Theo ước tính, trên 75% nhạc sĩ, vũ công, nhạc sĩ - nhạc công, người tổ chức
nghệ thuật, kĩ thuật viên, nhà thiết kế, và những người hoạt động văn hoá khác là những
người tự doanh, thường là thông qua hình thức công ty có tên là “beteti tarsasag”, hay
Bt. Loại công ty hợp danh hữu hạn này có quy chế đơn giản và không tốn nhiều chi phí
để thành lập và điều hành. Mỗi công ty phải có ít nhất hai thành viên sáng lập, một thành
viên “bên trong” (người góp vốn và quản lí) và một thành viên “bên ngoài” (người chỉ
góp vốn mà không tham gia quản lí). Phúc lợi xã hội cũng được thực hiện với các đối tác
kí kết thành lập Bt cho dù họ có làm việc cho công ty này hay không. Có thể kể đến các
lợi ích họ được hưởng như chăm sóc y tế và các lợi ích khác cho các thành viên trong gia
đình họ. Chi phí chăm sóc y tế cơ bản và trợ cấp thai sản được thanh toán bằng bảo hiểm
xã hội.
54 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2484 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu về đất nước Hungary, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuật
Đào tạo các nghệ sĩ ở Hungary đã được thực hiện ở cấp tiểu học, trung học. Hiện
tại có 555 cơ sở đào tạo cơ bản về nghệ thuật và âm nhạc, với khoảng 800 chi nhánh. Có
9 000 giáo viên giảng dạy cho 260 000 học sinh (hai phần ba trong số đó học về âm
nhạc). ở cấp trung học phổ thông có 400 giáo viên giảng dạy cho 4 400 học sinh (45%
trong số đó học về âm nhạc) tại 34 cơ sở đào tạo.
4.2.9/ Vấn đề di sản
Diễn biến quan trọng nhất là việc chuyển trách nhiệm bảo vệ các công trình di
sản cho lĩnh vực văn hoá vào năm 1998 sau nhiều thập kỉ bị phân tán.
Những tranh luận gần đây đã dẫn đến quyết định xây dựng “Cung nghệ thuật”.
Công trình này bao gồm Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại và một phòng giao hưởng được
trang bị tốt nhất cả nước. Đây là một phần của một khu liên hợp ở phía Nam của thủ đô
(trên thành phố Pest), trong đó có cả Nhà hát Quốc gia (hoàn thành năm 2002).
5/ Quy định pháp luật trong lĩnh vực văn hoá
5.1/ Phân chia thẩm quyền
Hiện đang tồn tại một hệ thống gồm ba tầng, cấp nhà nước và cấp thành phố
(khoảng 3 300 đô thị), các hạt dần mất đi tầm quan trọng. Tuy nhiên, họ cũng tổ chức
bầu cử chính quyền địa phương, khác với 7 vùng được thành lập để đáp ứng các điều
kiện của Liên minh châu Âu.
5.2/ Phân bổ nguồn tài chính nhà nước
Quy định pháp lí phù hợp với các tiêu chuẩn của châu Âu về chi tiêu của nhà
nước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn hoá việc chi tiêu tài chính của nhà nước lại diễn ra
hoàn toàn khác. Mặt khác, có những luật đưa ra các nghĩa vụ không cần thiết, trong khi ở
các lĩnh vực khác lại thiếu các quy định rõ ràng.
5.3/ An sinh xã hội
Khi còn ở chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả những người làm việc trong ngành văn
hoá cho dù làm việc trong khối dân sự hoặc là thành viên của các tổ chức nghệ thuật đều
được hưởng phúc lợi tương tự như những người lao động được trả lương. Nhiệm vụ khó
khăn nhất là phải chuyển đổi hệ thống chăm sóc y tế và lương hưu của “Quỹ Nghệ
thuật”, kế thừa từ thời cộng sản, sang hệ thống bảo hiểm mới. Nhà nước bảo đảm việc
chi trả tiền lương hưu cho những nghệ sĩ và nhà văn từng là thành viên của Quỹ Nghệ
thuật trước khi nó được chuyển sang Quỹ Sáng tạo Nghệ thuật Hungary (Magyar
Alkotúmuvộszeti Kửzalapớtvỏny, MAK) năm 1992. Ngân sách năm 2005 của Bộ Di sản
Văn hoá còn bao gồm một khoản trợ cấp 1252 triệu HUF (tương đương 5 triệu EUR).
Theo ước tính, trên 75% nhạc sĩ, vũ công, nhạc sĩ - nhạc công, người tổ chức
nghệ thuật, kĩ thuật viên, nhà thiết kế, và những người hoạt động văn hoá khác là những
người tự doanh, thường là thông qua hình thức công ty có tên là “beteti tarsasag”, hay
Bt. Loại công ty hợp danh hữu hạn này có quy chế đơn giản và không tốn nhiều chi phí
để thành lập và điều hành. Mỗi công ty phải có ít nhất hai thành viên sáng lập, một thành
viên “bên trong” (người góp vốn và quản lí) và một thành viên “bên ngoài” (người chỉ
góp vốn mà không tham gia quản lí). Phúc lợi xã hội cũng được thực hiện với các đối tác
kí kết thành lập Bt cho dù họ có làm việc cho công ty này hay không. Có thể kể đến các
lợi ích họ được hưởng như chăm sóc y tế và các lợi ích khác cho các thành viên trong gia
đình họ. Chi phí chăm sóc y tế cơ bản và trợ cấp thai sản được thanh toán bằng bảo hiểm
xã hội.
Những người lao động độc lập không được quyền xin trợ cấp thất nghiệp. Phúc
lợi ốm đau (trợ cấp ốm đau) có thể được thanh toán theo hợp đồng bảo hiểm cá nhân.
Hầu hết những người lao động độc lập trong lĩnh vực văn hoá đều đóng tiền cho quỹ hưu
trí tư nhân, số tiền này sau đó sẽ được chuyển đến quỹ hưu trí nhà nước.
5.4/ Luật thuế
Đối với các cá nhân, từ năm 2005 sẽ áp dụng hai mức thuế: 16% và 38%. Tiền
thuế có thể được giảm xuống với số tiền tối đa là 50 000 HUF (khoảng 200 EUR) đối
với các thu nhập được tạo ra từ bản quyền hoặc các khoản tiền thù lao tác quyền khác.
5.5/ Luật lao động
Từ tháng 1/ 2005, mức lương tối thiểu hàng tháng là 57 000 HUF (khoảng 230
EUR). Thu nhập ròng bình quân khoảng gấp đôi con số trên.
Quan hệ đối tác được thực hiện một cách tương đối hiệu quả ở cấp quốc gia và
trên quy mô lớn, ví dụ như quan hệ đối tác giữa Chính phủ và các nhân viên. Tuy nhiên
trong lĩnh vực văn hoá, những quan hệ đối tác đó lại ít được thực hiện, và thậm chí trong
một số lĩnh vực thuộc văn hoá những quan hệ này còn không tồn tại.
Các điều kiện lao động của các viên chức và người lao động trong khối tư nhân
được quy định trong luật dịch vụ dân sự và luật tài chính công. Các luật này có những
quy định chi tiết về thang bảng lương và các tiêu chí khác về tiền lương – trong đó có
nhiều phần đề cập trực tiếp trên việc làm trong lĩnh vực văn hoá và nghệ thuật. Các quy
định này được cập nhật hàng năm, trong đó công đoàn ngành văn hoá có tham gia một
cách tích cực.
Đa số những người làm việc trong lĩnh vực văn hoá đều theo hình thức beteti
tarsasag (Bt). Và hình thức này cũng được sử dụng bởi những người lao động nhận tiền
công định kỳ, người làm việc cộng tác theo vụ việc.
6/ Luật về văn hoá
Ở Hungary, không có một đạo luật điều chính một cách toàn diện về văn hoá
hoặc nghệ thuật. Luật CXL/1997 thường được gọi là “luật văn hoá”, nhưng thực tế nó
chỉ điều chỉnh các vấn đề thư viện, bảo tàng, các hoạt động văn hoá xã hội. Các luật
được sửa đổi hàng năm về các vấn đề ngân sách, thuế và quy định thẩm quyền của chính
quyền địa phương đều giữ vai trò nòng cốt. Luật tài chính công và luật viên chức nhà
nước liên quan đến hoạt động của các tổ chức văn hoá thuộc sở hữu nhà nước.
