- Ngâm hàng tiếp tục đổi mới cơ cấu tín dụng theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo. Đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tư nhân, hộ sản xuất , cho vay đảm bảo có hiệu quả, an toàn, kiên quyết không để phát sinh nợ quá hạn mới.
- Tăng cường số lượng và chất lượng các sản phẩm dịch vụ, tăng tiện ích tối đa cho các sản phẩm truyền thống. Xây dựng phương án triển khai hoạt động chuyển tiền nhanh VND, Western union, mở thẻ ATM tại tất cả các điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm. Khảo sát lắp đặt máy ATM tại những điểm thích hợp, đi đôi với việc tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về sản phẩm thẻ tới mọi đối tượng khách hàng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động tín dụng, tài chính và kế toán. Thực hiện nghiêm túc công tác chấn chỉnh sau thanh tra, đảm bảo mọi hoạt động kinh doanh an toàn.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận
Đề Tài:
Nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện không thể thiếu được đó là phải tạo vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Thể hiện mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta bước sang thế kỉ 21 là ổn định và phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân thoát khỏi tình trạng nước nghèo nàn và kém phát triển, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn. Vì thế phải huy động nhiều nguồn vốn, xét về mặt chiến lược thì nguồn vốn trong nước là chủ yếu, vững chắc, quyết định và nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng.
Nếu xét ở góc độ của Ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động Ngân hàng nói chung và quy mô các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn vốn dồi dào là cơ sở tạo uy tín đảm bảo khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại . Về phía Ngân hàng muốn giải quyết tốt vấn đề huy động vốn trong dân cư cần phải tìm ra những giải pháp tốt nhất, công cụ lãi suất và các hình thức huy động vốn. Vì vậy nguồn vốn là sự cần thiết không thể thiếu được của Ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ thực tiễn của Ngân hàng Việt Nam, trước yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt trong nước và trên thị trường quốc tế nên yêu cầu cấp thiết Ngân hàng thương mại phải xây dựng chiến lược “Huy động vốn” cho những năm mới của thế kỷ XXI.
Qua quá trình nghiên cứu, trên cơ sở lý luận qua các tài liệu; tạp chí Ngân hàng, tài liệu môn lý thuyết tiền tệ Ngân hàng và kiến thức học tập từ cô giáo bộ môn, em mạnh dạn làm đề tài “Nghiêp vụ huy động vốn của các Ngân hàng thương mại”.
Trong quá trình viết, do trình độ nhận thức và hiểu biết có hạn nên bài viết này còn có nhiều những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ của cô giáo để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Nội dung bài gồm:
Chương 1: cơ sở lý luận
Chương 2: thực trạng huy động vốn ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị đối với việc huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.1 Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại:
Nghề kinh doanh tiền tệ tiền thân của Ngân Hàng ra đời gắn liền với thương mại, khi có sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia với các loại tiền tệ khác nhau gây trở ngại cho việc mua bán thanh toán và đặc biệt phức tạp trong việc chuyển đổi bảo quản tiền tệ.Vì thế thúc đẩy sự ra đời của những tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, để đảm nhận những tổ chức kinh doanh la thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ giữa các vùng các nước để phục vụ công việc giao lưu hàng hoá. Đổi các loại tiền tệ khác nhau ra vàng bạc và ngược lại, theo yêu cầu của sự phát triển các quan hệ tiền tệ hàng hoá. Nghiệp vụ đổi tiền tệ đã kéo theo các nghiệp vụ khác mà trước hết là nhận tiền gửi, nhận bảo quản vàng bạc đã tạo ra những chuyển biến về chất trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền tệ.Việc nhận tiền gửi và bảo quản vàng bặc ngày càng phát triển,tạo điều kiện cho các tổ chức kinh doanh tiền tệ phát hàng những chứng phiếu (giấy nhận nợ) là phương tiện thanh toán thay cho tiền. Lúc đầu các giấy nhận nợ chỉ là những biên lai xác định quyền sở hữu số tiền vàng đó, tiến tới phát hành các loại chứng phiếu đảm bảo cho khách hàng có thể sử dụng nó trong việc mua bán, thanh toán thay cho việc rút tiền vàng. Nghiệp vụ nhận tiền gửi phát triển cùng với việc sử dụng rộng rãi các chứng phiếu thanh toán thay cho tiền mặt đã tạo nên nguồn dự trữ đã được sử dụng để cho vay sinh lời. Đây là một sự kiện quan trọng trong việc chuyển các tổ chức hoạt động dịch vụ tiền tệ một cách thuần tuý thành các tổ chức Ngân hàng chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Ngân hàng được hình thành phát triển qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu, vào khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, các Ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó là làm trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc Ngân hàng. Sang thế kỷ 18, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển, việc các Ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc Ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc Ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều đó đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống Ngân hàng và Ngân hàng thương mại cũng ra đời từ đó.
Thời kỳ đầu, các Ngân hàng thương mại thực hiện tất cả các hoạt động của nó như nhận tiền gửi và làm dịch vụ thanh toán. Ban đầu chủ yếu là nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và cho vay ngắn hạn, về sau, các Ngân hàng thương mại thực hiện cả cho vay trung - dài hạn bằng nguồn vốn trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát hành trái khoán.
Cho đến cuối những năm 1960, đặc điểm đặc thù để phân biệt một Ngân hàng thương mại với một Ngân hàng trung gian khác là ở chỗ Ngân hàng thương mại là một đơn vị duy nhất được phép mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn cho công chúng. Ngân hàng thương mại có thể tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau. Ngân hàng thương mại có thể được thành lập bằng 100% vốn của tư nhân, 100% vốn của Nhà nước hoặc là sự hùn vốn giữa tư nhân với Nhà nước hoặc với người nước ngoài. Ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, qua đó khẳng định hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bắt đầu tư tín dụng, Ngân hàng thương mại đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và trở thành trung gian tài chính lớn nhất.
