Đây là vụán kinh tế đơn thuần. bị can đã bị tạm giữ gần 2 năm. Có thể quan điểm giữa Viện
Kiểm sát và Cơ quan Điều tra vẫn còn khác nhau ở một sốnhận định về chứng cứ buộc tội, trong
khi gia đình bị can về cơ bản đã khắc phục xong hậu quả. Đúng ra nên giải quyết vụ việc này
theo quan điểm của vụán dân sự, giải quyết bằng luật trọng tài thương mại thì đúng ý nghĩa hơn.
Việt nam đã là thành viên WTO, thiết nghĩ trong quá trình tốtụng, suy cho cùng, bản chất
của tố tụng dù nó là tố tụng gì đi nữa cũng là góp phần đi tìm công lý. Bảo vệcông lý chính là
việc áp dụng pháp luật đúng lẽ phải và phù hợp với lương tâm, nếu không, chỉ gây ra khổ đau,
thiệt hại cho những người bị hàm oan. Sâu xa hơn nữa, việc giải quyết các quan hệ kinh tế– dân
sự bằng hình sự sẽ gây tổn hại trầm trọng đến môi trường đầu tư, phát triển của đất nước.
13 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập tổchức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình hình mới đó?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Đề Tài
Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác
động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia
nhập tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước
Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích
ứng với tình hình mới đó?
PHẦN I
CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN
Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập
tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với
tình hình mới đó?
I. Khái Niệm
Khái niệm thương mại theo Luật Thương mại 1997 được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14
hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá.
Thậm chí đối tượng của việc mua bán hàng hoá cũng bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các
máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác được lưu
thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán (Điều 5 Luật
Thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình xây dựng (không phải là nhà ở),
các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá như vận chuyển hàng, thanh toán tiền mua hàng qua hệ thống ngân hàng… cũng không
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997. Trong khi đó, ở các nước trên thế giới, khái
niệm thương mại ngày càng được mở rộng ra với một nội hàm rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt
động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Chẳng hạn như, Bộ luật thương mại số 48 của Nhật
Bản ngày 9/3/1899, thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm
mục đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay
khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật Thương mại của Philippin tuy không đưa ra các hành
vi thương mại cụ thể mà quy định phạm vi điều chỉnh là các hoạt động nhằm thúc đẩy sự trao đổi
hàng hoá và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận. Ngoài ra Luật Thương mại của Philippin còn
điều chỉnh các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận chuyển hành
khách. Bộ luật thương mại của Thái Lan cũng đưa ra khái niệm thương mại khá rộng không chỉ
bao gồm việc mua bán hàng hoá mà cả các hoạt động thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế
chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…
Cách hiểu khái niệm thương mại nêu trên cũng tương đồng với cách hiểu trong một số Hiệp định
quan trọng của ASEAN, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại quốc tế gồm nhiều Hiệp định
cấu thành như Hiệp định GATT, GATS, TRIMP, TRIPS,...
Ở Việt Nam thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã hội và trong
nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, Trong một đạo Luật Thương mại. Năm 1990, Quốc hội
thông qua hai đạo luật rất quan trọng, đó là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai luật
này đã đưa ra một khái niệm mới trong khoa học pháp lý Việt Nam có liên quan nhiều đến việc
áp dụng pháp luật thương mại, đó là khái niệm “kinh doanh”. Khái niệm “kinh doanh” cũng
được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp 1999, theo đó “kinh doanh là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 3 Điều 2). Khái niệm này trong một
chừng mực nhất định có những điểm tương đồng với khái niệm thương mại theo nghĩa rộng
được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay và cũng được giải thích tại Luật mẫu về trọng tài
thương mại quốc tế của UNCITRAL năm 1985. Pháp lệnh trọng tài thương mại ra đời và có hiệu
lực ngày 1/7/2003 nêu rõ: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li
- xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại
khác theo quy định của pháp luật”. Song có thể nói, khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa
rộng này mới chỉ được tồn tại trong một văn bản pháp quy mang tính chất tố tụng (luật hình
thức) mà chưa tồn tại trong văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao mang tính nội
dung.
