Đề tài Nghiên cứu tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh

Mức độ phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5-6 tuổi ở hai trường MNBS và MNBCBT có sự chênh lệch rõ rạch: trẻ ở trường MNBS có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 3 tức trẻ có thể giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ dựa vào một dấu hiệu, có khả năng sử dụng mốc định hướng và duy trì từ đầu đến cuối mối tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ; trẻ ở trường MNBCBT có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4, trẻ đã manh nha khả năng dựa vào 2 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ, trẻ giải quyết tốt các bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa. Nguyên nhân chính của sự khác biệt này là do môi trường kinh tế văn hóa của trẻ ở trường MNBCBT thuận lợi hơn trẻ ở trường MNBS, đặc biệt là cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại và đội ngũ giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm.

pdf49 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 8139 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG "SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” NĂM 2007 Tên công trình: NGHIÊN CỨU TƢ DUY TRỰC QUAN SƠ ĐỒ CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƢỜNG MẦM NON TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Thuộc nhóm ngành: XH1a CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG "SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” NĂM 2007 Tên công trình: NGHIÊN CỨU TƢ DUY TRỰC QUAN SƠ ĐỒ CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI Ở MỘT SỐ TRƢỜNG MẦM NON TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Thuộc nhóm ngành: XH1a TÓM TẮT CÔNG TRÌNH 1. Nghiên cứu lý luận Nghiên cứu và làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản có liên quan đến đề tài như: Tư duy, tư duy trực quan hình tượng, tư duy trực quan sơ đồ, sơ đồ, hình ảnh, biểu tượng, biểu tượng không gian, trực quan, mô hình trực quan. 2. Điều tra thực trạng Công trình sử dụng trắc nghiệm L.A. Venger để đo mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ và được tiến hành trên 100 trẻ 5 - 6 tuổi được chọn ngẫu nhiên từ hai trường mầm non Bông Sen,quận Tân Phú và trường mầm non bán công Bến Thành, quận I, thành phố Hồ Chí Minh. Điều tra 13 giáo viên (trong đó có 2 hiệu phó chuyên môn), phỏng vấn 17 phụ huynh học sinh và tìm hiểu môi trường, điều kiện học tập của trẻ để tìm ra nguyên nhân thực trạng. 3. Thực nghiệm hình thành Sau khi tiến hành cho 100 trẻ được chọn làm mẫu nghiên cứu thực trạng tư duy trực quan sơ đồ làm trắc nghiệm L.A. Venger và thu, xử lý kết quả, người nghiên cứu đã chọn 30 trẻ để tiến hành thực nghiệm hình thành bằng hệ thống bài tập thực nghiệm do người nghiên cứu tự biên soạn được tiến hành dưới hình thức trò chơi cho trẻ. 1 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đối tượng nghiên cứu: TDTQSĐ của trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại TP.HCM. Vấn đề tư duy của trẻ đã được nhiều nhà tâm lý học trong và ngoài nước quan tâm và đã tạo dựng nên được một nền tâm lý học trẻ em đồ sộ. Riêng vấn đề tư duy trực quan sơ đồ cũng được nhiều tác giả đề cập đến ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này thì chỉ có công trình của L.A. Venger. Và sau này, Trần Xuân Hương cũng dựa trên nền tảng của công trình nghiên cứu của L.A. Venger để tiến hành nghiên cứu. Và trong công trình nghiên cứu về tư duy trực quan sơ đồ mới nhất của Trần Xuân Hương vào năm 1994, tác giả chủ yếu nghiên cứu về "con đường hình thành tư duy trực quan sơ đồ của trẻ". Vì vậy mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn là một ẩn số. 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1. Mục tiêu của công trình Nghiên cứu TDTQSĐ của trẻ 5- 6 tuổi ở một số trường mầm non tại TP.HCM, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển TDTQSĐ cho trẻ. 2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích tài liệu và tổng hợp tài liệu. 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 2 * Phương pháp chính: - Trắc nghiệm: Dùng bài tập trắc nghiệm L.A. Venger để đánh giá mức độ phát triển TDTQSĐ của trẻ. - Thực nghiệm hình thành: xây dựng một hệ thống bài tập gồm 3 bài tập cho trẻ nhằm thực nghiệm hình thành theo 2 hướng thao tác sơ đồ hóa và đọc hiểu sơ đồ. Sau đó, dùng bài đo nghiệm để đánh giá số liệu định lượng cho các vấn đề định tính mà bài đo nghiệm đặt ra. * Phương pháp hỗ trợ: - Quan sát: + Quan sát trong lúc trẻ làm trắc nghiệm và trong giờ học của trẻ nhằm giúp việc đánh giá được khách quan và chính xác. + Quan sát trẻ trong quá trình thực nghiệm để góp phần đánh giá tính phù hợp của bài thực nghiệm. - Điều tra: + Phỏng vấn trẻ để kiểm tra độ chính xác của bài trắc nghiệm. + Dùng bảng câu hỏi cho giáo viên. + Phỏng vấn phụ huynh học sinh. 2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows 11.5. 2.3. Nội dung nghiên cứu 2.3.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: 2.3.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài 2.3.2.1. Sự phát triển tư duy của trẻ em 2.3.2.2. Tư duy trực quan hình tượng của trẻ 5 - 6 tuổi 3 2.3.2.3. Tư duy trực quan sơ đồ 2.3.3. Tổ chức nghiên cứu 2.3.3.1. Nghiên cứu về lý luận 2.3.3.2. Điều tra thực trạng 2.3.3.3. Thực nghiệm tác động sư phạm 2.4. Kết quả nghiên cứu 2.4.1. Kết quả nghiên cứu lý luận: Đến giai đoạn 5-6 tuổi, ở trẻ xuất hiện một loại hình tư duy trực quan hình tượng mới - đó chính là tư duy trực quan sơ đồ. Tư duy trực quan sơ đồ là một quá trình tư duy trong đó nhiệm vụ trí tuệ được thực hiện bằng các thao tác bên trong với các sơ đồ hình thành các chức năng kí hiệu tượng trưng, phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan của sự vật hiện tượng trong không gian. Tư duy trực quan sơ đồ là loại tư duy trung gian để chuyển từ tư duy trực quan hình tượng lên kiểu tư duy mới khác về chất - tư duy logic. 