1.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại:
- Với tư cách là một doanh nghiệp, để hoạt động kinh doanh tốt thì phải có vốn, để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải tìm cách để huy động được một số vốn lớn từ các chủ thể kinh tế có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để bù lại Ngân hàng thương mại phải trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu khi đến hạn. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng thương mại phải đảm bảo trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng phương thức thanh toán của khách hàng với một món lợi tức hợp lý kèm theo. Còn với tư cách người cho vay thì Ngân hàng thương mại sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác và Ngân hàng thương mại cũng luôn mong muốn khách hàng của mình sử dụng vốn này có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kỳ hạn theo quy định đã cam kết. Qua đó Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính lớn nhất, một trong những trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Vai trò của Ngân hàng thương mại còn góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, góp phần mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế.
- Ngân hàng thương mại còn có vai trò tập trung vốn của nền kinh tế: Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để ( ví dụ như vẫn còn cất giấu trong gia đình chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ vẫn muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doamh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay.
Thự hiện được điều này Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn nhà rỗi trong nền kinh tế, mặt khác với số vốn này Ngân hàng thương mại sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng thương mại vừa là người cho vay vừa là người đi vay với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì hoạt dộng của mình.Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… Ngân hàng thương mại có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhiệm việc mua bán trái phiếu công ty….
2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, nó hoạt động trên cơ sở huy động vốn và đầu tư vốn. Ngân hàng thương mại đi vay để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Việc Ngân hàng thương mại đi vay để cho vay cũng nhằm mục đích trọng yếu nhất là tìm kiếm lợi nhuận. Đã là một doanh nghiệp hoạt động trên thị trường tài chính, quá trình hoạt động nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác và dùng làm nguồn vốn để kinh doanh. Bản chất của nguồn vốn huy động là tài sản của các chủ sở hữu khác, không thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng nhưng Ngân hàng có quyền sử dụng trong thời gian hoạt động và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi. Ngân hàng thương mại xây dựng chiến lược huy động vốn bằng nhiều hình thức:
2.1 Nhận tiền gửi:
Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động nói riêng và trong nguồn vốn kinh doanh của các Ngân hàng thương mại nói chung. Các Ngân hàng thương mại huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cơ quan, dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn) là loại tiền được thể hiện trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện chi trả về mua hàng hoá và thực hiện các dịch vụ khác trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản tiền gửi thanh toán séc hay tài khoản vãng lai để quản lý tài sản của khách hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý là khoản tạm thời nhàn rỗi ở khách hàng. Họ gửi vào Ngân hàng không mang tính chất của tài khoản tiền gửi thanh toán, chỉ nhằm mục đích an toàn tài sản cho khách hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận nên để có lợi nhuận Ngân hàng thương mại phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi đi vay để cho vay thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử dụng vốn đó cho một chủ thể thiếu vốn khác trong nền kinh tế.
Trước hết để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi: Tiền gửi có thể phát hành séc, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn. Sau đó họ cho vay thế chấp và để mua các trái khoán Chính phủ, trái khoán của chính quyền địa phương. Huy động vốn và đầu tư vốn là có quan hệ không thể tách rời, để có nguồn vốn lớn thì các Ngân hàng thương mại phải tìm nhiều biện pháp hữu hiệu thu nạp một cách nhanh chóng. Sau đó dùng số vốn đó cho vay mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, đầu tư vốn có hiệu quả hay không sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm :
Nguồn vốn huy động, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn tự dó. Ngoài ra còn có các nguồn vốn được hình thành trong quá trình hoạt động. Trong đó mỗi nguồn vốn đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng thương mại.
2.2.1 Nguồn vốn huy động:
Nguồn vốn huy động là những phương tiện tiền tệ mà Ngân hàng huy động được thông qua các hình thức :
- Phát hành kỳ phiếu.
- Phát hành trái phiếu.
- Các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn.
Các hình thức trên, các Ngân hàng thương mại phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi. Nguồn vốn này chỉ phát sinh khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Qua đó ta thấy nguồn vốn huy động là công cụ chính, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Số vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động là tài sản của các chủ sở hữu Ngân hàng được quyền sử dụng nhưng phải có trách nhiệm hoàn trả cho họ đúng thời hạn cả vốn và lãi. Các Ngân hàng thương mại chỉ được sử dụng nguồn vốn này vào các nghiệp vụ tín dụng như cho vay, đầu tư, chiết khấu... mà không được sử dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản cố định cho Ngân hàng cũng như các mục đích khác ngoài kinh doanh.
2.2.2 Nguồn vốn đi vay:
Vốn đi vay là vốn được hình thành qua việc vay vốn trên thị trường và vay của Ngân hàng Trung ương. Trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng có một bộ phận vốn bổ sung chiếm tỷ trọng đáng kể đó là vốn đi vay. Các Ngân hàng thương mại đi vay vốn để bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của mình khi đã sử dụng hết vốn tự có, vốn huy động tiền gửi, vốn huy động khác mà vẫn không có đủ để hoạt động và khi cần sử dụng họ rút tiền ra để chi tiêu.
Tiền gửi có kỳ hạn: Là tiền gửi của các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh, nó được chia làm nhiều kỳ hạn khác nhau: ngắn hạn, dài hạn và trung hạn, nhưng hiện nay chủ yếu là kỳ hạn ngắn. Tuy vậy do tính chất tương đối ổn định của nó nên tiền gửi có kỳ hạn thực sự là nguồn vốn quan trọng đối với Ngân hàng thương mại. Nếu lãi suất hấp dẫn, tiền gửi có kỳ hạn sẽ có xu hướng phát triển, song nếu lãi suất không hấp dẫn hoặc bị lãi suất của tín phiếu kho bạc, trong đó có trung hạn sẽ dẫn đến bị biến động đột ngột làm đảo lộn nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và gây khó khăn không nhỏ cho công tác chi trả của Ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của một cá nhân hay một gia đình gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ. Nguồn vốn huy động này chủ yếu là tiền gửi của những người tiêu dùng. Các Ngân hàng thương mại thực hiện huy động tiền gửi tiết kiệm dưới nhiều hình thức, thời hạn khác nhau:
- Tiền gửi tài khoản không kỳ hạn.
