Đề tài Những rủi ro từ cạnh tranh trong thị trường Viễn thông Việt Nam

Đây là một loạt bài tiểu luận nhóm của lớp mình môn Quản trị rủi ro . Chúc bạn thu được những kiến thức bổ ích. File word - 32 trang LỜI MỞ ĐẦU Thị trường Viễn thông Việt Nam được đánh giá là thị trường có tốc độ phát triển nhanh trên thế giới. Do đó, viễn thông đã trở thành một thị trường hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, và hơn nữa khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Cũng chính vì sự hấp dẫn này mà kéo theo nhiều người muốn gia nhập thị trường, từ đó tạo nên tính cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thị trường viễn thông sẽ không còn dễ chơi như thưở ban đầu mà trở nên cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp để tranh giành thị phần. Trong cuộc đua quyết liệt này, doanh nghiệp viễn thông sẽ khó tránh khỏi những rủi ro do thị trường cạnh tranh mang lại. Vì vậy quản trị rủi ro là công tác cần thiết mà các doanh nghiệp cần thực hiện tốt để phòng ngừa những rủi ro tránh những tổn thất mà mình phải gánh chịu. Trước vấn đề này nhóm chúng tôi chọn đề tài “ Những rủi ro từ cạnh tranh trong thị trường Viễn thông Việt Nam”. Mục đích nghiên cứu: trong đề tài này, chúng em sẽ nhận diện một số rủi ro trong môi trường cạnh tranh của thị trường viễn thông và đề ra một số giải pháp trong quản trị rủi ro. Phạm vi nghiên cứu: Thị trường Viễn thông Việt Nam, và đặc biệt là thị trường di động. Vì do khó khăn trong cập nhật số liệu, nên nhóm chúng tôi chỉ có thể đưa ra những con số thống kê, tính toán trong trong năm 2008. Phương pháp nghiên cứu: vì lý do về thời gian, nên nhóm chúng tôi chỉ nghiên cứu trên thông tin thứ cấp. Kết cấu đề tài: I- Rủi ro và quản trị rủi ro II- Thị trường Viễn thông Việt Nam III- Những rủi ro từ môi trường cạnh tranh IV- Giải pháp

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4217 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những rủi ro từ cạnh tranh trong thị trường Viễn thông Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hụp giật, lừa đảo, dối trá... sẽ thống trị. Thứ tư là các rủi ro từ môi trường chính trị, nơi thiếu các thiết chế để bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu tài sản của người dân nói chung, doanh nghiệp nói riêng. Môi trường chính trị bao gồm sự ổn định về chính trị, an ninh, an toàn cho doanh nghiệp, người dân. Một quốc gia thường xuyên thay đổi chính sách, thường xuyên có đảo chính, chiến tranh, bạo loạn, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bãi công. đình công, thường xuyên có sự can thiệp thiếu chuẩn mực vào thị trường, chính sách bị các nhóm lợi ích mờ ám chi phối, phân biệt đối xử, tham ô, hối lộ trầm trọng... đều gây nguy cơ rủi ro cho các doanh nghiệp khiến họ thiếu niềm tin kinh doanh, mất động lực đầu tư hoặc tệ hại hơn, kinh doanh theo kiểu băng đảng maphia, băng hoại nhà nước, gây hại cho cả nền kinh tế, xã hội. Thứ năm là các rủi ro từ môi trường kinh tế. Một nền kinh tế khoẻ là một nền kinh tế có sức đề kháng cao, có khả năng giải quyết khủng hoảng một cách tốt nhất theo hướng minh bạch, chi phí thấp, tính bền vững cao. Một môi trường kinh tế, nơi thường xuyên có khủng hoảng, lạm phát triền miên, giá cả thất thường, cung cầu bất ổn, tỷ giá thay đổi chóng mặt, hàng hóa dịch vụ khan hiếm (thật và giả), độc quyền không kiểm soát được, cạnh tranh công bằng chỉ nằm trên giấy... cùng với việc thiếu năng lực kỹ trị hoặc sự công tâm của công quyền đều được coi là những rủi ro lớn cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, xét từ một góc độ khác, các thách thức đến từ một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, sự thay đổi mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. của công nghệ thông tin cũng