2.4.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường MNBS và trường MNBCBT, TP.HCM 2.4.2.1. Kết quả mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi tại trường MNBS và trường MNBCBT, TP.HCM Sau khi cho trẻ thực hiện trắc nghiệm L.A. Venger và quan sát, phỏng vấn trẻ trong quá trình làm trắc nghiệm để loại bỏ những đáp án mang tính chọn lựa ngẫu nhiên của trẻ (Những đáp án được xem là chọn lựa ngẫu nhiên của trẻ là những đáp án mà trẻ có được là do chọn đại, 4 chọn theo bạn mà không hề dựa vào "chìa khóa" của sơ đồ hoặc chỉ dựa vào mốc định hướng cuối cùng của "chìa khóa". Ví dụ như ở bài tập số 5, hễ trẻ thấy ở ngôi nhà nào có hàng rào là trẻ chọn hoặc bài tập 6, trẻ thấy ngôi nhà nào có trái táo là trẻ chọn chứ trẻ không bắt đầu từ mốc định hướng đầu tiên của "chìa khóa"), người nghiên cứu thu được kết quả sau: Bảng 2.4.1: Điểm TB 10 bài trắc nghiệm của mỗi trẻ N Điểm TB ĐLTC Tổng 100 25.91 8.91 Theo bảng 2.4.1, ta thấy điểm TB 10 bài tập của mỗi trẻ là 25.91. Như vậy, trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MN có tư duy trực quan sơ đồ ở đầu mức độ 4 nghĩa là trẻ chỉ có thể dựa vào 1 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ chứ chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết được các bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa, nhưng đến cuối thì trẻ cũng chỉ dựa vào một dấu hiệu. Kết quả này phù hợp với giả thuyết ban đầu của người nghiên cứu. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ từ phía giáo viên, người nghiên cứu nhận thấy hầu hết giáo viên ở hai trường này chưa có cơ sở lý luận về tư duy trực quan sơ đồ của trẻ và chưa đưa sự phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ vào mục tiêu dạy học nên trong bài dạy không chú ý đến vấn đề phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ . Chính vì vậy mà trong các tiết học của trẻ mà người nghiên cứu đã tham dự, thay vì có thể lồng ghép nội dung phát triển TDTQSĐ cho trẻ thì các giáo viên đã bỏ qua. Điển hình như trong bài "Cả nhà thương nhau", giáo 5 viên có thể lồng ghép nội dung TDTQSĐ bằng cách xây dựng các biểu tượng và vẽ một sơ đồ chỉ dẫn đường đến nhà "tiến sĩ mặt trời"... Và sự thiếu hụt tri thức về TDTQSĐ của các giáo viên ở trường mầm non còn được thể hiện rõ qua các câu trả lời của giáo viên khi được phỏng vấn như: "Tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố nào?" thì một số giáo viên trả lời là "phụ thuộc vào tư duy của trẻ", có người lại cho rằng tư duy trực quan sơ đồ của trẻ "phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố ghi nhớ có chủ định của trẻ" và còn có giáo viên trả lời rằng "tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc vào chính năng lực của đứa trẻ"; "phụ thuộc vào yếu tố thi đua"... hoặc khi được hỏi về "những biện pháp mà nhà trường đã sử dụng để phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ?" thì câu trả lời là "cung cấp kiến thức để trẻ tiếp thu tự nhiên qua hoạt động chung và hoạt động vui chơi"; có giáo viên lại trả lời là "Những câu hỏi mở" và một số giáo viên thì trả lời rằng "thông qua các hoạt động vui chơi của trẻ" mà trẻ có thể phát triển tư duy trực quan sơ đồ... Và khi được đề nghị đề xuất ý kiến nhằm giúp trẻ phát triển TDTQSĐ thì các giáo viên cũng thừa nhận rằng: do các chương trình giáo dục mầm non chưa thực sự đưa nội dung này (TDTQSĐ) vào chương trình nên giáo viên ít có hiểu biết và nghèo nàn về các bài tập, trò chơi do vậy cần bồi dưỡng thêm cho giáo viên và cung cấp một số bài tập cho giáo viên để họ có cơ sở thực hiện. Mặc dù vậy, nhưng ngẫu nhiên trong các trò chơi mà người nghiên cứu quan sát được ở các góc hoạt động của trẻ lại có thể giúp trẻ phát triển tư duy trực quan sơ đồ như trò chơi "bàn cờ thông minh", "tìm đường ngắn nhất" hoặc trò chơi xây dựng chẳng hạn (xem phụ lục 1.5) cho 6 nên tư duy trực quan sơ đồ của trẻ đạt ở đầu mức độ 4. Thiết nghĩ, nếu giáo viên chú ý phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ thì có thể trẻ sẽ giải quyết được tất cả các bài tập, tức trẻ có thể dựa vào hai dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ. Sự phân phối điểm TB của trẻ được thể hiện ở biểu đồ 2.4.1 sau: Điểm TB Biểu đồ 2.4.1: Biểu đồ phân phối điểm TB 10 bài trắc nghiệm của trẻ Theo biểu đồ 2.4.1, ta thấy: điểm số của tất cả các bài tập từ 1 đến 8 đều trên TB. Các bài tập 3, 4, 5 có điểm trung bình cao hơn bài tập 1 và 2. Điều này cho phép chúng ta khẳng định rằng trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường này vẫn chưa có khả năng định hướng trong không gian một cách chính xác và khả năng sử dụng các mốc định hướng của trẻ tốt hơn khả năng định hướng trong không gian. Ở bài tập 6 và 7, điểm TB của trẻ thấp là do trẻ đã xác định được hướng đi và mốc đầu tiên trong sơ đồ nhưng trẻ chưa có cái nhìn bao quát để thấy được sự luân chuyển từ vật định mốc này sang vật định mốc kia, đâu là mốc định hướng chính, đâu là mốc định 7 hướng phụ như đã xác định ở trên khóa. Bài tập 9 và 10 có điểm TB thấp là do phần lớn trẻ chưa nhận ra sự tương quan một cách chi tiết giữa sơ đồ lớn và chìa khóa dựa trên hai dấu hiệu: Mốc và hướng. Bảng 2.4.2: Phân tích mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở hai trường MNBS và MNBCBT Điểm Mức độ N % Từ 0 đến 5 1 0 0 Từ 6 đến 14 2 14 14 Từ 15 đến 24 3 23 23 Từ 25 đến 34 4 46 46 Từ 35 đến 44 5 17 17 Tổng N 100 100 Sự phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ được thể hiện ở biểu đồ 2.4.2 sau: Biểu đồ 2.4.2: Biểu đồ phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ Theo bảng 2.4.2 và biểu đồ 2.4.2, ta thấy: không có trẻ nào có tư 8 duy trực quan sơ đồ ở mức độ 1. Như vậy, tất cả các trẻ đều đã có thể xác định được hướng. Có 14 trẻ, chiếm 14% có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 2 nghĩa là trẻ đã có khả năng giải quyết bài tập theo một dấu hiệu, trẻ đã biết phân bài tập ra từng giai đoạn. Ở mỗi chỗ rẽ, trẻ đã biết chú ý đến dấu hiệu của hướng đi, mốc định hướng đã có sẵn trong chìa khóa. Tuy nhiên, trẻ chỉ sử dụng phương thức này ở giai đoạn đầu của bài tập chứ chưa có khả năng duy trì đến cuối bài tập. Trẻ ở nhóm này đã xuất hiện khả năng xác định sự tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ nhưng còn rời rạc, hỗn đồng. Có 23 trẻ, chiếm 23% có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 3 nghĩa là trẻ có khả năng sử dụng mốc định hướng và duy trì từ đầu đến cuối mối tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ, trẻ chỉ giải quyết được các bài tập từ 1 đến 6, các bài tập còn lại trẻ chưa thể giải quyết. Trẻ ở nhóm này chưa giải quyết được những bài tập đòi hỏi phải dựa vào hai tham số. Trẻ có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4 chiếm tần suất rất cao: có đến 46 trẻ, chiếm 46%, nghĩa là trẻ vẫn chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết tốt các bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa, nhưng đến cuối thì trẻ cũng chỉ dựa vào một dấu hiệu. Có 17 trẻ, chiếm 17% có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 5: nghĩa là trẻ đã nhận ra sự tương quan một cách chi tiết giữa sơ đồ lớn và chìa khóa dựa trên hai dấu hiệu: Mốc và hướng. Trẻ giải quyết được tất cả các 9 bài tập. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tư duy trực quan sơ đồ của 17 trẻ này từ phía phụ huynh trẻ thì hầu hết đều trả lời là không có nhiều thời gian để chơi với bé nhưng mua rất nhiều đồ chơi cho bé đại loại như banh, ghép hình, dụng cụ vẽ tranh... để bé chơi mà thời gian chơi của bé cũng rất ít, khoảng 15 đến 30 phút, chủ yếu là các bé chơi ở trên trường. Như vậy, tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào môi trường, điều kiện vui chơi và học tập. Từ kết quả trên cho ta rút ra kết luận: Hầu hết trẻ chưa thể dựa vào 2 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ mà chỉ dựa vào một dấu hiệu để giải quyết được bài tập tư duy trực quan sơ đồ. Tuy nhiên, từ kết quả trên cũng cho ta thấy, trẻ đã manh nha khả năng dựa vào 2 kí hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ vì vậy nếu nhà trường tổ chức để phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ một cách khoa học thì trẻ sẽ có thể dựa vào 2 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ. 2.4.2.2. Kết quả đo nghiệm mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo trường (trường MNBS và trường MNBCBT) Bảng 2.4.3. Điểm TB 10 bài trắc nghiệm của trẻ theo trường Trường N Điểm TB ĐLTC t Sig Tổng Bông Sen 50 22.00 8.30 -4.86 < 0,001 (*) Bến Thành 50 29.82 7.76 Chú thích: (*): Có ý nghĩa ở mức α = 0,05 10 Theo bảng 2.4.4, ta thấy: Điểm trung bình về mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở hai trường có sự chênh lệch rõ rệch: trẻ ở trường MNBS có điểm trung bình là 22 ở mức độ 3 tức trẻ có khả năng sử dụng mốc định hướng và duy trì từ đầu đến cuối mối tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ, trẻ chưa giải quyết được các bài tập từ 7 đến 10. Trẻ ở nhóm này chưa giải quyết được những bài tập đòi hỏi phải dựa vào hai tham số. Và trẻ ở trường MNBCBT có điểm trung bình là 29.82 ở mức độ 4 tức trẻ ở nhóm này vẫn chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết tốt các bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa, nhưng đến cuối thì trẻ cũng chỉ dựa vào một dấu hiệu. ĐLTC tiêu chuẩn ở điểm số của trẻ trường MNBS cũng cao hơn ĐLTC tiêu chuẩn ở điểm số của trẻ trường MNBCBT. Sự chênh lệch này có ý nghĩa gì? Ta thấy sig < 0.001. Điều này chứng tỏ sự khác biệt trên là có ý nghĩa về mặt thống kê. Kết quả này phù hợp với giả thuyết ban đầu của người nghiên cứu. Nghiên cứu thực tế, người nghiên cứu nhận thấy rằng sự khác biệt này là có nguyên nhân. Thứ nhất, trẻ ở trường MNBCBT được học tập cũng như vui chơi trong điều kiện tốt hơn như: cơ sở vật chất tốt, đồ chơi nhiều, có các góc hoạt động rộng rãi và có thư viện riêng để đọc sách...được học và chơi một số môn mà ở trường MNBS không có như bơi lội, nhịp điệu, kidsmart... Thứ hai, gia đình của các em hầu hết đều khá giả và ở trung tâm TP.HCM nên điều kiện học tập của các em cũng được trang bị tốt hơn. Thứ ba, ở trường MNBCBT, các em học trên tầng 3 mà qua mỗi bậc cầu thang thì có dán (hoặc xây) 11 các biểu tượng, hình ảnh về môi trường xung quanh và khi các em đi lên xuống cầu thanh nhiều lần như vậy sẽ hình thành trong đầu các em một sơ đồ (con đường) lên lớp một cách vô thức nhưng lại giúp ích cho tư duy sơ đồ của các em. Đặc biệt là trẻ ở trường MNBT được dạy dỗ, chăm sóc bởi đội ngũ giáo viên đều trên mười năm kinh nghiệm, trong khi đó, đội ngũ giáo viên khối lớp lá của trường MNBS đều dưới 10 năm kinh nghiệm. Bảng 2.4.4. Phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo trường Điểm Mức độ MNBS MNBCBT Tổng N % N % N % Từ 0 đến 5 1 0 0 0 0 0 0 Từ 6 đến 14 2 1 1 11 3 3 14 14 Từ 15 đến 24 3 16 16 7 7 23 23 Từ 25 đến 34 4 20 20 26 26 46 46 Từ 35 đến 44 5 3 3 14 14 17 17 Tổng 50 50 50 50 50 100 100 Sự phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở trường MNBS và trường MNBCBT được thể hiện ở biểu đồ 2.4.3 và biểu đồ 2.4.4 12 Biểu đồ 2.4.3: Biểu đồ phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ trường MNBS Biểu đồ 2.4.4: Biểu đồ phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ trường MNBCBT. 