- Tiền gửi tài khoản có kỳ hạn.
2.3 Nguồn vốn huy động khác:
Khi nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động ở các khoản tiền gửi trên không đủ để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn của mình, các Ngân hàng thương mại được phép huy động vốn của Ngân hàng, đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải tạo ra một quỹ dự trữ cần thiết.
Bên cạnh việc mở rộng nguồn vốn thì các Ngân hàng thương mại phải đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của mình để tránh được những rủi ro và tổn thất trong việc đầu tư vốn của Ngân hàng thương mại, rủi ro lãi suất khi có sự chênh lệch về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, sự không cân xứng về tài sản có và tài sản nợ xảy ra trong quá trình hoạt động.
Nói cách khác, khi tạm thời thiếu vốn khả dụng thì Ngân hàng thương mại có thể đi vay của các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, vay của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài. Nếu vẫn không đáp ứng đủ trong các trường hợp trên thì Ngân hàng thương mại sẽ đi vay của Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người đi cho vay cuối cùng phù hợp với chính sách tiền tệ tại thời điểm đó.
2.4 Các nguồn vốn khác:
Ngoài các nguồn vốn kể trên, các Ngân hàng thương mại còn có một số vốn khác có thể sử dụng để cho vay. Đó là nguồn vốn hình thành trong quá trình thanh toán của Ngân hàng, giao dịch trong thanh toán chênh lệch giữa thời gian từ lúc nhận vốn thanh toán đến khi thanh toán thì Ngân hàng thương mại tận dụng được một khoản vốn rồi sử dụng trong kinh doanh. Quản lý tốt nguồn vốn này sẽ tạo được nguồn vốn để cho vay ngắn hạn mà không phải trả lãi suất.
2.5 Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò làm trung gian tài chính đó là thu nhận tiền gửi tạo nguồn vốn. Nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại không những là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng thương mại. Do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định khả năng thanh toán và chi trả của một Ngân hàng, gây thanh thế và uy tín cho Ngân hàng đó. Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn vốn phong phú đa dạng phục vụ cho mục đích mở rộng quy mô hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán.
2.6 Chức năng của ngân hang thương mại.
2.6.1 Chức năng làm trung gian tín dụng
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại làm "cầu nối" giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới, 80% lợi nhuận của Ngân hàng Công thương - Ngân hàng thương mại Quốc Doanh là thông qua hoạt động cho vay. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
2.6.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng.
Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống Ngân hàng thương mại góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinhgóp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại.
2.6.3 Chức năng tao tiền.
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sư đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng thương mại thực hiện được chức năng tạo tiền.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN Ở NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM.
Trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta thành một nước có nền kinh tế phát triển mạnh, Nhà nước ta đã xác định mục tiêu hàng đầu và quan trọng đó là phải có nguồn vốn và trong số nguồn vốn của ngân hàng thương mại thì số vốn huy động chiếm số lượng lớn, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay về vấn đề huy động vốn đang diễn ra trong điều kiện khá thuận lợi vì có thị trường chứng khoán ra đời, tiền nhàn rỗi của dân cư tăng lên...Nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều khó khăn và thử thách. Trong một số năm trở lại đây thì huy động vốn trong nước của các ngân hàng thương mại có vai trò quyết định và bằng các hình thức huy động truyền thống như nhận tiền gửi còn có thêm các loại hình huy động mới đó là huy động bằng ngoại tệ, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu...
Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Lịch sử hình thành vá phát triển.
Năm 1988: Được thành lập ngày 26/03/1988 với tên gọi Phát triển Nông nghiệp Việt Nam.
Năm 1990: Đổi tên thành Nông nghiệp Việt Nam.
Năm 1995: Đề xuất thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, nay là Ngân hàng Chính sách xã hội.
Năm 1996: Đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp va Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Năm 2003: Được phong tặng danh hiệu Anh hung Lao động thời kỳ đổi mới.
Năm 2006: Đạt giải thưởng Sao Vàng đất việt.
Năm 2008:Đảm nhiệm chức chủ tịch APRACA; Đạt Top 10 Giải thưởng Sao Vàng đầt việt
Năm 2009: Khai trương hệ thống IPCAS II, kết nối trực tuyến toàn bộ hệ thống. Vinh dự được Tổng Bí thư tớ thăm và làm việc. Là ngân hàng đầu tiên lần thư 2 liên tiếp nhận đạt giải thưởng Top 10 Sao Vàng đất việt.
Năm 2010: Top 10 trong 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, tiếp tục là Định chế tài chính có vốn điều lệ lớn nhất việt Nam. Agribank bứt phá vươn lên vị trí ngân hàng số 1 Việt Nam trong lĩnh vực phát triển chủ thẻ. Ngày 28/6/2010, Agribank chính thức khai trương Chi nhánh nước ngoài đầu tiên tại Campuchia. Agribank chính thức công bố thành lập Trường Đào tạo Cán bộ (tiền thân là Trung tâm Đào tạo) vào dịp 20/11/2010. 2010 cũng là năm Agribank tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2010 – 2015), Hội nghị điển hình tiên tiến lần thứ III, Hội thao toàn ngành lần thứ VI.