IV/ CHÍNH PHỦ VÀ XÃ HỘI
1/ Tổng quan
Hệ thống chính trị hiện đại ở Hungary chứa đựng những phần tử của chế độ
chuyên chế suốt thế kỷ 19 và thế kỷ 20, nhưng trong thời kỳ giữa năm 1867 và 1948 nó
tồn tại một quốc hội với chức năng của một hệ thống nhiều đảng phái và một hệ thống tòa
án một cách tương đối độc lập. Sau sự tiếp quản chế độ cộng sản vào năm 1948, một hệ
thống chính trị kiểu Xô viết được biết đến, với vai trò đứng đầu của Đảng Cộng Sản, tới
những nghành hành pháp và lập pháp của chính phủ và hệ thống luật bị phụ thuộc. Trong
năm đó, tất cả địch thủ chính trị những phe (đảng) đã bị bãi bỏ, Và Đảng dân chủ Xã giao
Hungary thì miễn cưỡng hoà nhập với Đảng Cộng sản và như vậy hình thành Đảng công
nhân lao động Hungary. Sau cách mạng năm 1956 nó được tổ chức lại thành Đảng công
nhân xã hội chủ nghĩa Hungary, mà tồn tại cho đến khi kết thúc chủ nghĩa cộng sản vào
năm 1989.
2/ Khung hiến pháp
Trong năm 1989 cuộc cải cách chính trị lên cao thúc đẩy sự biến đổi kinh tế đang
xảy ra. Sau khi bị bãi bỏ cuộc cải cách này đóng vai trò như một cơ quan dẫn đường,
Đảng công nhân xã hội chủ nghĩa Hungary được bãi bỏ (với ngoại lệ một nhóm nhỏ vẫn
tiếp tục hoạt động dưới cái tên cũ của nó) và chính cả trong Đảng xã hội Hungary. Trong
tháng 10/1989 với việc phê duyệt lại căn bản của hiến pháp 1949, mà bao gồm 100 điều
thay đổi, giới thiệu một hệ thống nghị viện đa Đảng phái của chế độ dân chủ tiêu biểu,
với bầu cử tự do. Những nghành hành pháp và lập pháp của chính phủ được tách ra, và
một hệ thống tư pháp độc lập được tạo ra. Duyệt lại và thiết lập một tòa án Hiến pháp,
được bầu bởi Quốc hội, mà tổng quan sự lập hiến của luật pháp và có thể bỏ một số luật.
Có rất nhiều những người đại diện pháp luật bảo vệ cho quỳên lợi dân quyền và nhóm đại
diện pháp luật bảo vệ quyền lợi các quốc gia và các dân tộc thiểu số.
Quyền lập pháp tối cao được công nhận đối với viện lập pháp quốc hội, với việc
bầu ra tổng thống của Cộng hòa, Hội đồng những bộ trưởng của tổng thống tòa án tối
cao, và người khởi tố chính. Cơ quan chính quản lý các hoạt động là Hội đồng những bộ
trưởng, mà đứng đầu là thủ tướng. Tổng thống, người đương chức có nhiệm kỳ 5 năm, là
người chỉ huy trong lực vũ trang nhưng mặt khác có nhà chức trách hạn chế quyền hạn.
Người dân có quyền đề xướng và được đảm bảo những cuộc trưng cầu ý dân.
3/ Chính quyền địa phương
Hungary đã bị chia cắt hành chính bên trong thành 19 megyék (hạt) thành phố, thị
trấn, và làng. Budapest có một vị trí đặc biệt như là một thủ đô (fõváros), thị trưởng đứng
đầu bởi một quý ông (fõpolgármester) và những khu bị chia cắt bên trong thành 22 khu
vực, đứng đầu mỗi khu vực đó là một thị trưởng (polgármester). Chính quỳên mỗi địa
phương tiêu biểu thì chiụ trách nhiệm về việc bảo vệ môi trường, vận tải công cộng và
những tiện ích địa phương, sự an toàn công cộng, và nhiều hoạt động kinh tế, xã giao,
văn hóa. Những văn phòng quản lý công cộng, mà những người đứng đầu được chỉ định
bởi bộ trưởng của nội vụ, là giám sát của hợp pháp những diễn biến của chính quyền địa
phương.
4/ Công lý
Công lý (công bằng xã hội) được điều hành bởi tòa án tối cao, mà đưa ra sự chỉ
đạo nhận thức cho hoạt động tư pháp của tòa án, của thủ đô, tòa án nông thôn và cho
những tòa án địa phương. Một người khởi tố chính thì chiụ trách nhiệm về bảo vệ quyền
lợi của những công dân và việc theo dõi những hành động trái với hiến pháp và nguy
hiểm tới sự an toàn. Việc lập hiến của luật được giám sát bởi Tòa án Hiến pháp mới, bắt
đầu thao tác vào năm 1990. Một sự thay đổi hiến pháp vào năm 1997 yêu cầu thêm
những tòa phúc thẩm khu vực, và được cưỡng chế trong đầu thế kỷ 21.
5/ Quá trình chính trị
Những cuộc bầu cử nghị viện dựa vào việc bỏ phiếu phổ thông cho những công
dân đủ 18 tuổi trở lên và được lặp lại cứ bốn năm một lần. Dưới hệ thống hỗn hợp của bộ
máy điều hành trực tiếp và một tỷ lệ đại diện, ứng cử viên có thể được bầu là một người
thuộc một bộ phận của quốc gia và những khu vực đảng phái hoặc là một cử tri riêng lẻ.
Trong các trường hợp sau, những ứng cử viên phải có được đa số tuyệt đối phiếu bầu
trong vòng đầu tiên của cuộc bầu cử hay những cuộc bầu cử tiếp theo phải giành được
phiếu bầu. Những ứng cử viên thuộc các lãnh thổ không được bầu phải chăng đảng của
họ không nhận được ít nhất 5 % trong tổng thể lá phiếu bầu của địa phương.
Khoảng 200 chính đảng được thiết lập sau khi duyệt lại hiến pháp vào năm 1989,
nhưng chỉ sáu trong số họ trở thành những người tham gia lâu dài vào cuộc sống chính trị
mới ở nông thôn sau bầu cử tự do đầu tiên năm 1990: diễn đàn Dân chủ Hungary, Liên
minh của những đảng viên dân chủ Tự do, Đảng của những tiểu nông độc lập, người dân
của Đảng Dân chủ Tín đồ Cơ đốc, Liên đoàn những đảng viên dân chủ Trẻ (Fiatal
Demokraták Szửvetsége; Fidesz), và Đảng xã hội Hungary - hiện thân những ex - cộng
sản được cải cách. Cũng giống như sáu đảng đó các đảng đã được trở lại Quốc hội vào
năm 1994, và trong thập niên sau đấy hầu hết họ là đại diện trong cơ quan lập pháp.
Những người cộng sản then chốt tiếp tục gia nhập vào năm 1992 như đảng giai cấp công
nhân, lúc phe cánh hữu Đảng Công lý Hungary và Đảng Cuộc sống thiết lập vào năm
1993, khi nó bị chia tách ra thành từng phần đến từ diễn đàn Dân chủ Hungary. Fidesz
liên kết với Đảng Thị dân Hungary (sau đó đổi thành Liên minh Thị dân Hungary), và
giữa năm 1998 và 2002 đã trở thành đảng chính và hình thành chính phủ. Những đảng
viên dân chủ đảng Tín đồ Cơ đốc tổ chức liên minh vào năm 2002 nhưng không nằm
trong Quốc hội.
6/ Sự ổn định
Những lực vũ trang Hungary gồm có quân đội chủ lực, những lực phòng không và
không quân không, đội hải quân tuần tra nhỏ, bộ phận bảo vệ biên giới, và cảnh sát. Quân
dịch bắt buộc gồm những thanh niên qua 18 tuổi cho đến năm 2004, khi Hungary thiết
lập một lực lượng tình nguyện viên. (Thuật ngữ nhiệm vụ thay đổi theo phân công của
công tác dịch vụ điển hình là ít hơn một năm) những lực lượng vũ trang không được phép
chéo qua biên giới khi không có sự ưng thuận trước của Quốc hội. Vào thập niên giữa
năm 1989 và 1999, lực lượng vũ trang suy yếu từ 155000 thành viên tới chỉ còn dưới
60000 thành viên, nhưng, cùng lúc, chúng cũng trải qua một quá trình hiện đại hóa để
chuẩn bị cho Hungary liên kết với liên minh quân đội phương Tây NATO. Quá trình đàm
phán cuối cùng cũng được đạt được trong tháng 3/1999, tám năm sau sự đổ vỡ của Hiệp
ước Warsaw, mà Hungary là một thành viên.
