Đề tài Nghiên cứu chuỗi cung ứng của mặt hàng Cá Tra, Cá Basa tại Công ty Cổ phần Nam Việt

Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đẩy mạnh thực hiện các chương trỡnh xỳc tiến thương mại, tổ chức các hoạt động quảng bá sản phẩm Cá Tra, Cỏ Basa của Việt Nam. Kiến nghị chính quyền các địa phương cân nhắc khi cấp phép việc xây mới hoặc mở rộng các Nhà máy chế biến Cỏ Tra, Cỏ Basa.

doc119 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5542 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu chuỗi cung ứng của mặt hàng Cá Tra, Cá Basa tại Công ty Cổ phần Nam Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối nguy gây mất an toàn thực phẩm như độc tố nấm trong thức ăn, hoocmon kích thích sinh sản, kích thích tăng trưởng trong sản xuất giống, các loại hóa chất, kháng sinh có hại sử dụng trong nuôi trồng đều là nguyên nhân làm cho sản phẩm cuối cùng không đảm bảo an toàn thực phẩm. Việc nhà máy mua nguyên liệu trôi nổi, các chủ đầm nuôi mua thức ăn và con giống tự do dẫn tới không thể thực hiện truy xuất nguồn gốc. Nếu xây dựng chuỗi liên kết dọc thì những khó khăn này hoàn toàn có thể được giải quyết. Qua tìm hiểu thực trạng của chuỗi cung ứng của Công ty Cổ phần Nam Việt, ta thấy Công ty đã đầu tư vùng nuôi đạt chuẩn Global GAP có thể đáp ứng khoảng 20% nhu cầu nguyên liệu đầu vào và 80% còn lại được thu mua từ các hộ nuôi bên ngoài. Tuy nhiên, việc mua bán giữa người nuôi với công ty được thỏa thuận theo từng thời điểm nên chưa có sự liên kết và ràng buộc mang tính pháp lý và là nguyên nhân mất cân đối trong việc triển khai đơn hàng nhằm đáp ứng kịp thời cho khách hàng. Do đó, giải pháp có thể giúp mối liên kết giữa 2 nhà phát triển bền vững và đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào ổn định bằng cách: Mở rộng thêm sở hữu diện tích vùng nuôi đạt tiêu chuẩn Global GAP: nhằm đáp ứng sản lượng cho nhà máy từ 20% lên tối thiểu 60%. Việc làm này không chỉ giúp doanh nghiệp có được nguồn nguyên liệu bảo đảm để cung ứng cho các thị trường khó tính mà còn tạo thế chủ động khi khủng hoảng thiếu nguyên liệu xảy ra. Hợp đồng nuôi gia công: thế nào là nuôi gia công ? Doanh nghiệp được xem là mắc xích trung tâm của chuỗi cung ứng và đóng vai trò vệ tinh cung cấp: con giống, thức ăn (khoán theo định mức) và kỹ thuật (nếu cần thiết); còn người nuôi đầu tư: ao, cơ sở hạ tầng và nhân công. Tuy nhiên, cơ sở cung cấp con giống, nhà cung cấp thức ăn phải có cam kết với doanh nghiệp đảm bảo chất lượng con giống và thức ăn đủ độ đạm như đã công bố trên bao bì. Qua đó, cũng đã ràng buộc được trách nhiệm nhà cung cấp thức ăn và cơ sở cung cấp con giống liên kết ổn định lâu dài. Trong hợp đồng, cần thiết phải có những ràng buộc rõ ràng như: Doanh nghiệp định kỳ theo dõi và kiểm tra, một mặt là để bảo đảm nguồn vốn của mình được dùng hiệu quả, mặt khác vừa có thể điều chỉnh kịp thời khi có sai sót hay vi phạm. Để thực hiện công tác này, doanh nghiệp cần xây dựng được đội ngũ giám sát tốt. Đến kỳ thu hoạch thì sản lượng sẽ được đưa về nhà máy. Nếu sản lượng thừa so với hợp đồng thì phần thừa đó người dân sẽ được hưởng. Nếu thiếu thì cần rà soát lại nguyên nhân do đâu, trách nhiệm thuộc về người nào thì người ấy chịu. Làm tới đâu ứng tới đó và mức ứng không quá 60 % (giống như công trình xây dựng). Sau khi thu sản lượng về sẽ thanh toán hết. Như vậy: Với hình thức hợp đồng gia công bao tiêu sản phẩm theo dạng này không chỉ doanh nghiệp được lợi mà đặc biệt là trong mọi tình huống biến động thị trường thì người nông dân luôn được bảo vệ quyền lợi. 3.2. Giải pháp về quản trị hoạt động sản xuất Cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao kéo theo là những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe về vấn đề VSATTP. Hướng đến chất lượng là xu hướng chung của con người ở mọi quốc gia. Theo như mô hình kim cương của Michael E. Porter, điều kiện nhu cầu (cầu lớn hay cầu khắt khe) trong nước sẽ thúc đẩy các công ty ở nước đó cải tiến, đổi mới sản phẩm tốt hơn. Điều đó lý giải tại sao hàng Nhật luôn nắm giữ vị trí tốt trong lòng người tiêu dùng trên Thế Giới. Thị trường Nhật nói riêng và Liên minh Châu Âu nói chung là những thị trường có được điều kiện nhu cầu lớn và khắt khe, tạo nên lợi thế cạnh tranh cho quốc gia. Bởi vậy, đối với những hàng hóa muốn xuất khẩu vào những thị trường đó nhất thiết phải đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về VSATTP. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp chế biến Cá Tra, Cá Basa, để giành giật khách hàng, một số doanh nghiệp hạ giá bán sản phẩm thấp hơn giá thành. Sau đó áp dụng các thủ đoạn gian dối (tăng trọng lượng giả tạo, giảm chất lượng, hạ giá mua nguyên liệu…) để tránh lỗ. Theo ý kiến kết luận của Thứ trưởng Lương Lê Phương tại cuộc họp bàn giải pháp nâng cao chất lượng và bình ổn giá sản phẩm Cá Tra, Cá Basa xuất khẩu qui định kiểm soát hàm lượng nước trong sản phẩm Cá Tra đông lạnh £ 83 % theo khối lượng và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/8/2010 [10]. Nguyên nhân của vấn đề không tuân thủ VSATTP là do Nhà nước chưa qui định và kiểm soát giá sàn xuất khẩu; chưa qui định giá sàn mua nguyên liệu và áp dụng cơ chế bình ổn giá nguyên liệu thủy sản (như đã áp dụng cho cà phê, gạo). Ngoài ra, để giải quyết vấn đề này cần thiết phải nâng cao vai trò kiểm soát của Nafiqad hơn nữa. Nafiqad là đơn vị quản lý trực tiếp các doanh nghiệp chế biến thủy sản, là người kiểm tra điều kiện sản xuất của doanh nghiệp, kiểm tra VSATTP và cấp chứng thư cho từng lô hàng của doanh nghiệp trước khi xuất. Chỉ có Nafiqad mới biết rõ chất lượng sản phẩm làm ra của doanh nghiệp nào thật, doanh nghiệp nào đối phó và phải “cương quyết” không cấp chứng thư đối với những lô hàng có kết quả không đảm bảo đủ điều kiện VSATTP. Phải làm được điều này thì sự tồn tại của các cơ quan kiểm tra chất lượng mới thực sự có ý nghĩa. Qua khảo sát thực tế công tác kiểm soát VSATTP tại Nam Việt ta thấy các yếu tố nguyên liệu đầu vào (cá nguyên liệu, hóa chất phụ gia, bao bì …) trước khi đưa vào sản xuất đều được công ty kiểm soát rất tốt. Công ty có phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn ISO 17025 và các nhân viên kiểm nghiệm được đào tạo chính quy. Quá trình tổ chức sản xuất và triển khai đơn hàng từ lập kế hoạch mua nguyên liệu cho đến thành phẩm cấp đông bao gói đều được công ty áp dụng theo hệ thống HACCP, GMP, SSOP và các tiêu chuẩn quốc tế như BRC, IFS, ISO 22000. Tuy nhiên, việc công ty có rất nhiều tiêu chuẩn chứng nhận trong và ngoài nước không có nghĩa Công ty luôn đảm bảo VSATTP và chất lượng sản phẩm luôn đạt yêu cầu. Các khiếu nại khách