sẽ là những rủi ro cho những doanh nghiệp thiếu khả năng thích ứng với đổi mới. Thứ sáu là các rủi ro có nguyên nhân từ môi trường pháp lý thiếu minh bạch trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây cũng là hiểm họa của kinh doanh lành mạnh. Một hệ thống văn bản pháp luật được ban hành với sự tham gia có hiệu quả của cộng đồng doanh nghiệp, theo các tiêu chí bền vững, thống nhất, thân thiện, công bằng, dễ áp dụng; một hệ thống hành pháp hoạt động theo phương châm hỗ trợ, thúc đẩy và phục vụ kinh doanh; một hệ thống tư pháp đáng tin cậy, tôn trọng công lý, bảo đảm pháp luật thực thi hiệu quả cùng với một xã hội thượng tôn đạo đức, pháp luật sẽ là một môi trường lý tưởng để khuyến khích đầu tư và phát triển doanh nghiệp. Ngược lại, nơi pháp luật bất nhất, mâu thuẫn, chồng chéo, thay đổi đột ngột, mờ ám, thực thi pháp luật thiếu minh bạch, công khai, hiệu quả, việc áp dụng pháp luật thiếu công bằng, khách quan, các quyền sở hữu tài sản, quyền bảo vệ hợp đồng hoặc luôn bị xâm hại hoặc chi phí quá cao... đều là nguồn gốc rủi ro, gây thiệt hại nặng nề cho doanh nghiệp. Thứ bảy là các rủi ro đến từ các đối tác của doanh nghiệp. Họ có thể là các nhà đầu tư, góp vốn liên doanh, liên kết, là bạn hàng của doanh nghiệp. Họ đến từ đâu? Họ có đáng tin cậy về đạo đức, kỹ năng, kinh nghiệm, tài chính, pháp luật, quản trị doanh nghiệp không? Thiết lập quan hệ với họ, dù chỉ một lần, như lời ông bà khuyên "phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông". Hiểu và tin nhau đã rồi mới nói đến việc thương thuyết, ký kết, thực hiện hợp đồng trong đó, mỗi công đoạn đều rình rập những rủi ro mà doanh nghiệp cần phải tính đến như: mâu thuẫn trong các điều khoản, chọn luật, thanh toán và thuế, chuyển quyền sở hữu và rủi ro, các biện pháp khắc phục và xử lý vi phạm, giới hạn trách nhiệm, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và giải quyết tranh chấp hợp đồng... Thứ tám là các rủi ro đến ngay từ chính trong nội bộ doanh nghiệp như thái độ của doanh nghiệp đối với rủi ro, sai lầm trong chiến lược kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, sự yếu kém của cán bộ quản lý và nhân viên, thiếu đạo đức và văn hóa kinh doanh, thiếu động cơ làm việc, thiếu đoàn kết nội bộ ... Tôn Tử nói: biết mình biết người, trăm trận trăm thắng". Ba rủi ro có thể đến: thứ nhất là chỉ biết mình mà không biết người, thứ hai là chỉ biết người mà không biết mình và cuối cùng, không biết cả mình lẫn người. Để "biết mình", điều quan trọng nhất là thường xuyên tự kiểm tra và kiểm tra đối chứng hệ thống quản trị doanh nghiệp của mình có hiệu quả không, có minh bạch không. Quản trị doanh nghiệp là toàn bộ các điều lệ, quy tắc, quy chế, thông lệ quản lý và điều hành doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp tốt sẽ giúp các chiến lược, quyết định của doanh nghiệp được ban hành sáng suốt nhất, thực thi hiệu quả nhất, loại trừ được rủi ro tốt nhất. Quản trị doanh nghiệp tốt bảo đảm phát huy hết nguồn lực (nhân lực/ vật lực) trong doanh nghiệp đồng thời sớm phát hiện được "bệnh" của chính mình. Nhận dạng phân loại rủi ro của doanh nghiệp như trên đây cũng chỉ là tương đối. Thực tế có sự ảnh hưởng dây chuyền giữa các nguyên nhân gây rủi ro. Và như lời người xưa nói “Có chí làm quan, có gan làm giàu”. Gan ở đây không phải là liều lĩnh, liều mạng mà là gan biết "sống chung" với rủi ro, biết chấp nhận, biết phòng tránh và hạn chế tác hại của nó có hiệu quả. 2.Quản trị rủi ro: a- Định nghĩa: Quản lý rủi ro là một quá trình xem xét đánh giá toàn diện các hoạt động của doanh nghiệp để nhận biết những nguy cơ tiềm ẩn có thể tác động xấu đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp ứng phó, phòng ngừa phù hợp tương ứng với từng nguy cơ. Chúng ta cũng có thể