7/ Sức khỏe và phúc lợi
Sau chiến tranh thế giới II, Y tế được cải thiện đáng kể dưới chế độ chủ nghĩa xã
hội nhà nước, quan trọng với việc tăng lên trong số lượng những thầy thuốc và giường
bệnh ở Hungary. Bởi vậy năm 1970, sức khoẻ y tế được bảo đảm cho mọi công dân. Chất
lượng y tế được nâng cao hơn, nhưng vẫn bị giới hạn trong những năm này, và đã tăng
lên từ đầu những năm 1990.
Ở một phạm vi rộng, những công tác dịch vụ xã hội được cung cấp bởi chính phủ
cộng sản, bao gồm việc hỗ trợ đứa trẻ, một hệ thống tiền trợ cấp dưỡng lão cho những
người ngoài tuổi lao động 60 tuổi ở nam giới và phụ nữ ngoài 55 tuổi trở lên. Hệ thống
phúc lợi này trở thành một gánh nặng trong ngân sách quốc gia. Cuối thời đại cộng sản,
Hungary đứng thứ 20 trong xếp hạng các nước Châu Âu theo GDP. Chi phí bảo hiểm xã
hội, chiếm tới 4 % trong tổng GDP vào năm 1950, và tăng lên 1% trong tổng GDP vào
năm 1990. Hệ thống bảo hiểm y tế Hungary trở thành một trong số những nơi đắt nhất
trên thế giới, tuy vậy vẫn có sự chống đối đáng kể từ phía những người sử dụng dịch vụ
và ngược lại.
Khi bảo hiểm sức khỏe được cải cách vào năm 1992, nó giữ cho mọi vấn đề trở
lại bình thường và hoạt động theo quy luật. Vào thời gian này, tuy nhiên, cuộc cải cách
này đòi hỏi cả người chủ lao động và người làm thuê đều phải đóng góp chi phí vào quá
trình duy trì hoạt động của hệ thống, giống như là những kế hoạch lương hưu. Những
hoạt động của Chính phủ vào 2003 về việc tư hữu hóa gần như môt nửa các cơ quan y tế
của nó đã bị loại bỏ sau cuộc trương cầu ý dân đại chúng vào những năm tiếp theo. Quỹ
tài chính riêng của các cơ quan y tế đang tăng lên nhưng chậm chạp mở đầu bằng việc
bán các loại thuốc được cấp phép, các văn phòng khám bệnh, dịch vụ y tế.
8/ Nhà cửa
Sự thiếu hụt về nhà ở vẫn không thay đổi ở Hungary nhiều thập niên sau khi chiến
tranh thế giới II kết thúc, mặc dù đã có hàng triệu ngôi nhà được xây dựng ở trong trung
tâm thành phố vào năm 1956 đến năm 1985. Thời kỳ sau chiến tranh tức thời, Hungary
duy trì trung bình số lượng là khoảng ba người trong một căn hộ và bắt đầu giảm xuống
tới một người trong một căn hộ vào giữa năm 1990. Hơn nữa, cuối những năm 1980, điện
có gần toàn bộ trong các bộ phận dân cư (điện cung cấp được ít hơn một nửa số hộ cần
dùng điện của Hungary vào năm 1949, khi những căn hộ bị quốc hữu hóa), và nước máy
cung cấp cho khoảng 3/4 số lượng hộ dùng nước. Xây dựng nhà riêng, hộ gia đình tăng
lên vào những năm 1960 - 1970, cấu thành hơn 4/5 tổng công trình xây dựng giữa năm
1990, như vậy xây dựng nhà ở trở thành một phần của nền kinh tế thị trường.
Vào năm 1990, trong khi chi phí về quyền sở hữu và thuê nhà ở tăng cao, nhà
kinh doanh ngày càng tăng và được phân cực rõ rệt. Các tầng lớp dưới của xã hội tiếp tục
sống trong cơ cực, không được bảo vệ, dễ bị tổn thương và thường xuyên phải sống trong
những căn hộ bị hư hỏng, trong khi đó tầng lớp thượng lưu của xã hội lại chiếm giữ
những căn hộ đắt tiền hay những biệt thự giống kiến trúc kiểu phương Tây mà do họ tự
xây dựng và thiết kế. Nhà ở chất lượng cao được mua không phải chỉ bởi những người
Hungary giàu có mà còn bởi nhiều người phương Tây, trong số họ có một số người
thường trú hoặc hồi hương theo từng mùa.
9/ Giáo dục và những xem xét chung
Kể từ khi giáo dục phổ thông bắt buộc được ban hành bởi luật năm 1868,
Hungary luôn đi theo sau hệ thống giáo dục của Đức trên mọi phương diện. Hệ thống này
bao gồm bốn, sáu, và cuối cùng là tám năm giáo dục ở các trường cơ bản và một số sự
lựa chọn khác, sau bốn năm đầu tiên của trương trình giáo dục cơ bản - tám năm rèn
luyện thể lực một cách nghiêm túc để chuẩn bị cho việc định hướng vào các trường đại
học. Những trường đại học này toàn bộ được tổ chức theo mô hình của Đức, được đào tạo
với mức độ cơ bản sau bốn hay năm năm, tiếp sau là những người có trình độ tiếp tục
nghiên cứu khoa học dưới những học vị tiến sĩ được đánh giá dựa vào các bài luận văn.
Để có thể trở thành một thành viên trong hội các giáo sư thì phải trải qua một quá trình
đào tạo lâu dài mà người ta gọi là " xuất vốn để khai thác mỏ " (habilitáció ), mà đòi hỏi
phải đạt kết quả tốt trong quá trình bảo vệ luận văn quan trọng hơn là dựa vào nghiên cứu
sơ cấp.
Mọi sự thay đổi này sau sự tiếp quản của chế độ cộng sản Hungary sau chiến
tranh thế giới II. Vào năm 1948 những trường học bị quốc hữu hóa, và nền giáo dục theo
kiểu Đức được thay thế bởi một nền giáo dục theo số lượng kiểu Xô viết, cơ bản mất tám
năm học trong các trường học công lập và bốn năm ở cấp trung học. Những trường trung
học trường dự bị cao đẳng thành lập mới nhiều hơn đào tạo xấp xỉ bốn năm, cũng như
đào tạo nhiều ngành nghề đa dạng trang bị cho những sinh viên các trường cao đẳng kỹ
thuật hay các trường đại học nhưng đa số là còn đơn giản trong mức độ công việc. Hệ
thống giáo dục này còn tồn tại cho đến năm 1990, khi chủ nghĩa cộng sản tan rã dẫn đến
sự trở lại bộ phận hệ thống giáo dục truyền thống. Trong khi đa số hệ thống 8+4 vẫn tiếp
tục được đưa vào sử dụng chưa có sự rạn nứt nào, bây giờ nó phải cạnh tranh với hệ
thống 6+6 và 4+8, ở đây có sáu hoặc tám năm cố gắng tạo ra nhiều sự hiểu biết hơn hệ
thống giáo dục Mác xít Hungary trước đây.
Trong thời gian 1990 sự giống nhau của hệ thống giáo dục cộng sản về sau không
còn được như vậy bởi lời mời của các cấp trung học tư nhân. Những trường học tôn giáo
bị quốc hữu hóa được trở lại thành những nhà thờ và những cơ quan tôn giáo, và nhiều
trường học tư nhân mới được mở ra. Giữa năm 1980 và giữa năm 1990, số lượng trường
trung học gia tăng từ 561 đến 887, mặc dù số dân tuổi đến trường sụt giảm từ 1,3 triệu tới
chỉ dưới 1 triệu.