hàng chủ yếu là chất lượng không đảm bảo (sử dụng quá nhiều hóa chất phụ gia, tỷ lệ mạ băng vượt cho phép). Trong những năm qua, Nam Việt đã đánh giá quá trình sản xuất thông qua kết quả và số lượng sản phẩm làm ra chứ chưa đánh giá bằng hiệu quả. Điều đó có thể được nhận thấy qua việc đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến công suất lớn. Hậu quả của việc làm ồ ạt ấy đã khiến cho Nam Việt bị tụt hạng trong Top những doanh nghiệp xuất khẩu Cá Tra, Cá Basa lớn nhất Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu là doanh nghiệp chưa thực sự chú trọng đến chất lượng VSATTP và tính bền vững. Do đó, giải pháp có thể giúp Nam Việt cải thiện chất lượng, lấy lại uy tín của khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh: Tuân thủ nghiêm túc điều kiện sản xuất và chấp hành tiêu chuẩn VSATTP: Lãnh đạo cao nhất trong công ty phải cam kết chấp hành mọi tiêu chuẩn VSATTP và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các cấp dưới của mình thực hiện đúng tiêu chuẩn VSATTP. Nếu Nam Việt đã chọn cho mình thị trường mục tiêu thì Nam Việt phải xác định sản phẩm làm ra là sản phẩm chất lượng cao, sản phẩm giá trị giá tăng. “Khách hàng chọn đến ta để mua hàng thì ta cũng phải cân nhắc chọn khách hàng có uy tín để bán”. Hạn chế tối đa xuất khẩu những sản phẩm thấp, những sản phẩm ở dạng thô. Nếu không cải thiện chất lượng và nâng giá trị sản phẩm lên thì nguy cơ sản phẩm Cá Tra, Cá Basa của chúng ta sẽ cho rằng bán phá giá và dễ bị tẩy chay. Nói đến tuân thủ VSATTP thì không thể không nhắc tới Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn ở Đồng Tháp. Đây được xem là doanh nghiệp điển hình trong vấn đề tuân thủ áp dụng các tiêu chuẩn về VSATTP và chế biến sản phẩm chất lượng cao, hàng giá trị gia tăng từ Cá Tra, Cá Basa. Hiện nay, Vĩnh Hoàn được xuất khẩu vào Mỹ với mức thuế chống bán phá giá là 0% và họ cũng vừa đạt được Chứng nhận cơ sở chế biến thủy sản theo Chương trình kiểm soát của Bộ thương mại Mỹ (USDC) - Chương trình kiểm tra và đánh giá thủy hải sản nổi tiếng và lớn nhất tại Mỹ. Tất cả những gì Vĩnh Hoàn đã đạt được ngày hôm nay khiến cho nhiều doanh nghiệp thủy sản Việt Nam trong đó có Nam Việt phải nhìn nhận lại chính mình và đó cũng nên là mục tiêu mà các doanh nghiệp trong ngành nói chung, Nam Việt nói riêng cần hướng tới. 3.3. Giải pháp hội nhập dọc thuận chiều để giải quyết thị trường đầu ra Quan tâm hơn đến thị trường nội địa: Trong 2 năm trở lại đây, khi thị trường xuất khẩu khó khăn, nhiều doanh nghiệp vẫn cứ hướng ngoại, thì tại An Giang đã có một số doanh nghiệp lại rất thành công khi đưa sản phẩm hướng nội. Và hiện tại, ở Việt Nam chỉ có khoảng 3 doanh nghiệp chế biến đưa sản phẩm tiêu thụ nội địa, đó là: Công ty TNHH An Xuyên, Công ty Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm An Giang (AFIEX), Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (AGIFISH). Với dân số hơn 85 triệu dân, nhu cầu tiêu thụ thủy sản luôn có xu hướng gia tăng. Tại chợ đầu mối Bình Điền (TP Hồ Chí Minh) bình quân mỗi ngày tiêu thụ khoảng 100 tấn Cá Tra, Cá Basa... [40]. Như vậy, thực sự thị trường nội địa đang bị bỏ ngỏ. Qua tình hình tiêu thụ sản phẩm ở Nam Việt trong những năm gần đây ta thấy rằng thị trường nội địa tuy chiếm mức sản lượng tiêu thụ thấp nhưng lợi nhuận mang về thì cao hơn. Năm 2008, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu chiếm 71% trong tổng doanh thu và cứ 1 đồng doanh thu từ xuất khẩu mang lại 0,9 đồng lợi nhuận gộp. Trong khi đó, doanh thu từ tiêu thụ nội địa chiếm 29% trong tổng doanh thu nhưng 1 đồng doanh thu lại mang về cho doanh nghiệp 1,24 đồng lợi nhuận gộp. Như vậy, với sự gia tăng của nhu cầu trong nước, sẽ mang lại cho doanh nghiệp lợi nhuận khá lớn. Tuy nhiên, với Nam Việt xuất khẩu luôn được chú trọng hơn, còn thị trường nội địa thì chưa được quan tâm đúng mức bởi xét cho cùng thì sản lượng tiêu thụ nội địa tăng lên trong năm 2008 cũng là đáp ứng cho xuất khẩu chứ không hề phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước (bán qua hình thức ủy thác). Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chứ không riêng gì Nam Việt cũng chưa thực sự quan tâm đến nhu cầu nội địa. Thị trường nội địa là tiền đề để doanh nghiệp có thể vươn xa hơn ra các thị trường Thế giới. Ngược lại cũng là “vị cứu tinh” cho doanh nghiệp một khi thị trường Thế Giới có sự biến động. Hiện nay sản phẩm của Công ty vẫn chưa có chỗ đứng thực sự vững chắc và đang gặp khó khăn khi tiêu thụ sản phẩm ở thị trường các nước nhập khẩu. Quan tâm và mở rộng thị trường trong nước sẽ giúp Công ty giảm được áp lực phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu. Đồng thời, khi sản phẩm tiêu thụ trong nước sẽ nhận được sự hỗ trợ từ phía các tổ chức có liên quan như AFA, VASEP… cũng như của nhà nước, cũng như sự ủng hộ của người tiêu dùng trong nước theo xu hướng “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. Chú trọng đến thị trường lớn: Không phải tất cả khách hàng đều giúp doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận. Do đó, trong chuỗi cung ứng ta nên có sự phân khúc khách hàng. Việc phân khúc giúp chuỗi cung ứng phân bổ hiệu quả hơn nguồn lực. Ta cần phải xác định khách hàng mục tiêu là ai, họ mong muốn điều gì và đặc biệt họ đóng góp vào lợi nhuận cho chuỗi cung ứng trong tương lai như thế nào. EU là một thị trường tiềm năng với dân số của 27 nước thành viên EU khoảng 500 triệu người, cũng theo thống kê của FAO, nhu cầu tiêu thụ trung bình thủy sản của các nước trong khu vực đạt khoảng 22 kg/người/năm với tổng lượng tiêu thụ hàng năm đạt 11 triệu tấn. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản của các nước EU ngày càng tăng, trong khi đó sản lượng khai thác liên tục giảm mạnh. Thêm vào đó, sự sụt giảm về tiêu thụ mặt hàng cá Pollack – mặt hàng rất được ưa chuộng ở thị trường các nước EU, là cơ hội cho xuất khẩu Cá Tra, Cá Basa Việt Nam. Không những tăng về số lượng nhập khẩu mà giá nhập khẩu vào thị trường này cũng không ngừng gia tăng trong những năm qua (trong vòng 3 năm tăng hơn 40%). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ gia tăng lợi nhuận nếu gia tăng được sản lượng xuất. Trong năm 2009, mặc dù sản lượng xuất khẩu qua các nước EU chỉ chiếm 11,29% sản lượng nhưng với 1% sản lượng xuất thì đã mang về lại cho Công ty 152,61% doanh thu. Do đó, EU không chỉ là thị trường mục tiêu của Nam Việt mà còn của nhiều doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản khác. Tuy nhiên, đối với Cá Tra, Cá Basa xuất khẩu vào EU, vấn đề đặt lên hàng đầu vẫn là chất lượng. Sự tồn tại của Luật SPS (kiểm dịch động vật), Luật IUU (về nguồn gốc thủy sản với những điều khoản khắt khe hơn) và một số luật về hàng thực phẩm nói chung và thủy sản nói riêng mà EU đang quy định hay sắp được áp dụng rộng rãi … là những rào cản lớn đối với sự xâm nhập của hàng thủy sản Việt Nam nói chung. Những quy định này làm tăng đáng kể chi phí xuất khẩu của Việt Nam, ví dụ như chi phí kiểm nghiệm để chứng minh không có dư lượng kháng sinh trong các lô hàng xuất khẩu có thể rất cao so với lợi nhuận. Điều này làm giảm lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu. Do đó, đã chỉ điểm EU là thị trường mục tiêu thì Nam Việt càng cần phải nỗ lực trong vấn đề đảm bảo chất lượng sản phẩm qua các khâu trong chuỗi cung ứng. Và chỉ có sản phẩm chất lượng cao, sản phẩm giá trị gia tăng thì mới thực sự mang lại lợi nhuận cao ở những phân khúc thị trường khó tính. Mở rộng, nâng cao hiệu quả nghiên cứu và phát triển thị trường: Trong những năm qua, đã xảy ra rất nhiều biến cố ảnh hưởng đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành chứ không riêng gì Nam Việt. Bài học từ vụ kiện bán phá giá vẫn còn đó: không nên chú trọng vào duy nhất một thị trường, cần phân tán rủi ro bằng việc có nhiều hơn các thị trường xuất khẩu. Thêm nữa là sự kiện năm 2008 vừa qua Nam Việt bị mất thị trường Nga – là nước chiếm thị phần lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu của Nam Việt. Tuy nhiên, với những điều đã rút ra được từ quá khứ, ta không chỉ nên dừng lại ở đây mà cần phải mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ. Đặc biệt với những diễn biến phức tạp của thị trường Thế Giới. Ở Mỹ, năm 2009 sau những đợt kiểm tra, rà soát hoạt động nuôi trồng, chế biến Cá Tra, Cá Basa của Việt Nam, Bộ Thương Mai Hoa kỳ đã công bố những kết quả chứng minh thời gian qua Việt Nam không bán phá giá Cá Basa. Thế nhưng, Lệnh áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng Cá Tra, Cá Basa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ vẫn sẽ tiếp tục được áp dụng trong 5 năm nữa vì Ủy ban Thương Mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) lo ngại rằng, nếu huỷ bỏ lệnh áp thuế đối với Việt Nam sẽ gây thiệt hại lớn cho ngành sản xuất nội địa Mỹ. [42] Cùng đó, Mỹ đang hoàn tất Luật Nông nghiệp (hay còn gọi là Luật Farm Bill), trong đó có một điều khoản gọi là “chính sách tương đương”. Điều đó có nghĩa là một khi Cá Tra, Cá Basa Việt Nam bị đưa vào nhóm Catfish dự Luật Nông nghiệp Mỹ thì sẽ bị quản lý tương đương cả về luật pháp và điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này, bởi yêu cầu khắt khe trong công tác kiểm định. Hiện chỉ có 34 quốc gia đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thịt vào Mỹ và đều là các quốc gia phát triển. Không chỉ ở Mỹ mà còn tại nhiều thị trường khác cũng ngày càng xuất hiện nhiều qui định ngặt nghèo hơn. Đứng trước tình hình đó, không cho phép chúng ta lơ là các thị trường đã có, mà cần phải vừa giữ vững vừa mở rộng. Để giữ vững kết quả hiện có, doanh nghiệp cần phải theo dõi sát sao diễn biến phức tạp ở một số thị trường nhập khẩu sản phẩm Cá Tra, Cá Basa chủ đạo hiện nay như Mỹ, EU, Ucraina và một số nước Trung Đông… để kịp thời có những cách ứng phó lanh lẹ với những biến chuyển khó lường của thị trường. Để mở rộng thị trường xuất khẩu, không thể không chú trọng đến công tác nghiên cứu và phát triển thị trường. Việc tìm hiểu thị trường đồng nghĩa với việc chúng ta tìm hiểu về khách hàng tiềm năng và đối thủ cạnh tranh và xem hai nhân tố đó kết hợp như thế nào. Một khi công tác nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra một loạt các quyết định quan trọng liên quan về sản phẩm, các mặt hàng cần mua bán, đối tượng phục vụ, giá giá bán/giá dịch vụ, tổ chức hệ thống phân phối, v.v… và quan trọng nhất là định hướng phát triển của của doanh nghiệp. Theo một công trình nghiên cứu, mức chi cho nghiên cứu thị trường doanh nghiệp Việt Nam nói chung chỉ chiếm 5%, còn lại là do các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện [43]. Sự mất cân đối trong tỷ lệ kinh phí như thế này có thể hiểu rằng nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp Việt Nam đã không có giải pháp để biết rõ về thị trường. Nam Việt cũng đang ở trong tình trạng đó. Tại đây, công tác nghiên cứu và phát triển thị trường do bộ phận Marketing và bán hàng đảm nhận. Việc nghiên cứu và phát triển thị trường của Công ty mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm thông tin qua internet, báo chí, các sách văn hóa tiêu dùng của các nước hoặc thông qua kênh từ khách hàng. Một lý do khiến cho các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam nói chung và Nam Việt nói riêng ít quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường là vì chúng ta chỉ xuất khẩu qua nhà bán buôn mà chưa phân phối trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Cũng vì thế mà Công ty sẽ phải phụ thuộc nhiều hơn vào các nhà nhập khẩu. Nếu chỉ ngồi chờ nhận biết nhu cầu người tiêu dùng thay đổi qua yêu cầu của những nhà bán buôn thì liệu khi ấy doanh nghiệp có thể ứng phó nhanh chóng với những biến chuyển đó được chăng ? Không phải ai cũng làm được điều đó. Chính vì vậy, tìm hiểu nghiên cứu thị trường không nên chỉ dừng lại là tìm hiểu về văn hóa, pháp luật…mà còn là nhu cầu, đặc điểm, thị hiếu thay đổi hằng ngày của người tiêu dùng của thị trường đó. Để thực hiện tốt công tác này, Công ty cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ năng lực chuyên nghiên cứu và phát triển thị trường và đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho đội này phát huy hết khả năng của mình. Nghiên cứu sâu sẽ giúp doanh nghiệp có cái nhìn rộng hơn, những quyết định về mục tiêu, kế hoạch sản xuất… được đưa ra sẽ đúng đắn và phù hợp hơn, đặc biệt là quyết định trong việc phân phối sản phẩm trực tiếp tới tay người tiêu dùng sẽ sáng suốt và thuận lợi hơn. Hợp tác giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp: Với thế mạnh và hiệu quả của nghề nuôi Cá Tra, Cá Basa 10 năm qua, từ một loài cá bản địa, Cá Tra, Cá Basa đã trở thành sản phẩm chiến lược quốc gia, sản lượng nuôi tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước; chiếm hơn 1/2 tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu cả nước. Tình hình xuất khẩu sản phẩm Cá Tra, Cá Basa trong năm 2009 vừa qua đạt 607,7 ngàn tấn thành phẩm, trị giá 1,342 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 31,6% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, giảm 7,6% so với năm 2008. Tuy nhiên, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của các doanh nghiệp xuất khẩu Cá Tra, Cá Basa trong thời gian qua, khiến giá xuất khẩu liên tục