hiểu quản lý rủi ro là một quá trình được tổ chức một cách chính thức và được thực hiện liên tục để xác định (identify), kiểm soát (control) và báo cáo (report) các rủi ro có thể ảnh hưởng đến việc đạt được những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình quản trị rủi ro b- Yêu cầu đối với hoạt động quản lý rủi ro: Để đảm bảo hoạt động Quản lý rủi ro thực hiện được mục tiêu đã định, việc tổ chức thực hiện phải đảm bảo các yêu cầu sau: +Nâng cao nhận thức về rủi ro cũng như khả năng ứng phó với rủi ro một cách phù hợp trong toàn doanh nghiệp; +Chính thức hóa quá trình quản lý rủi ro; +Xây dụng qui trình quản lý rủi ro thống nhất trong doanh nghiệp; +Minh bạch hóa các rủi ro; +Đưa quản lý rủi ro thành một phần chính thức trong hệ thống kiểm soát nội bộ chung; Thực tế cho thấy, hoạt động quản lý rủi ro được tổ chức tốt và vận hành hiệu quả sẽ góp phần tăng thêm giá trị cho doanh nghiệp, cụ thể là: +Giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tạo lợi thế cạnh tranh; +Góp phần phân bổ và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh nghiệp; +Giảm thiểu những sai sót trong mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp… c- Chính sách quản lý rủi ro và triển khai thực hiện: Để thiết lập hệ thống quản lý rủi ro, doanh nghiệp cần bắt đầu từ việc xây dựng Chính sách quản lý rủi ro. Chính sách này sẽ xác định rõ phương pháp tiếp cận đối với rủi ro và quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, chính sách quản lý rủi ro cũng qui định rõ trách nhiệm đối với quản lý rủi ro xuyên suốt doanh nghiệp, đối với: Ban Giám đốc; Các đơn vị trực thuộc; phòng ban; Bộ phận quản lý rủi ro (nếu có); Bộ phận Kiểm toán nội bộ - kiểm soát nội bộ. Việc triển khai hoạt động quản lý rủi ro cần gắn liền với Chiến lược kinh doanh, Kế hoạch ngân sách hàng năm và các chu trình nghiệp vụ trong doanh nghiệp. Trong quá trình triển khai hoạt động quản lý rủi ro, doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến việc chuẩn bị bố trí và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Các nguồn lực cần thiết cho hoạt động quản lý rủi ro phải được thiết lập tại từng cấp quản lý và trong từng đơn vị. Kinh nghiệm từ thực tế cho thấy, để hệ thống quản lý rủi ro thực sự hoạt động, cần đảm bảo các yêu cầu sau: · Cam kết của Ban lãnh đạo cấp cao đối với hoạt động quản lý rủi ro; · Phân công trách nhiệm rõ ràng trong doanh nghiệp đối với hoạt động quản lý rủi ro; · Cần đảm bảo phân bổ hợp lý các nguồn lực cho họat động đào tạo và nâng cao nhận thức về rủi ro; · Đặc biệt là việc thực thi, tuân thủ chính sách quản lý rủi ro. Tại nhiều doanh nghiệp, việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro được đưa vào hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện công việc của nhân viên (KPIs). d- Quy trình quản lý rủi ro: Về cơ bản, quy trình quản lý rủi ro thường bao gồm các bước công việc cơ bản như: xác nhận mục tiêu của doanh nghiệp, xác định rủi ro, mô tả và phân loại rủi ro, đánh giá và xếp hạng rủi ro, xây dựng kế hoạch ứng phó, lập báo cáo cập nhật tình hình thực thi, giám sát quá trình thực hiện, rà soát và cải tiến quy trình quản lý rủi ro. Chi tiết về một số bước chính trong quy trình quản lý rủi ro như sau: *Xác nhận mục tiêu của doanh nghiệp Hoạt động quản lý rủi ro được tổ chức và triển khai nhằm hướng tới việc đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy, khi bắt đầu quá trình quản lý rủi ro, công việc đầu tiên Ban lãnh đạo doanh nghiệp cần thực hiện là xác nhận các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đây sẽ là cơ sở đảm bảo hoạt động quản lý rủi ro được tổ chức đúng hướng. *Xác định rủi ro Có rất nhiều phương thức để xác định rủi ro. Mỗi phương thức đều có ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên, thông