Đề tài Nghiên cứu nhu cầu du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội

PHẦN MỞ ĐẦU TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU NHU CẦU DU LỊCH CUỐI TUẦN CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI. Thế giới bước vào nền kinh tế tri thức, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật và công nghệ nhân loại đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du lịch trên phạm vi toàn cầu. Nền kinh tế không ngừng phát triển, đời sống văn hoá - xã hội ngày càng được nâng cao thì du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống của nguời dân. Theo số liệu của Tổ chức du lịch thế giới (WTO) năm 2002 lượng khách đi du lịch là 716,6 triệu lượt, thu nhập 474 tỷ USD và dự tính tới năm 2010 là 1.006 triệu lượt, thu nhập 900 tỷ USD. Nền kinh tế phát triển, các quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá tăng lên, càng thúc đẩy du lịch phát triển, đó là xu hướng phát triển chung trên thế giới. Các thành phố của nước ta, đặc biệt là thủ đo Hà Nội cũng không nằm ngoài xu thế đó. Mật độ dân số cao, sự ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, bụi, khói xe, khói công nhiệp . Tất cả những mặt trái của một đô thị đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân khiến họ luôn thấy ngột ngạt, cang thẳng, ức chế, uể oải Stress . Để lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống, hàng năm số lượng người Hà Nội đi nghỉ vào những vào những ngày cuối tuần ở những vùng ngoại vi và phụ cận khá lớn. Đó chính là hoạt động du lịch cuối tuần. Có thể khẳng định rằng : Trong tương lai không xa, du lịch cuối tuần sẽ là một loại hình du lịch phổ biến đối với người dân các đô thị Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Nghiên cứu những nhu cầu nghỉ cuối tuần và đưa ra hướng phát triển nhằm tạo ra điều kiện để thoả mãn tối đa nhu cầu của con người là một yêu cầu mang tính khách quan và cần thiết. Để xây dựng cơ sở khoa học cho việc phát triển du lịch cuối tuẩn của thủ đô Hà Nội, đáp ứng xu thế phát triển của du lịch Việt Nam em đã chọn đề tài: “Nghiên cứu nhu cầu du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội ”. CHƯƠNG I MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH CUỐI TUẦN VÀ NHU CẦU DU LỊCH I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ NHU CẦU DU LỊCH VÀ DU LỊCH CUỐI TUẦN. 1. Khái niệm về du lịch. Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cuộc sống con người ngày càng được cải thiện thì nhu cầu du lịch ngày một tăng. Du lịch dần trở thành một nét sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống. Du lịch được coi là một ngành kinh tế có tác dụng góp phần tích cực vào việc thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế, Du lịch tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, đồng thời du lịch còn tạo điều kiện cho việc mở rộng mối giao lưu văn hoá, xã hội giữa các vùng trong nước, tăng cường tính đoàn kết hữu nghị hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau trong các dân tộc. Trong vòng 6 thập kỷ qua, kể từ khi thành lập Hiệp Hội Quốc Tế các tổ chức du lịch IOUTO(Internation Of Union Oficical Travel Organization) năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm về du lịch luôn là vấn đề được bàn luận. Đúng như giáo sư, tiến sỹ Berneker một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới đã nhận định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiu định nghĩa.” Điều này nói lên sự đa dạng của hoạt động du lịch và nó có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. - Trên góc độ của người đi du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời ở ngoài nơi lưu trú thường xuyên của cá thể, nhằm thoả mãn các nhu cấu khác nhau, với mục đích hoà bình và hữu nghị. Với họ du lịch như một cơ hội để tìm kiếm những kinh nghiệm sống, sự thoả mãn một số các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình. - Trên góc độ người kinh doanh du lịch: Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của người di du lịch. Các doanh nhiệp du lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra, nhằm thoả mãn nhu cầu của khách (người di du lịch), đồng thời thông qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hoá lợi nhuận. - Trên góc độ của chính quyền địa phương: Trên góc độ này du lịch được hiểu như là một việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất ký thuật để phục vụ du khách. Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng, được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành trình và lưu trú tạm thời của cá thể. Du lịch là một cơ hội để bán các sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ các khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho dân địa phương. - Trên góc độ cộng đồng dân cư sở tại: Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Với họ hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu về văn hoá và phong cách của người ngoài địa phương, người nước ngoài, là cơ hội để tìm kiềm việc làm, để phát sinh và phát triển các nghề cổ truyền các nghề thủ công truyền thống của dân tộc. Thông qua du lịch, một mặt có thể tăng thu nhập , nhưng mặt khác có thể gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân sở tại như: về môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn chốn ở .

doc49 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8487 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu nhu cầu du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n theo độ dài chuyển đi. - Du lịch ngắn ngày : Nó thường được kéo dài đến sáu ngày, tiêu biểu cho loại hình du lịch này chính là du lịch cuối tuần (1-3 ngày) loại này thường chỉ tổ chức du lịch gần tức là đến những địa điểm gần - Du lịch dài ngày : Thường từ 7 ngày trở lên. Nó thường được tổ chức vào dịp nghỉ phép, nghi đông hoặc nghỉ hè trong năm. Loại này thì họ thường chọn những địa điểm xa. 2.9. Phân loại theo hình thức tổ chức: - Du lịch theo đoàn : Với sự chuẩn bị từ trước hay thông qua các tổ chức du lịch - Du lịch cá nhân : Cá nhân tự định ra tuyến hành trình kế hoạch lưu trú, địa điểm ăn uống tuỳ ý Tóm lại : Có rất nhiều loại hình du lịch mà nó lại rất phong phú. Chính vì thế mà để đáp ứng những nhu cầu đi du lịch ngày càng cao của người dân mà đòi hỏi chất lương của các nhà tổ chức hay các công ty du lịch phải nghiên cứu xây dựng được những chương trình du lịch với các loại hình có tính năng khoa học và cái quan trọng nhất là phải phù hợp với từng loại đối tượng sử dụng nó. 3. Du lịch cuối tuần. 3.1. Khái niệm. - Hoạt động du lịch hiện đại là một hoạt động rất phong phú và đa dạng, gồm nhiều loại hình khác nhau. Để phân loại các thể loại du lịch người ta đã dựa vào các tiêu thức sau: + Mục đích du lịch + Phương tiện đi du lịch + Vị trí địa lý của nơi du lịch + Thời gian đi du lịch + Hình thức tổ chức chuyến đi - Trong đó, khi dựa vào thời gian kéo dài của chuyến đi người ta lại chia thành: + Du lịch ngắn ngày + Du lịch dài ngày - Loại hình du lịch ngắn ngày thường được tổ chức vào cuối tuần thì được gọi là du lịch cuối tuần. Như vậy du lịch cuối tuần thì được gọi là du lịch cuối tuần. Như vậy gọi là du lịch cuối tuần là một dạng của du lịch ngắn ngày.Trong cuốn luận án thạc sỹ: “Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội phục vụ mục đích phát triển du lịch cuối tuần của Hà Nội và phụ cận” của bà Nguyễn Thị Hải đã đưa ra: “Du lịch cuối tuần là một dạng hoạt động của dân cư các đô thị, thành phố, vào những ngày nghỉ cuối tuần, vào những vùng ngoại ô hoặc phụ cận, có điều kiện dễ dàng hoà nhập với thiên nhiên, nhằm nghỉ ngơi, giải trí, phục hồi sức khoẻ, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên kinh tế và văn hoá”. 