13 Theo bảng 2.4.4 và hai biểu đồ 2.4.3; 2.4.4, ta thấy trẻ ở trường MNBCBT có xu hướng vượt trội hơn so với trẻ ở trường MNBS. Ở mức độ 5 nghĩa là trẻ có khả năng giải quyết bài tập theo 2 dấu hiệu (bài tập 7 đến 10), trường MNBCBT có 14 trẻ trong khi ở trường MNBS chỉ có 3 trẻ. Ngược lại, ở mức độ 2, trẻ có thể dựa vào một dấu hiệu để giải quyết bài tập nhưng khả năng xác định sự tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ nhưng còn rời rạc, hỗn đồng thì trường MNBS có đến 11 trẻ trong khi trường MNBCBT chỉ có 3 trẻ. Và có đến 80% trẻ ở trường MNBCBT có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4 và 5, trong khi đó chỉ có 46% trẻ ở trường MNBS có tư duy trực quan sơ đồ ở hai mức độ này. 2.4.2.3. Kết quả đo nghiệm mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo giới (nam và nữ) Bảng 2.4.5. Điểm TB 10 bài trắc nghiệm của mỗi trẻ theo giới Giới N Điểm TB ĐLTC t Sig TỔng Nam 47 25.06 9.29 - 0.89 0.374 Nữ 53 26.66 8.75 Mức ý nghĩa α = 0,05 Theo bảng 2.4.5, ta thấy: Điểm trung bình về mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ nam và nữ chênh lệch không đáng kể và mức độ tư duy của cả hai phái đều nằm ở đầu mức độ 4, tức trẻ ở nhóm này vẫn chưa có khả năng định hướng được theo hai dấu hiệu, trẻ giải quyết tốt các bài tập từ 1 đến 6 còn các bài tập còn lại trẻ chỉ có thể làm được phần đầu và chỉ tính được một phần của mỗi sơ đồ khóa. ĐLTC tiêu chuẩn của điểm TB ở mỗi phái cũng không có sự chênh lệch nhiều. Ở cột sig, ta cũng thấy sự 14 khác biệt này là không có ý nghĩa về mặt thống kê (sig = 0.374). Kết quả này không phù hợp với giả thuyết ban đầu của người nghiên cứu nhưng nó phù hợp với lý luận nghiên cứu. Vì tìm hiểu thực tế, ta thấy, trẻ 5 - 6 tuổi về mặt cấu trúc sinh học của não bộ mặc dù đã có đầy đủ các chức năng sinh lý của người nhưng nó vẫn chưa phát triển đến mức cao nhất và sự khác biệt về các yếu tố tâm lý cũng chưa nhiều, các em chưa đi vào từng lĩnh vực riêng biệt mà lại có chung một môi trường học tập và vui chơi nên không có sự chênh lệch nhiều về mức độ tư duy trực quan sơ đồ là hợp lý. Bảng 2.4.6: Phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ theo giới Điểm Mức độ Nam Nữ Tổng N % N % N % Từ 0 đến 5 1 0 0 0 0 0 0 Từ 6 đến 14 2 7 14.9 7 13.2 14 14 Từ 15 đến 24 3 l 1 23.4 12 22.6 23 23 Từ 25 đến 34 4 21 44.7 25 47.2 46 46 Từ 35 đến 44 5 8 17 9 16.7 17 17 Tổng N 47 100 53 100 100 100 Theo bảng 2.4.6, ta thấy: Sự khác biệt về tư duy trực quan sơ đồ giữa trẻ nam và trẻ nữ giữa hai trường MNBS và MNBCBT ở các mức độ là không đáng kể và tư duy trực quan sơ đồ của trẻ nam và nữ đều tập trung cao nhất ở mức độ 4. 15 Bảng 2.4.7: Điểm TB trắc nghiệm từng bài của trẻ theo giới Phái Điểm TB Sig Bài 1 Nam 2.55 .352 Nữ 2.33 Bài 2 Nam 2.57 .189 Nữ 2.96 Bài 3 Nam 3.04 .482 Nữ 3.24 Bài 4 Nam 2.70 .085 Nữ 3.26 Bài 5 Nam 3.04 .473 Nữ 3.24 Bài 6 Nam 2.43 .277 Nữ 2.75 Bài 7 Nam 2.04 .312 Nữ 2.30 Bài 8 Nam 3.10 .681 Nữ 3.00 Bài 9 Nam 1.91 .803 Nữ 1.81 Bài 10 Nam 1.65 .836 Nữ 1.73 Mức ý nghĩa α = 0,05 16 Theo bảng 2.4.7, ta thấy điểm TB của từng bài tập của trẻ nam so với trẻ nữ chênh lệch không nhiều . Ba bài tập mà có sự chênh lệch về điểm TB giữa trẻ nam và nữ nhiều nhất là bài tập 2, 4 và 6 nhưng số điểm chênh lệch cũng rất nhỏ, lần lượt là 0.39 điểm (nam: 2.57 điểm, nữ: 2.96 điểm) - 0.56 điểm (nam: 2.70 điểm, nữ: 3.26 điểm) - 0.32 điểm (nam: 2.43 điểm, nữ: 2.75 điểm). Các bài tập còn lại điểm số chênh lệch từ 0.1 điểm đến 0.26 điểm. Sự chênh lệch này, xét về mặt điểm số thì không đáng kể. Quan sát cột sig, ta thấy ở tất cả các bài tập thì sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa về mặt thống kê (sig > 0.05). Từ các kết quả trên, có thể khẳng định, mức độ phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ nam và nữ không có sự khác biệt. 2.4.2.4. Nguyên nhân thực trạng Từ kết quả quan sát thực tế và điều tra từ phía 13 giáo viên và 17 phụ huynh học sinh cho phép người nghiên cứu đưa ra những kết luận về nguyên nhân dẫn đến thực trạng tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường MNBS và MNBCBT như sau: Phụ huynh của trẻ mầm non đa phần là còn trẻ và rất bận rộn nên không có thời gian hướng dẫn và vui chơi cùng trẻ cho nên đặt tất cả nhiệm vụ phát triển trí tuệ cho trẻ vào giáo viên ở trường mầm non. Điều này được thể hiện khi hỏi: ngoài thời gian trẻ chơi và học ở trường thì anh/chị thường cho trẻ chơi trò chơi gì? thì có đến 14 phụ huynh bảo là bé thích chơi cái gì thì để bé chơi, chơi chán thì bé chơi cái khác nhưng thời gian bé chơi ở nhà cũng rất ít. Những đồ chơi cho bé rất phong phú như banh, xe điện, búp bê, đồ bán hàng, xếp hình, tập tô màu... Những đồ 17 chơi dành cho bé chưa được các phụ huynh xem xét, lựa chọn để giúp bé phát triển trí tuệ mà chỉ mua theo sở thích của các bé. Và khi được hỏi, những lúc bé chơi như vậy thì gia đình có chơi cùng bé không? thì phụ huynh trả lời rằng cũng có lúc chơi với bé nhưng thường thì gia đình chỉ xem ti vi chung hoặc trò chuyện với bé, nghe bé khoe về những cái học được ở trường... còn có nhiều thời gian một chút như chủ nhật thì hay dẫn bé đi công viên chơi. Cũng có trường hợp đặc biệt như trường hợp của bé Tăng N.A (bé đạt được 38 điểm) thì mẹ bé (chị Hoàng Thị K. N) cho biết bé rất thích vẽ, hầu như ngoài thời gian học và ngủ ra bé dành tất cả thời gian còn lại để vẽ và xem các chương trình dành cho trẻ em trên tivi như chuyện nhỏ, những em bé thông minh... hoặc như trường hợp của bé Phạm M. N (bé đạt được 42 điểm) chẳng hạn, mặc dù mẹ bé (chị Trần