Năm 2011: Chuyển đổi theo mô hình công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
CÔNG TY CON
TỔNG GIÁM ĐỐC
ỦY BAN QUẢN LÝ RỦI RO
HỆ THỐNG KIỂM TRA KIỂM SOÁT NỘI BỘ
CÁC PHÒNG TỔNG GIÁM ĐỐC
HỆ THỐNG BAN CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ
KIỂM TOÁN TRƯỞNG
BAM KIỂM SOÁT
BAN THƯ KÝ HĐTV
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
CHI NHÁNH NƯỚC NGOÀI
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CHI NHÁNH LOẠI 1, LOAI 2
SỞ GIAO DỊCH
CHI NHÁNH
PHÒNG GIAO DỊCH
CHI NHÁNH LOẠI 3
PHÒNG GIAO DỊCH
HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN
Hệ thống tổ chức.
2. Các hình thức huy động vốn.
Nguồn vốn huy động là số vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn của các Ngân hàng thương mại, các ngâ hàng thương mại Việt Nam đã xây dựng chiến lược huy động vốn bằng nhiều hình thức: Nhận tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, ngoài ra còn có các hình thức huy động khác như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi có kì hạn.
- Tiền gửi không kì hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Ở nhiều nước thì phần lớn các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng séc còn Việt Nam thì tài khoản được thực hiện thường gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán gồm tài khoản thanh toán dùng cho doanh nghiệp và tài khoản thanh toán cho cá nhân. Hiện nay các Ngân hàng thương mại trả lãi thanh toán cho loại tiền gửi này (Khoảng 0,1%/tháng).
Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai loại :
Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Đứng trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi vào ngân hàng để sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt: Séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi... Họ có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông qua công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân hàng thì ngân hàng coi đây là một khoản tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này để làm vốn kinh doanh của mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân hàng do có sự chênh lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản của khách hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc nào, ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán.
Mục đích của người gửi tiền là bảo đảm an toàn vì khách hàng không xác định được thời gian nhà rỗi cho số tiền của họ vả họ không có nhu cầu sử dụng tiền gửi thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
- Tiền gửi có kì hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một thời hạn nhất định ở Việt Nam trong nhưng năm qua thì tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi có 2 loại tiền gửi có kỳ hạn đã được áp dụng:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn theo tài khoản:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn dưới hình thức phát hành trái phiếu Ngân hàng trong đó Ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định và được huy động theo 2 phương thức:
+ Phát hành theo mệnh giá: Người mua trả tiền mua kì phiếu mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu khi đến hạn Ngân hàng sẽ hoàn trả vốn gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu.
+ Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
- Tiền gửi tiết kiệm: Nước ta đã có các loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi, rút nhiều lần vào bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian nhất định, nếu khách hàng rút trước thì phải có điều kiện là hưởng lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài số tiền lãi khách hàng còn được Ngân hàng cho vay nhằm mục đích bổ sung vốn cho xây dựng nhà ở.
+ Tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền gửi phi giao dịch.
Khi nguồn vốn huy động và nguồn vốn tự có không đủ cho nhu cầu sử dụng vốn của mình thì các ngân hàng thương mại còn được phép huy động phát hành kì phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ tiền gửi có kì hạn để bổ sung nguồn vốn huy động của mình.
3. Kết quả huy động nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong các năm gần đây.
Bằng các hình thức huy động vốn của mình, ngân hàng đã huy động được một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động kinh doanh của mình. Số lượng vốn huy động ngày một tăng lên chiếm 60% tổng nguồn vốn. Đây là một số trong số kết quả huy động vốn của ngân hàng:
Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đến 31/12/2011 tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại là 483724 tỷ đồng trong đó nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ là 8438154 tỷ đồng (đổi ra VNĐ) chiếm tỷ trọng 91.7% tổng nguồn vốn huy động; Qua đó ta thấy việc huy đông vốn bằng ngoại tệ cũng chiếm phần lớn trong tổng số vốn huy động được.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có số vốn huy động tăng lên rất nhanh từ năm 2009 đến năm 2010 nhưng đến 2011 thì tổng số vốn huy động được đã tụt xuống cò 8,935,773 triệu đồng.
Bảng 1: một số chỉ tiêu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ĐV: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
Tổng nguồn vốn
495,000,881
205,102,950
483724
Vốn huy động
7,436,059
1,123,128
8438154
Tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu
13,6756611
38,234,151
50,708,499
Tỉ lệ vôn huy động so với tổng nguồn vốn
1.502%
5.476%
91.7%
Nguồn: Báo cáo tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009 -2011)
Trong thời gian này số vốn huy động tăng nhanh mặc dù tỉ lệ vốn huy động so với tổng nguồn vốn không tăng đều. Đến hết năm 2011 thì mặc dù với những khó khăn đặc thù riêng như là khủng hoảng, lũ lụt xảy ra và giá một số mặt hàng bị sụt giá và thua lỗ như cà phê, gạo nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã cố gắng vượt qua khó khăn. Đến hết năm 2011 thì tổng nguồn vốn huy động là: 483724 tỷ đồng.
Bảng 2: bảng quy mô và chênh lệch của huy động bằng vàng và ngoại tệ.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Tỷ trọng
Tiền gửi của khách hàng
64%
4,787,938
47%
5,239,792
41%
3,421,120
tiền gửi của tổ chức tín dụng khác
35%
2,639,019
53%
5,948,126
59%
5,020,300
tổng
100%
7,426,957
100%
400070461
100%
223,501,751
Nguồn: Báo cáo tài chính của Ngân hang tong những năm 2009 -2011
Bảng 3: huy động vốn bàng nội tệ.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác
2,639,019
5,948,126
5,020,300
Tiền vay của tổ chức tín dụng khác
1,840,138
227,123
3,471,404
Phát hành giấy tờ có giá
1,367,561
1,657,755
5,070,849
Vay chính phủ và ngân hàng nhà nước
4,474,480
5,360,221
6,530,305
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hang trong những năm 2009 -2011
BIỂU ĐÒ THỂ HIỆN MỨC HUY ĐỘNG VỐN BẰNG NỘI TỆ
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: bảng huy động vốn bằng nội tệ
Bảng 4: Tình hình huy động vốn từ dân cư
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
Vốn huy động
9.262
11.587
14.605
Tiền gửi dân cư
2.977
3.409
3.728
% so cùng kỳ
114%
109%
Tỉ trọng/VHĐ
32.14%
29,43%
25,52%
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của Ngân hàng trong những năm 2009 -2011
Quan sát tổng quan bảng số liệu cho thấy, cùng với sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động, bộ phận tiền gửi dân cư tương đối ổn định và có xu hướng tăng lên qua các năm, tuy nhiên mức tăng trưởng có xu hướng tăng dần. Cụ thể, năm 2009 tăng so với năm 2010 là 432tỷ đồng, đạt mức tăng trưởng 14%. Đến năm 2011, tăng 319 tỷ đồng (tăng 9%). Tổng vốn huy động có xu hướng tăng dần, thể hiện niềm tin người dân vào Ngân hàng.
