà nước Việt Nam 2
1.3. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của các quốc gia 3
Chương II: Các hoạt động chính của Ngân sách Nhà nước 4
2.1. Thu Ngân sách Nhà nước 4
2.2. Chi Ngân sách Nhà nước 8
2.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước 10
2.4. Thâm hụt Ngân sách Nhà nước 11
2.5. Năm Ngân sách và chu trình quản lý Ngân sách Nhà nước 11
Chương III. Thực trạng hệ thống Ngân sách Nhà nước Việt Nam hiện nay 12
3.1. Nguồn thu của Ngân sách Nhà nước 12
3.2. Các khoản chi Ngân sách Nhà nước 13
3.3.Thâm hụt Ngân sách và vấn đề gia tăng nợ Chính phủ 15
3.4. Bội chi Ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam 16
Chương IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân sách Nhà nước Việt Nam hiện nay 17
4.1. Giải pháp tài chính – Ngân sách trong giai đoạn 2006 – 2010 17
4.2. Tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách Nhà nước 20
4.3. Xây dựng dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2010 21
4.4. Giám sát hoạt động của Ngân sách Nhà nước 21
4.5. Dự toán Ngân sách Nhà nước và phương thức phân bổ Ngân sách trung ương năm 2010 27
Kết Luận 29
Lời cảm ơn! 30
Tài liệu tham khảo 31
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2672 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngân sách nhà nước và hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách trong cân đối không đáp ứng đủ, Nhà nước sử dụng biện pháp vay nợ hoặc phát hành tiền để bù đắp. Trong điều kiện hiện nay việc phát hành tiền bị hạn chế nhiều. Do đó. nếu nguồn vay được sử dụng có hiệu quả thì tổng sản phẩm quốc nội tăng đáng kể.Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt chức năng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển kinh tế. đồng thời để có thể kiểm soát được các mặt hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước cần khống chế tỷ lệ vay nợ bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức nhất định nào đó. chẳng hạn mức khống chế hiện nay là dưới 3,5% GDP.
Toàn bộ khoản thu ngân sách nói trên đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội hay sự tăng trưởng kinh tế một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên. việc huy động vốn vào ngân sách nhà nước chỉ nên huy động ở mức vừa phải, hợp lý để Nhà nước vẫn thực hiện được chức năng quản lý kinh tế xã hội. Đồng thời còn thực hiện vai trò động viên các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển sản xuất, đưa đất nước phát triển một cách vững chắc nhất.
2.2. Chi Ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Thực hiện chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tại chính cho các nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng, đó là:
Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt chính trị và xã hội, ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi phí ở tầm vĩ mô.
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần có sự phân tích, tính toán trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách trong từng thời kỳ người ta có thể phân chia các khoản chi ngân sách theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Theo chức năng nhiệm vụ của nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước gồm:
Chi kiến thiết kinh tế.
Chi văn hoá – xã hội.
Chi quản lý hành chính.
Chi an ninh - quốc phòng.
Các khoản chi khác.
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia các nội dung sau đây:
Chi thường xuyên về:
Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác;
Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
Hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam;
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam;
Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
Các chương trình quốc gia;
Hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của pháp luật;
Trả lãi tiền do Nhà nước vay;
Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài;
Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Chi đầu tư phát triển:
Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn;
Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
Chi cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, Dự án phát triển kinh tế;
Dự trữ nhà nước;
Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.
Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách nhà nước theo các ngành kinh tế, theo tính chất của quá trình tái sản xuất xã hội.
2.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước. Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức theo hai cấp: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, trong đó ngân sách địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành phố (hay tỉnh) , ngân sách quận (huyện) , ngân sách xã (phường).
Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung và dân chủ, thể hiện những đặc điểm sau đây:
Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành một thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định mức chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.
Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi phối của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo Cân đối của ngân sách cấp mình.
Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi phối ngân sách cấp mình.
Đảm bảo tính phủ hợp giữa cấp Ngân sách với cấp chính quyền Nhà nước .
Căn cứ vào Luật Ngân sách nhà nước quy định, Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (ngân sách địa phương).
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh);
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện);
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
2.4. Thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
2.5. Năm ngân sách và chu trình quản lý ngân sách nhà nước
Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, tài khoá), là giai đoạn mà trong đó dự toán thu – chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Hiện nay ở tất cả các nước trên thế giới, thời gian cho một năm ngân sách bằng với thời gian của một năm dương lịch (bằng với 12 tháng). Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi nước khác nhau nên thời điểm bắt đầu và kết thúc của một năm ngân sách được tính từ ngày mùng 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
Trong chu trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là khâu khởi đầu, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là dự toán các khoản thu chi của ngân sách trong một năm ngân sách. Việc dự toán thu chi đúng đắn, có cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thực tiễn ngân sách nói riêng.
Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiện ngân sách được triển khai. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu Ngân sách nhà nước và bố trí cấp ngân sách nhà nước cho các nhu cầu đã được phê chuẩn. Việc chấp hành ngân sách nhà nước thuộc về tất cả các pháp nhân và thể nhân dưới sự điều hành của chính phủ. Trong đó, Bộ Tài chính có vai trò quan trọng.
Mục tiêu đặt ra trong việc tổ chức chấp hành dự toán thu là không ngừng bồi dưỡng, tăng nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên mà Quốc hội đã phê chuẩn, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đã hoạch định.