Sự công nghiệp hóa làm cho người phụ nữ bận rộn hơn trong công việc vì phải
làm thêm ngoài giờ, dẫn đến sự hình thành của một hệ thống rộng lớn trường học mới và
những trường mẫu giáo. Sự có mặt không uỷ nhiệm, nhưng, nhiều đứa trẻ trong nhiều gia
đình được đưa đến các nhà trẻ khi cả hai cha mẹ đều đi làm. Sau nửa năm 1990, việc giáo
dục được tự do từ trường mẫu giáo đến các bậc trường đại học và bắt buộc từ 6 tới 16
tuổi. Vào thời gian đó một sự giảng dạy khiêm tốn được biết đến dưới hình thái trường
đại học và một số lượng trung tâm những trường học và trường tư nhân ngày càng tăng ở
bậc cao học.
10/ Giáo dục và giáo dục bặc cao hơn
Chuẩn bị cho một nền giáo dục bậc cao hơn trở nên phổ biến trong thực tế vào
đầu năm 1980, và vào khoảng cuối thập niên đó 1/5 số người ở giữa độ tuổi 18 và 24
được tuyển vào làm một trong các cơ quan trình độ học vấn cao hơn của Hungary, đa số
các cơ quan đó là được thành lập hay được tổ chức lại sau chiến tranh thế giới II. Sự tăng
lên này được tiếp tục thậm chí sau khi chế độ cộng sản kết thúc; vào năm 1990 có duy
nhẩt 70,000 sinh viên các trường cao đẳng đại học học tập nghiên cứu chính quy và
100,000 sinh viên không chính quy, nhưng gần những thập niên đầu của thế kỷ 21 số
lượng sinh viên học tập chính quy và không chính quy tăng lên tới gần 400,000.
Đã có một tổ chức giáo dục bậc cao của Hungary năm 2000. Trước đó, những cơ
quan truyền thống cơ bản của việc đào tạo giáo dục bậc cao hơn là ở các trường đại học
Loránd Eửtvửs ở Budapest, trường đại học Lajos Kossuth ở Debrecen, trường đại học
Janus Pannonius ở Pitch, trường đại học Attila József ở Szeged, trường đại học Kỹ thuật
ở Budapest, và những khoa học Kinh tế thuộc trường đại học Budapest. Có hàng tá
những trường học và những trường cao đẳng chuyên nghiệp trên khắp cả nước. Vào năm
2000 hầu hết trường cao đẳng chuyên nghiệp này kết hợp với những trường đại học lâu
năm hơn để hình thành nên "những trường đại học tổng hợp" mới. Kết quả là sinh ra
những trường đại học mới ở Debrecen, Pitch, và Szeged; những trường đại học Miskolc
và Veszprém được tổ chức lại; và mới được tạo ra như trường đại học Stephen của
Gửdửllõ, trường đại học Phương tây ở Sopron Hungary, và trường đại học ở Gyõr. Ngoại
lệ quá trình hợp nhất này trong thành phố Budapest, nơi có những trường đại học Loránd
Eửtvửs, trường đại học Y Semmelweis, trường đại học Kỹ thuật, trường đại học khoa học
kinh tế và trường Quản trị Công cộng Kinh tế (đổi tên thành đại học Corvinus năm 2005)
tồn tại độc lập.
Sau thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, vài trường đại học tôn giáo và tư nhân
được thiết lập, gồm trường đại học Châu Âu Trung tâm của Budapest, thành lập bởi
những nhà nhân đạo Mỹ Hungary George Soros như một cơ quan sau khi sinh viên tốt
nghiệp ngôn ngữ tiếng Anh nơi những sinh viên được giới thiệu biết đến những ý tưởng
của Karl Raimund Popper về một "xã hội mở". Các cơ quan tôn giáo được biết đến tốt
nhất là trường đại học tín đồ tôn giáo Péter Pázmány và trường đại học cải cách Karoli
Gáspár. Ngoài ra, vài những trường cao đẳng chuyên nghiệp về âm nhạc, mỹ thuật, nhà
hát, và những nghệ thuật quân đội được nâng lên thành các trường đại học.
Thời kỳ sau cộng sản cho thấy việc tổ chức lại những văn bằng trường đại học.
Giữ lại ở mức độ thông thường, trừ học vị tiến sĩ trường đại học và "ứng cử viên" Xô viết
được thu nhận (kandidátus) - dưới một mức độ nghiên cứu được đề xuất bởi Viện hàn
lâm khoa học - được bãi bỏ và thay thế bởi một học vị tiến sĩ kiểu Mỹ. Học vị tiến sỹ
khoa học, đề xuất bởi những học viện khoa học năm 1950 và được biết đến như một “học
vị tiến sỹ lớn“, được giữ lại theo quy định. Nhưng, trong khi trước đó nó chỉ được tặng
thưởng trên cơ sở một luận văn toàn diện, còn bây giờ nó mang lại những thành tựu trong
chính cuộc sống bởi các nghiên cứu của nhóm những nhà khoa học.
V/ KINH TẾ HUNGARY QUA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
1/ Tổng quan về kinh tế Hungary
Trong lịch sử, trước chiến tranh thế giới II, phần lớn Hungary là ruộng đất. Chính
sách công nghiệp hóa bắt đầu vào năm1948 buộc Xô viết phải thay đổi đặc tính kinh tế
cuả mình. Bắt đầu từ số những công việc mới được tạo ra trong công nghiệp (đáng chú ý
hơn là công việc giành cho phụ nữ) và sau đó, trong những công tác dịch vụ. Được hoàn
thành phần lớn thông qua một chính sách tích trữ bắt buộc; để giữ một lượng hàng tiêu
dùng trong tuần với giá cả thấp để tránh việc phải mua hàng tiêu dùng với giá cao, bởi vì
hàng tiêu dùng bên ngoài đa số Hunggary đặt mua giự trữ cho việc sử dụng trong tiêu
dùng của chính phủ. Trong suốt thời kỳ này, tỷ lệ dân cư được thuê trong nông nghiệp bị
đào thải nhiều hơn một nửa chỉ còn khoảng 1/8 trong năm 1990, trong khi lực lượng lao
động công nghiệp lớn lên tới gần 1/3 dân cư kinh tế tích cực bởi cuối những năm 1980.
Từ thời gian đó, khu vực dịch vụ tăng một cách đáng kể.
Cùng với sự hiện đại hóa kinh tế kiểu Xô viết dẫn đến sự tăng trưởng nhanh, về
cơ bản nó đã đi trước thế kỷ 20 và vượt lên trên công nghệ lỗi thời. Những ngành công
nghiệp nặng như sắt, thép được cho quyền ưu t iên cao nhất, cơ sở hạ tầng trong khi hiện
đại, những công tác dịch vụ, và truyền thông thì xềnh xoàng không được chú trọng.
Những công nghệ mới và công nghiệp sử dụng công nghệ cao là nhóm bị hạn chế
bởi những các nước Phương Tây (ủy ban phối hợp quản lý hàng xuất khẩu nhiều bên) về
xuất khẩu những công nghệ hiện đại tới Xô viết và chưa phát triển về sau.
Trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, chính phủ được biết đến một cơ chế
kinh tế mới (NEM) vào năm 1968. (NEM) thực hiện những cải cách kiểu thị trường để
hợp lý hóa hành vi những doanh nghiệp nhà nước của Hungary, và cũng bao gồm cả
doanh nghiệp tư nhân. Vào khoảng cuối năm 1980, 1/3 tổng sản phẩm quốc nội (GDP) -
gần 3/5 công việc trong nghành dịch vụ và hơn 3/4 các xưởng máy móc thiết bị phục vụ
trong xây dựng được tạo ra bởi các doanh nghiệp tư nhân kinh tế của Hungary, tuy nhiên,
không gặp thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau năm 1973. Những sự
tăng giá kịch tính của sản lượng dầu và công nghệ hiện đại tạo ra thâm hụt thương mại
lớn, dẫn tới tăng sự mắc nợ nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng bị chậm lại và lạm phát tăng
lên, dẫn tới một chu kỳ khủng hoảng.
Sau 1989 thị trường của Hungary và những hệ thống nghị viện mới đang đứng
trước một nền kinh tế bị đàn áp bởi cuộc khủng hoảng với số nợ nước ngoài khổng lồ và
những khu vực xuất khẩu không cạnh tranh. Hungary lại mở cửa hội nhập với thị trường
thế giới và lĩnh vực ngoại thương, sự suy tàn kinh tế về sau được biết tới. Nông nghiệp bị
ảnh hưởng rất nhiều và bị bỏ hoang không sử dụng tới một nửa số diện tích. Đặc biệt
trong đông bắc Hungary, một phần lớn sắt, thép, và những khu vực kỹ thuật bị suy sụp.
