Chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô có tác động mạnh mẽ và hết sức nhạy cảm đối với toàn bộ hoạt động kinh tế. Thông qua việc định hướng và điều chỉnh kịp thời mọi hoạt động tiền tệ, tín dung và ngân hàng, chính sách tiền tệ luôn duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ, kiểm soát tốt lạm phát và góp phần đảm bảo sự tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế.
Hiện nay, ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở - một trong những công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ được khai trương đã và đang hoạt đông được ba năm, việc giao dịch chưa thường xuyên, các hàng hoá trên thị trường đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, việc xuất hiện thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta. Có thể nói, NHNN Việt Nam đã có thêm một công cụ mới – công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ - đó là nghiệp vụ thị trường mở.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiệp vụ thị trường mở - Một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i đến hạn thanh toán
T: thời hạn còn lại của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất)hoặc lãi suất do ngân hàng nhà nước thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng ) tại phiên đấu thâù, tính theo % năm.
365: số ngày qui ước của một năm
GT
Gđ =
L x T
1 +
365 x 100
b). Giá mua lại giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng xác định theo công thức sau:
L x Tb
Gv = Gđ x ( 1 + ---------------)
365 x 100
Gv: Giá mua lại
Gđ: Giá bán
L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ ( trường hợp đấu thầu lãi suất ) hoặc lãi suất do ngân hàng nhà nước thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu, tính theo % năm.
Tb: thời hạn bán (số ngày)
365: số ngày quy ước của một năm
3.3.2. Trường hợp mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá giữa ngân hàng nhà nước với các tổ chức tín dụng
Giá mua hoặc giá bán hẳn giấy tờ có giá được áp dụng như công thức quy định tại mục a nêu trên.
3.4. Phương thức giao dịch:
Là phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà các công cụ khác không thể có được. Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian Giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp yêu cầu chính sách tiền tệ. Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi biểu hiện một sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ trong trường hợp như vậy phương thức giao dịch sẽ là mua bán hẳn giấy tờ có giá, nhằm tạo ra một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết. Ngoài ra, nghiệp vụ mua bán hẳn cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch. Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân như thời tiết, thiên tai.. để đảm bảo hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền tệ, phương thức giao dịch được áp dung sẽ là phương thức mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại. Kết thúc thời hạn hợp đồng,vốn khả dung cũng đồng thời giảm xuống.
3.5. Trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ:
Ảnh hưởng đến hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở đó là trình độ phối hợp giữa các công cụ điều trong điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là giữa nghiệp vụ thị trường mở và công cụ cho vay tái cấp vốn không có bảo đảm bằng giấy tờ có giá hoặc giấy tờ có giá chất lượng thấp, thực chất là cho vay tái cấp vốn theo chỉ định hiện nay là một loại tín dung không phải ai cũng có quyền vay. Vì vậy, TCTD được vay sẽ có nhiều lợi thế trong giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở, một khi tổ chức đó tìm được nguồn vay với giá rẻ có thể sử dung để mua giấy tờ có giá với lãi suất có lợi hơn trên nghiệp vụ thị trường mở. Điều này không những tạo ra một sân chơi thiếu bình đẳng giữa các thành viên mà còn làm cho mục tiêu kích cầu tín dung không thực hiện được. Để chống sự lạm dụng này, NHTƯ các nước thường xét đơn vay rất nghiêm ngặt, mặt khác áp dung cơ chế nâng lãi suất thị trường vay để kích thích các TCTD ưu tiên bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở. Khi lượng giấy tờ có giá không còn để bán, lúc đó NHTƯ mới giảm đần lãi suất vay đến mức ngang bằng lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở.
3.6. Công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán:
Góp phần không nhỏ để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả đó là công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán. Việc kết nối theo một chương trình phần mềm hiện đại trong nội bộ NHTƯ, giữa Trưởng ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở, các uỷ viên và người trực tiếp điều hành sàn giao dịch; giữa NHTƯ và các ngân hàng thành viên, bảo đảm thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, thông báo kết quả đấu thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua lại, đến khâu thanh toán chuyển tiền và làm các loại thông báo, báo cáo...
Các hình thức giao dịch chủ yếu trên thị trường mở:
Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở quyết định mỗi phiên giao dịch chỉ áp dung một trong hai phưong thức sau:
4.1. Bán và cam kết mua lại ( giao dịch có kỳ hạn ):
Là việc bên bán ( Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dung ) bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho bên mua ( tổ chức tín dung hoặc Ngân hàng Nhà nước ) đồng thời cam kết mua lại và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá đó sau một thời hạn nhất định. Các hợp đồng mua lại thích hợp với điều kiện khó dự báo vốn khả dung, có thể can thiệp linh hoạt việc cung ứng vốn khả dung khi thời hạn hợp đồng chấm dứt. Hợp đồng mua lại (mua bán có kỳ hạn) đồi hỏi trình độ, kiến thức cao của cả NHNN và các TCTD, mà điều này chưa chín muồi ở Việt Nam.
4.2. Phương thức mua bán hẳn:
Là việc mua, bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại giấy tờ có giá.
Việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở dưới hình thức mua bán hẳn sẽ làm tăng tỉ lệ cung ứng tiền của NHTƯ qua quan hệ tín dung, làm yếu khả năng điều tiết của NHTƯ, gây biến động lớn tới thị trường chứng khoán theo chiều hướng không tốt khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhỏ bé và yếu ớt. Nếu như Ngân hàng Trung ương mua hẳn tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc thì lượng tiền tệ trong lưu thông sẽ thay đổi, khả năng tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách sẽ xảy ra. Vì vậy, NVTTM có tính linh hoạt cao trong thực tế sử dung, mà phương thức mua bán hẳn chỉ phù hợp với giai đoạn đầu.
5. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của nghiệp vụ thị trường mở:
5.1. Khái niệm lượng tiền cung ứng:
Lượng tiền cung ứng (MS) là tổng các phương tiện tiền tệ, bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn tại các Ngân hàng thương mại (NHTM).
Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối lượng tiền trong lưu thông. Sự phân chia tuỳ theo mỗi nước, nhưng cách phân chia phổ biến là:
M1: Bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng.
M2: Bao gồm M1 cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng.
M3: Bao gồm M2 cộng với các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
Khối tiền tệ L: bao gồm M3 và các loại giấy tờ có giá trong thanh toán.
5.2. Cơ chế tác động:
Một cách mà NHTƯ tạo ra các thay đổi của cơ số tiền tệ là mua hoặc bán các trái khoán chính phủ thông qua một nghiệp vụ thị trường mở. Việc mua trái khoán do NHTƯ thực hiện được gọi là mua trên thị trường mở, trong khi việc bán trái khoán do NHTƯ thực hiện được gọi là bán trên thị trường mở.