Đối với tổ chức chấp hành dự toán chi, mục tiêu đặt ra là đảm bảo đầy đủ và kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Khâu cuối cùng trong chu trình trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước là khâu quyết toán ngân sách nhà nước. Thông qua quyết toán ngân sách sẽ thấy được kết quả toàn diện về hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước, hoạt động Ngân sách nhà nước với tư cách là công cụ vĩ mô của nhà nước trong thời gian qua, từ đó rút knih nghiệm cần thiết trong điều hành ngân sách nhà nước. Do đó, yêu cầu của quyết toán Ngân sách nhà nước phải đảm bảo chính xác, tính trung thực và kịp thời.
Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước;
Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để bảo đảm thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước;
Phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, trong trường hợp có trượt giá, chỉ xem xét điều chỉnh tăng số bổ sung cho ngân sách cấp dưới theo một phần trượt giá;
Kết thúc mỗi kỳ ổn định, căn cứ khả năng thu và yêu cầu chi, Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện việc điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp và mức bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
Chương 3: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Nguồn thu của ngân sách nhà nước
Năm 2009, mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam vẫn có chuyển biến tích cực. Việc thực hiện nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2009 được đánh giá rất khả quan, dù điều kiện hoạt động sản xuất - kinh doanh, xuất - nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu song việc thu Ngân sách nhà nước năm 2009 cơ bản đạt dự toán. Trong đó thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (chưa tính hoàn thuế giá trị giá tăng) và thu viện trợ đạt và vượt dự toán; riêng thu từ dầu thô giảm so với dự toán do giá dầu giảm. Tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng trưởng 3,1%, quý II là 4,5%, quý III đạt 5,8% và quý IV có khả năng đạt 6,8%).
Theo báo cáo của Bộ Tài chính thì ước thu Ngân sách nhà nước cả năm 2009 đạt 390.650 tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (vượt 750 tỷ đồng), đạt tỷ lệ động viên 23,3% GDP. Tổng chi Ngân sách nhà nước năm 2009 ước đạt 533.005 tỷ đồng, tăng 8,5% (41.705 tỷ đồng) so với dự toán. Tổng thu Ngân sách nhà nuớc trong 7 tháng đầu năm 2009 ước đạt 222.120 tỷ đồng, đạt 57,0%, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, thu nội địa ước đạt 59,1% dự toán, giảm 2,8% so với cùng kỳ, thu từ dầu thô ước đạt 48% dự toán, giảm 37,2% so với cùng kỳ, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 57,5% dự toán, giảm 5,7% so với cùng kỳ.
Xét về tiến độ thực hiện dự toán, số thu 7 tháng đầu năm 2009 tuy thấp hơn cùng kỳ năm 2008 (đạt 73,1%) song vẫn ở mức khá hơn so với những năm gần đây (năm 2006 đạt 56,5%; năm 2007 đạt 55,0%). Đây là kết quả tích cực trong điều kiện kinh tế suy giảm, phát triển không thuận lợi, phải thực hiện nhiều ưu đãi về chính sách thuế để kích thích kinh tế, ngăn chặn suy giảm và duy trì tăng trưởng knih tế, đồng thời thể hiện quyết tâm và nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp và các cơ quan chức năng liên quan.
Riêng về thu dầu thô, giá dầu thô tháng 7 trên thị trường thế giới giảm nhẹ so với tháng 6, bình quân chỉ đạt 64USD/thùng. Do có độ trễ trong thnah toán nên giá dầu tính thu Ngân sách nhà nước tháng 7 ước đạt 67 USD/thùng, nâng mức giá bình quân 7 tháng đạt 50USD/thùng. Số lượng đầu thanh toán 7 tháng ước đạt 9,4 triệu tấn, 59,2% kế hoạch năm.
Đến hết thanhg 7 năm 2009, theo báo cáo đã có 29 trên 63 địa phương thu đạt trên 65% dự toán (Hậu Giang, Hoà Bình, Đồng Tháp, Kon Tum). Tuy nhiên, cũng còn một số địa phương thu đạt dưới 50% dự toán (Quảng Ngãi, Cà Mau, Vĩnh Phúc, Bình Phước, Bình Thuận).
Ước cả năm 2009, thu ngân sách khoảng 422.000 tỷ đồng vượt 8,2% so với dự toán.
3.2. Các khoản chi Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước đã tập trung nguồn lực để tăng chi đầu tư phát triển (22.700 tỷ đồng), tăng kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh (26.705 tỷ đồng). Góp phần quan trọng ngăn chặn suy giảm kinh tế, tạo đà phục hồi tăng trưởng trong năm 2010.
Tổng chi Ngân sách nhà nước thực hiện tháng 7 ước đạt 39.340 tỷ đồng, luỹ kế chi 7 tháng đạt 264.820 tỷ đồng, bằng 53,9% dự toán, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó: chi đầu tư phát triển: thực hiện tháng 7 ước đạt 8.190 tỷ đồng, luỹ kế chi 7 tháng đạt 61.675 tỷ đồng, bằng 54,7% dự toán, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2008; riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt 53,7% dự toán, tăng 10% so với cùng năm 2008; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước (bao gồm cả chi cải cách tiền lương): thực hiện tháng 7 ước đạt 26.840. tỷ đồng, luỹ kế chi 7 tháng đạt 169.045 tỷ đồng, bằng 55,3% dự toán năm, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2008. Ngân sách nhà nước đảm bảo chi kịp thời, đầy đủ các khoản chi theo tiến độ thực hiện và dự toán được duyệt đáp ứng các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an nih và các nhiệm vụ mới phát sinh, như chi chống hạn, cứu đói và khắc phục hậu quả hạn hán, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội...