Sự ra đời khái niệm “kinh doanh” theo Luật Doanh nghiệp 1999, sự tồn tại khái niệm “kinh tế”
trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, cũng như khái niệm “thương mại” theo Pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003 đã tạo ra sự nhận thức khác biệt trong cách hiểu về “thương mại” so với
Luật Thương mại 1997. Phạm vi điều chỉnh rộng hẹp của khái niệm thương mại trong hệ thống
pháp luật nêu trên đã tạo ra sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc áp dụng các quy định pháp luật
về luật nội dung (Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
1989) cũng như luật tố tụng (Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003). Đặc biệt, điều này còn ảnh
hưởng đến quá trình Việt Nam thích ứng với các quy định và tập quán thương mại quốc tế. Có
thể nói đây là một trong những trở ngại lớn của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, cụ thể là việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như việc gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới.
Việc xác định phạm vi điều chỉnh theo diện hẹp của Luật Thương mại 1997 trên thực tế đã
phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực hiện các giao dịch thương mại mà còn ảnh
hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tiếp sau đó là việc công nhận và cho thi
hành các bản án, phán quyết của trọng tài nước ngoài. Thực tế cho thấy nhiều bản án của toà án
và phán quyết của trọng tài nước ngoài, đặc biệt là các vụ tranh chấp liên quan đến đầu tư, xây
dựng… đã không được thực thi ở Việt Nam do nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Thương
mại. Điển hình là vụ tranh chấp hợp đồng giữa hai công ty xây dựng đối với hợp đồng được ký
kết năm 1995 về việc xây dựng khu nghỉ mát tại miền Trung Việt Nam. Tranh chấp được đưa ra
Trọng tài tại Queensland, Australia và phán quyết trọng tài được đưa ra theo hướng có lợi cho
Công ty Tyco và sau đó được chuyển sang Việt Nam để đề nghị công nhận và cho thi hành.
Ngày 23/5/2002, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận phán quyết
trọng tài. Một trong các cơ sở chính được Công ty Leighton đưa ra để không công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài là quan hệ hợp đồng liên quan đến vụ tranh chấp là quan hệ xây dựng
và quan hệ này không phải là quan hệ thương mại theo các quy định của Luật Thương mại 1997.
Tháng 1/2003, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử lại
vụ việc và bác quyết định của Tòa sơ thẩm bởi lẽ các giao dịch trong hợp đồng 1995 liên quan
đến hoạt động xây dựng nhưng hoạt động xây dựng này lại không có bản chất thương mại theo
pháp luật Việt Nam thời điểm đó cũng như theo Luật Thương mại 1997 và do vậy, phán quyết
trọng tài không đủ điều kiện để được công nhận và thi hành tại Việt Nam.
Như vậy, vấn đề đặt ra là khái niệm thương mại cần phải được quy định rõ và thống nhất
trong đạo luật thương mại, theo đó phạm vi điều chỉnh của nó cần được mở rộng phù hợp với các
quy định và tập quán thương mại quốc tế.
Theo Luật thương mại của quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam số
36/2005/qh11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 quy định:
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác.
II. Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập
tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình
hình mới đó
Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát triển có cùng
trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như chúng ta, nhưng họ đã
gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt Nam sẽ là đối thủ cạnh tranh với các
nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ, EU… Để duy trì lợi
thế cạnh tranh, các nước này không muốn chúng ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng
ta gia nhập WTO. Vì vậy, trong quá trình đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần
khẳng định quyết tâm tham gia một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác,
đặc biệt là với các đối tác có tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục để
họ hiểu thực trạng kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển. Việt Nam
mong muốn giữ nguyên mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với
các điều khoản của WTO. Chính vì vậy, việc điều chỉnh hệ thống pháp luật của việt nam, đặc
biệt là pháp luật kinh tế làm sao cho phù hợp, thích ứng với su hướng toàn cầu, phù hợp với các
điểu khoản trong các hiệp ước quốc tế mà việt nam là thành viên.
Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là nước
đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế thị
trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời kinh tế tập trung bao
cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân
hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống
pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến
trình hoàn tất các thủ tục và đáp ứng các điều kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu
cầu về mở cửa thị trường do các thành viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức
đưa ra những cam kết thấp. Song song với việc đưa ra những cam kết trong thương thuyết.
Việt nam cần phải gấp rút chỉnh sửa hệ thống pháp lý cho phù hợp với cam kết, một loạt các văn
bản pháp luật được ban hành sau khi chỉnh sửa, quy định lại cho phù hợp với tiến bộ và hội nhập.