5.2.1. Mua trên thị trường mở từ một ngân hàng:
Một doanh nghiệp mua 100 triệu đồng trái khoán từ một ngân hàng và thanh toán các trái khoán ấy bằng môt séc 100 triệu đồng. Ngân hàng đó hoặc sẽ gửi tờ séc đó vào tài khoản của mình ở NHTƯ hoặc đổi lấy tiền mặt, đây sẽ được coi là tiền két. Dù hành động theo cách nào ngân hàng này sẽ thấy bản thân có thêm 100 triệu đồng tiền dự trữ và giảm 100 triệu đồng tiền tài sản chứng khoán.
Hệ thống ngân hàng.
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán –100 Tiền dự trữ +100
Trong khi ấy, NHTƯ thấy rằng tài sản nợ của mình đẵ tăng thêm 100 triệu đồng là tiền dự trữ, đồng thời tài sản có của NHTƯ đã tăng thêm100 triệu đồng chứng khoán. Tài khoản T của NHTƯ lúc này:
NHTƯ
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán +100 Tiền dự trữ +100
Kết quả thực của việc mua trên thị trường tự do này là tiền dự trữ đã tăng thêm 100 triệu đồng. Vì lúc đó không có thay đổi nào về đồng tiền lưu hành nên cơ số tiền tệ cũng đã tăng thêm 100 triệu đồng.
5.2.2. Mua trên thị trường mở từ giới phi ngân hàng:
Trường hợp 1: giả sử rằng 1 cá nhân hay 1 công ty bán 100 triệu đồng trái khoán cho NHTƯ vào 1 ngân hàng địa phương. Tài khoản của công chúng đó sau giao dịch này là :
Giới phi ngân hàng
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán -100 Tiền gửi có thể phất séc +100
Sau khi ngân hàng này nhận séc ấy, nó ghi có cho tài khoản của người gửi tiền và sau dố gửi tấm séc ấy vào tài khoản của mình ở NHTƯ. Tài khoản T của hệ thống ngân hàng trở thành :
Hệ thống ngân hàng
Tài sản có Tài sản nợ
Tiền dự trữ +100 Tiền gửi có thể phát séc +100
Tác dung đối với bản quyết toán tài sản của NHTƯ là ở chỗ nó đã thêm được 100 chứng khoán trong coọt tài sản của nó, trong khi ấy , nó tăng thêm 100 tiền dự trữ ở cột tài sản nợ của nó.
NHTƯ
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán +100 Tiền dự trữ +100
Như tài khoản T ở trên, khi tấm séc đó của NHTƯ được gửi vào một ngân hàng, kết quả thực của vụ mua từ một giới phi ngân hàng trên thị trường mở là tương tự với vụ mua từ một ngân hàng trên thị trường mở.
Tiền dự trữ tăng thêm 100 triệu đồng từ vụ mua trên thị trường mở và cơ số tiền tệ cũng tăng thêm 100 triệu đồng đó.
Mặt khác, nếu cá nhân hoặc công ty ấy bán trái khoáncho NHTƯ đổi tờ séc của NHTƯ lấy tiền mặt tại một ngân hàng địa phương hoặc tại một ngân hàng dự trữ liên bang, thì tác dung đối với tiền dự trữ khác nhau. Cá nhân ấy sẽ nhận 100 triệu đồng tiền mặt trong khi tài sản chứng khoán của anh ta giảm 100 triệu đồng. Tài khoản T của cá nhân ấy sẽ là :
Giới phi ngân hàng
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán: -100 Tiền mặt: +100
Khi NHTƯ nhận thấy rằng nó đã trao đổi 100 triệu đồng tiền mặt lấy 100 triệu đồng tiền chứng khoán, do đó tài khoản T của nó là:
NHTƯ
Tài sản có Tài sản nợ
Các chứng khoán +100 Đồng tiền lưu hành +100
Kết quả thực của vụ mua trên thị trường mở trong trường hợp này là tiền dự trữ không thay đổi, trong khi đồng tiền lưu hành tăng thêm 100 triệu đồng. Như vậy cơ số tiền tệ tăng thêm số tiền 100 triệu đồng từ vụ mua trên, trong đó khi ấy tiền dự trữ không tăng.
Sự phân tích trên cho thấy tác dụng của một vụ mua trên thị trường mở với tiền dự trữ khác đi tuỳ theo việc người bán các trái khoán đó giữ món tiền thu được dưới dạng tiền mặt hoặc là dưới dạng tiền gửi. Nếu số tiền thu được ấy giữ ở dạng tiền mặt, vụ mua trên thị trường mở này không có tác dung gì đến tiìen dự trữ; nếu số tiền thu được ấy giữ dưới dạng tiền gửi, thì tiền dự trữ tăng thêm một số tiền của vụ mua trên thị trường mở đó.
Tuy nhiên tác dụng của một vụ mua trên thị trường mở đối với cơ số tiền tệ luôn luôn như nhau, dù tiền thu được từ vụ bán đó được giữ ở dạng tiền gửi hay tiền mặt. Tác động của một vụ mua trên thị trường mở đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dung của nó đối với cơ số tiền tệ.
5.2.3. Bán trên thị trường mở:
Nếu NHTƯ bán 100 triệu đồng trái khoán cho một ngân hàng hay một giới phi ngân hàng cơ số tiền tệ sẽ giảm 100 triệu đồng. Ví dụ, nếu NHTƯ bán các trái khoán đó cho một cá nhân, cá nhân đó thanh toán các tài khoản ấy bằng tiền mặt, thì người mua đó trao đổi 100 triệu đồng tiền mặt lấy 100 triệu đồng trái khoán và đưa đến tài khoản T như sau:
Giới phi ngân hàng
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán +100 Tiền mặt -100
Mặt khác, NHTƯ đã giảm bớt tài sản chứng khoán của nó 100 triệu đồng và cũng đã hạ thấp tài sản nợ tiền tệ qua việc nhận tiền mặt để thanh toán cho các trái khoán của nó, do vậy giảm bớt số lượng tiền lưu hành 100 triệu đồng.
NHTƯ
Tài sản có Tài sản nợ
Chứng khoán -100 Đồng tiền lưu hành - 100
Tác dụng của 100 triệu đồng trái khoán đó trên thị trường mở là làm giảm bớt một số tiền bằng như thế của cơ số tiền tệ, tuy rằng tiền dự trữ giữ nguyên không thay đổi. Những trạng thái khác nhau của các tài khoản trong các trường hợp người mua các trái khoán đó là một ngân hàng hoặc người mua đó thanh toán các trái khoán ấy bằng một séc phát ra theo một tài khoản tiền gửi có thể phát séc tại ngân hàng địa phươngcủa người ấy, đều dẫn đến một sự giảm bớt 100 triệu đồng trong cơ số tiền tệ, tuy rằng việc giảm xảy ra do mức tiền dự trữ đã sụt giảm.
Từ sự phân tích của chúng ta về mua bán trên thị trường mở, nay có thể đưa ra kết luận sau: tác dung của các nghiệp vụ thị trường mở đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dung đố đối với cơ số tiền tệ. Do đó, NHTƯ có thể kiểm soát cơ số tiền tệ một cách có hiệuquả hơn bằng các nghiệp vụ thị trường mở so với có thẻ kiểm soát các khoản tiền dự trữ.
6. Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở:
Sở dĩ nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất do các ưu điểm nổi bật sau:
6.1. Nghiệp vụ thị trường mở phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTƯ:
Tuy NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên, việc kiểm soát này là gián tiếp, không nhận thấy được. Ví dụ như trong nghiệp vụ chiết khấu, NHTƯ có thể khuyến khích hoặc không khuyến khích các NHTM, chỉ thông báo lãi suất chiết khấu, mà không kiểm soát trực tiếp khối lượng cho vay chiết khấu.
6.2. Nghiệp vụ thị trường mở vừa linh hoạt nhưng vừa chính xác. Có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặccơ số tiền tệ, dù ở mức nhỏ nào đi nữa, nghiệp vụ thị trường mở cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. Ngược lại, nếu có yêu cầu thay đổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ ở quy mô lớn, NHTƯ cũng có đủ khả năng thực hiện được thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán.
6.3. Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều.
Nếu NHTƯ có mắc phải sai sót nào đó trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, thì có thể ngay tức khắc sửa chữa sai sót đó. Ví dụ, khi NHTƯ nhận thấy rằng, lãi suất trên thị trường tiền tệ (lãi suất ngắn hạn ) hiện đang quá thấp do vừa qua NHTƯ đã thực hiện việc mua quá nhiều trên thị trường mở, thì có thể tức khắc sửa chữa nó bằng cách bán ngay các giấy tờ có giá cho các ngân hàng.
6.4. Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao.
Giao dịch trên thị trường mở hầu như không gặp rủi ro, xét trên góc độ của cả ngân hàng trung ương lẫn các NHTM, bởi vì, cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là những giâý tờ có giá, có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính.
6.5. Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính. Khi NHTƯ quyết định muốn thay đổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, NHTƯ chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán ( trên thị trường tiền tệ ) và sau đó việc mua bán sẽ được thực thi ngay.
PHẦN 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
1. Sự cần thiết phải ra đời nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam:
Ở góc độ khái quát, chính sách tiền tệ là những mục tiêu và những giải pháp đồng bộ mà NHTƯ sử dụng trong điều hành nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá vốn khả dung, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán... trong nền kinh tế. Nói cách khác, chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng, bằng cách kiểm soát các kênh bơm và rút tiền NHTƯ trong lưu thông. Theo thuật ngữ tiền tệ, đây là nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung ứng, được điều tiết qua hai kênh bao gồm kênh tín dụng và kênh mua, bán. Kênh thứ nhất được thể hiện qua hình thức cho vay tái cấp vốn của NHTƯ cho các tổ chức tín dung. Kênh thứ hai qua mua, bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và mua, bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở. Ngoài ra, tăng hay giảm lượng tiền cung ứng còn được điều tiết thông qua tỉ lệ dự trữ bắt buộc: một tỉ lệ dự trữ bắt buộc thấp, tiền dưới dạng vốn khả dụng sẽ tăng lên và ngược lại, một tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao vốn khả dụng sẽ giảm đi tương ứng, theo thuật ngữ tiền tệ gọi là khả năng tạo tiền. Cách tăng hay giảm tiền cung ứng qua các kênh nói trên đều có những ưu nhược điểm khác nhau phụ thuộc vào điều kiện khách quan của nền kinh tế và khả năng cho phép của NHTƯ. Theo đánh giá của các chuyên gia, điều tiết lượng tiền cung ứng qua nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu thế hơn các kênh khác.Thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ cấp giữa một bên là Ngân hàng Trung ươngmột bên khác là các tổ chức tín dụng, làm lượng tiền biến thiên chỉ theo một chiều hoặc tăng hoặc giảm phù hợp yêu cầu can thiệp của NHTƯ.
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở bao quát toàn bộ những nội dung quyết định tính hiệu quả của nó. Các bước tiến hành của phiên giao dịch gồm hoạt động của ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở và quy trình thao tác kỹ thuật của bộ phận sàn giao dịch.
Từ những thuận lợi khi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở kết hợp với điều kiện thực tế của nước ta, ngày 09/03/2000 Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 về việc ban hành Quy chế Nghiệp vụ thị trường mở do thống đốc NHNN Việt Nam ký đã được ban hành. Cho tới ngày 12/07/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phên giao dịch đầu tiên, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương theo phương pháp gián tiếp.
2. Vài nét về hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam:
Với việc mua bán trái phiếu, tín phiếu và các công cụ tài chính khác trên thị trường mở, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) sẽ làm tăng hoặc giảm mức tiền cơ bản ( tiền NHTƯ) trong toàn hệ thống ngân hàng và qua đó tác đông đến mức cung tiền tệ cho nền kinh tế.Trong suốt thời gian hoạt động, khối lượng trái, tín phiếu được mua bán qua thị trường không ngừng tăng lên, qua đó, NHNN đã từng bước tác động vào thị trường, giảm dần các công cụ kiểm soát trực tiếp để chuyển sang sử dụng các công cụ kiểm soát gián tiếp. Tuy nhiên, phải nói rằng thị trường mở hoạt động chưa thực sự sôi động. Cụ thể là, thành phần tham gia chủ yếu là bốn ngân hàng thương mai nhà nước; có nhiều phiên đấu thầu không có thành viên đăng ký. Mặt khác, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế đang tăng trưởng, việc kiểm soát gián tiếp ngày càng trở nên quan trọng. Nếu chúng ta tiếp tục duy trì sử dung các công cụ kiểm soát trực tiếp thì thị trường sẽ tìm cách lẩn tránh. Tuy vậy, để cho nghiệp vụ thị trưòng mở trở thành một bộ phận chính của chính sách tiền tệ thì các công cụ khác đang được NHNN sử dung cần được xem xét lại và cần điều chỉnh; đồng thời, cơ sở hạ tầng của thị trường cần phải được chuyển đổi để tạo nên sự phối hợp đồng bộ trong việc sử dung các công cụ chính sách tiền tệ.
2.1. Điều kiện thị trường tài chính:
Thị trường tài chính của nước ta từ lúc bắt đầu vẫn còn nhỏ bé về qui mô, đơn sơ về chủng loại hàng hoá đồng thời cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất lạc hậu, cho đến nay đang dần nâng cấp. Trong những năm gần đây, khu vực tài chính đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
2.1.1. Thị trường trái phiếu Chính phủ:
Cho đến năm 2000 Việt Nam hầu như chưa có thị trường trái phiếu thứ cấp mặc dù trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số doanh nghiệp đã được phát hành trong thập kỷ 1990. Ở thời kỳ đó trái phiếu sau khi được phát hành chủ yếu được các công ty bảo hiểm và ngân hàng quốc doanh nắm giữ đến khi đáo hạn. Tháng 7/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM mở cửa và sau đó không lâu một số trái phiếu chính phủ được niêm yết trên sàn giao dịch này đánh dấu sự ra đời của thị trường trái phiếu thứ cấp. Cùng với NHNN, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM cũng được giao tổ chức đấuthầu một số loại trái phiếu chính phủ dài hạn. Đây có thể nói là cố gắng đầu tiên nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu chính phủ của Việt Nam.