Tương ứng, đầu ra và GDP trong công nghiệp giảm tới 30% và 25%. Thất nghiệp tồn tại
trước đó đã tăng lên tới 14% vào đầu những năm 1990 nhưng giảm sau năm 1994.
Giữa những năm1990, nền kinh tế bắt đầu khôi phục dần dần. Lạm phát đã suy
yếu vào năm 1991 nhưng vẫn ở mức cao trên 20% một năm, trước khi ở mức dưới 10%
vào thế kỷ 21. Một hệ quả của những biện pháp cứng rắn không thể tránh được mà bao
gồm sự loại bỏ nhiều cơ quan phúc lợi, hầu hết dân cư mất đi sự tin tưởng so với trước
đây. Vào những năm đầu tiên sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, số lượng người dân
đang sống ở dưới mức sinh hoạt tối thiểu tăng lên gấp đôi, nhưng cũng được ổn định sớm
trước thế kỷ 21. Người ta nghi lại thời kỳ này là thời kỳ nghèo đói kéo dài của Roma.
Vượt qua chướng ngại này, bởi sự điều tiết của nền kinh tế thế giới trước thế kỷ 21. Đầu
tư nước ngoài của Hungary được tự do thu hút, hơn môt nửa trong toàn bộ đầu tư nước
ngoài trực tiếp được đầu tư vào những lĩnh vực trọng tâm và còn lại được đầu tư vào
phương đông Châu Âu những năm 1990. Sự hiện đại hóa của nghành viễn thông cũng
được bắt đầu chú trọng, những nghành công nghiệp mới (chẳng hạn như sự sản xuất xe ô
tô) bắt đầu nẩy sinh. Một cách đáng kể, gần một triệu những doanh nghiệp sở hữu gia
đình quy mô nhỏ thành lập sớm trong thế kỷ 21. Những doanh nghiệp sở hữu nhà nước bị
loại bỏ tơi 1/5. Những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế là những khu công
nghiệp mũi nhọn và các khu du lịch.
2/ Kinh tế nông nghiệp
Hệ thống nông nghiệp của Hungary giữ một vai trò quan trọng khi nền kinh tế suy
sụp sau chiến tranh thế giới thứ II, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP giảm chỉ bằng một
nửa so với thời kỳ trước chiến tranh và tăng lên khoảng 4% vào năm 2005. Tuy vậy, nông
nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng, trong thực tế Hungary là một nước sản xuất nông
nghiệp. Hungary có điều kiện khí hậu hết sức thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp,
một nửa diện tích đất nước có thể trồng trọt được, 1/5 diện tích được bao phủ bởi gỗ.
Khoảng 1/10 tổng diện tích có thể trồng trọt bền vững. Nông nghiệp được tính toán cho
xuất khẩu khoảng 1/4 trước sự thay đổi của nền kinh tế năm 1990.
Sau thời kỳ đầu của hợp tác xã hoá (1948 - 1961), Hungary đã hợp nhất được các
tổ chức canh tác riêng lẻ. 1/8 những mảnh đất kém màu mỡ của hợp tác xã đã đáp ứng
được khoảng 1/5 số lương thực tiêu dùng trong nước. 1/5 diện tích đất nông nghiệp của
Hungary thuộc về nông trường quốc doanh. Từ năm 1990 đất đã được tư hữu hoá lai.
Một số trong số những người làm nông già yếu có thể ở lại trong những trang trại tập thể,
tuy nhiên, những nông trại riêng này chỉ là những khuôn mẫu.
Ngũ cốc, lúa mì và hạt ngô là chủ yếu, là quốc gia có nhiều cây trồng quan trọng.
Những cây trồng chính khác là những cây củ cải đường, khoai tây, cây hướng dương, và
những quả (đáng chú ý là táo, nho và những qủa mận). Trồng nho, vùng trồng nho được
tìm thấy trong những vùng núi phía bắc. Thú nuôi, như cừu, lợn, và chim nuôi được phát
triển ở Hungary, nhưng, với quá trình khai thác quá mức các sản phẩm từ động vật làm
cho số lượng của chúng giảm đáng kể vào năm 1990.
3/ Kinh tế với thế mạnh về tài nguyên
Tài nguyên là yếu tố quan trọng nhất của đất nước Hungary, đặc biệt ở phương
tây và những vùng trung tâm, là đất đai màu mỡ và những tài nguyên nước dư thừa -
đáng chú ý là ở Hồ Balaton, một tài sản chính cho việc khai thác du lịch. Những tài
nguyên, nhiên liệu hóa thạch hay ở dạng rắn tương đối khiêm tốn. An-tra-xit chất lượng
cao (than An-tra-xit) chỉ được khai thác tại Komló, và than non (than bùn) của nước này
có trong những vùng núi phía bắc (đáng chú ý ở ózd) và ở Transdanubia (ở Tatabánya).
Than đá chỉ thoả mãn một nửa những nhu cầu năng lượng của Hungary; nó chỉ cung cấp
được ít khoảng 1/3 số năng lượng.
Khí đốt tự nhiên Oiland được khám phá vào cuối những năm 1930 trong
Transdanubia và trong những thập niên sau thế chiến II tại vài địa phương trong Alfửld
Lớn, đặc biệt gần Szeged. Việc khai thác và sản xuất năng lượng đã làm cho lượng cổ
phiếu gia tăng từ 1/3 lên 1/2 giữa những năm 1970 và 2000; tuy nhiên, Hungary chỉ có
thể cung ứng một phần nhỏ những nhu cầu dùng dầu trong nội địa.
Khoáng sản quan trọng duy nhất cuả Hungary la quặng bô xit – do vậy Hungary
có được những đơn đặt hàng từ những nước giàu có nhất Châu Âu - chất măng gan, trong
núi Bakony, đồng không phát triển và những tài nguyên kẽm ở Recsk, nhiều quặng mang
kim loại khác nhau được tìm thấy đang gia tăng một cách đáng kể trong chiến tranh
Hungary, nhưng quặng sắt không được nguyên chất nữa. Những khoáng chất khác được
tìm thấy bao gồm thủy ngân, chất dẫn, Urani, đá trân châu, kim loại cứng màu bạc, đất
tảo silic, caolin, bentonít, zeolit, và đolomit .
4/ Kinh tế và sản xuất
Kết quả của chính sách công nghiệp hóa gượng gạo dưới chế độ chính phủ cộng
sản, công nghiệp trải qua một tốc độ tăng trưởng đặc biệt cao cho đến cuối những năm
1980, bởi thời gian này nó đóng góp khoảng 2/5 vào GDP. Khai mỏ và luyện kim, cũng
như hóa chất và thiết kế công nghiệp, lớn lên từng bước và thích nghi được với nền kinh
tế kế hoạch hóa của Hungary. Thực vậy, một nửa đầu ra công nghiệp được sản xuất bởi
ba khu vực này. Việc thiếu công nghệ và cơ sở hạ tầng hiện đại, tuy nhiên, công nghiệp
của Hungary không được chuẩn bị trước cuộc tranh đua kinh tế toàn cầu sau này đã làm
sụp đổ chủ nghĩa xã hội nhà nước. Trong môt nửa thời gian đầu tiên năm 1990, việc làm
trong ngành công nghiệp đáp ứng dưới 1/4 người dân lao động kinh tế tích cực. Tổng
công suất giảm gần 1/3, đầu ra trong công nghiệp khai thác mỏ, luyện kim, và kỹ thuật
đang giảm một nủa. Trong những năm 1990, tổng đầu ra kỹ thuật giảm từ 1/3 xuống chỉ
còn 1/5.
Như công nghiệp và kinh tế Hungary nói chung phải trải qua cuộc tổ chức lại và
sự hiện đại hóa trong thời gian đầu những năm 1990 (bao gồm thi hành tư hữu hóa và cải
tiến chất lượng hàng hóa và dịch vụ), một số ngành công nghiệp đã thích nghi một cách
thành công với những điều kiện mới. Trong số ít những ngành công nghiệp đã suy thoái
bắt đầu cho thấy dấu hiệu đầu tiên của sự tăng trưởng như là công nghiệp chế biến lương
thực, thuốc lá và cây gỗ hay công nghiệp làm giấy.