thường người ta sử dụng các phương thức sau để xác định rủi ro: · Tổ chức Hội thảo đánh giá rủi ro; · Tổ chức họp "Tấn công trí não"; · Thông qua Phiếu điều tra; · Thông qua hoạt động Kiểm toán và kiểm tra; · Dựa trên mức chuẩn của ngành; · Thông qua Phân tích các tình huống… Trên thực tế, phương thức xác định rủi ro được sử dụng nhiều nhất là tổ chức Hội thảo đánh giá rủi ro. Tham dự Hội thảo bao gồm Ban Giám đốc và lãnh đạo của tất cả các phòng ban trong doanh nghiệp, Các thành viên tại hội thảo sẽ cùng trao đổi để đưa ra một danh sách các rủi ro doanh nghiệp cần lưu tâm. Trong nhiều trường hợp, kết quả của quá trình xác định rủi ro là một danh sách dài các rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên, điều này cũng không đáng phải quá lo lắng vì với việc thực hiện các bước tiếp theo của quy trình quản lý rủi ro sẽ giúp nhận diện rõ ràng những rủi ro nào là mối nguy cơ thật sự lớn đối với doanh nghiệp. *Mô tả và phân loại rủi ro Sau khi xác định được các rủi ro tiềm ẩn, việc tiếp theo cần làm đó là mô tả một cách ngắn gọn nhưng cụ thể về nguồn gốc, căn nguyên và hệ quả, tác động của từng rủi ro đối với doanh nghiệp. Tiếp theo, chúng ta sẽ thực hiện việc phân loại rủi ro. Có nhiều loại rủi ro khác nhau tiềm ẩn đối với doanh nghiệp. Chúng có thể có nguồn gốc ngay bên trong doanh nghiệp hoặc từ bên ngoài. Dựa trên bản chất của các rủi ro, người ta có nhiều cách phân loại rủi ro. Tuy nhiên, phổ biến nhất là việc phân loại rủi ro thành 04 nhóm như sau: Rủi ro tài chính: Lãi suất, tỷ giá hối đoái, nguồn tín dụng, dòng tiền và khả năng thanh toán…; Rủi ro chiến lược: Cạnh tranh, thay đổi của khách hàng, thay đổi của ngành, rủi ro đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển, sở hữu trí tuệ…; Rủi ro hoạt động: Bộ máy lãnh đạo, rủi ro về văn hóa doanh nghiệp, vi phạm quy chế quản lý, kiểm soát tài chính, hệ thống thông tin…; Rủi ro nguy hiểm: Rủi ro về môi trường, nhà cung cấp, thiên tai, rủi ro đối với tài sản, các hợp đồng, sản phẩm và dịch vụ… Việc phân loại rủi ro như trên giúp doanh nghiệp quản lý rủi ro một cách có hệ thống và có cái nhìn tổng thể, toàn diện hơn về rủi ro trong mọi mặt hoạt động. *Đánh giá và xếp hạng rủi ro Nguồn lực của doanh nghiệp là có hạn trong khi số lượng các rủi ro là rất lớn. Vì vậy, bước tiếp theo sau khi lập được bản danh sách các rủi ro tiềm ẩn, chúng ta sẽ tổ chức đánh giá và xếp hạng các rủi ro theo mức độ cần ưu tiên ứng phó. Để thực hiện việc xếp hạng rủi ro, doanh nghiệp sẽ phân tích, đánh giá từng rủi ro theo 2 tiêu chí: khả năng xảy ra của rủi ro và mức độ ảnh hưởng của rủi ro đến doanh nghiệp nếu xảy ra. Để làm căn cứ xếp hạng rủi ro, thông thường người ta sẽ thực hiện việc cho điểm đối với từng rủi ro theo cả 2 tiêu chí. Dựa trên kết quả cho điểm rủi ro, các rủi ro sẽ được xếp hạng theo thứ tự ưu tiên giảm dần. Rủi ro mà doanh nghiệp cần ưu tiên ứng phó, phòng ngừa là những rủi ro mà khả năng xảy ra cao và mức độ ảnh hưởng lớn như minh họa trong bảng sau: Thông thường thì chỉ 10-20 rủi ro có thứ hạng cao nhất sẽ được doanh nghiệp ưu tiên lên kế hoạch và tổ chức ứng phó. Số lượng cụ thể tùy theo mức độ sử dụng các nguồn lực và quy mô, tiềm lực của doanh nghiệp. * Xây dựng kế hoạch ứng phó Xây dựng kế hoạch ứng phó là giai đoạn quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro. Tại giai đoạn này doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát cụ thể cần thực hiện để phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại nếu rủi ro xảy ra. Điều quan trọng ở đây là doanh nghiệp đưa ra được các biện pháp khả thi, hữu hiệu và ít tốn kém. Có 3 nội dung phải được xác định cụ thể đối với từng rủi ro khi xây dựng kế hoạch ứng phó, đó là: 1. Những biện pháp phải