Chi Ngân sách nhà nước đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ chi theo tiến độ và dự toán được duyệt tập trung nguồn nhân lực để tăng chi đầu tư phát triển, thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Số bội chi Ngân sách nhà nước năm 2009 là 115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP
Năm nay, Việt Nam giữ được mức tăng trưởng GDP hơn 5%, có thể đạt 5,2-5,3%. Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và toàn dân ngăn chặn đà suy giảm kinh tế đã thành công. Kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội được bảo đảm...Do đó, nhiệm vụ được đặt ra đối với ngành tài chính trong năm 2010 là cùng với các bộ, ngành, địa phương trong cả nước là tập trung phục hồi đà tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Chi ngân sách ước cả năm 566.000 tỷ đồng. Mức bội chi ngân sách có thể xấp xỉ 8% GDP.
Công tác đầu tư phát triển và giải ngân vốn đầu tư xây dựng khá chậm, tính đến hết tháng 7 năm 2009, các Bộ, ngành đã phân bổ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung thuộc ngân sách Trung ương 20.431,3 tỷ đồng (Chính phủ giao kế hoạch 21.397,6 tỷ đồng). Vốn đầu tư từ nguòn trái phiếu Chính phủ, đến hết tháng 7 năm 2009 mới giải ngân khoảng 10.300 tỷ đồng, bằng 29% kế hoạch năm 2009, trong đó, các dự án giao thông, thuỷ lợi giải ngân ước đạt 25,0% kế hoạch, các dự án giáo dục giải ngân ước đạt 43,0% kế hoạch.
Trong 7 tháng đầu năm, Ngân sách nhà nước đã vay 35.200 tỷ đồng (vay trong nước 31.000 tỷ đồng và vay nước ngoài 4.200 tỷ đồng) để bù đắp bội chi Ngân sách nhà nước theo dự toán đã được Quốc hội phê chuẩn.
Toàn bộ hệ thống kho bác nhà nước đã thực hiện kiểm soát chi thường xuyên 131.000 tỷ đồng, đã phát hiện 24.000 khoản chi của 10.800 lượt đơn vị chưa chấp hành đúng thủ tục chế độ quy định đã yêu cầu đơn vị bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục cần thiết. Đã từ chối với số tiền ước khoảng 150 tỷ đồng chi không đúng chế độ quy định.
Tuy nhiên, trong công tác điều hành, thực hiện dự toán Ngân sách nhà nước trên thực tế vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế. Đến thời điểm hiện nay, vẫn còn một số bộ, ngành, địa phương chưa hoàn thành việc phân khai kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung năm 2009 và tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 thấp. Tình trạng lãng phí trong một số lĩnh vực như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai vẫn chậm được khắc phục (thậm chí có trường hợp do động cơ tham nhũng dẫn đến các vi phạm về quản lý kéo theo hậu quả lãng phí). Chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” ở một số nơi vẫn còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất, do đó chưa mang lại hiệu quả cao.
Kết luận tại Hội nghị trực tuyến tống kết công tác năm 2009 và triển khai nhiệm vụ năm 2010, do Bộ Tài Chính tổ chức ngày 30/11, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh đã đặt ra mục tiêu trong năm 2010 của ngành tài chính là thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch 2010, phục hồi nền kinh cao hơn năm 2009, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn tái lạm phát ở mức cao, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010.
Bên cạnh đó, trong năm 2010 công việc mà ngành tài chính phải phấn đấu để đạt được là đấu tranh hoàn thành vượt mức chỉ tiêu Quốc hội giao; huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, huy động vốn trái phiếu chính phủ; tiếp tục hỗ trợ lãi suất cho các đối tượng ở nông thôn, quan tâm kiểm soát chặt chi tiêu công, tăng cường công tác kiểm tra, đảm bảo ngân sách, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, chủ động rà soát các công ty nhà nước chuyển đổi sang công ty cổ phần.
3.3. Thâm hụt ngân sách và vấn đề gia tăng nợ Chính phủ
Năm 2009, tổng thu ngân sách dù vượt kế hoạch đề ra khi đạt trên 390.000 tỷ đồng nhưng tổng chi ngân sách nhà nước là 582.200 tỷ đồng, tăng 76% so với năm trước đó. Cộng cả các nguồn thu khác thì thâm hụt ngân sách năm 2009 vẫn đạt 6,9%. Dù thấp hơn mức cao nhất của dự báo trước đó, nhưng vấn đề nợ Chính phủ sẽ tiếp tục nan giải trong năm 2010. Để bù đắp khoản thiếu hụt này, giải pháp trước mắt là việc tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ. Sau nhiều phiên không thành công trong năm 2009 để phát hành thành công trái phiếu chính phủ trong năm 2010 thì phải tăng lãi suất tiền nhằm tạo hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Với chỉ tiêu tăng tổng GDP năm 2010 là 6,5% kết hợp với vấn đề tăng chi cho an ninh xã hội và chi bù dắp mức lương tối thiểu được nâng từ 650.000 lên 730.000 nghìn đồng, chắc chắn gánh nặng chi tiêu công sẽ gây áp lực lên ngân sách. Việc hạ giá Việt Nam đồng cũng sẽ làm gia tăng nợ Chính phủ và nợ doanh nghiệp từ nguồn vay ngoại tệ từ nước ngoài.