sụt giảm. Thậm chí, để xuất được hàng, một số doanh nghiệp hạ giá bán sản phẩm thấp hơn giá thành, sau đó áp dụng các thủ đoạn gian dối (tăng trọng lượng giả tạo, giảm chất lượng, hạ giá mua nguyên liệu…) để tránh lỗ. Cuộc đua cạnh tranh về giá thực sự không phải là hướng đi bền vững. Nguyên nhân của hiện tượng cạnh tranh theo kiểu này là do Nhà nước chưa qui định và kiểm soát giá sàn xuất khẩu; Nhà nước chưa qui định giá sàn mua nguyên liệu và áp dụng cơ chế bình ổn giá nguyên liệu thủy sản (như đã áp dụng cho cà phê, gạo) và chưa có sự hợp tác giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Thương hiệu sản phẩm: Xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu là sự tất yếu, nhu cầu bức thiết của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trong thời gian qua các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản cũng đã có ý thức chủ động và rất nỗ lực xây dựng thương hiệu cho một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực nhưng vẫn còn yếu đặc biệt là đối với mặt hàng Cá Tra, Cá Basa – mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu của đất nước. Với những lợi thế mà hiện có về điều kiện nuôi trồng sản xuất Cá Tra, Cá Basa – là một trong những nhân tố quan trọng mang lại lợi thế cạnh tranh cho quốc gia nói chung và của doanh nghiệp trong nước nói riêng, thiết nghĩ chúng ta nên phát huy điều đó mới đúng. Thế nhưng, trong thời gian vừa qua, con Cá Tra, Cá Basa Việt Nam bị bêu xấu bởi giới truyền thông của một số thị trường nhập khẩu như Tây Ban Nha, Italia, Ai Cập, UAE. Chính sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một số doanh nghiệp trong nước (tranh nhau hạ giá) đã làm uy tín sản phẩm Cá Tra, Cá Basa Việt Nam suy giảm nghiêm trọng và tạo ra kẻ hở lớn để đối thủ có thể len lỏi vào làm giảm hình ảnh con Cá Tra, Cá Basa Việt Nam. Qua tìm hiểu tại Công ty Cổ phần Nam Việt, công tác xúc tiến thị trường và quảng bá sản phẩm Cá Tra, Cá Basa chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Để tiến hành việc quảng bá, trước hết doanh nghiệp phải chuẩn bị một kế hoạch tuyên truyền thật chi tiết với đầy đủ những luận cứ khoa học, bằng chứng thực tiễn, các tiêu chuẩn và chỉ tiêu cụ thể, tạo thành một tài liệu tổng thể, thống nhất để quảng bá đến mọi thị trường và mọi đối tượng quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Việc làm này không chỉ có ý nghĩa với bản thân Công ty mà còn đối với con Cá Tra, Cá Basa của Việt Nam. Vì thế, để thực hiện được việc này, Công ty nên tìm đến hiệp hội VASEP - nơi tập hợp của các doanh nghiệp hội viên cùng nhau chung tay xây dựng thương hiệu cho Cá Tra, Cá Basa Việt Nam. Các chương trình xúc tiến thương mại, các hoạt động quảng bá sản phẩm Cá Tra, Cá Basa của Việt Nam tại nước ngoài nên được tổ chức với nội dung và hình thức đổi mới. Thông qua các hội chợ triển lãm, các cơ hội xúc tiến đầu tư... các doanh nghiệp tổ chức các sự kiện quảng bá nhằm giúp người tiêu dùng hiểu rõ giá trị của sản phẩm Cá Tra, Cá Basa Việt Nam đồng thời ngăn chặn các hoạt động nói xấu Cá Tra, Cá Basa vì mục đích cạnh tranh từ phía các thị trường nhập khẩu. Lựa chọn kênh phân phối hiệu quả: Việc xác định chính xác kênh phân phối và quan hệ giữa chúng là một phần chiến lược kinh doanh của công ty và thuộc trách nhiệm của lãnh đạo bộ phận bán hàng. Có hai hình thức bán hàng trực tiếp và gián tiếp. Bán hàng trực tiếp là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng hay hình thức cửa hàng bán lẻ. Còn bán hàng gián tiếp (thông qua nhiều cấp độ) yêu cầu có sự có mặt của các nhà phân phối trung gian, số lượng cấp độ được xác định bởi chiến lược kinh doanh trên cơ sở của quan niệm tiếp thị. Qua tìm hiểu tại Công ty Cổ phần Nam Việt, để sản phẩm của doanh nghiệp đến người tiêu dùng thì chúng phải qua tay nhiều trung gian như: nhà bán buôn, nhà bán lẻ… Như vậy, doanh nghiệp thường giao dịch với các trung gian như nhà nhập khẩu/ nhà bán buôn, nhà bán sỉ để thực hiện việc bán hàng. Các khách hàng của Nam Việt hầu hết đều là những nhà nhập khẩu hơn hẳn chúng ta về qui mô lớn mạnh và kinh nghiệm trên thương trường. Trong các hợp đồng thương mại hay các giao dịch khác chúng ta luôn phải chịu “lép vế”. Công ty chưa có một hợp đồng dài hạn nào với các nhà nhập khẩu, cũng không có bất kỳ ràng buộc nào đối với nhà nhập khẩu. Khi phát sinh nhu cầu, các nhà nhập khẩu chủ động tìm đến Công ty đặt đơn hàng, Công ty sản xuất và in ấn nhãn mác, bao bì hoàn toàn theo quy cách và yêu cầu của các nhà nhập khẩu. Rõ ràng là doanh nghiệp bị phụ thuộc nhiều vào khách hàng. Thêm vào đó là thời gian lưu thông hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi sử dụng cuối cùng dài phải qua nhiều kênh trung gian nên chi phí tăng lên, lợi nhuận phần lớn vào túi các nhà buôn. Cho dù các hộ nuôi hay doanh nghiệp bị lỗ thì gần như không ảnh hưởng nhiều đến việc thu lợi nhuận của các nhà bán buôn. Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam có liên tục giảm giá để bán được hàng thì phần thiệt vẫn là bản thân doanh nghiệp và hơn cả là những người nông dân. Còn doanh nghiệp thì lại là người “đứng mũi chịu sào” nếu như có sự cố gì xảy ra về chất lượng sản phẩm khi nó đến tay người tiêu dùng mặc dù việc không đảm bảo chất lượng ấy có thể là do tác nhân khác trong chuỗi cung ứng của nhà nhập khẩu gây ra. Hiện tại, vì tiềm lực chưa đủ mạnh (tài chính, kinh nghiệm tổ chức, mặt hàng chất lượng cao…) nên kênh phân phối này được đa số các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam và các nước đang phát triển sử dụng. Nhưng trong tương lai, vươn ra phân phối trực tiếp đến tay người tiêu dùng là cần thiết: một mặt là có thể chủ động hơn về nguồn cung hàng, mặt khác là để hưởng phần chênh lệch mà nhà bán buôn đã hưởng bấy lâu. Trong kênh phân phối của mình, doanh nghiệp cũng đã sử dụng môi giới để hàng hóa lưu thông được dễ dàng hơn. Vai trò của môi giới trong kênh phân phối này là khá quan trọng bởi các hợp đồng mang về cho công ty qua tay môi giới chiếm gần 40 %. Dù vậy, doanh nghiệp cũng phải xem xét trường hợp nào sử dụng môi giới là cần thiết và chia lợi nhuận cho họ một cách hợp lý. Đồng thời nâng cao khả năng tìm kiếm khách hàng để giảm bớt các khoản chi hoa hồng. Nam Việt nên từng bước tạo dựng các đại lý mua và bán. Đây cũng là kênh phân phối rất tốt cho các nhà sản xuất thâm nhập thị trường bởi: Đại lý bảo vệ quyền lợi của công ty; Liên lạc với một số khách hàng tiềm năng; Mở ra kênh liên lạc với khách hàng ngoài khối EU; Cung cấp cho công ty những thông tin liên tục về thị trường; Có thể yêu cầu đại lý độc quyền hoặc không độc quyền; Đại lý có thể giúp tiết kiệm chi phí đi lại. Thực hiện song song với việc mở rộng các đại lý, là sự cần thiết phải bình ổn giá cả, nâng cao giá xuất mới cải thiện được giá mua nguyên liệu. Điều đó, góp phần giảm đi sự bất công trong việc phân bổ chi phí – lợi ích giữa các tác nhân trong chuỗi cung ứng. 3.4 Giải pháp về truy xuất nguồn gốc Trong các nước thuộc khối EU thì thị trường Tây Ban Nha là thị trường chiếm thị phần rất lớn về nhập khẩu Cá Tra của Việt Nam và đã trở thành sản phẩm thủy sản phổ biến tại thị trường Tây Ban Nha. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa người tiêu dùng Tây Ban Nha có hiểu biết đầy đủ về sản phẩm này và nguồn gốc của nó. Qua khảo sát mẫu 812 hộ gia đình mua thủy sản tại thành phố Santander ở phía Bắc Tây Ban Nha vào tháng 11/2008 cho thấy người tiêu dùng khi đi chợ quen với tên Pangasius hay với tên được ghi sai là “phi lê cá bơn” hơn, 74% số người được hỏi khẳng định họ quen tên cá Pangasius và 25,7% quen với tên ghi sai. Khảo sát về sự hiểu biết về nước xuất xứ và phương pháp thu hoạch theo trình độ học vấn (xem Bảng 19). Bảng 19: Hiểu biết về nước xuất xứ và phương pháp thu hoạch theo trình độ học vấn Biết Không biết Không rõ Nước xuất xứ Trình độ thấp 13,64% 9,09% 77,27% Tiểu học 16,89% 11,49% 71,62% Trung học 30,81% 12,43% 56,76% Đại học 29,17% 10,83% 60,00% Phương pháp thu hoạch Trình độ thấp 9,09% 4,55% 86,36% Tiểu học 13,51% 8,11% 78,38% Trung học 24,32% 7,03% 68,65% Đại học 15% 12,50% 72,50% (Nguồn: Tạp chí TMTS Vasep số 121-tháng 1/2010) Qua bảng trên cho thấy người tiêu dùng vẫn chưa hiểu biết rõ về nguồn gốc sản phẩm Cá Tra và sự nhầm lẫn giữa cá Tra với cá Bơn, nếu như chúng ta không mô tả rõ ràng về thông tin sản phẩm trên bao bì theo đúng qui định (tên thương mại, tên khoa học, vùng thu hoạch, xuất xứ, mã số lô hàng, mã số cơ sở sản xuất ….) Ông Nguyễn Xuân Khôi, Giám đốc Chứng nhận Intertek Việt Nam, chia sẻ: “Thị trường EU chiếm một vị trí đặc biệt trong xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam. Trong số gần 4,2 tỉ USD giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2009 thì EU chiếm gần 26%”. Theo ông Khôi, EU là một thị trường khó tính với rất nhiều quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và chú trọng nguồn gốc của sản phẩm. Nếu như trước đây các doanh nghiệp chế biến thủy sản chỉ cần áp dụng HACCP, ISO 9000 thì hiện nay áp dụng tiêu chuẩn BRC và IFS cho các nhà nhập khẩu, phân phối, bán lẻ và ISO 22000 (chứng nhận hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm) đang là điều kiện mua hàng của các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới. Đồng thời, các vùng nuôi cũng phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định IUU (bắt đầu có hiệu lực từ năm 2010) đối với hải sản khai thác và đối với thủy hải sản nuôi trồng. Theo quy định IUU, tất cả hải sản khai thác nhập nhẩu vào EU phải chứng minh được hải sản của mình có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng từ hoạt động khai thác. Sản phẩm có đánh mã vạch và truy nguyên nguồn gốc từ nhà xuất khẩu, nhà máy sản xuất, vùng nuôi, nguồn cung cấp con giống, loại thức ăn đã sử dụng, thời gian nuôi, ngày bắt và chế biến... [44]. Theo ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Minh Phú, từ năm 2009, các siêu thị ở châu Âu yêu cầu nhà cung cấp phải có chứng nhận Global GAP. Năm 2009, sản phẩm tôm của Minh Phú chỉ bán được ở một số siêu thị nhất định. Đến khi có chứng nhận Global GAP, Minh Phú đã thực sự làm gia tăng giá trị thương hiệu của mình cũng như niềm tin của khách hàng vào sản phẩm do công ty làm ra.[44] Còn Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lương Lê Phương cho rằng: Đến hết quý II-2010, việc đánh mã vạch cho vùng nuôi sẽ thực hiện xong, trên cơ sở đó các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản thực hiện việc ghi xuất xứ sản phẩm trên bao bì và thương hiệu hàng hóa của mình. Doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư trực tiếp cơ sở ở nước ngoài để cung ứng sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Mặt khác, chú trọng thị trường nội địa, đây là thị trường đầy tiềm năng và ổn định.[44] Do đó, nếu Nam Việt đã chọn cho mình thị trường mục tiêu là thị trường Liên minh Châu Âu – một thị trường nhiều tiềm năng theo đánh giá chung của ngành cũng như Nam Việt thì ngoài các giải pháp nêu trên, Nam Việt cần phải có 1 hệ thống truy xuất nguồn gốc mới đảm bảo chuỗi cung ứng hoàn thành sứ mệnh từ “con giống đến bàn ăn”. Một trong những bước đầu thuận lợi cho việc thực hiện hệ thống truy xuất là Nam Việt đã được chứng nhận vùng nuôi theo tiêu chuẩn Global GAP và các nhà máy chế biến đã đạt chứng nhận theo tiêu chuẩn BRC, IFS, ISO 22000 và chỉ cần tích hợp các hệ thống quản lý chất lượng lại sẽ dễ dàng hơn. Hiện nay, ở nước ta chỉ áp dụng việc truy xuất nguồn gốc trên văn bản, giấy tờ và rất khó khăn. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, chúng ta có thể sử dụng công nghệ RFID giúp cải thiện và nâng cao hiệu quả quản lý chuỗi cung ứng và truy nguồn gốc sản phẩm. Ưu điểm của phương pháp này là khả năng truy xuất nhanh và chính xác; Khả năng lưu trữ thông tin lớn không bị hạn chế; Dễ dàng nhập dữ liệu và tìm kiếm dữ liệu; Gọn nhẹ không gây phức tạp khi sử dụng; Thông tin được bảo mật và an toàn. Tuy nhiên, không nên liều lĩnh sử dụng phương pháp truy xuất hiện đại RFID, trong lúc khả năng của doanh nghiệp đáp ứng không đủ các yêu cầu về chi phí và năng lực. Do đó, có thể sử dụng phương pháp kết hợp giữa truyền thống và hiện đại là một sự cải tiến từng bước cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Nam Việt nói riêng. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Qua đề tài “Nghiên cứu chuỗi cung ứng của mặt hàng Cá Tra, Cá Basa tại Công ty Cổ phần Nam Việt. Tác giả rút ra một số kết luận và kiến nghị như sau: KẾT LUẬN Sản phẩm Cá Tra, Basa là đối tượng nuôi phổ biến ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là các tỉnh ở ven sông Tiền và sông Hậu. Tuy nhiên, trong thời gian qua do phát triển quá nóng, thiếu quy hoạch; nhiều bất cập trong công tác quản lý các yếu tố đầu vào và thu mua, chế biến tiêu thụ; tổ chức sản xuất còn yếu kém, mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ còn nhiều bất cập; công tác xúc tiến thương mại còn chưa có hiệu quả cao; vai trò của các tổ chức hiệp hội trong chuỗi sản xuất còn chưa được thể hiện rõ ràng nên trong những năm gần đây việc sản xuất và tiêu thụ Cá Tra, Basa còn gặp nhiều khó khăn, nhiều người nuôi bị lỗ, phá sản dẫn đến hiện tượng treo ao phổ biến. Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng chuỗi cung ứng của mặt hàng Cá Tra, Cá Basa tại Công ty Cổ phần Nam Việt: (1) Theo lý thuyết về chuỗi cung ứng so với thực trạng chuỗi cung ứng tại Nam Việt thì ta có thể thấy rằng có nhiều bất cập chính trong mắt xích của chuỗi mà Nam Việt cần cải thiện, cụ thể như sau: chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và người nuôi; giữa doanh nghiệp với nhà nhập khẩu; giữa nhà nhập khẩu với người tiêu dùng; giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp chưa đồng thuận, cạnh tranh hạ giá thành. Tất cả những vấn đề này đã được tác giả đề xuất 1 số giải pháp nhằm cải thiện chuỗi cung ứng trong Chương 3 để giúp cho Công ty Cổ phần Nam Việt có tầm nhìn và chiến lược kinh doanh gắn liền với chuỗi cung ứng “từ con giống đến bàn ăn”. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nghiên cứu và khảo sát thực tế tác giả nhận thấy có một số hạn chế như chưa thu thập dữ liệu về giá bán buôn của nhà nhập khẩu, nhà phân phối đến tay người tiêu dùng nhằm chia sẻ rủi ro và lợi ích giữa các bên trong chuỗi cung ứng … (2) Nam Việt đã xác định thị trường mục tiêu là EU thì Nam Việt phải chuẩn bị hành trang cho mình để hướng tới là sản phẩm chất lượng cao, sản phẩm giá trị gia tăng. Việc chọn lựa khách hàng và xây dựng cho mình 1 mạng lưới khách hàng đầu ra là khâu then chốt cuối cùng hướng đến đích của chuỗi cung ứng. (3) Vệ sinh an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc sản phẩm: Nam Việt muốn tồn tại và phát triển bền vững thì phải tuân thủ nghiêm túc thực sự các tiêu chuẩn VSATTP. Khi các tiêu chuẩn như Global GAP, BRC đã được xây dựng và tích hợp lại chắc chắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo VSATTP và truy xuất nguồn gốc sản phẩm 1 cách dễ dàng. Tuy nhiên, việc Công ty có nhiều giấy chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng không có nghĩa là Công ty đó chất lượng luôn ổn định và luôn đảm bảo VSATTP mà điều quan trọng tiên quyết đầu tiên trước khi áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng là đòi hỏi phải có cam kết của lãnh đạo, người đứng đầu trong Công ty tuân thủ nghiêm ngặt VSATTP và cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cấp dưới của mình thực hiện đúng tiêu chuẩn. Tóm lại, tùy vào điều kiện và hoàn cảnh của từng doanh nghiệp; tùy thuộc vào tầm nhìn và nhận thức của người đứng đầu trong Công ty mà chúng ta có thể chọn và xây dựng cho đơn vị mình một mô hình chuỗi cung ứng tương thích. KIẾN NGHỊ Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm triển khai “Đề án phát triển sản xuất và tiêu thụ Cá Tra đến năm 2020” đã được Chính phủ phê duyệt. Qua đó giúp nghề nuôi, chế biến và tiêu thụ Cá Tra trên toàn vùng phát triển ổn định, bền vững xóa dần tính mất cân đối trong cung - cầu trong thời gian tới; tạo mối liên kết 4 nhà nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ Cá Tra theo hướng bền vững trên cơ sở một nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giải pháp tốt nhất để giải quyết các khó khăn, thách thức trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản hiện nay là: Xây dựng và ban hành các chính sách vĩ mô làm nền tảng cho triển khai chuỗi liên kết dọc; Xây dựng thí điểm mô hình chuỗi liên kết dọc trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ Cá Tra, Cá Basa, trên cơ sở đó tổng kết nhân rộng. Xây dựng và ban hành chính sách vĩ mô: TT Tên chính sách Nội dung cơ bản 1 Xây dựng và kiểm soát giá sàn thủy sản ở một số thị trường chính (có yêu cầu chất lượng và qui trình khác nhau) như: EU và các nước Tây Âu Nga và các nước Đông Âu Mỹ và các nước Bắc Mỹ Nhật bản, Hàn quốc Cơ quan nhà nước và doanh nghiệp chế biến thủy sản tính toán giá thành sản xuất và thống nhất giá sàn xuất khẩu. Hải quan và Cục Quản lý chất lượng Nông, Lâm sản và Thủy sản (Nafiqad) kiểm soát giá xuất khẩu. Nếu phát hiện vi phạm: Lần 1: Phạt tiền, cảnh cáo nội bộ. Lần 2: Phạt tiền, cảnh cáo nội bộ, cắt mã số xuất khẩu vào thị trường vi phạm. 2 Phân bổ và kiểm tra điều chỉnh diện tích thả nuôi Cá Tra, Cá Basa tương ứng với nhu cầu nguyên liệu theo từng tháng trong năm. Tổng hợp qui luật thị trường 5 năm qua, dự báo nhu cầu trong các năm tới. Phân bổ diện tích thả giống nuôi theo từng tháng cho tất cả các tỉnh. Tuyên truyền lợi ích để người nuôi tự giác thực hiện. Điều chỉnh kịp thời nếu tháng trước thả nuôi cao hoặc thấp hơn so với kế hoạch. 3 Xây dựng và thực hiện cơ chế bình ổn giá mua nguyên liệu thủy sản (trọng tâm là cá Tra, cá Basa, tôm) cho người nuôi. Định kỳ tính giá thành nuôi và thống nhất giá sàn thu mua nguyên liệu thủy sản trong từng thời kỳ. Cho vay vốn, lãi suất ưu đãi đối với những đơn vị xây kho đông lạnh để bảo quản nguyên liệu vào thời điểm dư thừa. Cho doanh nghiệp vay vốn để mua nguyên liệu không thấp hơn giá sàn vào thời điểm thừa nguyên liệu. 4 Quy định và kiểm soát giá trần thức ăn cho thủy sản: Thức ăn chiếm 70-80% giá thành sản xuất nguyên liệu thủy sản. Giá thức ăn cho thủy sản tăng sớm hơn và cao hơn mỗi khi có biến động về giá nguyên liệu sản xuất thức ăn, điện, nước, tỷ giá ngoại tệ. Ngân hàng ưu tiên cho vay vốn để doanh nghiệp chế biến thức ăn mua nguyên liệu (ngô, sắn, cám) trong nước ở thời điểm mùa thu hoạch rộ để dự trữ. Áp dụng linh hoạt thuế nhập khẩu nguyên liệu thức ăn. Nhà nước cùng doanh nghiệp thức ăn tính toán giá thành và thống nhất giá trần thức ăn cho thủy sản, kiểm soát và xử lý đơn vị vi phạm. 5 Nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm soát Nhà nước đối với chất lượng thức ăn, thuốc thú y, cá bố mẹ, cá giống và an toàn thực phẩm trong nguyên liệu thủy sản. Cải cách thủ tục hành chính theo hướng hiệu quả, giảm phiền hà. Tăng cường năng lực (thiết bị, kiến thức, kỹ năng) cho cơ quan kiểm soát nhà nước. Kiểm tra, xử lý những cá nhân, đơn vị gây phiền hà, sách nhiễu hoặc vô trách nhiệm. 