Một phần thông qua đầu tư nước ngoài, công nghiệp bằng máy móc (thành phần
quan trọng khác của kinh tế) cũng cho thấy những dấu hiệu của sự cải tiến giữa năm
1990. Một số ngành công nghiệp mới hơn, kể cả sản xuất và sửa chữa những thiết bị viễn
thông và công nghiệp xe ô tô, cũng cho thấy sự tăng trưởng quan trọng.
Giữa năm 1950 và 1990, tiêu thụ điện ở Hungary tăng lên gấp 10 lần, bởi vì năm
1990 hơn 1/3 công nghiệp đầu ra được sản xuất bởi khu vực năng lượng. Sớm đầu thế kỷ
21, những 3/5 việc tiêu thụ năng lượng được bắt nguồn từ những cây nhiệt đốt cháy hy-
đrô-cac-bon (Một phần lớn thì nhập khẩu). Có vài nghìn dặm đường dầu và những đường
ống dẫn khí tự nhiên. Năng lượng hạt nhân được tính toán cho gần 2/5 năng lượng cung
cấp của Hungary, với những kế hoạch cho sự mở rộng về sau, 1% nhỏ là sự phát sinh từ
sức mạnh tự nhiên gồm có thủy điện và những giải pháp địa nhiệt.
5/ Kinh tế và Tài chính
Dưới thơì đại Xô viết, hệ thống ngân hàng rất đơn lẻ, các ngân hàng nhà nước sử
dụng cùng một lúc hai đồng tiền và giữ độc quyền tài chính trong nền kinh tế Hungary.
Đầu năm 1987, Hungary bắt đầu hướng về thị trường, hai hệ thống ngân hàng trong đó
ngân hang liên bang được giữ lại ngân hàng phát hành nhưng còn ngân hàng thương mại
được thành lập. Đầu tư nước ngoài được cho phép, và những "tập đoàn" (một phần có sở
hữu Nước ngoài) những ngân hàng được hình thành. Vào 1990 một thị trường chứng
khoán được thiết lập.
Vào năm 1990, trong thời kỳ sau cộng sản, quá trình cải cách được tiếp tục với sự
đúc của những ngân hàng tư nhân, cổ phiếu được bán trong ngân hàng nhà (tuy nhiên đại
đa số những ngân hàng giữ lại là của nhà nước), và sắc lệnh về luật mà được bảo đảm tự
do của ngân hàng liên bang. Tiền tệ cũng trở nên hoàn thiện dễ chuyển đổi cho doanh
nghiệp hơn). Trong guồng quay của thế kỷ 21, việc kịch thích trong đầu tư nước ngoài và
ngân hàng thương mại, hệ thống ngân hàng Hungary gần như được tư hữu hoá một cách
đầy đủ. Vào năm 1986 hệ thống bảo hiểm được vận hành tách thành hai công ty riêng
biệt, và bởi những công ty bảo hiểm.
6/ Kinh tế và buôn bán
Hungary là một hội viên sáng lập của Comecon (hội đồng tương trợ kinh tế năm
1949 - 1991). Dưới sự bảo hộ của nó, thương mại được định hướng giữa những nước của
khối Xô viết trên cơ sở của sự sản xuất chuyên dụng, giá cố định, và sự đổi chác. Liên
bang Xô viết là việc liên kết đa số các lĩnh vực thương mại quan trọng của Hungary,
nhưng, vào cuối những năm 1980 và đầu năm 1990, trong khi Hungary trở nên ngày càng
phát triển trong thị trường toàn cầu, ít so với môt nửa lĩnh vực thương mại các nước được
giữ lại Comecon, không được chuẩn bị cho việc cạnh tranh thị trường toàn cầu, Hungary
đã bị thâm hụt lớn tích lũy thương mại mà bao gồm toàn những khoản nợ nước ngoài rất
lớn. Trong tình hình đó đất nước gặp rất nhiều khó khăn vì mắc nợ nước ngoài và phải sử
dụng rất nhiều hàng hoá xuất khẩu nước ngoài bị trả lại.
Tuy vậy, giữa năm 1990 có 3/4 lĩnh vực thương mại của Hungary là thuộc nền
kinh tế thị trường. Đức trở thành bạn hàng thương mại quan trọng nhất của Hungary, theo
sau là Italy, Áo, nước Pháp và Mỹ. Trong khi đó, tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu từ những
nước thành viên cựu Liên bang Xô viết giảm từ 1/5 trong đầu những năm 1990 xuống
dưới 1/10 đầu thế kỷ 21, bởi tại những nước Hungary xuất khẩu tới chiếm một thị phần
rất nhỏ không đáng kể. Vào năm 1996 Hungary gặp tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), và vào năm 2004 nó trở thành một thành viên chính thức của Liên hiệp Châu
Âu (EU).
Trong đầu thế kỷ 21, thiết bị máy móc và chuyên trở là hai yếu tố chính của nhập
khẩu Hungary (chiếm 3/5 tổng lượng nhập khẩu) và cũng là hàng hoá xuất khẩu chủ đạo
(chiếm 1/2 tổng lượng hàng xuất khẩu). Đặc biệt, hàng hóa thương mại thiết yếu của
nước là những thiết bị viễn thông, máy móc điện, máy móc chế tạo ra là những máy móc
dùng trong công nghiệp, và máy văn phòng.
7/ Kinh tế và công tác dịch vụ
Qua thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, một phần lợi nhuận khu vực dịch vụ đóng
góp vào GDP bình quân hàng năm khoảng 0,5%. Đầu những năm 2000, công tác dịch vụ
tính toán đã đóng góp cho gần 2/3 GDP và tạo ra việc làm cho lực lượng lao động. Du
lịch đóng một vai trò lớn trong sự phát triển Hungary và trở thành một điểm đến hết sức
lý tưởng, đặc biệt là khách du lịch đến từ Áo, Croatia, Đức, Montenegro, Romania,
Serbia, Slovakia, và Ukraine, đa số họ đi bằng bằng ôtô, quan trọng là mọi chi phí cho
sinh hoạt rất thấp đối với những người từ Châu Âu và phương Tây tới, kể cả từ Mỹ,
Canada, và Australia.
8/ Kinh tế lao động và hệ thống thuế
Hội đồng trung tâm Xô viết của những nghiệp đoàn Hungary, được tổ chức lại
vào 1988 như sự Liên minh quốc gia của nghiệp đoàn Hungary. Nó chính thức là tổ chức
thương mại lớn nhất Hungary, với 40 tổ chức dưới sự bảo hộ đầu thế kỷ 21. Nó được tụ
họp bởi Hiệp hội những nghiệp đoàn Tự do của Hungary, sự Liên minh Dân chủ của
những nghiệp đoàn Tự do, diễn đàn dành cho tập đoàn của những nghiệp đoàn, và thương
mại Tự trị Hợp sự Liên minh.
9/ Kinh tế vận tải và viễn thông
Những đường sắt dài là trung tâm hệ thống vận tải của Hungary. Bởi chiến tranh
thế giới thứ I nước này đã có một mạng lưới đường sắt hiện đại và dầy đặc bặc nhất Châu
Âu, và nó tiếp tục được mở rộng cho đến cuối những năm 1970, với sự điện khí hóa bắt
đầu vào thập niên trước đây. Khi sản xuất công nghiệp bị hạn chế trong thời gian chuyển
tiếp tới một nền kinh tế thị trường, vận tải đường sắt của hàng hóa lên ngôi, tác động bởi
sự cắt giảm quan trọng trong những trợ cấp chính phủ cộng với việc làm hư hỏng cơ sở
hạ tầng đường sắt. Vào khoảng cuối thế kỷ 20, tuy nhiên, EU bắt đầu cấp vốn cho những
sự cải tiến mạng lưới đường ray, cũng như những dự án đường cao tốc.
Trong thời đại sau sau cộng sản, vận tải đường bộ được xây dựng phần trăm tăng
lên ngày càng nhiều trong toàn bộ con đường chuyên chở hàng hoá. Những xe buýt là
một hình thức chính trong phương tiện du lịch của vận tải hành khách, số xe ôtô thuộc
quyền sở hữu cá nhân tăng lên nhanh chóng đầu những năm 1980. Tăng trưởng này sau
khi kết thúc chế độ cộng sản. Giữa năm 1989 và 1996, 1,5 triệu ôtô được bổ sung vào
Hungary thì những con đường được xây dựng mới nhiều lên và chủ yếu do người phương
Tây xây dựng. Trong cùng thời kỳ, những chiếc ôtô do phương Đông sản xuẩt lại đang
sút giảm nhanh chóng. Việc xây dựng và nâng cấp các con đường tăng một cách đáng kể
trong đầu thế kỷ 21.