3.2. Vai trò chức năng của du lịch cuối tuần. Cũng như nhiều loại hình du lịch khác, du lịch cuối tuần cũng đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế chính trị của từng cá nhân, của từng địa phương hay của toàn xã hội. Chức năng xã hội của du lịch cuối tuần biểu hiện ở việc bảo vệ tăng cường sức khoẻ cho con người. Du lịch và nghỉ ngơi đóng một vai trò tích cực và rất quan trọng trong việc tăng cường tuổi thọ và khả năng lao động của con người một cách hợp lý nhất vì nó được sử dụng đều đặn, thường xuyên và diễn ra sau một tuần làm việc căng thẳng. Việc nghiên cứu y sinh học cho thấy rằng các chế độ nghỉ ngơi và du lịch hợp lý có thể giảm trung bình 30% các bệnh tật của nhân dân, còn những bệnh phổ biến về tim mạch giảm gần 50% còn những bệnh về đường hô hấp thì giảm 40%, các bệnh về thần kinh, xương, bắp thì giảm 30%, bệnh về các cơ quan tiêu hoá thì giảm 20%. Du lịch tạo điều kiện cho những nhóm người khác nhau được tiếp xúc gần gũi, hiểu biết lẫn nhau hình thành nên những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, tạo lên sự phát triển hài hoà của con người. Du lịch còn kết hợp với giáo dục tư tưởng, chính trị cho thanh niên, thiếu niên, thu hút vào những hoạt động văn hoá - xã hội bổ ích. Những hoạt động này giúp họ sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hợp lý hơn. từ đó giảm đi những tệ nạn xấu, hạn chế số thanh niên sa ngã vào tội lỗi. Phát triển du lịch tạo việc làm cho người lao động, góp phần thay đổi cơ cấu lao động, từ đó nâng cao đời sống kinh tế - xã hội. Du lịch cuối tuần là sự kết hợp giữa con người và môi trường tự nhiên. Hoạt động này làm giãn số người ở đô thị về nông thôn vào những ngày cuối tuần. Phát triển hoạt động du lịch này sẽ khiến cư dân chú ý, bảo vệ môi trường tại địa điểm du lịch nhằm thu hút khách từ đó góp phần bảo vệ to lớn vào việc bảo vệ môi trường tự nhiên. Chính du lịch cuối tuần còn góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá trên cơ sở đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp phục vụ nhu cầu du lịch và xuất khẩu tại chỗ. 3.3. ý nghĩa việc phát triển du lịch cuối tuần. Du lịch cuối tuần tuy chỉ là một dạng hoạt động của du lịch ngắn ngày nhưng trong cấu trúc của toàn ngành du lịch ở nhiều nước thì du lịch cuối tuần chiếm một tỷ trọng khá lớn chính vì vậy mà ý nghĩa của nó càng lớn trong đời sống xã hội và kinh tế của đất nước, và việc nghiên cứu phát triển loại hình này là điều tất yếu. Du lịch cuối tuần mang tính nhịp điệu rõ rệt vì nó chỉ thu hút khách đông vào các ngày nghủ cuối tuần nhưng những ngày nghỉ cuối tuần này lại chiếm phần lớn thời gian trong quỹ ngày nghỉ cả năm của người lao động. Theo tính toán người ta thấy rằng thời gian nghỉ cuối tuần ở những nước làm việc 5 ngày trên một tuần chiếm tới 80% số ngày được nghỉ trong một năm. Còn thời gian nghỉ phép năm (nghỉ dài hạn) chỉ chiếm có 15 - 20% mà thôi. Do đó để thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi cuối tuần của nhân dân lao động nhằm hồi phục sức khoẻ và phát triển thể lực của họ thì vấn đề nghỉ cuối tuần là hết sức quan trọng không thể bỏ qua được. Theo thống kê của nhiều nước trên thế giới, chi phí cho các chuyến du lịch cuối tuần của nhân dân trong một năm thường lớn gấp hàng chục lần chi phí cho một chuyến du lịch dài ngày. Điều này một lần nữa khẳng định rằng nhu cầu du lịch cuối tuần chiếm một tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ cấu trúc của ngành du lịch. Vì vậy phát triển du lịch cần đặc biệt chú ý đến phát triển hoạt động du lịch cuối tuần. II. Một số khái niệm về nhu cầu du lịch. 1. Khái niệm về nhu cầu. Theo các chuyên gia tâm lý học, nhu cầu là cái tất yếu tư nhiên, nó là thuộc tính tâm lý tất yếu của con người là sự đòi hỏi của con người để tồn tại và phát triển. Nếu được thoả mãn sẽ gây cho con người những cảm xúc dương tính, trong trường hợp ngược lại sẽ gây lên những ấm ức, khó chịu (xúc cảm dương tính). Nhà bác học nổi tiếng người Anh, tiến sỹ Abraham Maslow trong bài “lý thuyết về động lực của con người” đăng trên tạp chí “tâm sinh lý học của con người” năm 1943 đã đưa ra mô hình khái quát các nhu cầu của con người xếp theo thứ bậc sau (theo mô hình 1.a). - Nhu cầu sinh lý (Physiological needs) : Nhu cầu về thức ăn, nước uống, ngủ, nghỉ ngơi (food, Water, shelter, rest) - Nhu cầu về an toàn, an ninh cho tính mạng (Safety, Security, Freedom from fear and anxiety). - Nhu cầu về hoà nhập và tình yêu (Belonging and love affection, giving and receining love). - Nhu cầu tự tôn trọng và được tôn trọng (Self - esteem and esteem from others). - Nhu cầu tự hoàn thiện (Self - actualication - personal growth self - fulfillment) Sau đó, do sự phát triển không ngừng của xã hội nhu cầu của con người ngày càng trở lên phong phú hơn, đa dạng hơn và thang cấp bậc nhu cầu nhu cầu của con người cũng được bổ sung thêm 2 thang bậc cho phù hợp (theo mô hình 1.b) Hai thang đó là: - Nhu cầu về thẩm mỹ, cảm nhận cái đẹp (Aesthetics, appreciation of beauty). - Nhu cầu hiểu biết (Knowled ge and understanding). Nhu cầu tự hoàn thiện Nhu cầu hiểu biết Nhu cầu về thẩm mỹ cảm nhận cái đẹp Nhu cầu tự hoàn thiện Nhu cầu về hoà nhập và tình yêu Nhu cầu về an toàn an ninh cho tính mạng Nhu cầu tự tôn trọng và được tôn trọng Nhu cầu sinh lý Nhu cầu về sinh lý Nhu cầu tôn trọng Mô hình 1.a Mô hình 1.b Các bậc thang nhu cầu theo lý thuyết nhu cầu của con người của A.Maslow năm 1943 và có bổ sung sau này. Con người ta luôn có xu hướng muốn thoả mãn những nhu cầu ở thứ bậc cao hơn thì đã thoả mãn được những nhu cầu ở những thứ bậc thấp hơn. Điều đó cũng có nghĩa là càng những nhu cầu ở thứ bậc cao hơn, ngày càng có tầm quan trọng hơn đối với đời sống của mỗi con người. Song điều đó không có nghĩa những nhu cầu bậc thấp không quan trọng. 2. Khái niệm về nhu cầu du lịch. Theo tuyên bố của La Hay về du lịch thì : Du lịch là một loại hoạt động của con người và xã hội hiện đại. Bởi lẽ du lịch trở thành một hình thức quan trọng trong việc sử dụng thời gian rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu trong mối quan hệ của con người với con người. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian, không gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình ra đời và phát triển du lịch. Vì vậy khi xem xét các vấn đề có liên quan đến du lịch thì yếu tố chúng ta phải quan tâm hàng đầu là nhu cầu du lịch. Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt, tổng hợp của con người, nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (sự đi lại) và các nhu cầu tinh thần (nhu cầu nghỉ ngơi, tự khẳng định mình, nhận thức, giao tiếp). Nó được biểu hiện ở ý muốn tạm rời nơi ở thường xuyên để đến với thiên nhiên, giải phóng khỏi sự căng thẳng tiến ồn, sự ô nhiễm môi trường ngày càng tăng tại thành phố để nghỉ ngơi, giải trí, tăng cường hiểu biết và phục hồi sức khoẻ. Nhu cầu du lịch được khởi dựng và chịu ảnh hưởng đặc biệt của nền văn hoá công nghiệp. Khi trình độ sản xuất nâng cao các mối quan hệ của xã hội ngày càng hoàn chỉnh thì nhu cầu du lịch của con người ngày càng trở lên cấp thiết. Nhu cầu du lịch ngày càng tăng lên cùng với sự gia tăng phúc lợi vật chất và trình độ văn hoá của người dân, đồng thời có liên quan đến sự gia tăng thời gian nhàn rỗi, sự phát triển dân số và tập trung dân cư, sự phát triển giao thông và an toàn xã hội. Nói một cách khác đây chính là các điều kiện cụ thể làm phát sinh và phát triển nhu cầu du lịch. 3. Các yếu tố phát sinh nhu cầu du lịch. - Thời gian nhàn rỗi gia tăng : Những năm gần đây nền kinh tế không ngừng tăng lên, cùng với nó là sự phát triển của khoa học công nghệ và việc áp dụng tối đa những ứng dụng tối đa những ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công - nông - thương nghiệp và dịch vụ đã giải phóng sức lao động của con người. Điều này làm thời gian nhàn rỗi của người lao động tăng lên. Đặc biệt nước ta có quyết định của thủ tướng chính phủ về thực hiện chế độ tuần làm việc 40h, tăng thời gian nghỉ cuối tuần lên 2 ngày thứ 7, chủ nhật, áp dụng tù 2/10/1999 cho cán bộ công chức và người lao động trong cơ quan đơn vị hành chính tổ chức chính trị - xã hội. Khoa học kỹ thuật phát triển đồng thời với sự có mặt của nhiều máy móc hiện đại trong đời sống sinh hoạt của các gia đình: máy giặt, máy hút bụi, máy rửa chén đĩa... giải phóng và tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức con người; chính vì vậy người phụ nữ ngày nay cũng có nhiều thời gian và điều kiện đi du lịch. Điều dễ nhận thấy là khi thời gian nhàn rỗi tăng lên thì nhân dân cũng sẽ dành thời gian đi du lịch nhiều hơn vào dịp: các dịp lễ, ngày nghỉ cuối tuần. - Điều kiện kinh tế phát triển : Nền kinh tế phát triển là tiền đề cho sự phát triển của ngành du lịch. Nền kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống nâng cao; khi những nhu cầu về ăn, mặc, ở... được thoả mãn người dân sẽ có những nhu cầu cao hơn: tìm hiểu, học hỏi, thẩm nhận cái đẹp... từ đó nảy sinh tự nhiên nhu cầu du lịch. Thu nhập bình quân trên người tăng lên thì khả năng chi trả cho những nhu cầu cũng tăng, vì thế khả năng chi trả cho nhu cầu du lịch cũng liên tục tăng. Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước chia theo ngành 1999 – 2002 Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm 1999 2002 Nông - Lâm - xây dựng 10374 132193 Công nghiệp - xây dựng 100004 241933 Dịch vụ 156171 231460 Tổng số 266550 605586 (Nguồn: Niên giám thống kê 2003) Bảng 2: Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực nhà nước do địa phương quản lý theo giá thực tế phân theo địa phương. Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng Năm 1995 2000 2001 2002 Sơ bộ 2003 Thu nhập bình quân/ người 359.1 651.5 738.3 817.4 972.3 (Nguồn: Niên giám thống kê 2003) - Yếu tố ý thích, nguyện vọng đi du lịch của người dân: Theo kết quả nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng do các nhà nghiên cứu tâm lý du lịch thì: Người tiêu dùng khi có sãn các nguồn tài lực: tiền bạc, thời gian,... họ sẵn sàng tìm kiếm mua dùng những sản phẩm và dịch vụ mà họ mong đợi. Với người đi du lịch, du lịch chính là cơ hội để tìm kiếm những kinh nghiệm sống, là cơ hội thoả mãn một số nhu cầu về vật chất và tinh thần, du lịch chính là nhu cầu bậc cao khi các nhu cầu khác được đáp ứng. Khi đã có sẵn những nguồn tài lực nói trên cộng thêm các tác nhân kích thích: thông tin quảng cáo, gia đình, bạn bè, tập thể nơi mà cá nhân làm việc, kiến thức và kinh nghiệm về sản phẩm của bản thân… sẽ hình thành ý thích, nguyện vọng, mong muốn được đi du lịch trong người dân. Du lịch sẽ trở thành nhu cầu thường xuyên, tất yếu. - Yếu tố sức khoẻ : Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển, chất lượng cuộc sống trong nhân dân không ngừng nâng cao, vấn đề sức khoẻ dân số trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Song song với vấn đề dinh dưỡng bữa ăn, vấn đề chăm sóc sức khoẻ nhân dân hết sức được chú trọng. Hệ thống các cơ sở y tế, bệnh viện, phòng khám không ngừng đặt ở những khu chung cư tập trung mà còn có mặt tại các điểm du lịch. Khi con người có sức khoẻ họ mới mong muốn di du lịch để khám phá, tận hưởng và thoả mãn các nhu cầu. Và cũng chính hoạt động du lịch sẽ làm phục hồi sức khỏe, sức lao động cho người dân (du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh). 4. Các yếu tố tác động đến nhu cầu du lịch và du lịch cuối tuần. - Do khả năng tài chính : Để có thể đi du lịch cần có thời gian rỗi và ý chí (ý thích, nguyện vọng) nhưng để tiêu dùng du lịch cần phải có những phương tiện vật chất, khả năng tài chính đầy đủ. đó là điều kiện cần thiết để biến nhu cầu du lịch thành cầu du lịch, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán chi trả (trong hoạt động du lịch tiền của khách du lịch là vấn đề số một). Các nhà nghiên cứu cho thấy: khi thu nhập của người dân tăng thì nhu cầu du lịch tăng. - Do ảnh hưởng từ bạn bè đồng nghiệp : Ấn tượng về một tour du lịch, về sản phẩm và dịch vụ du lịch, về giá cả, về điểm du lịch... rất dễ trở thành kinh nghiệm được truyền đạt vời người tiêu dùng du lịch. Trong một tập thể, một nhóm bạn thân, cơ quan mà cá nhân làm việc chỉ cần một cá nhân truyền đạt lại những ấn tượng tốt về một tour hay một điểm du lịch nó sẽ nhanh chóng lan sang các thành viên khác, sẽ kích thích trí tò mò và mong muốn đi du lịch của cả tập thể. Mặt khác đi du lịch sẽ tạo điều kiện kết thân, củng cố tình bạn bè, tình đồng nghiệp trong một nhóm người, một cơ quan với nhau và tạo các mối quan hệ mới với các khách du lịch khác. Vì vậy yếu tố bạn bè có tác động khá lớn tới nhu cầu du lịch và du lịch cuối tuần. - Do thị hiếu, do mốt : Trong cùng một thời gian, một hoạt động một hiện tượng đi du lịch được nhiều người trong xã hội thực hiện đôi khi sẽ kích thích người này bắt trước người kia có những nhu cầu du lịch được nảy sinh do thị hiếu, do mốt. - Do trình độ dân trí : Trình độ văn hoá của cộng đồng được nâng cao thì nhu cầu đi du lịch của người dân ở đó tăng lên rõ rệt; dân cư ở đó sẽ hình thành ngày càng rõ thói quen di du lịch Khi dân trí ở địa phương có điểm du lịch cao thì cách ứng xử, cách phục vụ du lịch sẽ lịch sự hơn, trọn vẹn hơn, làm hài lòng khách du lịch. Thái độ ứng xử của dân cư địa phương để lại trong khách là rất quan trọng, nó sẽ quyết định tới việc ra đi mãi mãi hay trở lại của khách du lịch. Chương II THỰC TRẠNG VỀ DU LỊCH CUỐI TUẦN Ở HÀ NỘI I. Khái quát về Hà Nội. Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, một vùng đồng bằng phù sa nổi tiếng trù phú. Vị trí của Hà Nội giới hạn trong khoảng từ 20053’ đến 21023’ vĩ độ bắc và 105044’ đến 106002’ kinh độ đông. Hà Nội tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên ở phía Bắc; Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên ở phía Đông; Hà Tây ở phía Nam, và Vĩnh Phúc ở phía Tây. Diện tích của Hà Nội là 918,46 Km2, nơi kéo dài nhất từ Bắc xuống Nam thành phố kéo dài trên 50 Km, còn nơi rộng nhất từ tây sang đông là gần 30 Km. Về mặt hành chính, Hà Nội bao gồm 9 quận nội thành, chiếm diện tích 84,06 km2 (khoảng gần 92% diện tích toàn thành phố) và 5 huyện ngoại thành với diện tích khoảng 834,4 km2 (chiếm 90,8% diện tích toàn thành phố). Hà Nội có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biết so với các địa phương khác trong cả nước. “Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước”. Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng bậc nhất của nước ta. Từ Thủ đô đi đến các thành phố, thị xã của vung Bắc Bộ cũng như của cả nước bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường thuỷ đều rất dễ dàng và thuận tiện. Đây chính là những yếu tố gắn bó chặt chẽ Thủ đô với các trung tâm khác trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi để Hà Nội tiếp nhận kịp thời các thông tin, thành tựu và khoa học - kỹ thuật cuả thế giới, tham gia quá trình phân công lao động quốc tế, khu vực hội nhập vào quá trình phát triển năng động của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Hà Nội giữ vai trò trung tâm lớn nhất Bắc Bộ, có sức hút khả năng lan toả rộng lớn, tác động trực tiếp tới quá trình phát triển của toàn vùng. Ngày 17/7/1999, Hà Nội đã vinh dự là một trong 5 thành phố trên thế giới được UNESSCO - tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc trao tặng giải thưởng thành phố vì hoà bình. Đó cũng là niềm tự hào của người dân Hà Nội nó riêng và Việt Nam nói chung. II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN NHU CẦU DU LỊCH CUỐI TUẦN CỦA HÀ NỘI. 1. Sự tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế văn hoá của Việt Nam đang từng bước phát triển cùng với sự đi lên của cả nước. Hà Nội đã và đang trở thành một trung tâm kinh tế với sự phát triển đa dạng cả công nghiệp xây dựng, thương mại, dịch vụ, nông nghiệp các ngành nghề truyền thống. Kinh tế Hà Nội đang mạnh đang vươn ra thị trường thế giới. Về công nghiệp, Hà Nội là một trung tâm với trên 273 cơ sở sản xuất công nghiệp nhà nước trên địa bàn, trong đó có khoảng 169 cơ sở sản xuất công nghiệp trung ương và 106 cơ sở sản xuất công nghiệp nhà nước địa phương. Khoảng 14940 cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước. Một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm có tốc độ tăng trưởng rất nhanh như ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống, sản xuất đồ da, giầy dép, may mặc, in... Trong nông nghiệp, nhờ có định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng nông nghiệp phát triển toàn diện đã cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm tươi sống và thực phẩm đã chế biến. điều này thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch. Bảng 3: Số doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2002 phân theo quy mô vốn và phân theo địa phương (khu vực Hà Nội) Số vốn (tỷ đồng) Số doanh nghiệp Dưới 0,5 2278 Từ 0,5 đến dưới 1 1729 Từ 1đến dưới 5 3247 Từ 5 đến dưới 10 725 Từ 10 đến dưới 50 913 Từ 50 đến dưới 200 408 Từ 200 đến dưới 500 97 Từ 500 trở lên 63 Tổng số 9460 (Nguồn: Niên giám thống kê 2003) Với vị trí thủ đô, trong những năm qua Hà Nội không những là nơi thu hút được nhiều vốn đầu tư trong nước mà còn là trung tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hà Nội đã thu hút hàng trăm dự án đầu tư nước ngoài với số vốn khoảng 2 tỷ USD từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. 2.Thu nhập chất lượng cuộc sống người dân Hà Nội ngày càng tăng cao. Nền kinh tế phát triển không ngừng đã đem lại hàng hoá đa dạng, phong phú, thuận lợi cho du lịch mà còn góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Khi thu nhập tăng thì khả năng chi trả cho những nhu cầu về du lịch của người dân cũng tăng. Chỉ có những người có khả năng chi trả mới làm tăng sức mua đối với một sản phẩm. Bảng 4: Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực nhà nước do địa phương quản lý theo giá thực tế phân theo địa phương. Đơn vị: Nghìn đồng Năm Khu vực 1995 2000 2001 2002 Sơ bộ 2003 Cả nước 359,1 651,5 738,3 817,4 972,3 Hà Nội 373,9 610,5 721,3 832,8 919,7 (Nguồn: Niên giám thống kê 2003) Bảng 5: Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 2001 - 2002 theo giá trị thực tế phân theo 5 nhóm thu nhập và phân theo địa phương. Đơn vị: Nghìn đồng. Khu vực Bình quân chung Trong đó Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Cả nước 356,1 107,7 178,3 251,0 370,5 872,9 Hà Nội 621,0 204,5 368,4 499,8 672,8 1360,5 (Nguồn: Niên giám thống kê 2003) Thu nhập bình quân trên người tăng, chất lượng cuộc sống sẽ tăng cao; người dân có khả năng chi trả cho những nhu cầu cao hơn trong cuộc sống; y tế, giáo dục, nghỉ ngơi, giải trí... Đánh giá về chất lượng cuộc sống của nhân dân thì y tế và giáo dục là những nhân tố rất quan trọng. Bảng 6: Trực thuộc sở y tế Hà Nội (31/12/2003) Tổng số Trong đó Bệnh viện Phòng khám Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng Trạm y tế, xã, phường công an Hà Nội 4269 3390 35 704 (Nguồn: Niên giám thống kê 2003) Hệ thống giáo dục của Hà Nội rất hoàn thiện so với cả nước. Theo nguồn niên gián thống kê 2003, số trường phổ thông tại thời điểm 30/9/2003 ở Hà Nội là. - Tổng số là 596 truờng. - Tiểu học là 271 trường - Trung học cơ sở là 225 trường - Trung học phổ thông là 97 trường - Phổ thông cơ sở là 39 trường - Số sinh viên Đại học và Cao đẳng năm 2003 ở Hà Nội: 43995 người. - Số học sinh trung học chuyên nghiệp năm 2003 ở Hà Nội: 41617 người. 