Mặc dù biết trước những khó khăn mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trước mắt và sau khi gia nhập
WTO. Nhưng vì lợi ích lâu dài, bền vững, cho dù có rất nhiều khó khăn, bất lợi. Nhưng việc Việt
Nam thành công sau các vòng đàm phán, việc việt nam được chính thức là thành viên của WTO
là một sự thành công lớn, mang nhiều cơ hội, lợi ích dài lâu cho nền kinh tế nước ta.
Khi chưa gia nhập WTO, Việt Nam như con thuyền nhỏ loanh quanh trong hệ thống sông
ngòi nội địa. Các quan hệ kinh tế thuần túy về buôn bán gói gọn trong quan niệm tiêu thụ hàng
hóa đơn thuần của một quốc gia có nền kinh tế đóng, ít các yếu tố luật pháp quốc tế. Chính vì thế
hệ thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế cũng thiếu sự bình đẳng,
khuyến khích đối với các yếu tố nước ngoài. Điều này là một trở ngại lớn đối với quá trình đàm
phán để Việt Nam gia nhập WTO.
Sau khi Việt nam thực hiện chính sách kinh tế mở, đổi mới tư duy về quan hệ và phát triển
kinh tế, tham gia nhiều hiệp ước quốc tế, là thành viên WTO. Những bất cập về chính sách kinh
tế đã bộc lộ sự không phù hợp, hệ thống pháp lý của Việt nam còn nhiều bật cập. Đặc biệt là hệ
thống pháp luật kinh tế còn quá nhiều bất ổn, không phù hợp. Không chỉ có sự bất phù hợp giữa
pháp luật Việt nam với các điều ước quốc tế, mà giữa các văn bản pháp luật trong nước cũng có
những điều khoản của bộ luật này vênh với những quy định trong bộ luật khác có liên quan với
nhau trong các hoạt động kinh tế cũng như trong hệ thống pháp lý. Chính điều đó, khi là thành
viên WTO, Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất đó là Luật Cạnh tranh;
Luật Thương mại; Luật Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi và luật về quyền
của nước thành viên như Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp… Những lĩnh
vực này cần phải hoặc là điều chỉnh, hoặc là ban hành mới cho phù hợp với các cam kết khi việt
nam là thành viên của các tổ chức thương mại quốc tế. Ngoài ra Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các
cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO cho dù các cam kết này có thể mâu thuẫn với
pháp luật hiện hành.
Để tham gia WTO, Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị để thích ứng với tình hình mới
đó như là :Việt Nam không những phải hoàn thiện khung luật pháp đáp ứng điều kiện của một
nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để đáp ứng các yêu cầu trên,
Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây dựng luật pháp để gia nhập WTO với hai phần:
luật phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên WTO (bắt buộc) như: Luật Cạnh tranh; Luật
Thương mại; Luật Đầu tư (không phân biệt đầu tư trong hay ngoài nước); Sở hữu trí tuệ, Bảo vệ
giống cây trồng, vật nuôi… và luật về quyền của nước thành viên (không bắt buộc) như Pháp
lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp… Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của
mình ngay sau khi gia nhập WTO cho dù các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện
hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam kết là khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong khi hệ
thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua, hoặc mới ban hành
nhưng chưa được áp dụng trong thực tiễn. Nhưng việt nam quyết tâm tuân thủ và cải thiện để
dáp ứng nhu cầu theo cam kết. Cụ thể như sau:
“Việt Nam là thành viên WTO: Việc thừa nhận tác động của những cam kết WTO lên hệ
thống pháp luật của Việt Nam thể hiện trước hết trong văn kiện của Quốc Hội: Nghị Quyết số
71/2006/QH 11 ngày 29/11/2006 của Quốc Hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định
thành lập Tổ chức Thương mai thế giới ( WTO) của nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Nghị
quyết đề cập đến nguyên tắc cơ bản trong việc công nhận và thực thi các điều ước quốc tế đã
cam kết. Đó là “Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định
của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì
áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài
liệu đính kèm”. Nghị Quyết cũng ghi nhận việc áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam
(được ghi tại Phụ lục đính kèm) và các cam kết khác của Việt Nam với WTO nếu những quy
định này đủ rõ, chi tiết. Bước đầu thực thi cam kết, Nghị Quyết của Quốc Hội yêu cầu Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm:
Rà soát các cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi
tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam
gia nhập WTO( nhưng chưa được ghi trong Phụ lục đính kèm Nghị quyết )để áp dụng trực tiếp
và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa
đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm
pháp luật thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO;
Trên cơ sở đánh giá những cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn, những tác động của
việc Việt Nam gia nhập WTO xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể và tổ chức
triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, đẩy mạnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Về luật và pháp lệnh trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: cần sửa đổi Luật thuế Tiêu thụ đặc
biệt để thực thi cam kết về thuế đối với rượu, bia;
Biểu thuế XNK cũng cần xem xét để có giải pháp phù hợp, đó là ban hành biểu thuế quan tối
huệ quốc thay cho biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành, đảm bảo phù hợp với hệ thống hài hoà
hoá ( HS) trong cam kết.