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước (2001 - 2007) - Nguồn: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
3.4. Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam
Bội chi ngân sách xảy ra khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu ngân sách huy động được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số thu ngân sách thì có bội thu ngân sách (hay thặng dư ngân sách). Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước... Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Việc xử lý bội chi NSNN là một nội dung quan trọng của chinh sách tài khoá của Nhà nước, có tác động đến kinh tế vĩ mô...
Chính những yếu kém trong ngân sách (thu NSNN không đủ chi và bù đắp thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát... Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư lại tăng lên.
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Giải pháp tài chính - ngân sách trong giai đoạn 2006-2010
Việt Nam đã xác định cần sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển vào trước năm 2010, tạo đà phát triển để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là Việt Nam cần phải xây dựng được một nền tài chính quốc gia đủ mạnh để điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh về bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, điều này cũng đồng nghĩa với chính sách tài chính - ngân sách cần được đổi mới, phù hợp hơn với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; có khả năng động viên tối đa, nâng cao hiệu quả quản lý, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn nội lực và ngoại lực.
Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 như đã nêu trên, thì tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước cần ở khoảng 21-22% GDP; kiểm soát và duy trì tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước ở mức không quá 5% GDP; kiểm soát nợ Chính phủ, nợ ngoài nước của quốc gia đều ở mức không quá 50% GDP; hình thành đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn và dịch vụ tài chính, thị trường bất động sản; hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính.
Để một nền tài chính quốc gia đủ mạnh đạt được mục tiêu trên, trong khuôn khổ Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội, đại diện Bộ Tài chính cho biết một số nhiệm vụ và giải pháp tài chính - ngân sách trong giai đoạn 2006 – 2010, đó là:
Về chính sách tài khoá, tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước, trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn với việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách hiện hành để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp.
Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát triển con người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền vững, xoá đói, giảm nghèo.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất, vai trò chủ đạo và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm và tính chủ động trong quản lý ngân sách của các bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách.
Về cải cách hệ thống chính sách thuế và hải quan, triển khai có hiệu quả chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính sách thuế đồng bộ, công bằng, hiệu quả, minh bạch và công khai nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, bảo đảm nguồn lực tài chính lâu dài và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân; sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng nhằm bảo đảm công bằng và đơn giản, hoàn thiện phương pháp tính thuế, khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế; sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế và không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước, hàng nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm giảm mức thuế suất, diện miễn giảm và hướng tới thống nhất mức ưu đãi giữa các thành phần kinh tế; hoàn thiện chính sách thuế về sử dụng đất, thuế tài nguyên như ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường, Luật Thuế tài sản. Xây dựng và triển khai Luật Quản lý thuế; áp dụng rộng rãi cơ chế tự khai, tự nộp thuế trong quản lý thuế kết hợp với hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hiện đại hoá hệ thống hải quan; chuẩn bị các điều kiện cần thiết về hệ thống pháp lý để nhanh chóng gia nhập Nghị định thư sửa đổi Công ước Kyoto của Hải quan Thế giới.
Về thị trường vốn, tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài hạn, an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước hội nhập với thị trường vốn khu vực và thế giới. Đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính phủ làm chuẩn mực cho các công cụ nợ; khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phần, trái phiếu; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là gắn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và tạo tiền đề phát triển thị trường chứng khoán. Hoàn thiện thể chế hoạt động của thị trường chứng khoán, phát triển hệ thống các định chế tài chính trung gian, mở rộng thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức (qua Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán) và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung.
Tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; thực hiện giám sát và cưỡng chế thực thi nghiêm ngặt; áp dụng nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, công ty đại chúng. Từng bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn quốc tế.
Về cải cách doanh nghiệp, xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, bảo đảm bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính theo hướng đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp gắn liền với việc tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả các tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Đổi mới căn bản chính sách, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh với chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp; xoá bỏ cơ chế chủ quản; áp dụng cơ chế nhà nước đặt hàng việc sản xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công ích. Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước từng bước đảm nhiệm vai trò quản lý đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và chức năng đầu tư tài chính. Thực hiện cơ chế tín dụng đầu tư Nhà nước thông qua Ngân hàng phát triển Việt Nam; tạo cơ chế chính sách để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với thị trường vốn (như Quỹ Bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa…).
Về quản lý tài sản công, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tài sản công theo hướng tạo ra cơ sở pháp lý đẩy đủ và đồng bộ để quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả nguồn lực từ đất đai, tài nguyên và công sản. Kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư, mua sắm và sử dụng tài sản công đi đôi với việc tăng cường phân cấp quản lý tài sản, gắn quyền lợi với trách nhiệm, gắn kết quả với chi phí. Từng bước phát triển thị trường nhà đất lành mạnh, đặc biệt là thể chế chính sách đối với hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhằm phát huy những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Về hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về tài chính, xác định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hoá từng bước luồng vốn trong điều kiện hội nhập, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác; hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài, quản lý nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA; xây dựng hệ thống giám sát nợ, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các dự án, chương trình sử dụng vốn vay nước ngoài; tổ chức việc thanh toán nợ đúng hạn. Hoàn thiện bộ máy, tăng cường nhân lực trong quản lý nợ nước ngoài. Hoàn thiện khung pháp lý về tài chính theo chuẩn mực quốc tế để hội nhập thành công; điều chỉnh và xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp với các cam kết song phương và đa phương, chủ động phát triển các định chế tài chính, ngân hàng, thương mại có trọng điểm, có thời gian và lộ trình rõ ràng, minh bạch.