T. L) làm nội trợ nhưng cũng ít khi chơi với bé vì theo như chị kể thì thời gian ở nhà bé thường đi chơi ở "hàng xóm" nhiều hơn, nếu chơi ở nhà thì bé thường chơi xếp hình nhưng bé rất mau chán, khoảng 20 phút là lại đi chơi ở xóm. Duy nhất chỉ có trường hợp của bé Phạm Đ. T (là bé duy nhất đạt được tối đa 44 điểm) là phụ huynh có chú ý đến việc phát triển trí tuệ lẫn nhân cách cho bé. Chị Mai Thị H. T, mẹ của bé T cho biết là ba bé rất quan tâm đến việc mua đồ chơi cho bé, không bao giờ cho bé xem hoặc chơi các trò chơi mang tính khích động hay bạo lực như súng, kiếm, xe tăng... mà chỉ cho bé chơi trò chơi ghép hình và mua các đĩa kidsmart cho bé chơi mỗi lần bé chơi khoảng 30 phút. Ngoài ra thì cho bé xem chương trình "chuyện nhỏ", "bí mật gia đình" và "tam sao thất bản". Chị còn tiết lộ thêm là bé rất thích "đoán" trong trò chơi "tam sao thất bản". Chủ nhật 18 thì gia đình cùng bé đi công viên hoặc siêu thị. Bé T rất thích đi như vậy... Tuy nhiên, hầu hết phụ huynh thì không có thời gian hoặc không biết giúp bé phát triển tư duy. Nhưng vấn đề quan trọng là khi được hỏi: Trong những trò chơi mà anh/chị cho bé chơi thì anh chị thấy trò chơi nào sẽ giúp bé phát triển tư duy trực quan sơ đồ thì 100% phụ huynh được phỏng vấn đều hỏi ngược lại là "Tư duy trực quan sơ đồ là sao?". Nhưng cũng từ thực tế nghiên cứu thì người nghiên cứu nhận thấy mặc dù có 76,9% giáo viên được phỏng vấn trả lời rằng "cần thiết" phải phát triển TDTQSĐ cho trẻ và 23,1% giáo viên được phỏng vấn trả lời rằng "rất cần thiết" phải phát triển TDTQSĐ cho trẻ nhưng trình độ hiểu biết về tư duy trực quan sơ đồ của các giáo viên ở hai trường này rất ít và nhà trường cũng chưa đưa nội dung phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ vào mục tiêu dạy học nên chưa lồng ghép nội dung phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ cũng như chưa đầu tư vào việc trang bị cơ sở vật chất (đồ chơi, đồ dùng học tập nhằm phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ) và giáo viên cũng chưa biết thiết kế các trò chơi giúp trẻ phát triển tư duy trực quan sơ đồ. Chính vì vậy nên giáo viên cũng không hướng dẫn phụ huynh học sinh để họ biết lựa chọn đồ chơi cho trẻ và nên cho trẻ xem gì, chơi trò chơi gì? Nhưng ngẫu nhiên trong các trò chơi ở hoạt động góc của trẻ lại giúp trẻ phát triển tư duy trực quan sơ đồ nên tư duy trực quan sơ đồ của trẻ đạt ở đầu mức độ 4. Như trong trò chơi "bàn cờ thông minh" thì trẻ biết được cách xác định hướng trên, dưới, phải, trái và đi theo sơ đồ được chỉ dẫn, và cũng trong trò chơi đó, trẻ biết dùng các vật (biểu tượng) tượng trưng thay thế cho vật thật. Hoặc như trong trò chơi "tìm đường ngắn nhất" 19 chẳng hạn, trong trò chơi này buộc trẻ phải xác định mối quan hệ không gian giữa các con số với nhau và giữa các con số với vật chuẩn (quà), và khi thực hiện trò chơi là lúc trẻ thiết lập một con đường (sơ đồ) để đi đến quà và trẻ phải xác định được con số "mốc" phải đi qua. Chính vì vậy mà nó góp phần giúp cho TDTQSĐ của trẻ phát triển. Trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MNBCBT có tư duy trực quan sơ đồ tốt hơn trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MNBS phần lớn là do điều kiện vui chơi và học tập của các em tốt hơn trẻ ở trường MNBS. Ở trường MNBCBT, các bé được chơi ở phòng kidsmart và đồ chơi của các bé cũng nhiều hơn, không gian chơi rộng rãi nên bé có thể chơi thoả thích trong khi đó, ở trường MNBS, các bé muốn chơi trò chơi xây dựng nhưng cũng không đủ chỗ mà chơi, mặc dù "góc chơi" đã được lấn ra hành lang nhưng đang xây nửa chừng thì hết chỗ nên các bé phải "xây" vòng lại hoặc có khi đang xây thì một bé khác chạy vào là xem như xong. Ngoài ra, ở trường MNBCBT vì đầy đủ cơ sở vật chất nên môi trường xung quanh của các bé phong phú hơn, bên cạnh đó, các biểu tượng về các loại trái cây, vật dụng... được để ở các bậc cầu thang trong trường nên các bé có được nhiều hình ảnh và biểu tượng về những sự vật xung quanh hơn... chính những điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho TDTQSĐ của trẻ ở trường MNBCBT phát triển. 2.4.3. Kết quả thực nghiệm 2.4.3.1. Kết quả chung về thực nghiệm Sau khi tiến hành cho 100 trẻ được chọn làm mẫu nghiên cứu thực trạng TDTQSĐ làm trắc nghiệm L.A. Venger và thu được kết quả như được trình bày ở phần 2.1, người nghiên cứu đã chọn 30 trẻ để tiến hành 20 thực nghiệm hình thành. Qua gần 3 tháng tiến hành thực nghiệm người nghiên cứu cho 30 trẻ được chọn làm thực nghiệm thực hiện lại trắc nghiệm LA. Venger. Kết quả thu được như sau: Bảng 2.4.8: Điểm trắc nghiệm của nhóm ĐC và nhóm TN Nhóm Điểm trước TN Điểm sau TN ĐC Điểm TB 28.33 29.13 ĐLTC 1.91 2.36 TN Điểm TB 28.27 34.93 ĐLTC 1.28 4.67 Sự phân phối điểm TB trắc nghiệm của trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN trước và sau TN được thể hiện ở biểu đồ 2.4.5 sau: Biểu đồ 2.4.5: Biểu đồ điểm TB trắc nghiệm của trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN trước và sau TN Theo bảng 2.4.8 và biểu đồ 2.4.5, ta thấy: * Trước thực nghiệm: Căn cứ vào điểm số TB của nhóm ĐC và nhóm TN ta có điểm TB của nhóm ĐC là 28.33 và điểm TB của nhóm TN là 28.27; cũng như 21 ĐLTC tiêu chuẩn giữa 2 nhóm là tương đương nhau, không có sự chênh lệch đáng kể. Điều này cho thấy việc chọn mẫu TN mang tính khách quan. * Sau thực nghiệm: Căn cứ vào điểm số TB của nhóm ĐC và nhóm TN, ta thấy rõ nét sự khác biệt giữa nhóm ĐC so với nhóm TN. Cụ thể: Mặc dù điểm TB của cả 2 nhóm ĐC và TN sau thực nghiệm đều tăng nhưng điểm TB của nhóm ĐC sau thực nghiệm chỉ tăng 0.8 điểm (trước TN: 28.33 điểm; sau TN: 29.13 điểm). Người nghiên cứu cho rằng, sự tăng điểm số ở nhóm ĐC chỉ là vấn đề