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ phải có văn bản liên ngành hướng dẫn một số vấn đề trong tố
tụng liên quan đến sở hữu trí tuệ; điều chỉnh các quy định trong Bộ Luật Hình sự và Luật Sở hữu
trí tuệ để đảm bảo các cam kết về biện pháp chế tài liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cần điều chỉnh các quy định trong Luật Điện ảnh, Pháp
lệnh Bưu chính viễn thông, Luật Doanh nghiệp.
Về quy định về tính minh bạch, công khai phải điều chỉnh một số quy định trong hai luật ban
hành Văn bản quy phạm pháp luật;
Về văn bản dưới luật phải ban hành một số văn bản quy định ở cấp bộ để hướng dẫn thi hành
các cam kết của VN đối với WTO.
Ngoài ra còn các văn bản cần được ban hành để thực thi quyền lợi của thành viên trong quan
hệ thương mại quốc tế với các nước.
Một vấn đề cũng đáng quan tâm trong quá trình hoàn thiện và xây dựng môi trường pháp lý
sau WTO là phải sửa đổi một số khái niệm pháp lý. Ví dụ, khái niệm thương mại, lâu nay quan
niệm của pháp luật Việt Nam thường hiểu theo nghĩa hẹp, tức là chỉ khu biệt trong các hành vi
như mua bán và các tác vụ có liên quan, trong khi đó theo quan niệm và các chuẩn mực quốc tế,
khái niệm thương mại được hiểu rất rộng. Luật Thương mại 2005 đã đưa ra một khái niệm rộng
về thương mại, theo đó thương mại được hiểu là toàn bộ những hoạt động sản xuất, mua bán,
dịch vụ và nói chung là toàn bộ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, phạm vi
điều chỉnh cụ thể của Luật Thương mại 2005 cũng còn tương đối hẹp; việc điều chỉnh các hành
vi khác như dịch vụ bảo hiểm, bưu chính viễn thông,…vẫn được điều chỉnh bởi các luật chuyên
ngành.
Quan niệm về hàng hoá, WTO không đưa ra khái niệm hàng hoá nhưng dựa vào quy định
của công ước của tổ chức hải quan thế giới về hệ thống hài hoà về mã số và mô tả hàng hoá(
công ước HS) để xử lý. Việt Nam đã tham gia công ước này, (có hiệu lực thi hành từ
01/01/2000) theo đó tất cả những sản phẩm cụ thể nào được liệt kê, mã hoá trong danh mục HS
thì được gọi là hàng hoá. Như vậy khái niệm về hàng hoá trong Luật Thương mại và Luật Hải
Quan cần phải điều chỉnh theo hướng này chứ không thể mô tả một cách chung chung như hiện
nay.
Quan niệm về dịch vụ; thương mại dịch vụ hiện nay pháp luật Việt Nam chưa định nghĩa
theo cách hiểu chung của WTO, theo đó mọi hoạt động hoặc sản phẩm được liệt kê, mã hoá và
mô tả trong bảng phân loại dịch vụ theo mã số đã đề cập đến trong GATS/WTO thì được gọi là
dịch vụ.”(1)
(1) Trích dẫn: “những điều cần biết về luật pháp trong quá trình hội nhập WTO của doanh nghiệp và các nhà
quản lý việt nam”
của TS LÊ VĂN HƯNG
Khoa Luật - ĐH Kinh tế TP. Hồ chí Minh.