thực thi để phòng chống, ngăn ngừa rủi ro xảy ra; 2. Thời hạn cụ thể phải thực hiện xong các biện pháp đã đưa ra; và 3. Ai là sẽ người chịu trách nhiệm chính quản lý rủi ro đó. * Tổ chức giám sát việc thực hiện các biện pháp Trong quá trình thực thi các biện pháp ứng phó, doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống báo cáo thường xuyên nhằm đảm bảo kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện. Doanh nghiệp cũng cần đảm bảo mọi thiếu sót trong việc thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro phải được thông tin kịp thời đến cấp quản lý có trách nhiệm. Thường xuyên tổ chức kiểm tra và đánh giá việc tuân thủ chính sách quản lý rủi ro và các tiêu chuẩn liên quan. Môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động là không ngừng vận động, do vậy doanh nghiệp cần quan tâm xem xét điều chỉnh các biện pháp đang thực hiện cho phù hợp với những chuyển biến của môi trường. Định kỳ, doanh nghiệp cần xem xét lại mức độ phù hợp của danh sách các rủi ro cùng với biện pháp ứng phó tương ứng. Tóm lại, để thiết lập được một hệ thống quản lý rủi ro hoạt động hiệu quả, bên cạnh việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp phải cam kết ủng hộ việc triển khai, đảm bảo không tồn tại khái niệm "vùng cấm" trong doanh nghiệp, những khu vực không được tiếp cận đánh giá, kiểm soát. Đồng thời, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải thật sự coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền và đào tạo để xây dựng văn hóa quản lý rủi ro đến mọi đối tượng trong doanh nghiệp. Đã đến lúc các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn nhận một cách nghiêm túc về vai trò của hoạt động quản lý rủi ro, cân nhắc thiết lập và duy trì một hệ thống quản lý rủi ro trong doanh nghiệp của mình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, một khi rủi ro được dự báo trước, doanh nghiệp hoàn toàn có thể xây dựng và triển khai những kế hoạch ứng phó hiệu quả và phát triển bền vững. II- THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM: 1. Thị trường Viễn thông Việt Nam: Thị trường viễn thông Việt Nam hiện là khu vực phát triển nhanh thứ hai trên thị trường viễn thông Châu Á, với khoảng 14 triệu thuê bao trong các dịch vụ viễn thông và hơn 10 triệu người sử dụng Internet. Nếu xét trong khu vực thì ngành viễn thông Việt Nam đang dẫn đầu ở khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu từ Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2008, tốc độ phát triển thuê bao điện thoại của Việt Nam tăng mạnh, Năm 2008, ngành Viễn thông Việt Nam đã chứng kiến những con số khá ấn tượng, tổng số thuê bao điện thoại trên toàn mạng là 82,25 triệu máy tăng 100% so với năm 2007, thuê bao di động chiếm 85.5%, mật độ điện thoại là 97,5 máy/100 dân. Toàn quốc có trên 20,67 triệu người sử dụng Internet đạt mật độ 24,20%. Tổng số thuê bao băng rộng đạt 2 triệu. Doanh thu Bưu chính – Viễn thông năm 2008 đạt 92.445 tỷ đồng, tăng gần 38% so với năm 2007. Biểu đồ tổng doanh thu ngành viễn thông Nguồn MIC a- Thị trường di động: Thị trường di động là thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất trong ngành viễn thông ở Việt Nam. Được đánh giá là thị trường phát triển nhanh nhất và nóng nhất trong khu vực và thế giới. Với sự phát triển không ngừng của hạ tầng, công nghệ, đặc biết là số lượng doanh nghiệp tham gia ngành ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp đua nha cạnh tranh về giá, khuyến mãi và dịch vụ gia tăng nhằm thu hút khách hàng. Doanh thu thị trường mạng di động Nguồn MIC Có được thông tin đáng tin cậy về số lượng thuê bao di động bời 6 nhà cung cấp dịch vụ di động ở Việt Nam là một thách thức. Thực tế thì bộ văn hóa và thông tin(MIC) đã cam kết thực hiện một cuộc điều tra để