Dưới đây là biểu đồ tổng số dư thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2010 - 2011
Vào năm 2003 qui mô của thị trường trái phiếu vẫn rất nhỏ. Tổng số trái phiếu được phát hành đến thời điểm này mới chỉ bằng 4.5% GDP8 và chưa đến 1/3 (1.04% GDP9) được niêm yết trên sàn giao dịch. Cuối năm 2003 chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP qui định khung pháp lý cho việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu được chính phủ bảo lãnh. Trong giai đoạn 2004-2009 chính phủ đã thực hiện một số biện pháp thực hiện các đề xuất của bản chiến lược với mục đích gia tăng thanh khoản cho thị trường trái phiếu thứ cấp. Từ tháng 9/2009 đến 9/2014, quy mô thị trường TPCP tăng trưởng 23%/năm trong 5 năm qua, mức tăng trưởng dẫn đầu các nền kinh tế mới nổi tại khu vực Đông Á, ASEAN + 3.
Tính đến thời điểm (22/9/2016), tổng khối lượng vốn huy động TPCP, TPCP bảo lãnh qua đấu thầu đạt hơn 280,3 nghìn tỷ đồng, trong đó, Kho bạc Nhà nước (KBNN) huy động được 250 nghìn tỷ đồng TPCP, bằng 160% so với cùng kỳ năm 2015. Về kỳ hạn phát hành, khối lượng phát hành TPCP từ 5 năm trở lên chiếm 90% tổng khối lượng phát hành, kỳ hạn 10 năm trở lên đạt 47,334 nghìn tỷ đồng (chiếm 20%), bằng 145% so với cùng kỳ năm 2015.
Trên thị trường thứ cấp, tính đến 22/9, tổng giá trị giao dịch TPCP đạt 1.021 nghìn tỷ đồng, tương đương giá trị giao dịch bình quân phiên khoảng 5.674 tỷ đồng, gấp hơn 1,5 lần cả năm 2015.
Như vậy, xét về khối lượng phát hành và khối lượng giao dịch TPCP, có thể nói kết quả phát hành TPCP năm 2016 đạt cao nhất từ trước đến nay.
Sở dĩ có được kết quả này là do, kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường tiền tệ và tỷ giá ổn định, thanh khoản của các tổ chức tín dụng tốt, lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tiền tệ đều giảm, đã hỗ trợ tích cực cho công tác phát hành, giao dịch TPCP.
Đồng thời, trong công tác tổ chức và điều hành thị trường, trên cơ sở khuôn khổ pháp lý về phát hành TPCP được ban hành đầy đủ, đồng bộ, thị trường TPCP đã được tổ chức và vận hành theo thông lệ quốc tế. Theo đó, trên thị trường sơ cấp, TPCP được tập trung phát hành theo phương thức đấu thầu và đăng ký, lưu ký, niêm yết, giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) nhằm tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Trên thị trường thứ cấp, hạ tầng công nghệ tổ chức đấu thầu luôn được cải tiến và hoàn thiện, việc áp dụng hệ thống đấu thầu điện tử đã nâng cao hiệu quả công tác phát hành TPCP, giúp thành viên đấu thầu giảm thiểu chi phí môi giới, rút ngắn thời gian tham gia đấu thầu cho cả nhà đầu tư (NĐT), thành viên.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tổ chức, điều hành thị trường kỳ hạn phát hành bình quân TPCP đã được cải thiện rõ rệt qua đó kéo dài danh mục nợ TPCP, giảm áp lực trả nợ ngắn hạn cho NSNN.
2.1.2. Thị trường liên ngân hàng:
Tuy đã có sự sôi động nhất định nhưng chưa thực sự phát triển, chỉ dừng ở mức giao dịch diễn ra đối với từng nhóm nhỏ trên cơ sở vay mượn thường xuyên và hiểu biết lẫn nhau. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương đối tích cực tham gia thị trường này.So với doanh số giao dịch trên thị trường mở, thì doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng lớn hơn nhiều( có ngày cao điểm lên tới 1000 tỷ đồng).
2.2.Khuôn khổ pháp lý:
Sau gần 30 năm nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, đến nay, các bộ phận của thị trường tài chính Việt Nam cơ bản được hình thành. Hệ thống các định chế tài chính đã phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở tiếp cận gần với thông lệ quốc tế. Quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính được thể chế hóa từng bước; các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường tài chính có sự phối hợp trong kiểm tra, giám sát
Cụ thể, thị trường tài chính Việt Nam đã được thiết lập tương đối đầy đủ các chuyên ngành dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính. Hình thành được một hệ thống khuôn khổ pháp lý cần thiết cho sự vận hành của thị trường, từng bước đa dạng hóa các sản phẩm và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Công tác quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính ngày càng được hoàn thiện.
Song song với hoàn thiện thể chế về thị trường tiền tệ, việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách về TTCK cũng được đẩy mạnh. Hệ thống các văn bản pháp lý trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ; hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán được ban hành kịp thời, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cụ thể như, thông tư 45/2015/TT-NHNN thay thế cho các văn bản: Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNNcủa Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở; Quyết định số 27/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN; Điều 12 của Quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN1 về việc ban hành Quy chế phát hành tín phiếu NHNN; Điều 2 Thông tư số 26/2011/TT-NHNN của Thống đốc NHNN về việc thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính lĩnh vực hoạt động tiền tệ theo các Nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của NHNN Việt Nam. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 30/4/2016.
3. Thực tế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở thời gian vừa qua:
3.1. Số lượng thành viên tham gia:
Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở phải là các TCTD đảm bảo đầy đủ một số điều kiện như phải có tài khoản tiền gửi tại NHNN, phải có đủ phương tiện cho hoạt động thị trường mở.. phải đăng ký với NHNN để được hoạt động nghiệp vụ thị trường mở. Nếu tính cho đến cuối năm 2005,thì phạm vi thành viên tham gia bao gồm 15 thành viên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, NHN0&PTNT Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Quỹ tín dung Nhân dân Trung ương, NHĐT&PT Việt Nam,NHTM cổ phần Đông Á, Ngân hàng Chinfon, NHTM cổ phần Sài Gòn thường tín, NHTM cổ phần Quốc tế, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty tài chính bưu điện. Tuy chưa phải là nhiều song số lượng các TCTD này đã đại diện cho các TCTD hiện có ở Việt Nam.
.
3.2. Về hàng hoá và khối lượng giao dịch
a) Hàng hóa:
Theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán trên thị trường mở. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có hai loại hàng hoá là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua, bán kỳ hạn của các công cụ này đã được thay đổi trong phạm vi từ 60 ngày đến 364 ngày.