ngẫu nhiên xảy ra trong quá trình học tập và vui chơi của trẻ ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan bên ngoài vì điểm số tăng không đáng kể. Ở nhóm TN thì điểm TB tăng lên một cách đáng kể từ 28.27 điểm trước TN lên 34.93 điểm sau TN (tăng 6,66 điểm). Điều này cho ta thấy tính hiệu quả của quá trình TN. Tính hiệu quả của quá trình TN còn được thể hiện ở sự tương đồng về điểm số của trẻ đạt được trong quá trình TN với điểm số của trẻ sau TN trong bảng 2.4.9 sau: 22 Bảng 2.4.9: Điểm TB của trẻ trong quá trình TN và điểm sau khi TN Tên trẻ Điểm TB trong quá trình TN Điểm sau khi TN Nguyễn Thị Kim Y 1 1 34 Trần Thị Thúy V 12.3 36 Nguyễn Trọng H 13.5 40 Trần Hoàng Đ 8.5 28 Văn Bội H 11 32 Châu Khánh V 12.5 36 Hứa Bảo K 10.5 29 Hoàng Vĩnh Bảo H 12 30 Nguyễn Đỗ Trúc M 13.5 38 Trương Thị Hoài N 13 34 Nguyễn Mai Thành Đ 11.3 31 Lê Trung T 11.8 32 Vũ Thị Thu G 14.3 44 Nguyễn Lê Thu N 13 38 Cao Hoàng D 13 40 Theo bảng 2.4.9, ta thấy: trong quá trình thực nghiệm, trẻ nào đạt được nhiều điểm thì kết quả bài trắc nghiệm sau thực nghiệm của trẻ càng cao. 23 2.4.3.2. Mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN Bảng 2.4.10: Phân phối mức độ tư duy trực quan sơ đồ của trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN Nhóm ĐC Nhóm TN Tổng N % N % N % Từ 24 đến 34 4 15 100 8 56.25 23 76.7 Từ 35 đến 44 5 0 0 7 43.75 7 23.3 Tổng 15 100 15 100 40 100 Theo bảng 2.4.10, ta thấy sau khi thực nghiệm, tất cả các trẻ ở nhóm ĐC đều vẫn ở mức độ 4. Trong khi đó, có đến 7 trẻ, chiếm 43.75% trẻ ở nhóm TN sau khi TN đã có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 5, nghĩa là trẻ đã dựa vào 2 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy sơ đồ (trẻ giải quyết được một phần hoặc toàn bộ bài tập 9 và 10). Và 8 trẻ còn lại trong nhóm TN có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4 nhưng điểm số đã cao hơn so với trước khi thực nghiệm (điểm TB trước khi TN: 28; điểm TB sau khi TN: 31.25 ). Kết quả trên đã chứng minh cho tính khả thi của quá trình thực nghiệm. 24 2.4.3.3. Kết quả kiểm nghiệm t so sánh trước và sau thực nghiệm của 2 nhóm ĐC và nhóm TN Bảng 2.4.11: Kết quả kiểm nghiệm t của nhóm ĐC và nhóm TN Nhóm Hiệu số 2 điểm TB ĐLTC t Sig Trước TN: 28.33 -0.8 1.57 -1.98 0.068 Điểm sau TN :29.13 Trước TN: 28.27 -6.66 4.37 -5.91 <0.001(*) Chú thích: Có ý nghĩa ở mức α = 0.05 Theo bảng 2.4.11, ta thấy ở nhóm đối chứng kết quả trước và sau thực nghiệm không có sự khác biệt (sig = 0.068). Còn ở nhóm thực nghiệm, kết quả trước và sau TN có sự khác biệt rõ rệt (sig <0.001). Điều này cho phép ta khẳng định sự khác biệt ở hai lần đo là có ý nghĩa ở nhóm TN. Chứng tỏ rằng phương pháp thực nghiệm nhằm nâng cao tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ là có tính khả thi. Để tính khả thi của thực nghiệm sư phạm có tính thuyết phục cao, người nghiên cứu đi sâu vào nghiên cứu từng bài tập riêng lẻ của bài trắc nghiệm ở hai nhóm ĐC và TN ở thời điểm trước TN và sau TN. 2.4.3.4. Kết quả điểm TB của 10 bài trắc nghiệm của hai nhóm ĐC và TN sau khi TN Ở nhóm ĐC điểm TB ở từng bài tập có sự dao động về điểm số nhưng sự dao động này là không đáng kể (chỉ dao động từ 0 đến 0.4), điều 25 này hoàn toàn ngẫu nhiên. Ở nhóm TN, ngoài bài tập 4 điểm số sau khi TN thấp hơn trước khi TN nhưng không đáng kể chỉ có 0.27 điểm thì tất cả các bài tập còn lại điểm số đều tăng. Nhưng ở đây, người nghiên cứu đặc biệt tập trung ở bài tập 7, 8, 9 và 10 vì để giải được các bài tập này đòi hỏi trẻ phải biết dựa vào 2 dấu hiệu mà trước khi thực nghiệm hầu hết trẻ chưa thực hiện được. Sau khi TN, điểm số ở các bài tập 7, 8, 9,10 đều tăng, đặc biệt là bài tập 9 và 10 điểm số tăng khá lớn. Cụ thể: bài tập 7 điểm số sau TN tăng 0.94 (trước TN: 2.13; sau TN: 3.07); bài tập 8 điểm số sau TN tăng 0.27 (trước TN: 3.33; sau TN: 3.6); ở bài tập 9, điểm TB sau khi TN đã tăng lên 1.3 điểm (trước TN:1.33 điểm; sau TN: 2.93 điểm); ở bài tập 10, điểm TB sau khi TN đã tăng lên 1.2 điểm (trước TN: 2.13 điểm; sau TN: 3.33 điểm). Ngoài ra, ta thấy, điểm số ở bài tập 1 tăng đáng kể, chứng tỏ khả năng xác định hướng của trẻ đã chính xác hơn so với trước khi TN. Kết quả trên cho thấy tính phù hợp của bài thực nghiệm với trắc nghiệm Venger. Sự khác biệt giữa điểm trắc nghiệm của nhóm TN trước và sau TN được thể hiện rõ ở biểu đồ 2.4.6 sau: 26 Điểm TB Biểu đồ 2.4.6: Biểu đồ điểm trung bình trắc nghiệm của nhóm TN trước và sau TN Để làm rõ kết luận trên, người nghiên cứu kiểm nghiệm t các bài tập của trắc nghiệm. 27 Bảng 2.4.12: Kết quả kiểm nghiệm t 10 bài tập trắc nghiệm của nhóm thực nghiệm Hiệu số 2 điểm TB ĐLTC t Sig Bài 1 trước TN Bài 1 sau TN -1.6 1.4 -4.43 .001 ( * ) Bài 2 trước TN Bài 2 sau TN -.47 .64 -2.82 .014 ( * ) Bài 3 trước TN Bài 3 sau TN .00 .75 .00 1.000 Bài 4 trước TN Bài 4 sau TN .27 .7 1.47 .164 Bài 5 trước TN Bài 5 sau TN -.2 .56 -1.38 .189 Bài 6 trước TN Bài 6 sau TN -.67 1.11 -2.32 .036 ( * ) Bài 7 trước TN Bài 7 sau TN -.93 1.03 -3.5 .004 ( * ) Bài 8 trước TN Bài 8 sau TN -.27 .7 -1.47 .164 Bài 9 trước TN Bài 9 sau TN -1.6 1.35 -4.58 .000 ( * ) Bài 10 trước TN Bài 10 sau TN -1.2 1.47 -3.15 .007 ( * ) Chú thích (*): Có ý nghĩa ở mức α = 0.05 28 Kết quả ở bảng 2.4.14 cho thấy, bài tập 3, 4, 5 và 8 điểm số khác biệt là không có ý nghĩa. Các bài tập còn lại bao gồm bài 1, 2, 6, 7, 9, 10 thì sự khác biệt về điểm số trước và sau thực nghiệm là có ý nghĩa. Sở dĩ các bài tập 3, 4, 5 và 8 không có sự khác biệt ý nghĩa là do nhóm trẻ được chọn làm thực nghiệm trước khi thực nghiệm thì tư duy trực quan sơ đồ của trẻ đã ở đầu mức độ 4, trẻ đã giải quyết được các bài tập mà chỉ cần dựa vào một dấu hiệu. Và nhóm trẻ trước khi