Bảng 5: Kết cấu tiền gửi dân cư Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tổng số
3.728
100
3.628
100
3.397
100
2.Tiền gửi KKH
72
41
19
3.Tiền gửi có KH
3.656
0,98
3.587
0,989
3.379
0,99
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hàng trong những năm 2009 -2011
Như vậy, qua 3 năm 2009,2010,2011, ta thấy trong nguồn tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong nguồn tiền gửi dân cư và tương đối ổn định. Tiền gửi có kỳ hạn luôn có hướng tăng lên và chiếm khoảng 98% tổng nguồn tiết kiệm. Cụ thể năm 2009 là 3.656 tỷ đồng, chiếm 98% so với tổng tiền gửi dân cư ( 3.728 tỷ) và năm 2010, chiếm 98,9% Tính đến năm 2011, tiền gửi có kỳ hạn đã chiếm tỷ trọng không nhỏ là 99% trên tổng tiền gửi dân cư. Điều này có lợi cho ngân hàng bởi vì ngân hàng có cơ sở nguồn vốn để cho vay với thời gian tương đối dài, lãi suất cao hơn và có kế hoạch thu hồi vốn đúng hạn.Tiền gửi có kỳ hạn được người dân ưa chuộng hơn, chiếm tỷ trọng lớn thể hiện sự tin tưởng của nhân dân với ngân hàng và mục đích gửi tiển để hưởng lợi nhuận, phản ánh chính sách khách hàng đúng đắn đi đôi với hoạt động quảng bá các sản phẩm tiện ích cao hơn hẳn so với các Ngân hàng khác.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, tỷ trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng qua các năm song cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Khi đời sống, thu nhập của dân cư cao hơn, họ có điều kiện để tích luỹ và do đó nguồn tiền gửi của họ vào ngân hàng tăng lên. Nhưng đồng thời, nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, mang đến những cơ hội đầu tư mới cho cả những người dân với số vốn không nhất thiết phải thật lớn. Thêm vào đó, ngày càng có thêm nhiều ngân hàng tham gia hoạt động trên thị trường, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn cùng với nhiều lý do khác khiến cho công tác huy động vốn từ dân cư của Ngân hàng Nông nghiệp vá Phát triển nông thôn cần phải nỗ lực hơn nữa, tìm mọi cách tăng nguồn vốn này nhằm củng cố sức mạnh cho ngân hàng và giữ thế chủ động trong kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn ngày một tăng của nền kinh tế.
Bảng 6: Tình hình phát hành giấy tờ có giá năm 2009
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
VND
Ngoại tệ quy VND
Tổng số
Giấy tờ có giá
499.174
102
499.276
1. Kỳ phiếu
63.441
102
63.543
2. Trái phiếu
435.733
0
435.733
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hàng trong những năm 2009 -2011
Bảng 7: Tình hình phát hành giấy tờ có giá bình quân năm 2011
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
VND
Ngoại tệ quy VND
Tổng số
Giấy tờ có giá
571.389
2.281
573.670
1. Kỳ phiếu
136.143
0
136.143
2. TráI phiếu
434.823
0
434.823
3.Chứng chỉ TG
423
2.281
2.704
Nguồn: Bảng báo cáo tài chính của ngân hàng trong những năm 2009 -2011
Như vậy, ta có thể thấy sự phát triển của viêc phát hành giấy tờ có giá qua bảng số liệu trên năm 2009 và số liệu báo cáo bình quân năm 2011.
- Thứ nhất là Kỳ phiếu: đây là hình thức ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định.
Kỳ phiếu thường có lãi suất lớn hơn tiền gửi tiết kiệm nhưng không linh hoạt bằng tiền gửi tiết kiệm. Do vậy, kỳ phiếu chỉ chiếm một phần nhỏ tổng nguồn huy động phát hành giấy tờ có giá.Cụ thể, năm 2009, tổng nguồn huy động của giấy tờ có giá đạt 499.276 triệu đồng. Trong đó, nguồn vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu chỉ là 63.543 triệu đồng ( chiếm 12,73%) bao gồm :huy động bằng VND là 63.441 triệu đồng và ngoại tệ quy VND là 102 triệu đồng.
Tuy vậy, nguồn vốn qua phát hành kỳ phiếu bình quân năm 2011 đã có sự chuyển biến đáng kể: 136.143 triệu đồng , chiếm 23,7% Tổng nguồn huy động.
Ngân hàng phát hành kỳ phiếu có mục đích để phục vụ cho những công trình trọng điểm của nhà nước, cho nhu cầu của toàn hệ thống. Với lăi suất uyển chuyển biến động theo thời gian, kỳ phiếu đã thực sự tạo sự chủ động cho Ngân hàng. Do huy động với lãi suất cao nên chỉ khi nào ngân hàng xét thấy thực sự cần vốn đầu tư hay có thể đảm bảo lợi ích đầu ra cao hơn thì ngân hàng mới phát hành kỳ phiếu. Chính vì vậy, nguồn này chiếm 1 tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn huy động và không thường xuyên.