Như vậy, hàng hoá ở thị trường mở là khá đơn điệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh. NHNN cần có các quy định cụ thể về tính pháp lý của các giấy tờ có giá (GTCG) và việc sở hữu, mua bán, chuyển nhượng các giấy tờ có giá này trên thị trường để làm cho hàng hoá của thị trường mở ngày càng phong phú hơn.
Khối lượng giao dịch:
Huy động vốn qua TPCP đạt được nhiều thành quả và tháo gỡ những khó khăn trong cân đối thu chi NSNN. Trong 10 tháng đầu năm, huy động vốn TPCP chỉ đạt 65% kế hoạch năm 2015, tuy nhiên, chỉ trong 2 tháng cuối năm, sau khi được phép đa dạng hóa kỳ hạn phát hành TPCP, khối lượng TPCP phát hành trong cả năm 2015 là 233.825 tỷ đồng, bằng 99% tổng khối lượng phát hành trong năm 2014.
Bên cạnh đó, lãi suất TPCP tiếp tục được điều chỉnh theo thị trường và tiếp tục xu hướng giảm so với năm 2014 (lãi suất bình quân là 6,35%/năm, giảm 0,02%/năm so với lãi suất bình quân năm 2014). Kỳ hạn phát hành bình quân được cải thiện rõ rệt trong năm 2015 (từ mức 4,94 năm trong năm 2014 lên mức 8,68 năm trong năm 2015).
Khối lượng giao dịch và kỳ hạn phát hành TPCP những năm gần đây. Nguồn: Reuters và tính toán.
NHNN tiếp tục hút tiền qua thị trường mở (OMO) nhằm kiềm chế lạm phát. Năm 2015 là năm thứ tư liên tiếp NHNN hút tiền qua OMO nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, so với các năm trước, điểm sáng năm 2015 là khối lượng phát hành tín phiếu đã giảm một phần do tín dụng tăng trưởng tương đối mạnh, ngoài ra phải kể đến sự phối hợp giữa NHNN và Bộ Tài chính trong việc cung ứng tiền giữa kênh tín phiếu NHNN và TPCP.
Tính đến cuối năm 2015, dư nợ tín phiếu NHNN đã bằng 0 và NHNN đang điều hành bơm hút tiền qua OMO chỉ thông qua nghiệp vụ Mua kỳ hạn (Reverse Repo). Tính chung trong năm 2015, tổng lượng tiền NHNN hút qua OMO là hơn 78.000 tỷ đồng đối với cả hai nghiệp vụ Mua kỳ hạn và Bán tín phiếu.
Diễn biến giao dịch trên OMO những năm gần đây. Nguồn: Reuters và tính toán
Giao dịch trên thị trường liên ngân hàng sôi động cho thấy thanh khoản một số ngân hàng không còn ở trạng thái dư thừa.
Khối lượng giao dịch, doanh số giao dịch bình quân/1 ngày, lãi suất và doanh số giao dịch bình quân ở các kỳ hạn ngắn đều tăng so với năm 2015 cho thấy thanh khoản hệ thống ngân hàng không còn ở trạng thái dư thừa như các năm trước đây. Trong năm 2015, tổng khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng ước trên 5,2 triệu tỷ đồng, giao dịch bình quân 1 ngày là 21.145 tỷ đồng.
Diễn biến giao dịch trên thị trường liên ngân hàng những năm gần đây. Nguồn:Website NHNN (Số liệu năm 2015 tính đến ngày 29/12).
Riêng giai đoạn 2016, những ngày này hệ thống ngân hàng dư thừa thanh khoản, lãi suất giữ ổn định, dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục (hơn 38 tỷ USD).
Ngân hàng Nhà nước điều hành thị trường mở nhịp nhàng, đi kèm với bơm tiền ra mua ngoại hối là sử dụng nghiệp vụ hút tiền về qua phát hành tín phiếu; chưa kể các ngân hàng thương mại đã hoàn thành nhiệm vụ mua trái phiếu - đủ để Chính phủ có thể sử dụng nguồn vốn đó bất cứ lúc nào cho đầu tư công. Đó là mặt trước của tấm huy chương
Còn phía sau, mổ xẻ cho thấy: Dù nền kinh tế tính đến thời điểm hết tháng 9/2016, đã được hệ thống ngân hàng bơm ròng tới hơn 5 triệu tỷ đồng vốn, dù tín dụng rất cố gắng để đến với các lĩnh vực (đến ngày 23/9/2016, tín dụng nền kinh tế tăng 9,09% so với cuối năm 2015) nhưng rõ ràng thực tế, một bộ phận không ít doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đang mong ngóng và chật vật xoay xở vốn. Rõ nữa là hệ thống ngân hàng vẫn phải "đỏ mắt" tìm khách tốt, rất muốn cho vay ra nhưng đến lúc này cũng ngậm ngùi từ chối lắc đầu.
Gần đây nhất là tình hình nghiệp vụ thị trường mở vào ngày 31/10/2016, NHNN chào thầu 6.000 tỷ đồng tín phiếu ở kỳ hạn 14 ngày, lãi suất 0,7%. Kết quả, các TCTD hấp thụ 4.250 tỷ đồng (tỷ lệ trúng thầu 71%). Khối lượng đáo hạn trong ngày là 5.000 tỷ đồng, NHNN bơm ròng nhẹ 750 tỷ đồng trong phiên.
3.3. Phương thức giao dịch:
Theo Thông tư số 42/2015/TT-NHNN quy định về nghiệp vụ thị trường mở (OMO), có hiệu lực kể từ ngày 30/4/2016. Có 4 phương thức mua hoặc bán giấy tờ có giá gồm mua có kỳ hạn, bán có kỳ hạn, mua hẳn, bán hẳn.
Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện vào ngày làm việc. Trường hợp ngày mua lại hoặc ngày đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá không trùng với ngày làm việc thì việc thanh toán và chuyển quyền sở hữu giấy tờ có giá được thực hiện vào ngày làm việc liền kề tiếp theo và chỉ tính lãi theo thời hạn mua, bán.
Định kỳ giao dịch được tăng cường để đáp ứng kịp thời vốn khả dụng, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Từ tháng 11/2004, NHNN đã tăng định kỳ giao dịch lên 3 phiên/tuần (năm 2002 là 2 phiên/tuần, năm 2001 là 2 phiên/tuần và năm 2000 là 1 phiên/10ngày). Bên cạnh đó, NHNN còn mở các phiên giao dịch đột xuất hoặc các phiên giao dịch hàng ngày vào những dịp giáp Tết để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán, không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán cũng như chậm trả đối với khác hàng. Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã tăng thêm phiên giao dịch buổi chiều trên thị trường mở thay vì chỉ một phiên buổi sáng. Trong đó phiên giao dịch buổi sáng cho kỳ hạn 28 ngày và phiên giao buổi chiều cho kỳ hạn 7 ngày. Tính đến hiện nay 2016, NHNN thực hiện các phiên giao dịch định kỳ hàng ngày.
Về thời hạn thanh toán. cơ chế, quy trình nghiệp vụ ngày càng hoàn thiện: quy trình thanh toán được rút ngắn, từ thanh toán sau 2 ngày kể từ năm 2000, rút xuống còn 1 ngày vào năm 2001, và từ năm 2002 đến nay 2016 thanh toán ngay trong ngày thực hiện giao dịch.