Tăng cường công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính, xây dựng và tăng cường công tác kế toán, kiểm toán, thanh tra giám sát, công bố thông tin đối với các hoạt động thu chi tài chính, ngân sách. Thực hiện chế độ kiểm toán và công bố thông tin bắt buộc đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách và các công ty nhà nước. Phân định trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa cơ quan kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm soát nội bộ, mở rộng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập đối với các đơn vị thu, chi tài chính, ngân sách. Tổ chức triển khai có hiệu quả việc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng. Nâng cao năng lực giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và nhân dân. Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan đơn vị trong việc sử dụng ngân sách; áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính - ngân sách.
Về cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại hoá quản lý tài chính - ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc; tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công tác tài chính theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế
4.2. Tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách nhà nước
Năm 2009, Nhà nước tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách nhà nước, chống thất thu, gian lận thuế, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất dự toán thu Ngân sách nhà nước đã được Quốc hội quyết định. Thực hiện tốt các nhiệm vụ chi Ngân sách nhà nước, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, đặc biệt là kiểm soát các khoản chi đầu tư,chi kích cầu đầu tư,kích cầu tiêu dùng từ Ngân sách nhà nước.
Duy trì và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thu và các lực lượng chức năng kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thu vào ngân sách nhà nước. Có biện pháp tích cực chống thất thu thuế, phí và lệ phí; chống buôn lậu và gian lận thương mại, thực hiện thu hồi các khoản nợ, đọng thuế. Xác định rõ trách nhiệm của những người, những tổ chức để thất thu, để nợ đọng và chiếm dụng tiền thuế của nhà nước. Có biện pháp đôn đốc và hỗ trợ các địa phương chủ động phấn đấu.
4.3. Xây dựng dự toán Ngân sách nhà nước năm 2010
Nhà nước đảm bảo quán triệt tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp về thúc đẩy quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế bền vững, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
Dự toán thu Ngân sách nhà nuớc phải xây dựng tích cực, vững chắc, có tính khả thi cao với mức động viên phấn đấu đạt trên 21% GDP, trong đó, thu thuế và phí đạt trên 20% GDP, có tính đến các yếu tố tác động do thực hiện miễn, giảm, giãn thuế năm 2009; trong đó, dự toán thu nội địa ( không kể thu từ dầu thô, thu tiền sử dụng đất ) tăng bình quân tối thiểu 16 -18% so với đánh giá ước thực hiện năm 2009 ( đã loại trừ các yếu tố tác động do thực hiện miễn, giảm, giãn thuế năm 2009 ); dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng tối thiểu 5-7% so với đánh giá ước thực hiện năm 2009 (đã loại trừ các yếu tố tác động do thừc hiện miễn, giảm, giãn thuế trong năm 2009 ). Đồng thời phải có các biện pháp và lộ trình cụ thể để xử lý các khoản nợ đọng thuế; chống thất thu, trốn lậu thuế và gian lận thương mại; tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm.
Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại các khoản chi NS ( kể cả chi thương xuyên và đầu tư phát triển ) để triệt để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả chi NS, đam bảo nguồn lực đẻ triển khai thực hiện dự án, chương trình chính sách an sinh xã hội, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững, giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Chủ động dự kiến các nhu cầu kinh phí thực hiện chính sách,chế độ nhiệm vụ mới; bảo đảm các chính sách, chế độ, dự kiến ban hành thực hiện từ năm 2010 phải được cân đối đủ nguồn lực, han chế không để xảy ra tình trạng thiếu kinh phí thực hiện các nhiêm vụ thường xuyên, các chính sách chế độ đã ban hành và các nhiệm vụ mới đã được cấp có thẩm quyền nhất định.
4.4. Giám sát hoạt động của Ngân sách nhà nước.
Giám sát Ngân sách nhà nước (NSNN) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp ở mọi quốc gia. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan công quyền kể từ khi xuất hiện NSNN và là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả hoạt động của NSNN.
Một số công cụ mà cơ quan quyền lực nhà nước có thể sử dụng để giám sát NSNN, bao gồm: pháp luật, mục lục NSNN, kế hoạch hóa, kiểm toán, thông tin, chuyên gia.
Công cụ pháp luật.
Đây là công cụ có sớm nhất và chung nhất để phục vụ cho quản lý nhà nước ở mọi quốc gia. Nó luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Theo xu hướng chung, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, năng lực quản lý của nhà nước cũng ngày càng được nâng cao đã làm cho hệ thống pháp luật- với tư cách là công cụ phục vụ cho quản lý Nhà nước, cũng ngày càng được đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn. Pháp luật đã luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong số các công cụ mà Nhà nước phải sử dụng để quản lý nền kinh tế. BỞi lẽ, pháp luật có tác dụng điều chỉnh hành vi cho mọi tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các hoạt động của xã hội, nó còn là thước đo chung mức độ chấp hành pháp luật của mọi chủ thể.
Muốn thực hiện quyền giám sát NSNN, đòi hỏi các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp phải hiểu rõ các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thu, chi NSNN từ Luật NSNN, Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Thu nhập DN…, các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật này, hiểu rõ các sắc luật điều chỉnh vào các hoạt động quản lý tài chính- tiền tệ ngoài phạm vi hoạt động của NSNN và các sắc luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế khác.