Kỳ phiếu ngân hàng tuy chiếm 1 tỷ trọng nhỏ nhưng giúp cho ngân hàng đa dạng hoá hình thức huy động vốn, từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với một chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi hơn.
- Thứ 2 là Trái phiếu:
Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãI trong khoảng thời gian nhất định .Hình thức huy động qua trái phiếu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng huy động giấy tờ có giá.Trong năm 2010, nguồn huy động từ trái phiếu là 435.733 triệu đồng( chiếm 87,3% tổng công cụ khác) .Đặc biệt chỉ riêng năm 2011, vốn huy động bình quân đã lên tới 434.823 triệu đồng trong tổng 573.670 triệu đồng( chiếm 75,8%). Qua đó ta thấy tình hình huy động vốn qua phát hành trái phiếu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và khả quan.
- Thứ 3 là Chứng chỉ tiền gửi:
Hiện tại, SGD I đang huy động vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi năm 2011. Chứng chỉ tiền gửi là một giấy biên nhận có lãi suất về khoản tiền gửi tại một ngân hàng hay các tổ chức ký thác khác trong một thời gian xác định và chúng có thể được chuyển nhượng trong thời gian hiệu lực.
Việc xuất hiện chứng chỉ tiền gửi cho phép Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có thể huy động vốn một cách chủ động mà không phải phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng. Khả năng chuyển nhượng tạo nên sự hấp dẫn hơn nhiều cho chứng chỉ tiền gửi so với các hình thức tiền gửi có kỳ hạn khác. Do vậy, bình quân năm 2011, với việc phát hành chứng chỉ tiền gửi, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã huy động được 2.704 triệu đồng, khẳng định hiệu qủa của phát hành chứng chỉ tiền gửi và quyết định đúng đắn trong chiến lược huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Xét một cách tổng quát, trong mối quan hệ tương quan giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với các Chi nhánh khác cùng hệ thống cũng như các Ngân hang thương mạikhác, trên cơ sở so sánh qua các năm có thể nhận thấy rằng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có một nguồn vốn với qui mô khá lớn, tốc độ tăng trưởng ổn định, xứng đáng được xếp vào hàng ngũ những ngân hàng lớn mạnh trong toàn hệ thống. Đồng thời, xét về qui mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đạt được một tiêu chuẩn rất quan trọng về hiệu quả của công tác huy động vốn.
4. Nguyên nhân của ảnh hưởng đến việc huy động vốn của các Ngân hang thương mại Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Đất nước ta tuy còn nghèo, tích luỹ chưa nhiều nhưng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư trong các doanh nghiệp và tổ chức xã hội còn lớn, nếu có chính sách và biện pháp huy động tốt để gom góp lại sẽ trở thành nguồn vốn lớn phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Qua số liệu và thực tế đã chứng minh về công việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại nước ta từ năm 2009 đến nay huy động vốn huy động được chưa phải là thoả mãn nhu cầu của kinh doanh nhưng đó cũng là một kết qúa lớn về việc vấn đề tạo vốn, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại ngày càng phát triển.
4.1 Những nguyên nhân chủ yếu:
- Xác định rõ vị trí quan trọng hàng đầu của việc nguồn vốn trong việc hoạt động kinh doanh của mình.
- Có chính sách lãi suất hoạt động tương đối hợp lí, nhiệm vụ và biện pháp huy động vốn đúng đắn thích hợp.
- Tạo ra chính sách khách hàng cùng với việc nâng cao chất lượng phục vụ.
- Đảm bảo an toàn vốn và tài sản bằng các biện pháp tăng cường kiểm tra giám sát, quản lí nghiêm minh để.
4.2 Nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả quá trình huy động vốn:
Trước sự đòi hỏi của nền kinh tế nước ta vào thời kì thay đổi và mở cửa với vị trí và trách nhiệm của mình các Ngân hàng còn bộc lộ một số khó khăn tồn tại ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của mình cụ thể.
- Nền kinh tế tài chính chưa thật sự ổn định vững chắc sự mất giá của đồng tiền trong những năm trước cơn ám ảnh, do đó một bộ phận đáng kể trong dân chúng chưa yên tâm gửi tiền.
- Các Ngân hàng thương mại còn thiếu những hình thức huy động vốn hấp dẫn để thu hút khách hàng tham gia.
- Khối lượng tiền nhàn rỗi, chờ đợi để đưa vào hoạt động kinh doanh hoá được nên khách hàng có thể gửi vào loại không kỳ hạn nhưng lãi suất tiền gửi lại rất thấp chưa theo kịp chỉ số trước giá nên không có tác dụng kích thích.
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế gửi tại các Ngân hàng còn phát triển chậm và có xu thế giảm sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN:
Đối với nước ta “vốn” là một trong những khó khăn lớn nhất của quá trình chuyển đổi cơ chế hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước. Bảo đảm thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội cần đẩy mạnh khai thác mọi nguồn vốn trong nước theo tinh thần tự lực tự cường kết hợp với hỗ trợ bên ngoài. Nhằm thực hiện được mục tiêu huy động được nguồn vốn trong nước hiện nay còn tiềm tàng rất lớn thì các Ngân hàng thương mại cần có những giải pháp sau:
- Tạo được chữ tín đối với khách hàng Ngân hàng phải đảm bảo an toàn của số vốn mà khách hàng đã gử. đảm bảo thuận tiện lấy ra dễ dàng phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ, có năng lực, có phong cách, giao dịch tiếp thị tốt để sau này “vui lòng khách đến” của các Ngân hàng thương mại.
Phải có chính sách khách hàng, chủ yếu là chính sách điều chỉnh lãi suất thích hợp. Đồng thời cũng có chính sách mềm mỏng, hấp dẫn cần ưu đãi với khách hàng có số dư lớn, gửi thường xuyên, đẩy mạnh kinh doanh việc mua bán ngoại tệ, tiền mặt, đại lí séc du lịch.