3. Thời gian nhãn rỗi gia tăng Chế độ làm việc 40h /tuần được thực hiện đã làm tăng thời gian nghỉ cuối tuần trong 2 ngày là thứ 7, chủ nhật cho người lao động. Như vậy ngày nay không chỉ đi du lịch vào các dịp nghỉ lễ, nghỉ phép trong năm mà họ sẽ có thời gian đi du lịch thường xuyên hơn vào những ngày cuối tuần. Thời gian nhàn rỗi là điều kiện số một quyết định đến hành động đi du lịch. 4. Phương tiện giao thông ngày càng phát triển. Những năm gần đây cùng với sự hoàn thiện và hiện đai hoá các loại đường sá, trong nội thành và các vùng phụ cận (đường bộ, sắt, thuỷ, không) là sự phát triển chóng mặt của các phương tiện giao thông: của nhà nước thì là sự tăng tốc của những chuyến tàu, tăng về số lượng và chất lượng của dịch vụ xe buýt; song song là sự ra đời của các dòng xe ô tô, xe máy... của các công ty liên doanh. Sự phong phú về chủng loại và giá cả đã thoã mãn được nhu cầu phương tiện đi lại cho người dân, điều này đã đơn giản hoá và thuận tiện, cơ động hoá nhu cầu đi du lịch cuối tuần của người dân. Người Hà Nội giờ đây có thể sử dụng dịp nghỉ cuối tuần này đi nhiều nơi hơn, xa hơn để du lịch bằng nhiều phương tiện: tàu hoả, xe máy, ô tô, xe đạp... 5. Sức ép của quá trình phát triển đô thị. Tốc độ đô thị hoá nhanh, công nghiệp phát triển mạnh đã thay đôi bộ mặt của Thủ đô, nhưng mặt khác nó cũng mang theo những hậu quả nặng nề về môi trường, về sức khoẻ, tinh thần cho người Hà Nội. Hà Nội là thành phố có số dân đông thứ hai sau Thành Phố Hồ Chí Minh, nhưng mật độ dân cư / km2 thì lớn nhất của cả nước. Đặc biệt dân cư tập trung đông ở khu vực nội thành. VD các quận Đống Đa, Hoàn Kiếm, Ba Đình. Bảng 7: Mật độ dân cư Hà Nội chia theo đơn vị hành chính Diện tích Dân số Mật độ dân số { km } { nghìn người } { người/ km2 } 1. Nội thành 84,06 1446,4 17207 Ba Đình 9,3 202,7 21779 Tây Hồ 23,94 92,7 3874 Hoàn Kiếm 5,29 171,4 32339 Hai Bà Trưng 14,5 356,5 24589 Đống Đa 9,94 336,0 33804 Thanh Xuân 9,13 154,6 16934 Cầu Giấy 11,96 132,5 11075 2. Ngoại thành 834,4 1265,2 1516 Sóc Sơn 306,5 145,0 799 Đông Anh 182,0 260,1 1429 Gia Lâm 172,9 340,2 1968 Từ Liêm 75,1 193,2 2573 Thanh Trì 79,9 226,7 2837 Tổng số toàn thành 918,46 2711,6 2952 (Nguồn:Nên giám thống kê 2003) Dưới sức hút của cuộc sống đô thị, hàng năm Hà Nội phải tiếp nhận, hàng vạn lao động từ nông thôn và các tỉnh đổ về đây để tìm việc làm, khiến cho Hà Nội đất đã chật, người đã đông nay càng thêm chật chội. Hà Nội lại là nơi tập trung nhiều các trường đại học, cao đẳng, THCN nên lại thêm sức ép do tập trung đông học sinh, sinh viên. Dân số quá đông kéo theo tình trạng môi trường, nước thải sinh hoạt, khói công nghiệp, tiếng ồn, rác thải… trở thành một vấn đề nan giải. Hàng loạt vấn đề đè lên vai khiến người Hà Nội dễ rơi vào tình trạng ngột ngạt, mệt mỏi, strees...Đây chính là lý do khiến cho nhu cầu du lịch cuối tuần chở nên thiết yếu. III. THỰC TRANG DU LỊCH CUỐI TUẦN CỦA HÀ NỘI Những năm gần đây, người Hà Nội đã hình thành thói quen nghỉ cuối tuần tại các điểm du lịch vui chơi giải trí công cộng, các nhà hàng trong nội thành hay ngoại vi với khoảng cách vài chục km. Nhu cầu du lịch cuối tuần có thể tăng giảm theo thời vụ du lịch và chịu tác động của các điều kiện kinh tế xã hội; song nhu cầu ấy khá ổn định và đang có su hướng tăng lên .(xem bảng 8) Bảng 8: Kết quả điều tra xã hội học về du lịch cuối tuần của người Hà Nội dầu năm 2003 Đơn vị: (% ) Nhóm người Nhu cầu Cán bộ hành chính sự nghiệp Công nhân lao động Học sinh sinh viên Du lịch cuối tuần trong khoảng cách xa nơi ở > 40km 62 51 70 Vui chơi giải trí mua sẵn tại chỗ 12 23 3 Nghỉ ngơi tại chỗ 16 11 19 Thăm người bạn bè 10 7 7 Không có ý kiến 8 1 (Theo báo du lịch Việt Nam số 712004, TS Đinh Trung Kiên) Dù kết quả điều tra này phản ánh chưa đầy đủ nhu cầu thực tế trong những ngày nghỉ cuối tuần của nguời Hà Nội, song nó cũng cho thấy nhu cầu du lịch cuối tuần là rất lớn với tỷ lệ chung vượt quá 50% số người được hỏi. Trên thực tế, khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm là thời điểm người Hà Nội đi du lịch cuối tuần đông nhất. Đây cũng là dịp nghỉ hè của học sinh, sinh viên, nên thành phần này chiếm số lượng đông đảo nhất. Họ thường đi theo nhóm, lớp, hội... Nhóm gia đình, công chức có số lượng sau học sinh - sinh viên. Các số lượng khách khác ít hơn. Vào những khoảng thời gian khác, việc đi du lịch cuối tuần không đều và rất ít người vào những tháng mùa đông giá lạnh. Người Hà Nội thường đi du lịch cuối tuần ở Ba Vì Sơn Tây (Hà Tây), rồi đến Đồ Sơn (Hải Phòng), Bãi Cháy (Quảng Ninh) ở các địa phương phụ cận như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình, khách du lịch cuối tuần từ Hà Nội đến còn rất ít. 3. Đánh giá về sự phát triển du lịch cuối tuần của Hà Nội Người Hà Nội với đa số là cán bộ công chức, học sinh - sinh viên nên nhu cầu du lịch cuối tuần trong hiện tại và tương lai là rất lớn. Một số địa phương như Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì - Sơn Tây (Hà Tây) là điểm đến khá hấp dẫn và quen thuộc mà đông đảo người Hà Nội khi đi du lịch cuối tuần lựa chọn. ở đó, các dịch vụ du lịch được đầu tư, được tổ chức tốt hơn hẳn so với các địa phương khác. Trong tương lai nếu hệ thống giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng tại điểm, trang thiết bị, môi trường, nước... tại điểm du lịch mà được cải thiện thì số lượng khác du lịch cuối tuần Hà Nội sẽ tăng thêm đặc biệt là những điểm: Đải lải, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Côn Sơn, Hồ Núi Cốc, Quất Lâm, Cúc Dương... và sẽ phát triển những điểm mới có khoảng cách xa hơn. Trong tương lai du lịch cuối tuần của người Hà Nội sẽ trở thành tiềm năng rất hấp dẫn. Tuy tỷ lệ nghiên cứu được từ nhu cầu du lịch cuối tuần của người Hà Nội là cao so với cả nước, nhưng so với các nước trong khu vực và thế giới thì tỷ lệ đó còn thấp. Du lịch cuối tuần chưa thực sự được coi là bình thường và diễn ra thường xuyên. Vấn đề đặt ra là người Hà Nội thiếu nơi đến cho khách du lịch cuối tuần phù hợp với nhu cầu, sở thích, khả năng chi trả của họ. Các địa danh du lịch nêu trên đã khá quen thuộc, nhưng chưa đáp ứng đúng và đủ yêu cầu của hoạt động du lịch cuối tuần. Những hình thức vui chơi giải trí hoặc thiếu vắng hoặc kém hấp dẫn; dịch vụ chưa phong phú, đa dạng. Mặt khác điều kiện ăn ở cũng chưa phù hợp cho các đối tượng khách cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như môi trường cảnh quan. Du lịch cuối tuần vừa là nhu cầu của người Hà Nội nói chung, vừa là định hướng phát triển của những địa phương gần Hà Nội để phát huy lợi thế của mình. Chính vì vậy cần đầu tư, khuyến khích phát triển mạnh hơn hoạt động này. IV . MỘT SỐ ĐIỂM, CỤM DI TÍCH ĐỂ XÂY DỰNG TOUR PHỤC VỤ NHU CẦU DU LỊCH CUỐI TUẦN CỦA NGƯỜI HÀ NỘI 1. Một số điểm, cụm di tích lịch sử văn hoá. 1.1. Khu vực nội thành VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM : Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu hàng đầu về văn hoá bác học, đồng thời cũng là di tích kiến trúc cung đình gần như duy nhất còn lại trong kho tàng di tích - lịch sử văn hoá Hà Nội. Văn Miếu được xem như là dấu tích của trung tâm văn hoá Nho học, dấu tích của trường Đại Học đầu tiên ở nước ta. HỒ HOÀN KIẾM Đẹp như một đoá hoa giữa lòng thành phố, Hồ Hoàn Kiếm được bao quanh bởi các phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ, Hàng Khay dài khoảng 1800m. Với những rặng liễu thướt tha tóc rủ, mái đền, chùa cổ kính. Hồ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ những truyền thuyết văn hoá, lịch sử của dân tộc. Trên Đảo Ngọc cuả Hồ Hoàn Kiếm có ngôi Đền Ngọc Sơn được xây dựng từ thế kỷ 19. Bên nối vào ngôi đền là Tháp bút, trên thân tháp có tạc ba chữ “Tả Thanh Thiên” nói lên ý chí của con người chân chính, cầu Thê Húc “cong cong như con tôm” là lối dẫn từ phố bà triệu vào đảo Ngọc. Từ hồ ta có thể dạo chơi thăm khu phố cổ, Nhà hát lớn, Viện bảo tàng lịch sử, Bảo tàng cách mạng... LĂNG CHỦ TỊCH Khu vực Lăng Hồ Chủ Tịch với Lăng, Nhà Sàn, Viện Bảo Tàng, Chùa một cột, Quảng Trường Ba Đình. Khu vực này là một quần thể các di tích lịch sử