Nếu hiểu không tường tận các sắc luật quản lý NSNN, thì sẽ gây ra xung đột ngay trong hệ thống chính sách và làm méo mó quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thực tế điều hành NSNN của nước ta những tháng đầu năm 2008 đã phản ánh rõ nét hậu quả của sự thiên lệch này.
Mục lục NSNN
Là bảng phân loại thu, chi NSNN theo những tiêu thức khoa học giúp cho quá trình hạch toán kiểm toán và thống kê NSNN được nhanh, chính xác nên Mục lục NSNN đã trở thành công cụ quan trọng trong suốt quá trình quản lý NSNN của mỗi quốc gia.
Qua số liệu thống kê ở Mục lục NSNN có thể thấy được trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến thu, chi NSNN thông qua mã số “Chương” của Mục lục NSNN. Từ đó cơ quan quyền lực nhà nước có thể sử dụng đòn bẩy NSNN mà khuyến khích hay bắt buộc các tổ chức, cá nhân tiếp tục phải làm tốt hơn phận sự của mình.
Thông qua sự phân loại cơ cấu thu, chi NSNN theo các chỉ tiêu “Loại, Khoản” của Mục lục NSNN các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước biết được thứ tự ưu tiên trong phân bổ ngân sách gắn với các ngành kinh tế sẽ hoặc đang và đã diễn ra như thế nào và có phù hợp với cơ cấu phát triển kinh tế- xã hội đã được xác lập trong Nghị quyết cùng kỳ của cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền hay không? Hoặc nếu cơ cấu thu, chi NSNN đã có sự phù hợp với thứ tự ưu tiên theo cơ cấu ngành của cơ quan quyền lực nhà nước nhưng kết quả hoạt động của các ngành/lĩnh vực được ưu tiên kinh phí của NSNN này vẫn không có cải thiện gì đáng kể, thì nhất thiết phải xem lại năng lực quản lý điều hành ngân sách của cơ quan hành pháp; đặc biệt là vai trò của người đứng đầu cơ quan hành pháp này.
Thông qua sự phân loại thu, chi NSNN theo nhóm, tiểu nhóm mà giám sát mức độ gắn kết giữa các nguồn thu và cơ chế sử dụng các nguồn thu của NSNN mỗi cấp. Trách nhiệm này thuộc về người đứng đầu các cơ quan hành pháp ở mỗi cấp được giao điều hành NSNN ở cấp đó. Ví dụ: nếu phát hiện có hành vi sử dụng quỹ NSNN được hình thành từ nguồn vay bù đắp bội chi để sử dụng cho nhu cầu mua sắm tài sản cố định của các cơ quan quyền lực nhà nước phải yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành pháp cùng cấp dừng ngay hành động này và thu hồi số vốn đã cấp.
Thông qua sự phân loại thu, chi NSNN theo mục, tiểu mục mà giám sát mức độ phù hợp giữa thực tiễn quản lý kinh tế, tài chính nảy sinh và các hình thức thu, chi đã được xác lập trong Mục lục NSNN. Nếu có phát sinh các nguồn tài chính mới, có thể huy động vào NSNN nhưng chưa có hình thức động viên thì phải xây dựng và ban hành chính sách thu mới và ngược lại. Hay có phát sinh các nhu cầu chi mới và khả năng NSNN có thể đảm bảo, thì phải bổ sung các hình thức chi mới và ngược lại. Mặt khác, cũng thông qua các hình thức thu, chi này mà giám sát trách nhiệm thực thi của những tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ quản lý NSNN và cả trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thực thi các hình thức thu, chi NSNN.
Ví dụ: giám sát chi đãi ngộ với người có công với cách mạng, nếu phát hiện nhầm đối tượng thụ hưởng thì phải kiến nghị thu hồi và xử lý nghiêm đối với những người cố tình khai gian hoặc làm sai lệch hồ sơ. Hoặc tổng hợp số liệu từ các mục chi cho con người mà chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng chi thường xuyên hàng năm, thì nhất thiết phải xem lại cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và đối tượng được hưởng các khoản chi thanh toán cho cá nhân từ NSNN.
Kế hoạch hóa
Kế hoạch hóa cũng là công cụ quan trọng mà Nhà nước phải sử dụng trong quản lý điều hành nền kinh tế. Giữa các nước khác nhau chỉ khác nhau ở phạm vi và cách thức sử dụng công cụ kế hoạch hóa. Hoặc trong phạm vi một quốc gia cách thức và phạm vi sử dụng công cụ kế hoạch hóa cũng có sự thay đổi qua các thời kỳ tùy thuộc vào Nhà nước ở quốc gia đó lựa chọn cơ chế quản lý đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện được quyền giám sát NSNN khi sử dụng công cụ kế hoạch hóa, các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội mà thẩm tra, đánh giá tính phù hợp của các chỉ tiêu thu, chi trong dự toán NSNN. Đồng thời cũng phải căn cứ vào mức độ của các chỉ tiêu thu, chi đã được xác lập trong dự toán NSNN mà điều chỉnh lại mức độ của các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình chấp hành NSNN phải luôn đối chiếu so sánh giữa mức độ chấp hành thu, chi NSNN với mức độ thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Mỗi đồng tiền chi ra từ NSNN nhất thiết phải gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội mà nhà nước phải làm và đã được xác định trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Mỗi đồng tiền thu vào NSNN phải được hình thành từ kết quả của các hoạt động kinh tế thực thụ của các tổ chức, cá nhân hay từ các quyền sở hữu đích thực của nhà nước. Khi phê chuẩn quyết toán ngân sách cho một năm đã qua nhất thiết phải rà soát lại các kết quả đích thực về phát triển kinh tế-xã hội của năm đó. Đây mới chính là những kết quả mà xã hội mong đợi. Những thành tựu hay những yếu kém trong quản lý của Nhà nước được bộc lộ một cách rõ nét nhất thông qua số liệu quyết toán NSNN và kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội cùng kỳ quyết toán đó.