III. Vụ án kinh tế điển hình tại Việt nam
Công ty TNHH Hoàng Long từ 1994 là một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xe tải và các
loại xe chuyên dùng khác. Giám đốc của công ty là ông Trần Phi Vân, đồng thời cũng là cổ đông
sáng lập và thành viên HĐQT của Tacombank. Trụ sở chính của Tacombank ở đường Hoàng
Văn Thụ, quận Tân Bình. Trong kinh doanh, phần lớn các hoạt động nhập khẩu của công ty
Hoàng Long được thực hiện thông qua việc mở L/C tại Tacombank để mua hàng trả chậm từ
Hàn Quốc. Do ảnh hưởng hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Công ty Hoàng Long
đã bị thua lỗ và gánh chịu những khản nợ như sau:
Nợ của Công ty Hoàng Long bao gồm nợ trong nước đối với Tacombank và nợ nước ngoài
đối với các nhà xuất khẩu Hàn Quốc. Nợ trong nước gồm 290.000 USD tiền bảo lãnh và 6 tỷ
đồng nợ vay tín dụng. Nợ nước ngoài là 1.872.093 USD, công ty đang đàm phán với các chủ nợ.
Lãnh đạo Tacombank trước đây vào năm 2000 đã đưa vụ việc khởi kiện ra Tòa Kinh tế Tòa
án Nhân dân TPHCM. Nhưng khi Tacombank thay tổng giám đốc mới vụ việc đã được đưa ra
nhờ luật hình sự xử lý.
Tháng 5/2002, khi Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TPHCM ra quyết định khởi tố vụ án
tại Tacombank cùng Công ty Hoàng Long, bà Trần Phương Mai, vợ ông Trần Phi Vân và là Phó
giám đốc công ty bị bắt tạm giam. Tháng 12-2003 Viện Kiểm sát Nhân dân TPHCM đã ra cáo
trạng truy tố bà Mai với ông Vân về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 11 cán bộ Tacombank về
tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Cáo trạng đã quy kết hành vi lừa đảo và cố ý làm trái trong vụ án thể hiện ở chỗ: Công ty
Hoàng Long đã không thực hiện thế chấp theo quy định mà thế chấp bằng các lô hàng nhập
khẩu, đồng thời dùng các thủ đoạn gian dối để nhận hàng bán thu tiền và chiếm đoạt. Tổng số
tiền mà Công ty Hoàng Long bị quy kết là đã chiếm đoạt của Tacombank lên tới trên 2 triệu
USD.
Thực tế, tính đến 30-1-2003, các khoản nợ cả USD và VNĐ của Công ty Hoàng Long đối với
Tacombank đã được trả xong. Nghĩa vụ trả nợ còn lại của Công ty Hoàng Long đối với chủ nợ
nước ngoài là1.872.093 USD đang tiếp tục được đàm phán, vì các đối tác này, cũng như
Hoàng Long, đã bị phá sản do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Theo thư đề
nghị ngày 23-7-2003 của chủ nợ là Công ty Kuk Sung (Hàn Quốc) thì tỷ lệ nợ đàm phán mà
Hoàng Long còn phải trả cho nước ngoài lúc này chỉ vào khoảng 20%, tương đương 360.000
USD, tức là phía nước ngoài đã giảm 80%, tương đương với 1.500.000 USD.
Trong khi đó, tài sản bảo đảm cho khả năng trả nợ nước ngoài của Công ty Hoàng Long lúc
này hiện có: tiền mặt 3,5 tỷ đồng, ngoại tệ 26.742 USD, một số tài sản khác đã qua giám định trị
giá gần 500 triệu đồng, quyền sử dụng đất trị giá trên 3 tỷ đồng đã có khách hàng ký hợp đồng
chuyển nhượng, cổ phần của Công ty Hoàng Long tại Tacombank trên 2 tỷ đồng. Như vậy, riêng
tổng giá trị bảo đảm cũng đã suýt soát 10 tỷ đồng, nếu tiến hành đàm phán trả nợ dứt điểm
360.000 USD, thì tài sản của Công ty Hoàng Long rõ ràng hoàn toàn bảo đảm.
Tòa án Nhân dân TPHCM đã có quyết định từ 26-8-2004 đưa ra xét xử vụ án “lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” và “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Tân Việt (Tacombank).
Nhận xét về vụ án:
• Đây là một tranh chấp kinh tế và là vụ án kinh tế đơn thuần. Như vậy, cần phải được giải
quyết theo các trình tự đã được xác định theo quan điểm của Luật Tố tụng kinh tế. Luật
thương mại có quy định Hình thức giải quyết tranh chấp như sau:
1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn
làm trung gian hoà giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ
tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.
Đ iều 29 Bộ luậ t tố tụng dân sự quy định Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có
đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Như vậy vụ án trên hoàn toàn có thể được đưa ra giải quyết tại tòa án theo luật dân sự.
• Hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”
Trong thực tế tài sản bảo đảm cho khả năng trả nợ của Công ty Hoàng Long lúc này hiện có:
tiền mặt 3,5 tỷ đồng, ngoại tệ 26.742 USD, một số tài sản khác đã qua giám định trị giá gần 500
triệu đồng, quyền sử dụng đất trị giá trên 3 tỷ đồng đã có khách hàng ký hợp đồng chuyển
nhượng, cổ phần của Công ty Hoàng Long tại Tacombank trên 2 tỷ đồng. Như vậy, riêng tổng
giá trị bảo đảm cũng đã suýt soát 10 tỷ đồng, nếu tiến hành đàm phán trả nợ dứt điểm 360.000
USD tương đương với 5,5 tỷ VNĐ lúc này, thì tài sản của Công ty Hoàng Long rõ ràng hoàn
toàn bảo đảm.
Theo quy định hiện hành, chỉ khi nào Công ty Hoàng Long không trả được 360.000 USD này thì
Tacombank mới trả thay theo trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
đó, Tacombank chưa dùng một đồng nào trả thay cả, thì sao gọi là bị tổn thất bởi Công ty Hoàng
Long được.
Như vậy, việc truy tố các cán bộ của Tacombank về tội danh cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm
trọng liệu có quá nặng? Công ty Hoàng Long vẫn có khả năng trả hết nợ nước ngoài thì có gọi là
lừa đảo không?
• Việc đưa vụ án kinh tế này ra truy tố hình sự có phù hợp không ?
Đây là vụ án kinh tế đơn thuần. Bị can đã bị tạm giữ gần 2 năm. Gia đình bị can về cơ bản đã
khắc phục xong hậu quả. Theo Bộ luật Hình sự sửa đổi, có thể cho bị can tại ngoại và tiếp tục
khắc phục nốt hậu quả”.Trong khi đó, Tacombank chưa phải trả thay một đồng nào cả, vậy thì
chưa bị tổn thất bởi Công ty Hoàng Long. Tại sao lại không giải quyết theo tranh chấp thương
mại mà lại hình sự hóa một vụ án kinh tế.
• Kết Luận về vụ án
Tại thời điểm lúc bấy giờ, sau khi vụ án được đưa ra tòa hình sự để giải quyết. Đã có rất nhiều
ý kiến cho rằng “đây là vụ án kinh tế bị hình sự hóa. Điều đó gây ra những băn khoăn trong dư
luận, giới doanh nghiệp và cả đội ngũ cán bộ tài chính - ngân hàng”
Theo ý kiến cá nhân:
Tranh chấp là đặc trưng tất yếu của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nhưng
hầu hết các doanh nghiệp có tâm lý ngại ra toà vì việc giải quyết án kinh tế phải trải qua nhiều
cấp xét xử, trình tự chậm trễ
Nguyên nhân gây ra việc đem một vụ án kinh tế ra tòa hình sự như trong vụ án trên là do
trình độ cán bộ tố tụng chưa đáp ứng được yêu cầu, nên có thể đã cho rằng giữa tội phạm với
hành vi vi phạm pháp luật dân sự là như nhau.
Đây là vụ án kinh tế đơn thuần. bị can đã bị tạm giữ gần 2 năm. Có thể quan điểm giữa Viện
Kiểm sát và Cơ quan Điều tra vẫn còn khác nhau ở một số nhận định về chứng cứ buộc tội, trong
khi gia đình bị can về cơ bản đã khắc phục xong hậu quả. Đúng ra nên giải quyết vụ việc này
theo quan điểm của vụ án dân sự, giải quyết bằng luật trọng tài thương mại thì đúng ý nghĩa hơn.
Việt nam đã là thành viên WTO, thiết nghĩ trong quá trình tố tụng, suy cho cùng, bản chất
của tố tụng dù nó là tố tụng gì đi nữa cũng là góp phần đi tìm công lý. Bảo vệ công lý chính là
việc áp dụng pháp luật đúng lẽ phải và phù hợp với lương tâm, nếu không, chỉ gây ra khổ đau,
thiệt hại cho những người bị hàm oan. Sâu xa hơn nữa, việc giải quyết các quan hệ kinh tế – dân
sự bằng hình sự sẽ gây tổn hại trầm trọng đến môi trường đầu tư, phát triển của đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baitieuluan_6589.pdf