xem xét liệu các Sim điện thoại có đang ở tình trạng hoạt động hay không. Để minh chứng cho sự rối rắm này, cả Vietel và Mobifone đều dẫn ra những nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu. Theo một nghiên cứu tham khảo , Vietel mạng điện thoại được sở hữu bởi quân đội Việt nam đang dẫn đẩu thị trường với 29% thị phần,x ếp trên Mobifone và Vinafone với thị phần lần lượt là 28% và 25%. Cả Vinafone và Mobifone được sở hữu bởi VNPT. Cùng với nhau, 3 nhà cung cấp dịch vụ di động GSM thống trị 82% thị trường tính đến cuối 2008. Số lượng thuê bao CDMA đạt đến 6 triệu tính đến cuối năm 2007, vượt lên hẳn so với mức 2 triệu cuối năm 2006. . Vinafone đang nhắm đến việc mở rộng 5000 trạm thu phát( BTSs), để có thể đạt đến mục tiêu 900 BTs vào năm 2008 và kí kết được hợp đồng với Vendor Aircom international của Anh vào 5/2008 để cung cấp lập kế hoạch mang lưới và dịch vụ thiết kế. Tháng 12, 2007, VNPT công bố thành lập một hiệp hội với Motorola để nâng cao mạng lưới GSM của vinafone ở các thành phố lớn bao gồm Hà Nội và TPHCM.Theo thoả thuận này, Motorola sẽ đưa vào hoạt động 650 cell sites và cung cấp dịch vụ bảo trì. Motorola cũng hiểu rằng cộng tác với Vinafone để mở rộng độ phủ sóng của GPRS và cung cấp dịch vụ EDGE ở những khu vực quốc tế. Mobifone đã phát biểu rằng vào 2008, nó mong đợi sẽ kiếm được doanh thu 16 nghìn tỉ VND( 1 tỉ USD) và lợi nhuận 6,65 nghìn tỉ VND. Để đạt được những mục tiêu trên, công ty sẽ tiếp tục mở rộng độ phủ sóng và nâng cao chất lượng dịch vụ ở khắp các thành phố trong cả nước. Nó cũng đặt ra kế hoạch gia tăng số lượng của BTS lên đến 10 ngàn vào cuối 2008. Ngoài ra, vào 12/2007, cà Mobifone và Vinafone bắt đầu giảm giá cước cuộc gọi từ 25 – 28 % để bảo vệ và mở rộng thị phần. Theo đó phí hoạt động cho những thuê bao di động trả sau giảm từ 136 364 VND xuống còn 109 000 VND, trong khi phí dịch vụ hàng tháng vẫn giữ ở mức 54 545 VND. Phí cuộc gọi giảm 20% cho thuê bao trả sau trong hki thuê bao trả trước phí giảm xuống gần 30%. Trong khi đó, công ty dịch vụ viễn thông của Nauy Telenor tiếp tục chuẩn bị cho quá trình thâm nhập thị trường di động ở Việt Nam. Công ty đã có một văn phòng đại diện di động ở Việt Nam từ năm 2005 và hi vọng chínhphủ Việt Nam có thể sớm mở cửa thị trường và cho phép nó sở hữu cổ phần trong Mobifone. Mobifone đang chuẩn bị cho việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng khoảng 1/3 công ty với chính phủ nắm giữ 33,3 % cổ phần và 1/3 còn lại thuộc về một nhà đầu tư chiến lược. Đây có thể xem như là một trong hnững quá trình tư hữu hoá đầu tiên trong nội bộ ngành viễn thông ở Việt Nam. Trong khi Telenor có thể muốn tham gia thì STT cũng vậy, STT sở hữu 15 % cổ phần của Asia Mobile Holdings và nắm giữ 40% cổ phần của nhà cung cấp dịch vụ di động đứng thứ 2 của Indonexia Indosat.STT mong đợi việc bán cổ phần của Mobifone vốn được dự kiến diễn ra 2008 sẽ được dời lại đến 2009. Tháng 1/2008, bộ Văn hoá và thông tin công bố đã sẵn sàng để cấp phép kinh doanh cho Global telecom comperation ( GTel) để cung cấp dịch vụ di động. G tel được ủng hộ bởi người khổng lồ Vimpelcom của Nga. Công ty đã công bố chuẩn bị đầu tư 1 tỉ đô la vào mạng di động G Tel trong một vài năm tới. Đại diện của Bộ văn hoá và thông tin xác nhận đã cho phép cung cấp dịch vụ di động GSM. Và Gtel sẽ được vấp phép để sự dụng tần số 1 800 MHz . Với sự cho phép này, thương hiệu Beeline đã ra đời. Và đây là đối thủ nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Mở đầu cho sự tiến vào của các doanh nghiệp nước ngoài. Mặc dù Vietel, Mobifone và Vinafone đang thống lĩnh thị trường di động, 3 nhà cung cấp dịch vụ CDMA của Việt Nam gần đây đã ban hành các chính sách để mở rộng thị phần. Tuy nhiên, một trong những nhà cung cấp dịch