Kiểm toán.
Cùng với triển khai thực hiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, thì vấn đề công khai, minh bạch NSNN đã trở thành một đòi hỏi tất yếu. Quản lý NSNN chỉ được coi là công khai, minh bạch khi có sự đánh giá của các tổ chức, cá nhân từ bên ngoài (không trực tiếp tham gia quản lý điều hành NSNN). Một trong những chỗ dựa cho những người cần thông tin về tình hình quản lý NSNN là các báo cáo của các tổ chức kiểm toán; đặc biệt là KTNN.
Đối với nước ta, kiểm toán NSNN hàng năm là trách nhiệm của cơ quan KTNN đã được chính thức thể chế hóa trong Luật NSNN. Do vậy, NSNN các cấp, các đơn vị sử dụng ngân sách đều thuộc phạm vi kế toán của KTNN. Với một đội ngũ chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn được trang bị tốt, KTNN có trách nhiệm phải đánh giá, xác nhận một cách chính xác tính hợp lệ, hợp pháp; và đặc biệt là tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý NSNN. Báo cáo kết quả từ các cuộc kế toán của KTNN luôn là nguồn thông tin tin cậy nhất để cơ quan quyền lực nhà nước các cấp và những tổ chức, cá nhân có nhu cầu thông tin về ngân sách sử dụng cho các hoạt động của mình.
Khi thực hiện quyền giám sát cơ quan quyền lực nhà nước vừa có quyền sử dụng các thông tin đã có, vừa có quyền yêu cầu cơ quan KTNN tiếp tục kiểm toán, xác nhận các thông tin cần thiết, bổ sung thêm cho việc đưa ra các nhận xét, đánh giá chuẩn xác hơn về kết quả quản lý điều hành NSNN của Chính phủ và UBND các cấp.
Thông tin.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát NSNN, cơ quan quyền lực nhà nước phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nên thông tin vừa là phương tiện, vừa là công cụ phục vụ cho quá trình giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Ở đây thông tin được hiểu là công cụ để cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. Thông tin sẽ trở thành công cụ cho giám sát NSNN khi:
Thông tin cung cấp cho các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước hiểu rõ hơn về tình hình quản lý thu, chi NSNN tại một ngành, địa phương sau một thời gian nhất định. Những thông tin loại này, các đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước có thể tìm thấy và tổng hợp được từ hệ thống sổ sách, báo cáo của kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ kho bạc nhà nước; hay báo cáo tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí của các đơn vị hành chính sự nghiệp; và một số báo cáo kế toán ở các đơn vị đặc thù khác.
Thông tin phản hồi từ phía người dân, hay của các cơ quan đơn vị có liên quan đến thu, chi NSNN. Kênh thông tin này rất đa dạng, nhưng độ chuẩn xác không hẳn đã cao. Song nó có khả năng tạo ra áp lực mạnh và buộc các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm đầy đủ hơn trong quá trình thực hiện công khai, mình bạch tình hình tài chính ngân sách hàng năm hay các năm đã qua.
Các phương tiện thông tin luôn trở thành các công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc thu thập và xử lý các thông tin, để đưa ra các nhận xét, đánh giá về tình hình quản lý NSNN của mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi đơn vị. Khi các nhận xét, đánh giá được định lượng bằng một số chỉ tiêu cụ thể thì tính thuyết phục của hoạt động giám sát sẽ được nâng cao.
Chuyên gia
Phạm vi tác động của NSNN rất rộng, có liên quan tới hoạt động của mọi ngành, mọi cấp, mọi lĩnh vực. Do vậy, đòi hỏi một đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước có thể am hiểu tường tận tất cả các lĩnh vực quả là không thể có được. Nhưng họ lại có trách nhiệm khi biểu quyết hay thực hiện giám sát bất cứ vấn đề nào của NSNN. Điều đó đã gây nên những rắc rối cho các vị đại biểu có trách nhiệm của các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Và việc cần thiết đặt ra chỉ có một cách duy nhất là thuê chuyên gia ở lĩnh vực khác nhau tư vấn cho các đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước trước mỗi vấn đề mà các đại biểu này không đủ tự tin để nêu ra các ý kiến nhận xét đánh giá hay biểu quyết. Khi đó các chuyên gia đã trở thành một trong những công cụ trợ giúp cho các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước. Song muốn sử dụng được công cụ này thì phải chi một khoản tiền nhất định tùy theo quy mô, tính phức tạp mà đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước yêu cầu.