cách mạng đặc biệt quan trọng của Thủ Đô. Nơi đây luôn giữ một dáng vẻ trang nghiêm hoà quện vào màu xanh ngát của rừng cây, hoa trái. HỒ TÂY Hồ Tây là một hồ lớn nhất Thủ Đô về phía Bắc nội thành, có mặt nước rộng hơn 500 ha, chu vi 12 km. Đây là khu di tích thăm quan lý tưởng, bạn có thể đi du thuyền dạo quanh một vòng hồ hoặc đi một vòng hồ hoặc đi thuyền buồm, chèo thuyền. Xung quanh hồ là một quần thể các chùa, đền như chùa Trấn Quốc, chùa Kim Liên, chùa Táo Sách, Đền Quán Thánh, Phủ Tây Hồ, Làng Nghi Tàm, Nhật Tân và nhiều câu lạc bộ khác. CÔNG VIÊN BÁCH THẢO Nằm ở sau phủ chủ tịch, rộng khoảng 20ha. Nét đẹp của Bách Thảo là rừng cây, môi trường sinh thái tự nhiên, yên tĩnh, nghe rõ tiếng chim gù trên cây. Tới nơi đây ta có cảm giác mới lánh xa cảnh ồn ào nhộn nhịp của phố phường. VƯỜN THỦ LỆ Nằm ở phía tây nam thành phố, cách trung tâm 4km. Đây là một vùng có những gò đất nhấp nhô và một dải hồ kéo dài rộng 6ha với 5 khu trưng bày và 40 điểm thả động vật thuộc 4 lớp bao gồm 92 loài 1600 cá thể. 1.2. Khu vực ngoại thành phụ cận : CHÙA HƯƠNG Hương Sơn là một quần thể di tích với hệ thống các đền, chùa, hang động. Và những thắng cảnh rất ngoạn mục, được bao phủ trong màu xanh ngút ngàn của cây rừng và dãy núi đá vôi trùng điệp. Hương Sơn xứng đáng là một đại kỳ quan của đất nước. Nằm cách Hà Nội khoảng 70km về phía Tây Nam, Chùa Hương trở thành một điểm du lịch hấp dẫn với người Hà Nội. CHÙA THẦY Chùa Thầy thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội chưa đầy 20hm theo đường Láng Hoà Lạc đây là nơi tu hành và cũng là nơi chút xác của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa nằm trên núi phật tích hay còn gọi là núi Thầy. Chùa Thầy trở thành điểm du lịch hấp dẫn với nhiều đố tượng đặc biệt là học sinh, sinh viên. CÔN SƠN - KIẾT BẠC Di tích này nằm ở huyện Chí Linh, Hải Dương. Ngay từ thời trần, côn sơn là một trong 3 trung tâm cuat Thiên Phái Trúc Lâm. Mảnh đất này gắn bó với tên tuổi, sự nghiệp của nhiều doanh nhân đất Việt: Trần Nguyễn Đán, Huyền Quang đặc biệt là người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi HỒ NÚI CỐC Hồ núi cốc là một loại hồ nhân tạo với diện tích khoảng 25km2. Trên mặt hồ rộng mênh mông có tới hơn 89 hòn đảo. Cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 1,5 km về phía Tây Nam, cách Thủ Đô h khoảng 80 km. Hồ nằm giữa khung cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, rừng đại ngàn của miền núi và trung du đây là nơi du lịch vừa đẹp vừa lên thơ, lung linh câu chuyện của nàng công chúa và chàng Cốc đáng yêu. VỊNH HẠ LONG Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh, cách Hà Nội khoảng 170 km với gần 2000 hòn đảo lớn nhỏ và rất nhiều các hang động khổng lồ trong lòng núi tất cả nằm trong vịnh biển rộng 15000 km. Hạ Long là một mê cung khổng lồ mà không ai có thể hiểu hết. Ngày 17/12/1994 Vịnh Hạ Long đã trở thành di sản thiên nhiên của thế giới. NÚI MẪU SƠN (LẠNG SƠN) Cách thị xã Lạng Sơn khoảng 30km về phía đông là núi Mẫu Sơn. Núi có đỉnh cao 1.541 m so với mặt nước biển. Núi Mẫu Sơn được bao bọc bởi hàng trăm quả núi nhỏ, khí hậu ôn hoà rất thích hợp cho hoạt động du lịch cuối tuần và du lịch điều dưỡng vào mùa đông đỉnh núi luôn bị xuơng mù bao phủ làm cho cảnh sắc thiên nhiên mờ mờ, ảo ảo thật đẹp. Mùa hè trong sắc nắng vàng rực rỡ đỉnh núi Mẫu Sơn đã hiện lên sừng sững, cao ngất trông thật đồ sộ. Ai đã từng đi Sa Pha ở Lào Cai rồi có dịp đến Mẫu Sơn, hẳn trong lòng sẽ có sự so sánh. BÃI BIỂN THỊNH LONG (NAM ĐỊNH) Theo con đường 21 từ thành phố Nam Định ra thị trấn Hải Thịnh thuộc huyện Hải Hậu, du khách sẽ được đến bãi tắm Thịnh Long. Đây là một bãi tắm mới được đưa vào khai thác và sử dụng vài năm trở lại đây, nó vẫn giữ được khá nhiều vẻ hoang sơ, nước sạch chưa bị ô nhiễm. Đặc biệt bãi tắm có giải cát mịn trải dài. Nước biển có độ mặn cao, sóng lớn, khá hấp dẫn. Thêm vào đó là những hàng phi lao tươi xanh vẫn thường reo vui trong những cơn gió, chạy dài xa ngút tầm mắt nên chúng ta sẽ cảm thấy vẻ đẹp nguyên sơ của nó. 2. Một số tour du lịch điển hình * Chương trình 1: Thăm quan thủ đô Hà Nội (thời gian 1 ngày) 8h00: Xe đón khách tại điểm tập kết trong thành phố. Xe đưa quý khách đi thăm quan Lăng Bác – khu di tích và bảo tàng Hồ Chí Minh, Chùa một cột, khu vực Hồ Tây, Chùa Trấn Quốc, Viện bảo tàng Mỹ Thuật. Ăn trưa. 13h00: Quý khách thăm quan Văn Miếu – Quốc Tử Giảm, Viện bảo tàng Lịch Sử, viện bảo tàng Quân Đội, Nhà Thờ Lớn Hà Nội. * Chương trình 2: Thăm quan thành phố Hà Nội (2 ngày 1 đêm) - Ngày 1: Nội thành Hà Nội. 8h00: Xe ô tô đón quý khách tại điểm tập kết đi thăm một số điểm nội thành: Hồ Hoàn Kiếm, Đền Ngọc Sơn, khu phố cổ Hà Nội, viện bảo tàng Quân đội, ăn trưa. 13h00: Quý khách đi thăm Hồ Tây bằng thuyền, thăm chùa Kim Liên, Phủ Tây Hồ, Chùa Trần Quốc. 18h30: Quý khách ăn tối tại khách sạn sau đó tự do ngắm cảnh Hồ Tây về đêm. Nghỉ tại khách sạn. - Ngày 2: Thành Phố Hà Nội. Sau bữa ăn sáng xe đưa quý khách đi thăm Cổ Loa và đền thờ An Dương Vương, cách Hà Nội khoảng 17 Km. Ăn trưa. Chiều xe đưa quý khách đi thăm Sóc Sơn – một điểm du lịch lý tưởng có rừng thông, hồ nước để quý khách xả hơi sau một chuyến đi dài. 16h20: Xe đưa quý khách về thẳng điểm tập kết ban đầu tại Hà Nội, kết thúc chuyến đi. * Chương trình 3: Hà Nội – Chùa Thầy – Chùa Tây Phương – Hà Nội (thời gian 1 ngày). 8h00: Xe đón khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội, khởi hành đi Chùa Thầy. 8h40: Quý khách sẽ được đặt chân đến khu Chùa Thầy. Sau khi thắp hương trong chùa quý khách có thể tự do trèo núi để ngắm cảnh xung quanh chùa hoặc vào hang Các Cớ, đi tiếp xuống hang Bò, Muốn vào hang này phải dùng thuyền nhỏ, cách hang này một đoạn không xa là hang gió, ăn trưa tại nhà hàng địa phương. 13h30: Quý khách tiếp tục khởi hành đi thăm chùa Tây Phương. Nơi đây quý khách sẽ được thưởng thức những tác phẩm xuất sắc của nghệ thuật điêu khắc. 17h00: ô tô đưa quý khách trở lại điểm tập kết ban đầu tại Hà Nội. Kết thúc chuyến đi. * Chương trình 4: Hà Nội - Côn Sơn - Kiết Bạc - Hà Nội (Thời gian 1 ngày) 6h00: Xe đón khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội, khởi hành đi Côn Sơn. Tới Côn Sơn quý khách thắp hương tưởng niệm, thăm bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi cuả cụ Nguyễn Trãi. Ăn trưa, nghỉ ngơi. 13h00: Lên ô tô đi thăm đền Kiết Bạc, mộ Chu Văn An. 16h30: Xe đưa quý khách trở lại điểm tập kết ban đầu tại Hà Nội. Kết thúc chuyến đi. * Chương trình 5: Hà Nội - Chùa Hương - Hà Nội (thời gian 1 ngày) Sáng 7h00: khởi hành đi Chùa Hương, đi hết khoảng 2h ô tô. Đến Chùa Hương quý khách sẽ đi thuyền dọc Suối Yến tới chùa Thiên Trù. Leo tới hết 2 giờ thăm động Hương Tích, đi xuống 1 giờ… Sau đó Nghỉ Ngơi ăn trưa tại Thiên Trù. Chiều Quý khách có một giờ để tự do mua sắm hàng hoá, quà lưu niệm. Trở về Hà Nội. 18h00 về tới Hà Nội. Kết thúc chuyến đi * Chương trình 6: Hà Nội - Hồ Núi Cốc - Hà Nội (Thời gian 2 ngày 1 đêm) Ngày 1: Hà Nội - Thái Nguyên: 6h00: Xe đón quý khách đi Hồ Núi Cốc, đến Hồ Núi Cốc, ăn trưa và nghỉ ngơi. Chiều: Thăm quan viện bảo tàng Việt Bắc, Chợ thành phố Thái Nguyên. 