- Mở rộng tín dụng làm tiên đề cho việc thu hút vốn nhân tài của tư nhân và các doanh nghiệp.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng.
- Thực hiện bảo hiểm trách nhiệm về tiền gửi là tài sản của người gửi tiền, là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng.
- Có các dịch vụ khuyến mại, đa dạng hoá loại hình huy động vốn.
- Tổ chức và đào tạo nhân viên: một ngân hang muốn hoạt động tốt, không chỉ phụ thuộc vào chính sách ngân hang, mạng lưới ngân hang rộng khắp mà còn phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Một nhân viên vuii vẻ, có trình độ chuyên môn cao, tận tình với khách hang sẽ tạo được ấn tượng tốt, đó chính là sự lựa chọn đầu tiên khi khách hang muốn gửi tiền hay vay tiền. Chính vì vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ngày càng quan tâm tới công tác đào tạo cán bộ viên chức cũng như công tác tuyển chọn ngay từ đầu vào, hiện tại trong quá trình hoạt động của mình Ngân hàng đã thường xuyên cử cán bộ đi học các lớp nghiệp vụ cao cấp do Ngân hàng nhà nước tổ chức. từ đó, nâng cao trình đọ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ. để góp phần thực hiện văn hóa doanh nghiệp AGRIBANK với nội dung mà ban lãnh đạo đã đề ra và tổng kết trong 10 chữ: “ Trung thực, kỷ cương, sang tạo, chất lượng, hiệu quả”.
- Ngân hàng cần phải hỗ trợ công tác huy động vốn và các nghiệp vụ kinh doanh cho các chi nhánh cấp dưới, kịp thời cho cá văn bản làm căn cứ pháp lý và cơ sở nghiệp vụ để mở rộng các sản phẩm dịch vụ.
- Ngân hàng cần phải tăng cường cơ sở vật chất cho các chi nhánh, hiện dại hóa các trang thiết bị phục vụ cho việc hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Thường xuyên tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các chi nhánh với nhau, thu thập ý kiến đóng góp, kiến nghị của các chi nhánh cấp dưới, tứ đó dề ra các văn bản phù hợp thưc tế hiện nay.
- Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt: Lãi suất là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc thu hút vốn tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Thấy rõ được điều đó, Ngân hàng rất chú trọng đến việc thay đổi lãi suất trong từng thời kỳ sao cho phù hợp với lãi suất thị trường nhằm thu hút nguồn tiền gửi của mọi thành phần trong nền kinh tế. Ngân hàng cần xác định được rằng biện pháp tăng lãi suất để thu hút được nguồn vốn huy động có tác động rất mạnh và nhanh. Tuy nhiên, đây là biện pháp có giới hạn, bởi việc tăng lãi suất huy động đồng nghĩa với tăng chi phí đầu vào, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh. Đồng thời có liên quan trực tiếp đến lãi suất cho vay và tác động đến toàn bộ hoạt động tín dụng của Sở.Vì thế, mức lãi suất đưa ra là tuỳ theo mức độ cần thiết của nguồn vốn, tuỳ theo từng thời điểm, từng khu vực, phù hợp với khung lãi suất do Ngân hàng nhà nước quy định và có lợi cho người gửi, người vay và cả Ngân hàng. Đặc biệt, với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường như hiện nay càng đòi hỏi sự năng động, linh hoạt của Ngân hàng trong quá trình tìm kiếm nguồn vốn để cho vay
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN.
Đối với việc huy động vốn của Ngân hàng thì vấn đề huy động vốn bằng vàng cũng là điều rất cần quan tâm! Ngân hàng có thể huy động vốn bằng vàng theo nhiều cách khác nhau trong đó có 2 cách, theo kiểu phân loại tiền gửi không kì hạn và có kì hạn.
- Huy động vốn bằng vàng không kỳ hạn là cách huy động với mục đích tích luỹ tài sản, không nghĩ đến tìm kiếm lợi nhuận trong tài sản tích luỹ đó, các Ngân hàng sẽ mở tài khoản giữ vàng không kỳ hạn nghĩa là người nào có yêu cầu mua vàng để cất giữ thì đến Ngân hàng mở tài khoản gửi số tiền mà mình dành dụm được để mua vàng vào tài khoản. Nó giống cách thức huy động tiền gửi không kỳ hạn và các Ngân hàng cần phải mở các dịch vụ thanh toán bằng vàng để phục vụ và thu hút khách hàng tạo sự an toàn trong thanh toán.
Thứ hai là: khách hàng cũng có thể gửi vào tài khoản của mình bằng vàng thật là nhờ Ngân hàng giữ hộ.
Thứ ba là: tài khoản gửi vàng này là không kỳ hạn nên Ngân hàng Nhà nước phải quản lí như tiền gửi không kì hạn về dự trữ pháp định, lãi suất tiền gửi, tiền quỹ.
- Huy động vốn bằng vàng có kì hạn: Khách hàng cho phép Ngân hàng được sử dụng vốn bằng vàng của mình theo kỳ hạn thoả thuận khách hàng sẽ rút ra khỏi Ngân hàng.
Đến kỳ hạn trả khách hàng có thể rút ra theo ba cách đó là: lấy bằng tiền mặt lấy bằng vàng và chuyển tài khoản tiền gửi bằng vàng không kì hạn.
Lãi suất tiền gửi sẽ được gửi định tương đương với lãi suất thực dương cần thiết để kuyến khích người gửi vàng và khi đó nếu có lạm phát lãi suất tiền gửi vàng sẽ nhỏ hơn lãi suất tiền gửi bình thường.