Nhờ đó, hoạt động ngân hàng được diễn ra bình ổn, củng cố uy tín của hệ thống ngân hàng.
Để có sự phối hợp chặt chẽ trong việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ chính sách tiền tệ khác, trước hết chúng ta cần xem xét mối quan hệ giữa các công cụ này. Nghiệp vụ thị trường mở tác động vào cung tiền tệ thông qua tác động vào tiền cơ bản của hệ thống Ngân hàng. Để kiểm soát lượng tiền cơ bản trong hệ thống, NHTƯ có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở theo một trong hai cách : Hoặc là xác định một khối lượng tiền cơ bản cần đưa ra hay thu về và cho phép lãi suất biến động một cách linh hoạt, hoặc là xác định một mức lãi suất cụ thể và cho phép khối lượng tiền cơ bản đưa ra hay thu về biến động một cách linh hoạt. Thời kỳ đầu chủ yếu tập trung vào phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu Kho bạc Nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi.
Hiện nay, việc mua, bán các lại giấy tờ có giá ngắn hạn gửi NHNN với các tổ chức tín dụng được thực hiện tại Sàn giao dịch thông qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn. Có hai phương thức giao dịch mà NHNN áp dụng để đấu thầu đó là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.
3.3.1. Đấu thầu khối lượng:
a). NHNN thông báo cho các tổ chức tín dung mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán.
b). TCTD dự thầu khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán theo mức lãi suất ngân hàng nhà nước thông báo.
c). Trường hợp tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của từng tổ chức tín dung là khối lượng dự thầu của tổ chức tín dụng đó.
Thí dụ:
NHNN thông báo bán một khối lượng giấy tờ có giá là 2000 tỷ đồng, lãi suất 0,9%/năm. Tại phiên đấu thầu có 4 đơn vị tham gia đặt thầu:
+ Ngân hàng thương mại A đăng ký mua 1000 tỷ đồng
+ Ngân hàng thương mại B đăng ký mua 500 tỷ đồng
+ Ngân hàng thương mại C đăng ký mua 200 tỷ đồng
+ Ngân hàng thương mại D đăng ký mua 200 tỷ đồng
Vì tổng khối lượng dự thầu của các ngân hàng thương mại (1900 tỷ đồng) nhỏ hơn khối lượng mà NHNN chào bán, cho nên khối lượng dự thầu của các NHTM A, B, C, D nêu trên chính là khối lượng trúng thầu.
d). Trường hợp tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dung vượt quá khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán, khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu được phân bổ theo tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dung và được làm tròn đến 10 triệu đồng.
Cụ thể khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng được xác định theo công thức sau:
Tỷ lệ phân bổ thầu x Khối lượng dự thầu hợp lệ
Khối lượng trúng thầu =
100
Trong đó:
Khối lượng GTCG NHNN cần bán (mua)
Tỷ lệ phân bổ thầu = x 100
Khối lượng dự thầu của các TCTD
Thí dụ:
NHNN thông báo cần bán một khối lượng giấy tờ có giá là 1000 tỷ đồng, lãi suất 0,9%/năm. Tại phiên đấu thầu có 4 đơn vị tham gia đấu thầu:
+ Ngân hàng thương mại A đăng ký mua 500 tỷ
+ Ngân hàng thương mại B đăng ký mua 250 tỷ
+ Ngân hàng thương mại C đăng ký mua 250 tỷ
+ Ngân hàng thương mại D đăng ký mua 250 tỷ
Trường hợp này, tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng là 1250 tỷ, lớn hơn khối lượng NHNN muốn bán. Do vậy, chúng ta phải xác định khối lượng trúng thầu của từng ngân hàng thương mại bằng các áp dụng 2 công thức trên. Ta có:
Tỷ lệ phân bổ thầu = (1000/1250) x 100 = 80(%)
Khối lượng trúng thầu của:
+ Ngân hàng thương mại A: 80% x 500 = 400 (tỷ)
+ Ngân hàng thương mại B: 80% x 250 = 200 (tỷ)
+ Ngân hàng thương mại C: 80% x 250 = 200 (tỷ)
+ Ngân hàng thương mại D: 80% x 250 = 200 (tỷ)
3.3.2. Đấu thầu lãi suất:
a). NHNN công bố khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán.
b). TCTD dự thầu theo các mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua, cần bán tương ứng với các mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu còn được tính theo tỷ lệ %/ năm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy.
c). Các đơn dự thầu của các TCTD được xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần trong trường hợp ngân hàng nhà nước mua giấy tờ có giá, hoặc lãi suất dự thầu tăng dần trong trường hợp ngân hàng nhà nước bán giấy tờ có giá.
d). Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất ( trường hợp NHNN mua giấy tờ có giá ) mà tại mức lãi suất đó đạt được khối lượng giấy tờ có giá NHNN cần mua hoặc cần bán.
e). Khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dung là khối lượng của các mức dự thầu có lãi suất bằng và cao hơn mức lãi suất trúng thầu (trường hợp NHNN mua giấy tờ có giá) hoặc có lãi suất dự thầu bằng và thấp hơn lãi suất trúng thầu ( trường hợp NHNN bán giấy tờ có giá).
g). Trong từng thời kỳ, Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở sẽ thông báo việc áp dung phương thức xét thầu theo mức laĩ suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ.
- Lãi suất thống nhất: Toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính thống nhất theo mức lãi suất trúng thầu.
- Lãi suất riêng lẻ: Từng mức khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi suất dự thầu.
h). Trường hợp tại mức lãi suất trúng thầu, tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng vượt quá khối lượng giấy tờ có giá NHNN cần mua hoặc cần bán, thì khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu của các tổ chức tín dung tại mức lãi suất trúng thầu và được làm tròn đến 10 triệu đồng.
Cụ thể:
Khối lượng trúng thầu của từng tổ chức tín dụng
=
Tổng khối lượng trúng thầu của các mức lãi suất trước đó
+
Khối lượng trúng thầu tại mức lãi suất trúng thầu cuối cùng
Mà:
Khối lượng trúng Khối lượng dự thầu của các
thầu tại mức LS Tỷ lệ phân bổ thầu x TCTD tại mức lãi suất trúng thầu cuối trúng thầu cuối cùng
cùng của từng =
thành viên 100
Trong đó:
Tỷ lệ Tổng KL trúng thầu tại mức LS trúng thầu cuối sùng
phân bổ = x 100
thầu KL dự thầu của các TCTD tại mức LS trúng thầu
(%) cuối cùng
Tổng khối lượng trúng thầu tại mức lãi suất trúng thầu cuối cùng bằng tổng khối lượng NHNN cần mua (bán) trừ đi tổng khối lượng trúng thầu của các mức lãi suất trúng thâù trước đó.