được chọn làm thực nghiệm đã giải quyết khá tốt các bài tập 3, 4, 5, 8 và đạt được gần tối đa điểm số. Kết quả khác biệt có ý nghĩa về điểm số ở bài tập 1 và 2 có ý nghĩa là phù hợp so với kết quả trắc nghiệm ban đầu của trẻ vì trước khi thực nghiệm, trẻ chưa giải quyết tốt bài tập 1 và 2 nhưng sau khi thực nghiệm, trẻ đạt gần tối đa điểm số ở hai bài tập này 3. KẾT LUẬN Đến giai đoạn 5-6 tuổi, ở trẻ xuất hiện một loại hình tư duy trực quan hình tượng mới - đó chính là tư duy trực quan sơ đồ. Tư duy trực quan sơ đồ là một quá trình tư duy trong đó nhiệm vụ trí tuệ được thực hiện bằng các thao tác bên trong với các sơ đồ hình thành các chức năng kí hiệu tượng trưng, phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan của sự vật hiện tượng trong không gian. Tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường MN ở đầu mức độ 4 nghĩa là trẻ chỉ có thể dựa vào 1 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ chứ chưa có khả năng định hướng được theo 2 dấu hiệu. 29 Trẻ 5 - 6 tuổi ở cả hai trường MNBS và trường MNBCBT vẫn chưa có khả năng định hướng trong không gian một cách chính xác và khả năng sử dụng các mốc định hướng của trẻ tốt hơn khả năng định hướng trong không gian. Mức độ phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ 5-6 tuổi ở hai trường MNBS và MNBCBT có sự chênh lệch rõ rạch: trẻ ở trường MNBS có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 3 tức trẻ có thể giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ dựa vào một dấu hiệu, có khả năng sử dụng mốc định hướng và duy trì từ đầu đến cuối mối tương quan giữa chìa khóa và sơ đồ; trẻ ở trường MNBCBT có tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ 4, trẻ đã manh nha khả năng dựa vào 2 dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ, trẻ giải quyết tốt các bài tập từ 1 đến 6, còn các bài tập còn lại trẻ chỉ làm được phần đầu và chỉ tính được một hoặc hai phần của mỗi sơ đồ khóa. Nguyên nhân chính của sự khác biệt này là do môi trường kinh tế văn hóa của trẻ ở trường MNBCBT thuận lợi hơn trẻ ở trường MNBS, đặc biệt là cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại và đội ngũ giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm. Sự phát triển tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc nhiều vào môi trường và điều kiện học tập, vui chơi. Nguyên nhân dẫn đến việc trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường MNBS và trường MNBCBT chưa thể dựa vào hai dấu hiệu để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ là do nhà trường chưa chú ý đến việc phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ vì vậy các giáo viên ở hai trường này cũng không nắm được các lý thuyết về phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ. 30 Không có sự khác biệt về tư duy trực quan sơ đồ của trẻ nam và trẻ nữ ở hai trường MNBS và MNBCBT. Kết quả thực nghiệm hình thành cho trẻ làm quen với thao tác sơ đồ, xác định được phương hướng, vị trí của mình so với các vật xung quanh và hình thành cho trẻ hai thao tác sơ đồ hóa và đọc hiểu sơ đồ thông qua các bài tập được tiến hành dưới hình thức trò chơi gây hứng thú cho trẻ đã cho thấy tính hiệu quả của bài thực nghiệm: khả năng xác định hướng của trẻ chính xác hơn và trẻ có thể dựa vào hai dấu hiệu (mốc và hướng) để giải quyết bài tập tư duy trực quan sơ đồ. 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Văn Chẩn (2006), Nghiên cứu mức độ phát triển trí tuệ của học sinh lớp 6 thị xã Bến Tre, Luận văn thạc sĩ 2. O.K. Chikhomirov (1981), Tâm lý học tư duy, NXB trường đại học tổng hợp Matxcơva. 3. Hoàng Chúng (1980), Toán thống kê trong Tâm lý học - giáo dục, NXB Giáo dục. 4. Hồ Ngọc Đại (1993), Tâm lý học dạy học, NXB Giáo dục Hà Nội. 5. Phạm Thị Đức (1996), Tâm lý học tư duy, Viện khoa học Giáo dục Hà Nội. 6. Phạm Minh Hạc (chủ biên -1996), Tuyển tập Tâm lý học Piagie - NXB Giáo dục. 7. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Giáo dục. 8. Nguyễn Kế Hào (1985), Sự phát triển trí tuệ của học sinh đầu tuổi học, NXB Giáo dục Hà Nội. 9. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giáo, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), Từ điển Giáo dục học, NXB Từ điển Bách khoa. 10. Ngô Công Hoàn (1995), Tâm lý học trẻ em (lứa tuổi từ lọt lòng đến 6 tuổi), NXB Hà Nội. 11. Lê Văn Hồng (1996), Tâm lý học sư phạm, NXB Giáo dục Hà Nội. 12. Trần Xuân Hương (1994), Sự hình thành tư duy trực quan sơ đồ ở trẻ mẫu giáo từ 5 đến 6 tuổi, Luận án phó tiến sĩ khoa học. 32 13. Hà Lan (biên soạn và tổng hợp - 2006), Sức mạnh của tư duy, NXB Trẻ. 14. Phạm Minh Lăng (2002), Tâm lý trẻ thơ (từ sơ sinh đến 15, 17 tuổi), NXB Văn hóa thông tin. 15. A.A. Liublinxkaia (1978), Tâm lý học trẻ em (tập 2), Sở Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh. 16. Margaret Donalson (1997), Hoạt động tư duy của trẻ em, Trần Trọng Thúy dịch, NXB Giáo dục. 17. V.X. Mukhina (1980), Tâm lý học mẫu giáo (tập 2), NXB Giáo dục. 18. Mai Nguyêt Nga, Lê Xuân Hồng (biên soạn - 1998), Bài tập thực hành Tâm lý học trẻ em (lứa tuổi MN), Bộ Giáo dục và đào tạo, trường Cao đẳng Mẫu giáo trung ương 3. 19. Phan Trọng Ngọ (chủ biên - 2001), Tâm lý học trí tuệ, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 20. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, NXB Đại học quốc gia Hà Nội 21. Đoàn Huy Oanh (2005), Tâm lý sư phạm, NXB Đại học Quốc gia TPHCM. 22. Piagie và B. Inhelder (1972), Tâm lý học trẻ em phần 1, Lê Văn Hồng, Nguyễn Anh Tuyết dịch, NXB Đại học Paris. 