Ngân hàng phải có những biện pháp phòng chống rủi ro có thể xảy ra cho Ngân hàng huy động tiền gửi kỳ hạn bằng vàng khi giá vàng tăng lên mà vẫn phải trả như giá đang hiện hành cả gốc và lãi để đề phòng các rủi ro thì Ngân hàng có thể áp dụng các thủ thuật mua bán kì hạn hoặc mua bán quyền chọn. Trong đó mua bán kỳ hạn là khi Ngân hàng nhận một khoản tiền gửi bằng vàng để sử dụng để đề phòng giá vàng tăng thì Ngân hàng phải mua vào một lượng vàng có trọng lượng tương đương nhưng mua kì hạn. Còn mua quyền chọn là Ngân hàng huy động tiềngửi có kỳ hạn có thể mua một quyền chọn mua một lượng vàng tương ứng.
Qua đó ta thấy Ngân hàng Nhà nước nên đưa ra quy định yêu cầu Công ty kinh doanh vàng mở trung tâm giao dịch các nghiệp vụ kỳ hạn và quyền chọn trong lĩnh vực này.
Hiện nay thị trường mở đã đi vào hoạt động cho nên Ngân hàng thương mại nhanh chóng hoàn thiện các điều kiện của mình để gia nhập thị trường này để tăng khả năng xử lí vốn khả dụng đồng thời tăng nguồn thu.
- Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động vì vậy các Ngân hàng thương mại nên kiến nghị với Nhà nước sao cho Ngân hàng có thể tham gia sau, khai thác triệt để thị trường này, bởi vì tương lai thị trường này là một kênh để cho Ngân hàng khai thác rất có hiệu quả.
Hiện nay thị trường liên Ngân hàng Việt Nam chưa được sử dụng triệt để các tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng vẫn chưa thực sự liên hệ được với nhau qua kênh này. Về lâu dài các Ngân hàng thương mại nên quan tâm hơn về thị trường này vì góp phần to lớn vào việc xử lí vốn khả dụng trong cả hai trường hợp thừa và thiếu vốn.
Tích cực đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn nhằm giữ vững và phát triển nguồn vốn huy động, vận dụng chính sách lãI suất và chính sách khách hàng hợp lý, phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Duy trì đối tượng khách hàng tiền gửi truyền thống. Chú trọng khai thác nguồn vốn của các tổ chức đoàn thể xã hội, từng bước cải thiện và tạo lập một cơ cấu nguồn vốn cân đối, ổn định.
- Ngâm hàng tiếp tục đổi mới cơ cấu tín dụng theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo. Đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tư nhân, hộ sản xuất…, cho vay đảm bảo có hiệu quả, an toàn, kiên quyết không để phát sinh nợ quá hạn mới.
- Tăng cường số lượng và chất lượng các sản phẩm dịch vụ, tăng tiện ích tối đa cho các sản phẩm truyền thống. Xây dựng phương án triển khai hoạt động chuyển tiền nhanh VND, Western union, mở thẻ ATM tại tất cả các điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm. Khảo sát lắp đặt máy ATM tại những điểm thích hợp, đi đôi với việc tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về sản phẩm thẻ tới mọi đối tượng khách hàng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động tín dụng, tài chính và kế toán. Thực hiện nghiêm túc công tác chấn chỉnh sau thanh tra, đảm bảo mọi hoạt động kinh doanh an toàn.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ một cách căn bản, đặc biệt là các kỹ năng về công nghệ mới.Công tác đánh giá cán bộ cần chú trọng tính sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.Công tác tuyển dụng lao động cần hội đủ phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa ngày càng cao.
- Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn thể trong việc chỉ đạo thực hiện mọi nhiệm vụ kinh doanh. Xây dựng các chỉ tiêu thi đua thiết thực gắn với mọi hoạt động của các tổ chức đoàn thể như: Công đoàn, Đoàn thanh niên. Duy trì các phong trào văn nghệ, thể thao, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong cơ quan, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trên đà đổi mới đặc biệt là đổi mới kinh tế. Sau một thời gian thích nghi với cơ chế thị trường sự phát triển đi lên đưa đất nước đang đòi hỏi bức thiết về vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bảo đảm thực hiện mục tiêu của chiến lược kinh tế xã hội đến năm 2012 và cả sau này. Xuất phát từ mục đích trên, yếu tố quyết định hoạt động của Ngân hàng là xây dựng chiến lược huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước.
Huy động vốn được coi là biện pháp rất quan trọng , phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần quyết định cho sự nghiệp xây dựng đất nước. trong đó, quy mô và cấu trúc nguồn vốn là cơ sở để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lợi của ngân hàng. Vì vậy nó đòi hỏi ngân hàng nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta nói chung phải không ngừng đổi mới về hoạt động.
Bên cạnh đó còn có sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài. Với một số lượng vốn tương đối lớn so với các ngân hàng trong nước, nhiều thuận lợi về công nghệ, nguồn nhân lực, đã không ngừng đưa ra các chiến lược chiễm lĩnh thị trường. điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại trong nước nói chung và ngân hàng thương mại Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nói riêng phải nỗ lực hơn nữa, đồng thời phải phối hợp đồng bộ với nhà nước, các tầng lớp xã hội để có thể tồn tại và phát triển.
Bài viết này được tập trung nghiên cứu về một số vấn đề huy động của Ngân hàng thương mại. Từ lí luận bản chất của nguồn vốn là thực trạng huy động vốn của các Ngân hàng thương mại từ đó có một số biện pháp trong công tác huy động vốn của các Ngân hàng thương mại.
Đây là một việc hoàn toàn mới mẻ với khả năng của bản thân em nên bài viết còn gặp nhiều hạn chế về nhận thức và suy nghĩ không tránh khỏi những sai sót mong được sự chỉ bảo và quan tâm của các cô giáo trong bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tài chính của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn từ năm 2009 -2011.
Trang www.agribank.com.vn
Sách nghiệp vụ ngân hàng thương mại.
Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam 5 năm trên con đường đổi mới và Phát triển .
Điều lệ Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam.
Lời cam đoan
Em xin cam đoan đây là bài làm của riêng em.
Các số liệu trong chuyên đề là trung thực và phù hợp với thực tế của Ngân hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bctn_17_327_3977.docx