Sông Danube, đường thủy vận tải quan trọng duy nhất cuả đất nước trong lịch sử
được sử dụng cho hàng hải quốc tế, theo đường hải cảng tự do của Csepel. Tuy nhiên, sau
kết quả của sự phá hủy những cây cầu trong cựu Yugoslavia trong thời gian can thiệp của
NATO với những mâu thuẫn trong Kosovo vào năm 1999, nhiều ngành hàng hải phát
triển chững lại. Các đội thương thuyền của Hungary gần như biến mất, giảm với tỷ lệ 200
năm 1994 xuống còn 1 vào năm 1999.
Vào bắt đầu của thế kỷ 21, nhiều hơn một nửa dân cư Hungary là sử dụng điện
thoại. Truyền hình và rađiô trở nên rất phổ biến, và việc sử dụng máy tính cá nhân và
Internet đang lớn lên từng ngày.
VI/ CỘNG HOÀ HUNGARY VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
1/ Kinh tế
Các chỉ số kinh tế chính
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tăng trưởng GDP 3,3% 2,9% 4% 4,2% 4% 2,1%
Lạm phát 5,2% 5% 5,6% 2% 2% 7,7%
Thất nghiệp 5,8% 7,2% 7,4% 7,1%
Biểu đồ 1: Tăng trưởng GDP Hungary qua các năm.
0.0%
0.5%
1.0%
1.5%
2.0%
2.5%
3.0%
3.5%
4.0%
4.5%
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Từ năm 1997, kinh tế đi vào quỹ đạo phát triển ổn định với tốc độ khá cao, có
những năm GDP tăng khoảng 4 - 5%, năm 2003 là 2,9%, năm 2004 là 4%, năm 2006 là
4% năm 1995 là 4,2% Hungary trở thành thành viên của (OECD), nền kinh tế Hungary
đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, với thu nhập đầu người gần bằng 2/3 mức thu
nhập bình quân của 25 nước EU. Hungary tiếp tục chứng tỏ tiềm lực tăng trưởng kinh tế
mạnh mẽ và đã gia nhập EU vào tháng 5/2004, từ khi gia nhập EU Hungary đã cho thấy
nền kinh tế của đất nước có sự thay đổi theo chiều hướng phát triển cụ thể là tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định tăng từ 2,9% năm 2004 lên 4,2% vào năm 2005. Khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp đến 80% GDP. Hiện nay các nhà quan sát quốc tế đang lo ngại
về tình trạng thâm hụt tài khoản và tài khóa của Hungary. Lạm phát đã giảm từ 14%
(1998) xuống còn 3,7% (2006). Tỷ lệ thất nghiệp vẫn giữ ở mức 6%. Lực lượng tham gia
lao động của Hungary là 57% dân số, một trong những tỷ lệ thấp nhất của các nước trong
tổ chức OECD.
Đức luôn là bạn hàng lớn nhất của Hungary. Chính phủ đương nhiệm đã bắt đầu
áp dụng các chương trình thắt lưng buộc bụng nghiêm ngặt để giải quyết một loạt các vấn
đề, mà nguyên nhân sâu xa là việc sử dụng đồng euro.
2/ Chính trị:
Thể chế chính trị: dân chủ đại nghị
Nội các: Quốc hội bầu ra Hội đồng Bộ trưởng theo đệ trình của Tổng thống.
Trong những năm đầu thập kỷ 90, ở Hungary có hàng trăm đảng phái chính trị ra
đời. Hiện nay, trên chính trường Hungary chủ yếu còn 2 đảng lớn: Đảng Xã hội Hungary
(MSZP) - thực chất là Đảng Xã hội dân chủ - trụ cột của các lực lượng cánh tả - và Đảng
Liên minh Dân chủ trẻ (FIDESZ) - nay đổi tên thành Liên minh Công dân (5/2003) - trụ
cột của cánh hữu. Từ năm 1998-2002, FIDESZ và các đảng hữu cầm quyền, song trong
bầu cử Quốc hội tháng 4/2002 đã thất bại; Đảng Xã hội Hungary và Đảng Liên minh Dân
chủ Tự do (SZDSZ) giành thắng lợi sít sao, liên minh với nhau lập Chính phủ liên hiệp
trung tả; các đảng hữu như Đảng Công lý và Đời sống, Đảng Tiểu chủ đã bị loại khỏi
Quốc hội mới. Như vậy, sau 4 năm ở vị thế đối lập, từ tháng 5/2002 liên minh trung tả đã
trở lại cầm quyền ở Hungary. Trong cuộc bầu cử chính quyền tự quản địa phương
20/10/2002, các đảng trung tả, nhất là MSZP giành thắng lợi lớn, giành được các vị trí
chủ đạo tại hầu hết các Hội đồng tỉnh, các thành phố cấp tỉnh và ở thủ đô Budapest.
Chính phủ trung tả đặt mục tiêu khôi phục hòa hợp dân tộc, củng cố các thiết chế
dân chủ, nhất là Quốc hội, phát triển kinh tế cùng với chú trọng yếu tố xã hội, cải thiện
đời sống cho các tầng lớp dân nghèo, nâng cấp các ngành y tế, giáo dục, hỗ trợ nông
nghiệp và từng bước thực hiện chiến lược hiện đại hóa.
3/ Đối ngoại
Từ sau khi chuyển đổi, các chính phủ đều nhất quán thực hiện 3 mục tiêu ưu tiên
trong chính sách đối ngoại: nhanh chóng hội nhập các tổ chức Châu Âu và Đại Tây
Dương, trước hết là NATO và EU, củng cố quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và
bảo vệ lợi ích của cộng đồng Hungary sống ở nước ngoài, trước hết là ở các nước láng
giềng.
Tháng 3/1999, Hungary được kết nạp vào NATO. Từ 1/5/2004, Hungary là thành
viên EU. Hungary bắt đầu chuyển đổi thể chế từ năm 1989. Tình hình chính trị cơ bản ổn
định. Năm 1999 Hungary được kết nạp vào Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây dương
(NATO) và trở thành thành viên chính thức của Liên minh Châu Âu (EU) từ 1/5/2004.
Sau khi trở lại cầm quyền, Chính phủ trung tả chủ trương "phát triển quan hệ hữu nghị,
hợp tác với các nước trên thế giới nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho công cuôc
xây dựng đất nước", trong đó nhấn mạnh thực hiện các mục tiêu ưu tiên, tháng 5/2004 đã
hoàn thành việc gia nhập Liên minh Châu Âu, đồng thời cải thiện và phát triển quan hệ
với các nước láng giềng, khu vực, góp phần vào việc ổn định tình hình ở Trung Đông Âu.
Về mục tiêu bảo vệ lợi ích Hung kiều, Chính phủ trung tả khẳng định tiếp tục ủng hộ,
giúp đỡ để Hung kiều sống ổn định, hạnh phúc ở nước họ đang cư trú và được hưởng các
quyền lợi theo tiêu chí chung của EU, đồng thời giữ được bản sắc văn hóa, ngôn ngữ của
dân tộc Hungary.
Sau 4 năm cầm quyền của lực lượng trung tả, nhìn chung quan hệ giữa Hungary
với các nước láng giềng, khu vực và với các nước lớn, kể cả với Nga, đều được cải thiện
rõ rệt.
Với các nước thuộc khu vực khác, Hungary quan tâm phát triển quan hệ hợp tác
kinh tế, thương mại, khoa học - kỹ thuật với các nước có tiềm năng ở Châu Á như Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ.
Ưu tiên hàng đầu của Hungary sau khi hội nhập các cơ cấu Châu Âu - Đại Tây
Dương là tham gia đầy đủ, tích cực vào các cơ chế Châu Âu, NATO, duy trì quan hệ tốt
với Mỹ, các nước láng giềng, bảo vệ quyền lợi Hung kiều và mở rộng quan hệ ra ngoài
Châu Âu. Hungary coi vai trò thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa ở vùng Balkan là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của mình trong EU.