23. Trần Trọng Thúy (1992), Khoa học chuẩn đoán tâm lý, NXB Giáo dục. 24. Trần Thị Tính (1989), Một số vấn đề đặc điểm Tâm lý học mẫu giáo, NXB Giáo dục. 33 25. Dương Thủy Tiên (2003), Tìm hiểu một số đặc điểm tư duy trực quan sơ đồ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, Bài nghiên cứu khoa học. 26. Dương Thiệu Tống (1995), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Trường đại học tổng hợp TP.HCM. 27. Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn Thị Tâm (1987), Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, NXB Giáo dục. 28. Nguyễn Ánh Tuyết (1992), Bài tập thực hành Tâm lý học và Giáo dục học, NXB Giáo dục 29. Nguyễn Ánh Tuyết (1992), Những điều cần biết về sự phát triển của trẻ thơ, NXB Sáng tạo. 30. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên - 1997), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non (Từ lọt lòng đến 6 tuổi), NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 31. Nguyễn Ánh Tuyết (2001), Tâm lý học trẻ em, NXB Giáo dục. 32. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên - 1993), Tâm lý học đại cương, NXB Giáo dục Hà Nội. 33. Nhóm Việt Văn (biên soạn - 2005), 101 cách bồi dưỡng trí tuệ cho trẻ, NXB Phụ nữ. 34. L.X. Vưgốtxki (1997), Tuyển tập tâm lý học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 35. Nguyễn Như Ý(chủ biên - 1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin PHỤ LỤC PHẦN 1: THỰC TRẠNG Phụ lục 1.1 TRẮC NGHIỆM LA. VENGER Bài tập hướng dẫn Bài 1: Bài 2: Bài 3: Bài 4: Bài 5: Bài 10 BẢNG ĐIỂM TRẮC NGHIỆM L.A. VENGER Số nhà Hệ thống điểm số của các bài tập Bài 1 Bài 2 Bài 3 Bài 4 Bài 5 Bài 6 Bài 7 Bài 8 Bài 9 Bài 10 1 1 0 0 1 1 0 0 2 4 0 2 1 0 0 1 1 0 0 2 2 0 3 1 0 0 1 1 0 0 4 0 2 4 1 0 0 1 1 0 2 2 0 0 5 2 0 0 2 4 0 0 0 0 0 6 2 0 0 2 3 0 0 0 2 0 7 4 0 0 4 2 0 2 0 0 2 8 3 0 0 3 2 0 0 2 0 4 9 0 2 4 0 0 1 2 0 4 2 10 0 2 3 0 0 1 0 2 2 2 11 0 3 2 0 0 1 0 0 0 4 12 0 4 2 0 0 1 0 0 0 2 13 0 1 1 0 0 3 4 0 0 4 14 0 1 1 0 0 4 2 2 0 6 15 0 1 1 0 0 2 2 0 0 2 l6 0 1 1 0 0 2 2 0 2 2 17 2 2 18 2 2 19 0 0 20 2 0 21 6 0 22 4 0 23 2 2 24 2 0 25 0 0 26 2 2 27 0 0 28 2 0 29 0 2 30 0 0 31 4 0 32 2 0 Phụ lục 1.2 BIÊN BẢN QUAN SÁT TRẺ TRONG LÚC LÀM TRẮC NGHIỆM Họ và tên: Giới tính Ngày sinh: Trường: Lớp Chỗ ở: Nghề nghiệp của cha: Nghề nghiệp của mẹ: Thời gian làm trắc nghiệm: Người thực hiện trắc nghiệm: Huỳnh Cát Dung Bài tập Số nhà Cách thức tìm nhà Ghi chú 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Phụ lục 1.3: PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN Em đang tiến hành nghiên cứu vấn đề: " Tư duy sơ đồ trực quan của trẻ 5 - 6 tuổi". Từ kinh nghiệm dạy học và thực tiễn của mình, xin cô vui lòng trả lời thật chi tiết trong bảng hỏi. Ý kiến quí báu của cô sẽ giúp em rất nhiều trong tiến trình nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn! 1. Theo cô có cần phát triển tư duy trực quan sơ đồ ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không? Cần thiết  Rất cần thiết  Có hay không cũng được  Không cần thiết  2. Theo cô hoạt động nào ở trẻ mẫu giáo sẽ giúp tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phát triển tốt nhất? .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... 3. Theo cô tư duy trực quan sơ đồ của trẻ phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố nào? .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... 4. Xin cô cho biết những biện pháp nào mà nhà trường đã sử dụng để phát triển tư duy trực quan sơ đồ cho trẻ? .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... 5. Nếu có đề xuất ý kiến nhằm giúp trẻ phát triển tư duy trực quan sơ đồ thì cô sẽ đề xuất biện pháp gì? .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... .................................................................................................................................... Xin cô vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân 1. Trường: .................................................................. Lớp : ...................................... 2. Tuổi: ....................................................................... Thâm niên công tác: .............. 3. Trình độ chuyên môn: ............................................................................................ Xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của cô! Phụ lục 1.4: PHIẾU PHỎNG VẤN PHỤ HUYNH HỌC SINH Em là sinh viên năm 4 khoa Tâm lý giáo dục, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Hiện em đang tiến hành nghiên cứu vấn đề: "Tư duy sơ đồ trực quan của trẻ 5 - 6 tuổi". Vì vậy, em xin phép được trao đổi với anh/chị một số vấn đề có liên quan đến tư duy trực quan sơ đồ của bé. Mong anh/chị vui lòng hợp tác. Câu 1/ Thưa anh/chị, ngoài thời gian bé chơi và học ở trường thì ở nhà anh/chị thường cho trẻ chơi trò chơi gì? Câu 2/ Gia đình có chơi cùng bé hay bé tự chơi một mình? Câu 3/ Trong những trò chơi mà anh/chị cho bé chơi thì anh/chị thấy trẻ thích chơi trò chơi nào nhất? Và thời gian trẻ chơi là bao lâu? Câu 4/ Trong những trò chơi mà anh/chị cho bé chơi thì anh/chị thấy trò chơi nào sẽ giúp bé phát triển tư duy trực quan sơ đồ? Xin chân thành cảm ơn! PHẦN 2: THỰC NGHIỆM Phụ lục 2.1 MÔ HÌNH HỆ THỐNG BÀI TẬP THỰC NGHIỆM Bài 1: Bài 3 Cái ca Hộp bút Quả táo Trái banh Ngôi nhà Bình hoa Cái ly Búp bê Quả lê Búp bê Quyển tập Bình hoa Cái ca Mô hình vị trí các vật được sắp xếp trên bàn Mô hình: Sơ đồ hóa cái bàn lên bảng Chú thích: : Tên của vật trẻ cần xác định Phụ lục 2.2. BIÊN BẢN QUAN SÁT TRẺ TRONG LÚC TRẺ LÀM THỰC NGHIỆM Tên trẻ Bài tập Số lần thực hiện Điểm Ghi chú Kim Y 1 2 3 Thúy V 1 2 3 Trọng H 1 2 3 Hoàng Đ 1 2 3 Trúc M 1 2 3 Hoài N 1 2 3 Thành Đ 1 2 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnkkh_nghien_cuu_tu_duy_truc_quan_so_do_cua_tre_5_6_tuoi_o_mot_so_truong_mam_non_tai_thanh_pho_ho_chi.pdf
Luận văn liên quan