Thí dụ:
NHNN thông báo mua hẳn một khối lượng giấy tờ có giá là 1000 tỷ đồng, phương thức đấu thầu lãi suất, phương thức xét thầu: Lãi suất thống nhất. Tại phiên đấu thầu có 4 ngân hàng thương mại tham dự thầu theo các số liệu sau:
NH dự thầu
NHTM A (K. lượng
NHTM B (K. lượng
NHTM C (K. lượng
NHTM D (K. lượng
K. lượng dự thầu
Tổng khối
LS
dự thầu (%năm)
dự thầu - tỷ đồng)
dự thầu - tỷ đồng)
dự thầu - tỷ đồng)
dự thầu - tỷ đồng)
tại từng mức lãi suất dự thầu
lượng dự thầu luỹ kế
0,91
100
100
50
150
400
400
0,90
200
100
100
100
500
900
0,89
50
100
150
100
400
1300
0,87
50
150
200
150
550
1850
0,85
50
200
200
250
700
2550
Cộng
450
650
700
750
2550
2550
Theo bảng số liệu trên, ta xác định được lãi suất trúng thầu cuối cùng là 0,89%. Các mức lãi suất trúng thầu trước đó là 0,90% và 0,91%. Chúng ta tính khối lượng trúng thầu của cá NHTM tham gia dự thầu (bằng cách áp dụng công thức trên):
Tỷ lệ phân bổ thầu = (10000 - 900)/400 = 25(%)
Khối lượng trúng thầu tại mức lãi suất trúng thầu cuối cùng cuat các ngân hàng thương mại là:
NHTM A: 50 x 25% = 12., (tỷ)
NHTM B: 100 x 25% = 25 (tỷ)
NHTM C: 150 x 25% = 37,5 (tỷ)
NHTM D: 100 x 25% = 25 (tỷ)
Khối lượng trúng thầu của các ngân hàng thương mại là:
NHTM A: 100 + 200 + 12,5 = 312,5 (tỷ)
NHTM B: 100 + 100 + 25 = 225 (tỷ)
NHTM C: 50 + 100 + 37,5 = 187,5 (tỷ)
NHTM D: 150 + 100 + 25 = 275 (tỷ)
Trường hợp tại mức lãi suất trúng thầu, có nhièu loại giấy tờ có giá cần bán hoặc mua, NHNN sẽ xét thầu xác định thứ tự ưu tiên từng loại giấy tờ có giá trị như sau:
+ Giấy tờ có giá đăng ký có khối lượng lớn
+ Giấy tờ có giá thời hạn bán ngắn hơn (trường hợp giao dịch có kỳ hạn)
+ Thời hạn còn lại giấy tờ có giá ngăn hơn (trường hợp mua bán hẳn)
PHẦN 3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM
Khả quan
Có thể nhận xét rằng, trong thời gian hoạt động vừa qua, hoạt động của thị trường mở đã đạt được những kết quả khả quan sau:
Thứ nhất: đã góp phần củng cố thêm vị thế, vai trò quản lý của NHNN trong nền kinh tế thị trường, phù hợp xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá.
Thứ hai, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện tương đối linh hoạt, đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết một phần lượng vốn khả dụng dư thưà của các TCTD trong một số thời kỳ. Trong NVTTM, tác động vào cung ứng tiền có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào để thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền lớn hay nhỏ. NHTW có thể thực hiện bằng cách mua, bán khối lượng lớn hay nhỏ chứng khoán. NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. NHTW luôn có thể chủ động số lượng tiền “bơm” vào hay “hút” ra khỏi lưu thông bằng cách khống chế lượng mua và bán. Mặt khác tính linh hoạt còn thể hiện ở chỗ NHTW vừa thực hiện mua ngay sau đó lại bán ngược lại.
Ba là, đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển nâng cao sức mua của xã hội và thực hiện đúng chủ trương kích cầu của Chính phủ. Bên cạnh đó, việc lắp đặt các trang thiết bị, phục vụ thị trường mở đã được thực hiện khẩn trương, tạo điều kiện trôi chảy, đúng quy chế, an toàn. Công tác điều hành, tổ chức luôn thực hiện đúng quy định, và đã dần bám sát tình hình diễn biến thị trường về vốn khả dung và lãi suất.
Thứ tư, trong thời gian qua các thành viên tham gia và trúng thầu chủ yếu là các doanh nghiệp thương mại và quốc doanh. Thông qua thị trường này các doanh nghiệp đã sử dụng vốn của mình một cách hiệu quả và linh hoạt hơn trong điều kiện thực tiễn của nền kinh tế thị trường.
Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khá khả quan, thị trường mở vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, nghiệp vụ thị trường mở ra đời trong điều kiện nền kinh tế phát triển thấp, thị trường tiền tệvà thị trường tài chính chưa phát triển, nền kinh tế thế giới không ngừng biến động, do vậy mà các tổ chức tín dung tham gia còn gặp nhiều rủi ro.
Thứ hai, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động, số lượng thành viên tham gia trong từng phiên giao dịch còn rất thấp so với tổng số các thành viên. Các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM quốc doanh do lượng hàng hoá giao dịch chủ yếu tập trung tại các ngân hàng này; còn việc tham gia của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường này còn rất mờ nhạt.
Thứ ba, thị trường mở là một bộ phận của thị trường tài chính. Do vậy, công cụ này sẽ chỉ phát huy tối đa hiệu quả khi có một thị trường tài chính phát triển. Hàng hoá của thị trường phải phong phú, có khả năng đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng, hàng hoá giao dịch còn nghèo nàn, không đa dạng về chủng loại và thời hạn.
Thứ tư, các tổ chức tín dung vẫn chưa quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thỉtường mở. Việc đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ cho nghiệp vụ thị trường mở còn nhiều bất cập.
Để thị trường mở thực sự trở thành một công cụ gián tiếp đắc lực, góp phần đổi mới, hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ và phát triển thị trường tiền tệ, trước mắt một số giải pháp đã được đề ra như sau:
Giải pháp
Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường:
Như trên đã chỉ ra, quy định hiện nay, chỉ những giấy tờ có giá ngắn hạn có độ thanh khoản cao, bảo đảm quản lý dễ dàng như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các loai giấy tờ có giá ngắn hạn khác được giao dịch ở thi trường mở. Quy định này đã làm giảm khả năng và phạm vi mua bán của các loại giấy tờ có giá khác hiện có ở Việt Nam như trái phiếu trung hạn và dài hạn... trên thị trường mở. Vì vậy, việc sửa đổi bổ sung luật NHNN cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ là cần thiết.
Do vậy, NHNN cần sớm trình Quốc hội sửa đổi Luật NHNN để hình thành Luật pháp lý vững chắc hơn, tạo điều kiện đa dạng hoá các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường mở.
Phương thức giao dịch:
Phương thức giao dịch phù hợp nhất với nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay là mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại, mà NHTƯ là người chủ động quyết định số lượng giao dịch, thời gian, phương thức. Cần phải tiến hành giao dịch sao cho đảm bảo yêu cầu, thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà các công cụ khác không thể thực hiện được.