6 Xây dựng quy chuẩn và quy chế đánh giá công nhận chuỗi liên kết dọc. Quy chuẩn quy định các tiêu chí, thông số kỹ thuật đánh giá chuỗi liên kết dọc. Quy chế quy định trình tự thủ tục đánh giá, công nhận chuỗi liên kết dọc và những quyền lợi sau khi chuỗi liên kết dọc được công nhận. (Nguồn: một số gợi ý được trích dẫn từ các cuộc họp tại Sở NN&PTNT An Giang) Xây dựng thí điểm mô hình chuỗi liên kết dọc trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ Cá Tra, Cá Basa TT Những lợi ích Diễn giải 1 Cân đối sản lượng và chất lượng của các thành viên trong chuỗi, giảm thiểu tình trạng khủng hoảng thừa hoặc thiếu. Khi đã là thành viên, quá trình sản xuất của từng công đoạn sẽ được xác định rõ nhằm đảm bảo cân đối với nhu cầu của công đoạn trước và sau. 2 Xóa bỏ cạnh tranh không lành mạnh. Do cân đối đầu vào, đầu ra và có ràng buộc pháp lý nên hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh sẽ được triệt tiêu. 3 Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Nhờ liên kết, hoạt động kiểm soát an toàn thực phẩm toàn bộ quá trình sản xuất sẽ được thực hiện thống nhất, đồng bộ và hiệu quả. 4 Dễ dàng triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc. Các thành viên trong chuỗi cân đối sản xuất với nhau nên việc thực hiện truy xuất nguồn gốc trở nên rất dễ dàng và thuận lợi. 5 Đủ điều kiện hoàn thuế VAT Khi cơ sở giống và nuôi tham gia chuỗi do danh nghiệp chế biến chủ trì, việc hoàn thuế VAT hoàn toàn có khả năng thực hiện. 6 Hài hòa lợi ích và trách nhiệm theo nguyên tắc: Cùng hưởng lợi Cùng chia sẻ rủi ro Thông qua điều lệ có tính pháp lý, các thành viên trong chuỗi dễ dàng thống nhất và thực hiện đúng những điều đã cam kết và tránh được rủi ro. 7 Nâng cao uy tín với khách hàng và ngân hàng. Chuỗi liên kết là sự đảm bảo chắc chắn về sản lượng, chất lượng, thời gian giao hàng, do đó thị trường tin tưởng, ngân hàng yên tâm cho vay vốn . (Nguồn: một số gợi ý được trích dẫn từ các cuộc họp tại Sở NN&PTNT An Giang) Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đẩy mạnh thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tổ chức các hoạt động quảng bá sản phẩm Cá Tra, Cá Basa của Việt Nam. Kiến nghị chính quyền các địa phương cân nhắc khi cấp phép việc xây mới hoặc mở rộng các Nhà máy chế biến Cá Tra, Cá Basa. Bảng 20: Tổng hợp giải pháp cải tiến chuỗi cung ứng cho mặt hàng Cá Tra, Cá Basa tại Công ty Cổ phần Nam Việt Nhu cầu thị trường - Nhu cầu tiêu thụ gia tăng - Giá bán cạnh tranh Cải thiện chuỗi cung ứng và nâng cao năng lực cạnh tranh - Chất lượng cao, VSATTP Tác nhân trong chuỗi cung ứng Khó khăn Nguyên nhân Giải pháp Trách nhiệm 1. Yếu tố đầu vào Mất cân đối cung – cầu Sản phẩm của công đoạn trước là nguyên liệu đầu vào của công đoạn sau; Số lượng và chất lượng của công đoạn trước ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của công đoạn sau và ở tất cả các công đoạn thường xuyên xảy ra tình trạng khủng hoảng thừa hoặc thiếu. Chưa có qui hoạch hoặc có qui hoạch nhưng chưa thực hiện tốt; Nhà nước chưa qui định và kiểm soát diện tích thả, nuôi trong từng thời gian tương ứng với công suất chế biến và nhu cầu thị trường; Chưa có sự liên kết giữa các công đoạn với nhau. Xây dựng và ban hành chính sách vĩ mô: Phân bổ và kiểm tra điều chỉnh diện tích thả nuôi cá Tra, cá Basa tương ứng với nhu cầu nguyên liệu theo từng tháng trong năm. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. UBND các tỉnh thuộc ĐBSCL. Vùng nuôi của doanh nghiệp Sản lượng nuôi theo chuẩn Global GAP của doanh nghiệp chỉ có thể đáp ứng 20% và còn lại phải mua từ bên ngoài của nông dân. Chưa mở rộng diện tích và đầu tư thêm vùng nuôi. Mở rộng và đầu tư vùng nuôi theo chuẩn Global GAP nhằm đáp ứng tối thiểu sản lượng 60% công suất cho nhà máy phòng ngừa biến động thị trường. Doanh nghiệp. Nguyên liệu từ các hộ nuôi bên ngoài. Khi nguyên liệu khan hiếm thì một số cơ sở nuôi không thực hiện hợp đồng đã ký với doanh nghiệp, bán Cá Tra, Cá Basa nguyên liệu ra ngoài kiếm lời cao hơn. Khi nguyên liệu dư thừa thì một số doanh nghiệp cùng thống nhất bắt cá tự nuôi để chế biến làm cho giá nguyên liệu lún sâu hơn, sau đó mua cá giá rẻ để cấp đông, bảo quản chờ giá lên cao và đưa thông tin sai lệch hoặc thổi phồng để trục lợi. Nhà nước chưa qui định giá sàn mua nguyên liệu và áp dụng cơ chế bình ổn giá nguyên liệu thủy sản (như đã áp dụng cho cà phê, gạo); Nhà nước chưa qui định và kiểm soát giá trần thức ăn cho thủy sản; Chưa có sự liên kết giữa các công đoạn với nhau. Xây dựng và thực hiện cơ chế bình ổn giá mua nguyên liệu thủy sản (trọng tâm là cá Tra, cá Basa) cho người nuôi. Quy định và kiểm soát giá trần thức ăn cho thủy sản. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. UBND các tỉnh thuộc ĐBSCL. Chất lượng thức ăn, con giống, cá bố mẹ, thuốc thú y. Chất lượng thức ăn, con giống, thuốc thú y cho Thủy sản chưa đảm bảo. Tình trạng dịch bệnh trong nuôi trồng, ô nhiễm môi trường do chất thải chế biến và nuôi trồng ngày càng gia tăng. Chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước nhiều lần bị xáo trộn. Một số đơn vị chưa thành lập hoặc chưa hoàn thành nhiệm vụ. Văn bản qui phạm pháp luật cho lĩnh vực này chưa đầy đủ và còn bị chồng chéo. Nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm soát Nhà nước đối với chất lượng thức ăn, thuốc thú y, cá bố mẹ, cá giống và an toàn thực phẩm trong nguyên liệu thủy sản. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. UBND các tỉnh thuộc ĐBSCL. 2. Người nuôi Vốn Thiếu vốn Khó tiếp cận ngân hàng Quy định và kiểm soát giá trần thức ăn cho thủy sản. Nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm soát Nhà nước đối với chất lượng thức ăn, thuốc thú y, cá bố mẹ, cá giống và an toàn thực phẩm trong nguyên liệu thủy sản. Xây dựng quy chuẩn và quy chế đánh giá công nhận chuỗi liên kết dọc Qui hoạch vùng nguyên liệu, hướng đến vùng nuôi đạt chuẩn GAP Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho nông dân GAP Hợp đồng gia công bao tiêu sản lượng với doanh nghiệp. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. UBND các tỉnh thuộc ĐBSCL. Ngân hàng Doanh nghiệp Người nuôi. Trung tâm khuyến nông. Cơ sở cung cấp thực ăn, thốc thú y. Con giống Chất lượng giống chưa đảm bảo Nông dân ham giá rẻ. Công tác quản lý nguồn giống chưa được thực hiện triệt để. Hóa chất, kháng sinh Nhận biết hóa chất, kháng sinh điều trị bệnh cá chưa được am hiểu sâu. Hạn chế về kiến thức kỹ thuật. Thức ăn Giá biến động và chất lượng độ đạm thực tế so với thông tin trên bao bì. Đa dạng về nguồn gốc, chủng loại, độ đạm. Nhà nước chưa qui định và kiểm soát giá trần thức ăn cho thủy sản; Kỹ thuật nuôi Nuôi theo kinh nghiệm. Năng suất, chất lượng không đảm bảo. Chưa được hỗ trợ nhiều về kỹ thuật. Qui mô sản xuất Nhỏ, manh mún. Năng suất, chất lượng không ổn định và hiệu quả không cao. Nuôi tự phát. Phải đầu tư cao. Thông tin thị trường Thụ động, ít tiếp cận thông tin thị trường. Nhận thức tầm vai trò thông tin thị trường chưa cao. 3. Công nghệ sau thu hoạch Chế biến Chất lượng luôn bị phản ảnh từ khách hàng. Mẫu mã và thông tin thể hiện trên bao bì phụ thuộc vào khách hàng. Khó theo dõi hạn sử dụng thành phẩm trong kho. Chưa tuân thủ nghiêm túc các tiêu chuẩn VSATTP. Tỷ lệ sử dụng nồng hoá chất, phụ gia quá cao. Thông tin thể hiện trên bao bì không phù hợp với thực tế bên trong sản phẩm như tỷ lệ mạ băng, trọng lượng tịnh, Sắp xếp hàng hóa không đúng qui định. Lãnh đạo cao nhất trong công ty phải cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn VSATTP như GAP, BRC, ISO 22000 … Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các bộ phận cấp dưới của mình tuân thủ nghiêm túc VSATTP. Tuân thủ các qui định hiện hành của Bộ NN&PTNT, Nafiqad về việc đảm bảo yêu cầu VSATTP. Nâng cao vai trò kiểm tra chất luợng cuả Nafiqad. Doanh nghịêp Nafiqad Đóng gói Bảo quản 4. Thị trường Công tác nghiên cứu và phát triển thị trường. Chưa được thực hiện một cách bài bản. Chưa chú trọng đầu tư và có chính sách đầu tư đúng mức. Xây dựng đội ngũ cán bộ năng lực chuyên nghiên cứu và phát triển thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho đội này phát huy hết khả năng của mình. Tập trung thị trường lớn, mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường. Theo dõi diễn biến của 1 số thị trường để có phản ứng kịp thời. Chú trọng đến thị trường nội địa; quảng cáo; quảng bá thương hiệu. Xây dựng và kiểm soát giá sàn thủy sản ở một số thị trường chính (có yêu cầu chất lượng và qui trình khác nhau): EU và các nước Tây Âu; Nga và các nước Đông Âu; Mỹ và các nước Bắc Mỹ; Nhật bản, Hàn quốc. Nếu phát hiện vi phạm thì phạt tiền hoặc cắt mã số xuất khẩu của doanh nghiệp. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hải quan và Nafiqad Doanh nghịêp Vasep Thị trường trong nước. Các doanh nghịêp đối phó cùng giảm giá. Bị bỏ ngõ Thị trường nước ngoài. Diễn biến thị trường phức tạp. Các rào cản kỹ thuật ngày càng dày về tiêu chuẩn VSATTP. Các doanh nghiệp giành giật khách hàng, một số doanh nghiệp hạ giá bán sản phẩm thấp hơn giá thành. Sau đó áp dụng các thủ đoạn gian dối (tăng trọng lượng giả tạo, giảm chất lượng, hạ giá mua nguyên liệu…) để tránh lỗ Khủng hoảng kinh tế và tình hình chính trị. Chất lượng sản phẩm không đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu. Nhà nước chưa qui định và kiểm soát giá sàn xuất khẩu. 5. Hình thức phân phối sản phẩm Thương hiệu Chưa có thương hiệu cho con cá Tra Việt Nam trên thị trường Thế giới. Chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. Năng lực tài chính có giới hạn. Chưa xây dựng mối liên kết giữa doanh nghiệp và đại lý phân phối. Thông tin và khách hàng phụ thuộc vào môi giới. Xây dựng hình ảnh thương hiệu Cá Tra, Cá Basa Việt Nam. Mở các đại lý phân phối Sử dụng các nhà bán lẻ độc quyền. Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Doanh nghiệp và các doanh nghiệp cùng ngành Vasep Kênh phân phối Bị tiếng xấu trên thị trường thế giới. Chưa phân phối hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng. Khó cắt bỏ được khâu trung gian môi giới trong kênh phân phối. 6. Hệ thống truy xuất Hệ thống truy xuất Khó khăn, sai sót. Thông tin lưu trữ bằng giấy tờ, dẫn đến sai sót. Quá nhiều tiêu chuẩn chất lượng đang áp dụng trong doanh nghiệp. Kết hợp giữa phương pháp truy xuất truyền thống và hiện đại RFID. Tích hợp hệ thống quản lý chất lượng GAP, BRC … Doanh nghịêp Nafiqad (hỗ trợ) TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (2006 – 2007), Chương 6: Lợi thế Cạnh tranh của các Quốc gia, Dịch: Hải Đăng Giáo trình-Bài giảng-Giáo án, Quản trị chuỗi cung ứng, Trường ĐH Kinh tế Đà Nẵng. Khúc Tuấn Anh (2008), Bước đầu nghiên cứu xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc thủy sản, Luận văn thạc sĩ Công nghệ sau thu hoạch, Trường ĐH Nha Trang. Lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael E. Porter (2008), nhà xuất bản trẻ. Sổ tay quản lý chất lượng vùng nuôi theo Global GAP của Công ty Cổ phần Nam Việt. Quyết định số 178/ 1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hóa thủy sản. Quyết định số 15/2002/QĐ-BTS ngày 17/5/2002 về việc ban hành Quy chế kiểm soát dư lượng các chất độc hại trong động vật và sản phẩm động vật thuỷ sản nuôi. Quyết định số: 117 /2008/QĐ-BNN ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành Quy chế kiểm tra và công nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản đủ điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm Quyết định số: 118 /2008/QĐ-BNN ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành Quy chế kiểm tra và chứng nhận chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm hàng hóa thủy sản. Quyết định số: 3535 /2008/QĐ-BNN-QLCL ngày 10 tháng 12 năm 2009 của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc công bố danh mục các chỉ tiêu chỉ định kiểm tra lô hàng thủy sản xuất khẩu và thông báo số 2575/TB-BNN-VP ngày 6 tháng 5 năm 2010 của Thứ trưởng Lương Lê Phương về việc giải pháp nâng cao chất lượng và bình ổn giá sản phẩm Cá Tra, Cá Basa xuất khẩu. Tiêu chuẩn ngành: 28 TCN 130 : 1998 "Cơ sở chế biến thuỷ sản - Ðiều kiện chung đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm ". Tiêu chuẩn ngành: 28TCN 129 : 1998 "Cơ sở chế biến thuỷ sản - Chương trình quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm theo HACCP". Tiêu chuẩn ngành: 28TCN 117 : 1998 - Sản phẩm thuỷ sản đông lạnh - Cá Basa philê. Tiêu chuẩn ngành: 28 TCN 211 : 2004 - Quy trình kỹ thuật sản xuất giống Cá Tra. Tiêu chuẩn ngành: 28 TCN 188 : 2004 - Thức ăn hỗn hợp dạng viên cho Cá Tra và Cá Basa. Tiêu chuẩn ngành: 28 TCN 214 : 2004 - Quy trình kỹ thuật nuôi thâm canh Cá Basa. Tiếng Anh European Union - Conclusions of the working group on General Food Law and Traceability – Regulation (EC) No 178/2002. Global GAP “Integrated Farm Assurance Chain of Custody Control Points and Compliance Criteria”, Version 2.0-3_Apr09, Valid from 29th April 2009 Nguyen Thi Anh Tuyet (2009), “Frozen Catfish Supply Chain Management In Vietnam”, Asian Institute of Technology School of Environment, Resources and Development, in Thailand. The Institute for supply management, “Glossary of key purchasing and supply terms”, 2000. Courtesy of Supply chain Council, Inc. Courtesy of the Council of Logistics Management H.L. Lee and C.Billington, “The evolution of supply chain management models and practice at Hewlett-packard” Interfaces 25, No. 5(1995); 41-63. Các trang web có liên quan ạ-về-marketing-va-nghien-cứu-thị-trường-ở-việt-nam/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8. Luan van hoan chinh OK.doc
  • doc1. Bia luan van.doc
  • doc2. Loi cam on.doc
  • doc3. Loi cam doan.doc
  • doc4. Muc luc.doc
  • doc5. Danh muc chu viet tat.doc
  • doc6. Danh muc bang bieu.doc
  • doc7. Danh muc hinh ve.doc
  • doc9. Phu luc 1.doc
  • doc10. Phu luc 2.doc
  • doc11. Phu luc 3.doc
  • xls12. Tong hop chi phi vung nuoi.xls
  • xls13. Tong hop chuyen gia DGNB.xls
  • doc14. Bai bao Nghien cuu chuoi cung ung Navico.doc
  • doc15. Bai bao Hoan thien chuoi cung ung Viet Nam.doc
  • doc16. Tom tat noi dung Bai bao.doc
Luận văn liên quan