4.5. Dự toán Ngân sách nhà nước và phương án phân bổ Ngân sách Trung ương năm 2010
Theo báo cáo của Chính phủ ngày 23 tháng 10 năm 2009, Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII , dự toán ngân sách nhà nước năm 2009 được triển khai thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế thế giới đã tác động lớn đến kinh tế nước ta, nhiều mặt hoạt động sản xuất- kinh doanh, xuất khẩu hàng hóa, du lịch, dịch vụ suy giảm trong nhiều tháng liên tiếp, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, vấn đề giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội trở lên bức xúc (Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2009 là 389.900 tỷ đồng; thực hiện 9 tháng ước đạt 288.335 tỷ đồng, bằng 74% dự toán. Phấn đấu cả năm đạt 390.650 tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán). Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành ngân sách nhà nước năm 2009, không thực hiện cắt giảm tổng mức chi ngân sách nhà nước, nhưng có yêu cầu sắp xếp, điều chỉnh các nhiệm vụ chi, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, giảm những khoản chi chưa thực sự cấp thiết để tăng chi cho các nhiệm vụ ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội (mức được Quốc hội quyết định là 491.300 tỷ đồng; thực hiện 9 tháng ước đạt 349.691 tỷ đồng, bằng 71,2% dự toán). Dự toán số bội chi ngân sách nhà nước năm 2009 là 87.300 tỷ đồng, thực hiện 9 tháng 47.856 tỷ đồng, bằng 54% dự toán. Ước đạt cả năm, bội chi ngân sách thực hiện là 115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP... Về dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2010, Chính phủ xác định mục tiêu là: Tập trung huy động các nguồn lực tài chính, sử dụng có hiệu quả để phấn đấu phục hồi tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009, tạo đà tăng trưởng nhanh và bền vững vào năm 2011 và những năm tiếp theo; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2006- 2010.
KẾT LUẬN
Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hầu hết các nước đều xác lập cho mình những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Những mục tiêu phát triển đều dựa vào khả năng khai thác các nguồn lực trong nước và nước ngoài và phải tạo ra được sự tiến bộ toàn diện cả về kinh tế và xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Để trở thành một nước có nền kinh tế phát triển thì điều tất yếu mà bất kỳ nhà nước nào cũng phải có là nguồn lực. Một trong những nguồn lực đó là Ngân sách nhà nước , nó giữ vai trò rất quan trọng, chi phối hầu như toàn bộ hoạt động của nhà nước. Có ngân sách thì nhà nước mới hoạt động được, mới thực hiện được các mục tiêu đề ra. Vì vậy, việc quản lý các hoạt động của Ngân sách nhà nước của mỗi quốc gia, cụ thể là các khoản thu - chi ngân sách sao cho phù hợp, sao cho hợp lý và đạt hiệu quả là một điều rất quan trọng mà không phải quốc gia nào cũng làm được. Nó là sự thách thức mà nước Việt nam ta phải vượt qua được để hoàn thành quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không chỉ ở hiện tại mà còn cả trong tương lai.
Chúng tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành nhất đến các cán bộ trong Trung Tâm Học Liệu của trường đã tạo điều kiện cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài, cô giáo Nguyễn Hạnh Quyên đã trang bị cho chúng tôi đầy đủ kiến thức về Học phần Lý thuyết tài chính – tiền tệ và những kĩ năng cần thiết để chúng tôi có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
Do năng lực bản thân của mỗi thành viên trong nhóm còn hạn chế, nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được những đóng góp ý kiến và phê bình của thầy cô và các bạn để chúng tôi kịp thời nắm bắt và củng cố kiến thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài giảng Lý thuyết tài chính – tiền tệ. Giảng viên Nguyễn Hạnh Quyên
Tạp chí kế toán ngày số 87 ngày 18/3/2010.
Giáo trình Lý thuyết tài chính – tiền tệ. Trường ĐH Kinh tế quốc dân.Khoa Ngân hang – Tài chính. Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài
Thông tin lấy từ trang web
Thông tin lấy từ trang web
Thông tin lấy từ trang web
Thông tin lấy từ trang web tin247.com
MỤC LỤC
Trang
Lời Nói Đầu
Nội Dung
Chương I: Những vấn đề lý luận về Ngân sách Nhà nước 1
Khái niệm Ngân sách Nhà nước 2
1.2. Bản chất của Ngân sách Nhà nước Việt Nam 2
1.3. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong quá trình phát
triển nền kinh tế xã hội của các quốc gia 3
Chương II: Các hoạt động chính của Ngân sách Nhà nước 4
2.1. Thu Ngân sách Nhà nước 4
2.2. Chi Ngân sách Nhà nước 8
2.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách Nhà nước 10
2.4. Thâm hụt Ngân sách Nhà nước 11
2.5. Năm Ngân sách và chu trình quản lý Ngân sách Nhà nước 11
Chương III. Thực trạng hệ thống Ngân sách Nhà nước
Việt Nam hiện nay 12
3.1. Nguồn thu của Ngân sách Nhà nước 12
3.2. Các khoản chi Ngân sách Nhà nước 13
3.3.Thâm hụt Ngân sách và vấn đề gia tăng nợ Chính phủ 15
3.4. Bội chi Ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam 16
Chương IV. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
Ngân sách Nhà nước Việt Nam hiện nay 17
4.1. Giải pháp tài chính – Ngân sách trong giai đoạn 2006 – 2010 17
4.2. Tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách Nhà nước 20
4.3. Xây dựng dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2010 21
4.4. Giám sát hoạt động của Ngân sách Nhà nước 21
4.5. Dự toán Ngân sách Nhà nước và phương thức phân bổ
Ngân sách trung ương năm 2010 27
Kết Luận 29
Lời cảm ơn! 30
Tài liệu tham khảo 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngân sách nhà nước và hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay.doc