16h00 Xe đưa quý khách về Hà Nội. Kết thúc chuyến đi. * Chương Trình 7: Hà Nội - Đại Lải - Hà Nội (thời gian 2 ngày 1 đêm) Ngày 1: Hà Nội - Đại Lải. 6h00: Xe đón khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội khởi hành đi Đại Lải. 10h00: Đến Đại Lải, quý khách nhận phòng tại khách sạn Chiều: Quý khách dạo chơi tắm ở Hồ Đại Lải. Ăn trưa và ăn tối tại nhà hàng và khách sạn. Nghỉ đêm tại Đại Lải. Ngày 2: Đại Lải -Hà Nội. Ăn sáng tại khách sạn, sau đó quý khách đi thăm khu trại Viết Văn và khu du lịch Đại Lải. Ăn trưa tại khách sạn. Chiều: Ô tô đưa quý khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội. Kết thúc chuyến đi. *Chương trình 8: Hà Nội- Ba Vì - Ao Vua- Khoang Xanh- Hà Nội ( Thời gian 2 ngày 1 đêm) - Ngày 1: Hà Nội- Ba Vì - Ao Vua 7h45: Ô tô đón quý khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội. Khởi hành đi thăm Vườn Quốc Gia Ba Vì. Sau đó quý khách tiếp tục khởi hành đi Ao Vua. Tới Ao Vua quý khách nhận phòng, nghỉ ngơi, ăn trưa. Chiều: quý khách có thể tham gia các trò chơi trượt nước mới được đưa vào hoạt động hoặc có thể leo núi ngắm toàn cảnh khu du lịch Ao Vua. Ăn tối và nghỉ đêm tại Ao Vua. Ngày2: Ao Vua- Khoang Xanh-Hà Nội. Ăn sáng xong, xe đưa quý khách đến khu du lịch Khoang Xanh- Suối Tiên, đi khoảng 500m, du khách sẽ được đắm mình trong một thung lũng xanh thơ mộng bên núi Tản Viên, có dòng Suối Tiên chảy xuống như dòng thác bạc khổng lồ. Ăn trưa tại địa phương. 13h00: Ô tô đón quý khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội. Kết thúc chuyến đi. * Chương trình 9: Hà Nội - Hạ Long - Hà Nội (thời gian 2 ngày 1 đêm) - Ngày1: Hà Nội - Hạ Long. Sáng 6h30: : Ô tô đón quý khách tại điểm tập kết trong thành phố Hà Nội khởi hành đi Hạ Long. 11h30: Đến Hạ Long, nhận phòng tại khách sạn và ăn trưa. Chiều 13h30: đi thuyền thăm Vịnh trong vòng 4 tiếng khám phá những hang động tự nhiên, kỳ ảo cua Vịnh. Ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn. - Ngày2: Hạ Long- Hà Nội. Sáng: ăn sáng tại khách sạn. 7h00: du khách đi thuyền thăm Vịnh. Ăn trưa. Chiều trở về Hà Nội. 18h00: Về Hà Nội, kết thúc tour. * Chương trình 10: Hà Nội - Hạ Long - Cát Bà -Hà Nội (thời gian 3 ngày 2 đêm) - Ngày1: Hà Nội - Hạ Long - Cát Bà. Sáng: 6h30 khoẻi hành đi Hạ Long, 11h30 ăn trưa Chiều: 11h30 du thuyền đến đảo Cát Bà. Tới khách sạn ăn tối và ngủ đêm tại Cát Bà. - Ngày 2: Cát Bà. Sáng: Ăn sáng tại khách sạn. Thăm quan rừng Quốc Gia Cát Bà. Ngắm cảnh trên đường. Ăn trưa tại khách sạn. Chiều: tự do tắm biển hoặc thăm làng chài. Ăn tối và nghỉ đêm tại Cát Bà. - Ngày3: Cát Bà - Hạ Long - Hà Nội . Sáng: Ăn sáng tại Khách sạn. Du thuyền trở lại Hạ Long tắm biển, ăn trưa. Chiều: trở về Hà Nội. 18h00: Về Hà Nội, kết thúc tour. * Chương trình 11: Hà Nội - Hải Hậu - Hải Thịnh - Hà Nội (2 ngày 1 đêm) - Ngày 1: Hà Nội - Hải Thịnh. Sáng: 5h30 ô tô đón quý khách tại điểm tập kết Hà Nội khởi hành đi Hải Thịnh. 9h15: đến Hải Thịnh nhận phòng. Ăn trưa. Chiều: tắm biển tự do. Ăn tối, nghỉ ngơi. - Ngày 2: Hải Thịnh - Hà Nội. 8h00: ô tô đưa quý khách đi thăm chùa, làng cổ Hải Hậu Hải Thịnh . 10h00: quý khách trở về khách sạn, tự do tắm biển. Ăn trưa. 12h00: quý khách làm thủ tục trả phòng, lên ô tô về Hà Nội. Kết thúc tour. * Chương trình12: Hà Nội - Tam Đảo - Hà Nội (thời gian 2 ngày 1 đêm) - Ngày 1: Hà Nội - Tam Đảo . 6h30 : Khởi hành đi thăm quan Tam Đảo, trên đường đi quý khách được chiêm ngưỡng phong cảnh miền núi trung du. Đến Tam Đảo quý khách nhận phòng. Ăn trưa và nghỉ ngơi. Buổi chiều: quý khách đi thăm quan Thác Bạc, quý khách tự do tăm suối hoặc tắm bể bơi. Ăn tối tự do dạo chơi ngắm cảnh Tam Đảo về đêm. - Ngày2: sau khi ăn sáng quý khách đi thăm Tháp truyền hình Tam Đảo, thăm đền Bà Chúa Thượng Ngàn. Ăn trưa. Xe đưa quý khách về Hà Nội. Kết thúc chuyến đi. * Chương trình 13: Hà Nội - Ba Bể ( thời gian 3 ngày 2 đêm). - Ngày 1: Hà Nội - Hồ Ba Bể. Xe khởi hành lúc 6h00 sáng tai Hà Nội đi Ba Bể - Công Viên Quốc Gia. Trên đường có dừng ngắm cảnh và chụp ảnh - Ngày 2: Hồ Ba Bể Du khách thăm cảnh đệp kỳ thú của công viên rừng Quốc Gia bằng thuyền gỗ quý khách khám phá những cảnh tượng kỳ vĩ của thác nước, thung lũng sâu thẳm, hang động tự nhiên và các hồ nhỏ. - Ngày3: Ba Bể - Hà Nội Quý khách tiếp tục thăm quan hồ. Sau đó về Hà Nội. Trên đường có dừng tản bộ ngắm cảnh, ăn trưa. 18h00 về Hà Nội. Kết thúc tour Đơn vị tính(nghìn đ/người) TT Chương trình du lịch cuối tuần tiêu biểu SL.ngày P.Tiện Giá khách 10 - 13 khách 20-30 khách 35 khách trở lên 1 Hà Nội - Đá chông (k9) - Đền và - Chùa mía - Làng cổ đường lâm - Hà Nội 01 ngày ô tô 121 76 59 2 Hà Nội - Chùa mía - Đền và - thác đa- Hà Nội 01 ngày ô tô 130 85 68 3 Hà Nội - đền thượng - ba vì-đá trông (k9) - Hà Nội 01 ngày ô tô 141 96 Không đi được 4 Hà Nội - các đền chùa sơn tây- Hà Nội 01 ngày ô tô 125 86 65 5 Hà Nội - đền hùng - đền sóc - chùa non- Hà Nội 01 ngày ô tô 127 93 63 6 Hà Nội - đền sóc - chùa non - cổ loa- đền đô - đền đình bảng - Hà Nội 01 ngày ô tô 121 76 59 7 Hà Nội - đền đình chùa thánh nam- Hà Nội 01 ngày ô tô 130 96 68 8 Hà Nội - đền đình chùa kinh bắc - Hà Nội 01 ngày ô tô 113 73 53 9 Hà Nội - nhà thờ phát diệm - chùa non nước tam cốc bích động - cố đô hoa lư Hà Nội 02 ngày ô tô 316 283 242 10 Hà Nội - Hạ Long - làng văn hoá các dân tộc Việt Nam - tuần châu - Hà Nội 02 ngày ô tô 520 452 391 11 Hà Nội - hồ núi cốc - bảo tàng dân tộc Hà Nội 02 ngày ô tô 379 331 289 12 Hà Nội - lạng sơn - bằng tường - Hà Nội 02 ngày ô tô 610 557 488 13 Hà Nội - hồ Ba Bể - Hà Nội 03 ngày ô tô 608 540 466 14 Hà Nội - sa pa - hà khẩu - Hà Nội 04 ngày ô tô 805 776 726 15 Hà Nội - phong nha- huế - Hà Nội 04 ngày ô tô 833 742 663 16 Hà Nội - bái tử long - đảo tam lan- đền minh châu - Hạ Long - tuần châu - Hà Nội (tối đa 25 khách) 03 ngµy « t« 1.059 833 Kh«ng nghØ ®uîc \ Chương III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CUỐI TUẦN CỦA HÀ NỘI I. Đối với các cơ quan quản lý 1. Xây dựng quy hoạch chi tiết cho các điểm du lịch Cho đến nay, thực sự chưa có các điểm chuyên dành cho các việc thu hút khách du lịch đi nghỉ cuối tuần phải có một số tiêu chuẩn đặc trưng không giống như một điểm du lịch khác. Người đi nghỉ cuối tuần chủ yếu có nhu cầu xả hơi thư giãn, phục hồi sức khoẻ sau một tuần làm việc căng thẳng. Nơi nghỉ cuối tuần cân phải đáp ứng các nhu cầu sau: - Thoả mãn nhu cầu tự nhiên (nơi ăn, nghỉ, vệ sinh hợp lý). Ngoài bãi gửi xe, khu nghỉ cuối tuần còn có những không gian để cắm trại, khung lều trại cho thuê. - Đảm bảo sự an toàn cho du khách. Nơi nghỉ cuối tuần cần có cấc tổ chức về lực lượng bảo vệ, cứu trợ để ngăn chặn những hiểm hoạ có thể đe dọa đến tính mạng và tài sản của quý khách. - Nơi nghỉ cuối tuần còn phải là nơi thích hợp để bạn bè, đồng nghiệp… gặp gỡ, trao đổi tình cảm cùng hưởng những lợi ích về tinh thần và vật chất của một chuyến du lịch ngắn ngày. 2. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các điểm du lịch hấp dẫn khách hiện tại. Cuối tuần người Hà Nội thường đi du lịch tại các điểm: Thác Đa, Tam Đảo, Đồng Mô, Hồ Đại Lải. Đây là những điểm quen thuộc và khá hấp dẫn. Chúng ta cần đầu tư để xây mới, hoàn thiện thêm các cơ sở vật chất phục vụ tốt hơn nhu cầu ăn, nghỉ của khách. Cần tạo ra những hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn hơn. Muốn hạn chế tính thời vụ ở những điểm này cần mở rộng các dịch vụ, sản phẩm thay thế mở thời vụ thứ hai. 3. Có kế hoạch phát triển thêm các điểm du lịch mới. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội, ngoài những điểm đang khai thác, cần có kế hoạch phát triển thêm các điểm du lịch mới. Các tỉnh lân cận Hà Nội: Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Ninh Bình, với rất nhiều tiềm năng, cần đầu tư, nghiên cưu để khai thác những điểm mới. Dải hành lang ven Sông Hồng là nơi có nhiều phong cảnh đẹp, cây trái xum xuê, nhiều di tich lịch sử - văn hoá và làng nghề cổ truyền. Nếu đầu tư xây dựng Hà Nội sẽ có thêm những tuyến du lịch đường sông, miệt vườn… rất hấp dẫn. Cần tận dụng những nơi có mặt bằng rộng rãi, nơi có hồ nước gần thành phố để xây dựng các công viên theo chuyên đề (disnay lan) các công viên vui chơi giải trí có tầm cỡ như công viên đầm sen, Suối Tiên ở thành phố Hồ Chí Minh Cần phát triển, trông mới các vườn hoa, vườn thực vật quy hoạch rừng cây xanh tại các khu lân cận góp phần cải thiện môi trường thành phố 4. Phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng. - Hệ thống đường xá: cần đầu tư xây dựng, mở rộng, hoàn thiện hơn nữa nhằm khống chế hẳn tình trạng tắc nghẽn giao thông vào những ngày cuối tuần. Đồng thời cần tu bổ, sửa chữa, bê tông hoá các con đường dẫn từ quốc lộ tới các điểm du lịch. - Phương tiện giao thông: Cần mở các tuyến xe buýt đường dài có hể dẫn tới gần các điểm du lịch như vậy sẽ hạn ché được lượng xe cộ cá nhân tên đường, tạo thuận lợi cho khách du lịch. Khuyến khích, mở rộng đi du lịch bằng đường sông và bằng phương tiện thô sơ ( xe đạp) là phương tiện đi du lịch cuối tuần rất model, ở Châu Âu, giới thanh niên có đến 45% số người đi du lịch. - Điện nước: Đây là nhu cầu tối thiểu đối với đời sống, sinh hoạt con người. Cần cải tạo, nâng cấp, xây mới nhằm đáp ứng đầy đủ nhất cho du khách tại các điểm du lịch đặc biệt vào màu cao điểm. - Thông tin liên lạc: Hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, trạm, bốt điện thoại, điện báo tại các điểm du lịch giúp khách dễ dàng trao đổi thông tin với thành phố. 5. Đầu tư xây dựng cơ sở đón tiếp khách Với đặc điểm là khu du lịch cuôi tuần chỉ kéo dài 1 đến 3 ngày và thường chọn nơi có phong cảnh thiên nhiên đệp đẻ khai thác. Do đó không nên xây dựng công trình lớn quá, có quy mô đồ sộ, phá vỡ sự hài hoà của cảnh quan chung trong khu vực. Nên xây dựng nhưng gian nhà sàn, nhà gỗ nhỏ nhắn xinh xắn. Cơ sở ăn uống lên chú trọng chế biến, cung cấp những món ăn ngon, lạ, đặc biệt là những món ăn đặc sản chỉ có ở địa phương. 6. Bảo vệ và cải tạo môi trường tại các điểm du lịch. Tài nguyên môi trường tại các điểm du lịch là yếu tố quyết định đến việc hình hình thành và phát triển du lịch khi khai thác các tài nguyên du lịch cần chú ý: - Sử dụng hợp lý tài nguyên. - Cấm săn bắn mua bán chim thú một các tuỳ tiện. - Tại các điểm du lịch cần kết hợp biển chỉ dẫn bỏ rác thải đúng quy định với việc tuyên truyền, giáo dục hướng khách du lịch biết bảo vệ tài nguyên. - Khai thác tài nguyên du lịch theo hướng bền vững với phương châm Ngành - Địa Phương - Khách du lịch cùng làm. II. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành Thủ Đô. Các công ty lữ hành nên tham gia cùng với các nhà đầu tư để xây dựng các điểm du lịch cuối tuần nhằm tạo ra những sản phẩm độc đáo, hấp dẫn. Mở rộng và nâng cao phát huy chất lượng City tour, mở thêm các tour du lịch khác đặc biệt để phục vụ du lịch cuối tuần. Tăng cường sự phối hợp giữa các doanh nghiệp với các địa phương có điểm du lịch hấp dẫn để xây dựng chương trình du lịch cũng như mở các loại hình du lịch đảm bảo đem lại sản phẩm du lịch đặc sắc. Nên thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo vệ tài nguyên và di sản văn hoá theo quy định của Nhà Nước và pháp luật . III. Đối với địa phương có điểm du lịch. Để đảm bảo nhu cầu du lịch của khách được thực hiện một cách có hiệu quả thì thái độ, tính cách của dân cư địa phương là một yếu tố quyết định khách du lịch luôn muốn đến những địa phương mà cư dân hiền hoà, thân thiện, nhiệt tình và hiếu khách. Có đôi khi vì lợi ích kinh tế một số địa phương sảy ra tình trạng dân địa phương lừa khách, lôi kéo, chèn ép khách… tất cả những cái đó sẽ để lại một cái nhìn không thiện cảm của khách du lịch. Điều này sẽ là nguyên nhân “đốt cháy” các tiềm năng du lịch sẽ khiến điểm du lịch đó “chết”. Chính quyền địa phương nên chú ý tới vấn đề an ninh trong du lịch, bảo vệ tồi đa cho khách du lịch, cần có những biện pháp ngăn chặn, giáo dục những điều còn hạn chế trong dân cư. Tạo mối quan hệ nhân văn giữa cư dân địa phương và khách du lịch. Một số kiến nghị - Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia tổ chức kinh doanh du lịch. Chính sách đó có thể là miễn giảm thuế trong thời gian nhất định. - Tổng cục Du lịch nhanh chóng có định hướng phát triển các khu du lịch cuối tuần và có chính sách hỗ trợ các khu du lịch đó. - Đề nghị viện nghiên cứu và phát triển Du lịch cùng với các ngành chức năng Trung ương và địa phương khẩn trương khảo sát để đưa ra những quy hoạch chi tiết. - Đề nghị các UBND các tỉnh, thành phố, Sở Du lịch, Sở Kế Hoạch và Đầu Tư tại các khu du lịch, các ngành chức năng Trung ương, địa phương tạo điều kiện cấp vốn xây dựng, tu bổ cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện nước, thông tin liên lạc trong nội bộ. Kết luận Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, đờ sống văn hoá nâng cao thì du lịch cuối tuần đã và đang trở thành nhu cầu tất yếu. Nhu cầu này giờ đã phổ biến đối với người Việt Nam nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng. Đây chính là một thị trường mới mẻ, đầy hấp dẫn dành cho các nhà kinh doanh. Trong tương lai nếu đầu tư thích đáng và có chính sách khuyến khích thì du lịch cuối tuần sẽ mang lại lợi nhuận lớn cho ngành du lịch. Tài liệu tham khảo Báo Du lịch Việt Nam, số 7/2004. Giáo trình : Kinh tế du lịch - Đại học Kinh tế du lịch 2004. Trần Đức Thanh - Nhập môn khoa học du lịch. (NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội 2002) Niên giám thống kê 2003 Cục thống kê. Nguyễn Thị Hải - Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội phục vụ mục đích phát triển du lịch cuối tuần của Hà Nội và phụ cận. Luận án, thạc sỹ 1997. Địa lý du lịch( NXB Thành phố Hồ Chí Minh 2001). Phạm Trung Lương - Cơ sở khoa học cho việc xây dựng các tuyến, điểm du lịch (Viện nghiên cứu phát triển du lịch 1999). Báo cáo, Khoá luận luận tốt nghiệp của sinh viên khoa du lịch trường ĐH Văn Hoá, ĐHDL Đông Đô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu nhu cầu du lịch cuối tuần của người dân Hà Nội.doc
Luận văn liên quan