Hiện nay, trên thị trường mở, nhiều nước đang chuyển dần sang sử dung các hợp đồng mua lại ( Repos) vì đây là một hình thức tài trợ thuận tiện và linh hoạt hơn. Thông qua các repos các thành viên tham gia thị trường mua hoặc bán các giấy tờ có giá để đổi lấy tiền mặt vào một thời điểm trong tương lai. Đây là một công cụ điều hành hiệu quả nhằm tăng khả năng thanh khoản của thị trường và giúp cho việc mở rộng thị trường. Các hợp đồng này thường ngắn hạn ( tuy nhiên, cá biêt cũng có thể có thời hạn dài hơn). NHNN cần nghiên cứu để đưa hình thức này vào thị trường mở.
Hiện đại hoá hệ thống thanh toán:
Để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả hơn cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại, thiết kế chương trình phần mềm phục vụ cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở nhằm kết nối giưã nội bộ trong NHNN và giữa NHNN với các TCTD thành viên nhằm đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua lại ... đến khâu thanh toán chuyển khoản và thông báo báo cáo.
Tăng thêm số lượng thành viên tham gia:
Hiện nay thành viên tham gia vào thị trường mở chủ yếu là các ngân hàng. Trong tương lai, để tăng cường khả năng can thiệp của NHNN, cần nghiên cứu mở rộng các thành viên của thị trường. Theo đó các tổ chức như Quỹ Hỗ trợ phát triển, Kho bạc nhà nước, Quỹ bảo hiểm xã hội, Công ty tiết kiệm bưu điện sẽ được chấp thuận là thành viên của thị trường mở.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ:
Các tổ chức tín dụng cần phải chú trọng tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, nâng cao khả năng am hiểu các văn bản pháp quy, quy trình ngiệp vụ, chuyên sâu vào công tác nghiên cứu hoạt động nghiệp vụ thị trường mở và khả năng dự báo thị trường, ®ång thời mỗi cán bộ cũng phải nắm vững tính năng, tác dụng của các thiết bị mới phù hợp với sự tiến bộ của công cuộc hiện đại hoá dể giúp cho việc giao dịch nghiệp vụ thị trường mở diễn ra thuận tiện, nhanh chóng, an toàn.
KẾT LUẬN
Chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô có tác động mạnh mẽ và hết sức nhạy cảm đối với toàn bộ hoạt động kinh tế. Thông qua việc định hướng và điều chỉnh kịp thời mọi hoạt động tiền tệ, tín dung và ngân hàng, chính sách tiền tệ luôn duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ, kiểm soát tốt lạm phát và góp phần đảm bảo sự tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế.
Hiện nay, ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở - một trong những công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ được khai trương đã và đang hoạt đông được ba năm, việc giao dịch chưa thường xuyên, các hàng hoá trên thị trường đã từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, việc xuất hiện thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta. Có thể nói, NHNN Việt Nam đã có thêm một công cụ mới – công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ - đó là nghiệp vụ thị trường mở.
Với vốn kiến thức còn nhiều hạn chế nhưng theo sự suy luận kết hợp tham khảo các tài liệu chuyên ngành. Phạm vi đề án cũng mạnh dạn góp một số ý kiến đóng góp để nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện hơn cho công tác hoạt động nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam.
Tuy rằng có thể chưa đi sâu vào vấn đề nhưng thiết nghĩ, để có thể vận dung hợp lý và có hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tham gia đóng góp ý kiến cũng không phải là không cần thiết. Đồng thời việc nghiên cứu công cụ này còn giúp người học mở rộng kiến thức về nền kinh tế thị trưòng và các kiến thức cần thiết trong điều hành và sử các công cụ của chính sách tiền tệ nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Frederic S. Mishkin,2001,Tiền tệ,ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật.
Bài viết “Vẫn trông vào tín dụng”, tác giả Minh Triết ra ngày 14/9/2016, trang báo điện tử cafef.vn
TS:Nguyễn Hữu Tài (chủ biên),2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản Thống Kê.
Quyết định số 85/2000/QĐ- NHNN14 ngày 09/03/2000 về việc ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở, công báo số 13,ngày 08/04/2000.
Theo Thông tư số 42/2015/TT-NHNN quy định về nghiệp vụ thị trường mở, có hiệu lực kể từ ngày 30/4/2016.
Bài viết “Thị trường tiền tệ - 1 năm nhìn lại”, tác giả Nguyễn Lê, ra ngày 2/1/2016, trên trang baodauthau.vn.
Bài viết “Tăng phiên giao dịch trên thị trường mở”, tác giả Anh Linh, ra ngày 5/4/2010, trên trang kinhdoanh.vnexpress.net
Bài viết “Thị trường tiền tệ qua lăng kính “OMO”, tác giả Huyền Thanh, theo Thời báo ngân hàng, ra ngày 17/2/2015.
Bài viết “Ban hành quy định mới về nghiệp vụ thị trường mở” theo Thời báo ngân hàng, ra ngày 18/2/2016.
Tạ Quang Khánh, 2002, “ Một số vấn đề về điều hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở”, Tạp chí ngân hàng,số 1+2/2002.
MỤC LỤC
Lời nói đầu.
PHẦN 1. Cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở .
1. Lịch sử hình thành nghiệp vụ thị trường mở.
2. Khái niệm thị trường mở:
2.1. Khái niệm
2.2. Phân loại nghiệp vụ thị trường mở
3. Nội dung hoạt động của thị trường mở:
3.1. Phạm vi thành viên tham gia thị trường mở:
3.2. Phạm vi hàng hoá được sử dung giao dịch
3.3. Vấn đề giá và lãi suất bao gồm giá mua, giá bán trên thị trường mở.
3.4. Phương thức giao dịch
3.5. Trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ.
3.6. Công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán.
4. Các hình thức giao dịch chủ yếu trên thị trường mở.
4.1. Giao dịch có kỳ hạn
4.2. Mua bán hẳn.
5. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của nghiệp vụ thị trường mở.
5.1.Khái niệm lượng tiền cung ứng
5.2.Cơ chế tác động
5.2.1. Mua trên thị trường mở
5.2.2. Bán trên thị trường mở
6. Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở
PHẦN 2: Thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam trong thời gian qua
1. Sự cần thiết phải ra đời nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam
2. Vài nét về nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam
2.1.Điều kiện thị trường tài chính
2.1.1.Thị trường trái phiếu Chính phủ
2.1.2.Thị trường liên ngân hàng
2.2.3 Khuôn khổ pháp lý
3. Thực tế hoạt động thời gian vừa qua
3.1.Số lượng thành viên tham gia
3.2. Hàng hoá
3.3. Khối lượng giao dịch
3.4. Phương thức giao dịch
PHẦN 3: Định hướng phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam
1. Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường
2. Phương thức giao dịch
3. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán
4. Tăng thêm số lượng thành viên tham gia
5. Nâng cao trình độ nghiệp vụ
Kết luận.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_an_mon_hoc_tai_chinh_tien_te_8685.docx