vụ CDMA, HT Mobile vào tháng 4/2008, bắt đầu chuyển khách hàng từ sử dụng mạng CDMA sang sử dụng công nghệ GSM( nếu khách hàng lựa chọn vẫn sử dụng CDMA, họ sẽ chuyển qua dùng mạng của S – fone.) Những khách hàng sử dụng HT mobile sẽ nhận được thiết bị kết nối GSM mới. Sau khi chuyển đổi sang mạng GSM, HT mobile cùng đối tác Hutchison Telecom đến từ Hồng Kong cho ra thương hiệu Vietnamobile. Đầu năm 2010, liên doanh giữa Sài gòn Postel - SPT và Sk Telecom Hàn Quốc chính thức tan rã. SK Telecom và SPT đã ra mắt dự án mạng di động S-Fone với vốn đầu tư ban đầu là 230 triệu USD vào năm 2001 để cung cấp dịch vụ di động CDMA ở Việt Nam. Đến nay S-Fone, là một trong hai nhà cung cấp dịch vụ di động công nghệ CDMA duy nhất ở VN cùng với EVN Telecom, hiện có 7,3 triệu thuê bao, chưa được 10% thị phần di động ở Việt Nam. Mức độ hấp dẫn của thị trường di động Việt Nam được khẳng định xa hơn bởi động thái của nhà sản xuất chất bán dẫn Hà Lan NXP, công ty đã mở một văn phòng đại diện tại đây. Nó hy vọng được làm việc với đối tác địa phương để sản xuất ra những thiết bị di động có giá 30 đô la. Trong khi đó, cuộc cạnh tranh giữa các nhà sản xuất di động diễn ra rất quyết liệt với Nokia, Samsung, Motorola, Sonyerison và Ben Q Siemen, tất cả đều đấu tranh để gia tăng thị trường. Cạnh tranh còn diễn ra quyết liệt hơn bởi sự giảm giá của các thiết bị di động, bởi vì điện thoại di động không còn là biểu tượng xa xỉ nữa. Trong thực tế, Nokia đang dẫn đầu thị trường bằng việc giới thiệu một loạt điện thoại giá rẻ đặc biệt là khu vực nông thôn ở Việt Nam. Dự đoán sẽ có hơn 56 triệu thuê bao di động tính đến cuối năm 2009, ứng với mức độ thâm nhập là 67.8%. Điều này tương ứng với sự gia tăng thêm hơn 20 triệu trong vòng 12 tháng và tốc độ tăng trưởng 58% mỗi năm. Nhìn vào biểu đồ ở trên, dự kiến VN sẽ vượt qua ngưỡng thâm nhập 100% vào năm 2011 và sẽ kết thúc vào năm 2012 với gần 111 triệu thuê bao. Trong khi đó, sự triển khai thương mại của dịch vụ di động “thế hệ thứ ba” (3G) sẽ xuất hiện vào năm 2008. Chúng ta không kỳ vọng nhu cầu của khách hàng với dịch vụ này là cao trong những giai đoạn đầu và ước lượng khoảng 700000 thuê bao trong năm vận hành đầu tiên. Chi phí cũng như khả năng tiếp cận với các thiết bị tương thích 3G được xem như cản trở chính đối với sự phát triển của 3G trong những giai đoạn đầu của sự phát triển. Tuy nhiên, với sự đẩy mạnh sự phát triển 3G của chính phủ Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng nhu cầu tiêu dùng mạnh mẽ sẽ diễn ra vào những năm cuối của thập kỷ.. với dự đoán sẽ có hơn 4 triệu khách hàng sử dụng 3G tính đến cuối năm 2012, tương đương với 7.5% người sử dụng di động của Việt Nam. Cạnh tranh cũng như tăng trưởng trong năm 2008 sẽ được đẩy mạnh đợt cắt giảm thuế. Sự cắt giảm xa hơn có thể diễn ra trong tương lai gần và điều này có thể dẫn đến cuộc chiến về giá trong nội bộ ngành. Giá cả của dich vụ di động rẻ hơn sẽ kích tích sự phát triển của việc sở hữu 2 SIM, người sử dụng di động ngày càng tận dụng được những tiện ích đặc biệt này. Ngược lại, giá cả thấp hơn cũng làm gia tăng lượng khách hàng và một lường lớn thuê bao trả trước không hoạt động. Trong khi đó, trong suốt năm 2008, những nhà cung cấp mạng di động của Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới của họ, dẫn đến tác động tích cực lên chất lượng cũng như mức độ bao phủ của dịch vụ. Chúng ta trông chờ vào sự xuất hiện của các nhà đầu tư chiến lược vào thị trường di động của Việt Nam, như NTT DoCoMo của Nhật, Telenor của Na Uy, SingTel và France Telecom thể hiện sự quan tâm đến việc đầu tư vốn vào MobiFone, thông qua viêc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của công ty (IPO). b. Thị trường mạng cố định: VNPT đã có thêm 1.08 triệu thuê bao