Hungary cũng triển khai chính sách đối ngoại mới với châu Á. Hungary đánh giá
đây là châu lục có tốc độ phát triển năng động nhất thế giới và là một trong những trọng
điểm trong chính sách đối ngoại không chỉ của Hungary mà của cả EU. Chính phủ
Hungary đã lập Ủy ban thúc đẩy quan hệ với châu Á do Thủ tướng làm Chủ tịch, các Bộ
trưởng Kinh tế và Ngoại giao là hai Phó Chủ tịch.
Triển khai chính sách châu Á mới, Thủ tướng Hungary từ tháng 9/2004 đến nay
đã thăm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Indonesia và Việt Nam.
Hungary là một trong số ít quốc gia tại châu Âu thuộc hệ ngôn ngữ Finno - Ugric, cùng
với tiếng Phần Lan và tiếng Estonia. Nước này là một địa điểm du lịch yêu thích nổi tiếng
toàn thế giới với nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp, tiêu biểu là hồ Balaton. Thủ đô
Budapest với rất nhiều công trình kiến trúc lịch sử và văn hóa cũng là một địa điểm thu
hút nhiều khách du lịch tới Hungary.
Hungary thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1950.
Sông Đanuýp chảy qua đồng bằng châu Âu và dọc theo đôi bờ của nó có rất nhiều thành
phố xinh đẹp, trong đó nổi bật nhất là Buđapét - thủ đô của Hunggary, nơi được mệnh
danh là hòn ngọc của dòng Đanuýp. Sự kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại đã đem
đến cho thành phố này một vẻ đẹp đa dạng. Trên vùng gò đồi tuyệt đẹp phía tả ngạn sông
Đanuýp là quần thể các di tích văn hóa cổ. Còn phía đối diện là những công trình hiện
đại, tráng lệ. Ta hãy bắt đầu chuyến tham quan Buđapet từ núi Pháo Đài. Vùng đất này
được hình thành từ thế kỷ 15. Tại đây, trên quảng trường mang tên Thánh Ba ngôi có đài
tưởng niệm những người đã chết vì bệnh dịch hạch hồi đầu thế kỷ 18 và ngôi đền
Machiasa rất nổi tiếng. Kế đó là pháo đài Ngư phủ. Từ đây du khách có thể chiêm
ngưỡng bức tranh phong cảnh ngoạn mục hai bên dòng Đanuýp. Phía nam núi Pháo Đài
là quần thể cung điện Hoàng gia đồ sộ được xây dựng cách đây 7 thế kỷ. Ngày nay nhiều
tòa nhà ở đây được sử dụng làm bảo tàng, trong đó có Viện bảo tàng Quốc gia, nơi lưu
giữ những tác phẩm của các họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng nhất Hunggari thế kỷ 19 -
20.
Từ sân thượng của Viện bảo tàng này, nhìn chếch về phía nam ta sẽ nhìn thấy
ngọn Hellert. Vào năm 1850, người ta đã xây dựng một hệ thống thành lũy trên đỉnh núi
này để bảo vệ thủ đô. Còn ngày nay, công trình này đã trở thành các nhà hàng, tiệm cà
phê phục vụ du khách. Dưới chân núi Hellert có một hệ thống nhà tắm được xây dựng
ngay tại nguồn suối nước nóng. Nói chung, Buđapest có rất nhiều suối nước nóng với các
khu nhà tắm chữa bệnh, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến khu Xetreni ở công viên
Varoslighet được xây dựng từ năm 1913. Varoslighet cũng là nơi dạo chơi được du khách
ưa thích. Tại đây, bên bờ một chiếc hồ nhân tạo, vào năm 1896 người ta đã xây một quần
thể gồm 21 công trình thể hiện các phong cách kiến trúc đặc trưng của Hung. Còn mặt
hồ, mùa hè là nơi để lướt ván, mùa đông thì trở thành sân trượt băng nghệ thuật. Cũng
trong công viên này còn có một vườn sinh vật với các loài chim, thú được sống trong một
môi trường gần như hoang dã.
Phía tây công viên Varoslighet là quảng trường Những người Anh hùng, nơi có
đài kỷ niệm 1000 năm Hunggary với hàng cột xếp thành hình bán nguyệt và những bức
tượng các nhân vật lịch sử nổi tiếng. Tại quảng trường này còn có bảo tàng nghệ thuật tạo
hình trưng bày các tác phẩm nghệ thuật quý của Ai Cập, Hy Lạp, La Mã cổ đại cũng như
của châu Âu hiện đại. Buđapest có 2 cầu đường sắt và 7 cầu đường bộ bắc ngang qua
sông Đanuýt đều là những công trình kiến trúc nổi tiếng. Nằm ngay trên dòng Đanuýt,
giữa hai cây cầu Marghit và Arpad là hòn đảo Marghid, một điểm nghỉ mát lý tưởng của
thủ đô. Trên diện tích khoảng 1,2 km2 của hòn đảo này có hai khách sạn sang trọng,
nhiều nhà hàng, quán cà phê, một bãi tắm, một khu vườn Nhật Bản xinh xắn và một nhà
hát. Đối diện đảo Marghit, trên bờ tây Đanuýt là Obuđa, khu phố cổ nhất thủ đô với
những ngôi nhà kiểu xưa, những ngõ hẹp với các quán ăn nhỏ.
Một trong những đường phố nổi tiếng nhất của Buđapest là phố Vaxi. Ban ngày
nơi đây là nơi trung tâm mua bán sầm uất, nhưng ban đêm lại là chốn vui chơi với
khoảng 30 nhà hát (trong đó có 2 nhà hát opera). Ngoài ra còn nhiều khu giải trí, nhà
hàng, hộp đêm, sòng bạc... hoạt động thâu đêm. Các nhà hàng ở Buđapét sẽ phục vụ bạn
các món ăn nổi tiếng kiểu Hung với rất nhiều gia vị. Ngoài ra, bạn cũng có thể ghé vào
các nhà hàng mang phong cách Âu, Viễn Đông hoặc các quán điểm tâm Mỹ đang phát
triển mạnh ở Buđapét.
4/ Quan hệ Việt Nam - Hungary
Việt Nam và Hungary quan hệ ngoại giao ngày 03/02/1950. Hungary đã dành cho
nhân dân Việt Nam sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước, đào tạo cho ta gần 3500 cán bộ khoa học kỹ thuật các cấp
và xoá nợ cho ta từ năm 1973 về trước.
Quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước tiếp tục phát triển, kim ngạch
trao đổi hàng hoá hai chiều những năm gần đây:
2004 2005 2006 2007
Việt Nam nhập 16,40 18,47 25,20 28,86
Việt Nam xuất 21,64 27,03 31,80 62,71
Tổng kim ngạch 38,04 45,50 57,00 90,57
(Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam)
Trung bình ODA Hungary dành cho Việt Nam khoảng 500.000 euro. Năm 2008,
Hungary đã tăng mức cam kết ODA dành cho Việt Nam lên 49,5 triệu USD. Cho đến
nay, hai bên đã ký: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư, Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định hợp tác chống tội phạm có tổ chức, Tuyên
bố chung về phát triển quan hệ và hợp tác giữa Việt Nam và Hungary, Hiệp định hợp tác
kinh tế (thay cho Hiệp định Thương mại và Thanh toán ký năm 1992 hết hiệu lực ngày
1/5/2004 do Hungary vào EU), Hiệp định hợp tác nông nghiệp, Hiệp định hợp tác phát
triển, Hiệp định hợp tác khoa học - công nghệ, thoả thuận hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và
Đầu tư Việt Nam và Bộ Kinh tế - Giao thông Hungary, kế hoạch hợp tác giữa các ngành
giáo dục - đào tạo, du lịch, văn hoá, phát thanh, hải quan…
Tuy nhiên ngoài những gì đạt được trên hạn chế của đất nước này là còn có rất
nhiều các cuộc khủng hoảng chính trị được dự báo sẽ kéo dài giữa hai bên cánh hữu và
cánh tả, làm cho đất nước này bất ổn về chính trị và kéo theo đó là sự phát triển chậm về
kinh tế mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực sau khi cải cách vào năm 1990.
Tài liệu tham khảo
-Từ các trang wep
src="
ICLES/source=other/aamsz=400x150/pos=TEXT_FULL_US/pageid=83144"
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thao_luan_ktptss_hungary_4098.pdf