cố định vào năm 2007, đưa tổng số người dùng lên 8.8 triệu cùng 2.64 triệu khách hàng sử dụng dịch vụ cung cấp bởi Viettel và SPT, và phản ánh múc gia tăng 14% một năm. Tuy nhiên, cần nhớ rằng, thuê bao cố định truyền thống, dụa trên hệ thống điện thoại mạch cắm thông thường (PSTN), chỉ chiếm 77% thị trường điện thoại cố định, số còn lại là dịch vụ cố định không dây. Đến cuối năm 2007, ước tính khách hàng sử dụng đường truyền cố định là 11.44 triệu, tương đương với một tỷ lệ thâm nhập 13,2%. Khác với thị trường viễn thông ở châu Á, khu vực mạng cố định ở Việt Nam vẫn có cơ hội phát triển. Tháng 12 năm 2006, Bộ Bưu chính Viễn thông cấp giấy phép cho FPT Telecom. Dịch vụ cố định của FPT dựa trên hệ thống mạng thế hệ mới hỗ trợ việc cung cấp điện thoại bằng giọng nói trên nền IP, cũng như băng thông rộng tốc độ cao và IPTV. Ngoài việc kiểm soát phần lớn của thị trường điện thoại cố định, cho đến năm 2002, chỉ có VNPT độc quyền cung cấp dịch vụ đường dài và quốc tế. Tuy nhiên, cả Saigon Postel và Viettel kể từ khi bắt đầu xuất hiện đã đưa ra dịch vụ gọi trong nước và quốc tế qua IP (VoIP). VDC cũng giới thiệu VoIP trả trước và trả sau của riêng của mình dưới tên gọi FoneVNN trong năm 2003 và, trong tháng 11 của năm đó, đã trở thành nhà cung cấp dịch vụ mạng riêng ảo (VPN) đầu tiên của Việt Nam. Trong một nỗ lực để mở rộng thị phần, VNPT đã chọn nhà cung cấp Thụy Điển Ericsson cung cấp thiết bị để tăng thêm 200.000 thuê bao cố định khu vực miền Trung. Liên kết trên là một phần của giai đoạn hai của dự án để mở rộng phạm vi và năng lực trong khu vực. Giai đoạn đầu bắt đầu vào tháng 8 năm 2006, khi Ericsson giành được hợp đồng cài đặt 600,000 đường truyền. Trong khi đó, Bộ Bưu chính Viễn thông đã cam kết phát triển cơ sở hạ tầng đường truyền cố định , đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Đầu tư đường dây điện thoại cố định là mong muốn đảm bảo một sự phát triển cân bằng và bền vững của các dịch vụ điện thoại truyền thống cùng với điện thoại di động. Khoảng 70% dân số của Việt Nam sống ở nông thôn, và với độ bão hòa xảy ra trong thị trường di động cạnh tranh cao tại các đô thị, số lượng ngày càng tăng của nhà mạng, bao gồm cả khai thác di động, tung ra dịch vụ cố định không dây để phục vụ cho các hộ gia đình có thu nhập thấp. Các dịch vụ cố định không được tung ra bởi mạng di động và do đó ít phải chịu phí đăng ký ban đầu. Đối với Viettel, với khoảng 70% của số thuê bao của mình tại khu vực nông thôn, điều này cho thấy tầm quan trọng của mạng cố định không dây. Viettel đã công bố một dịch vụ trả sau HomePhone trong tháng 8 năm 2007, sau khi tung ra dịch vụ trả trước của nó vài ngày trước đó. Cung cấp giảm giá đặc biệt, đó là mong nâng cao số lượng khách hàng của dịch vụ này. VNPT cũng cung cấp một dịch vụ cố định không dây với tên gọi GPhone. Các dịch vụ hoạt động trên mạng VinaPhone, mạng GSM được tính theo giá cố định, cho hộ gia đình có thu nhập thấp. GPhone đã được đưa ra trong hai giai đoạn, với các dịch vụ ban đầu được đưa ra trong tám tỉnh, thành phố (bao gồm cả Lau Châu, Thái Nguyên, Hà Tây, Quảng Nam, Quảng Ngãi,Cần Thơ, Hậu Giang và An Giang) trong tháng 6 năm 2007, và triển khai dịch vụ tiếp tục với vùng còn lại trong tháng 8 năm 2007. VNPT đã vạch ra một mục tiêu 100.000 thuê bao GPhone vào cuối năm 2007, nhưng con số này đạt đến 500.000 vào cuối năm. Biểu đồ thị phần mạng cố định 2008 Nguồn MIC Với sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ di động, mà đặc biệt là giá và sự tiện ích, người tiêu dùng có xu hướng sử dụng mạng di động hơn là là sử dụng truyền thống là điện thoại bàn cố định. Do đó, doanh thu từ dịch vụ cố định có xu hướng giảm dần. Điều này thể hiện ở biểu đồ dưới đây: Doanh thu mạng cố định Nguồn MIC Tăng trưởng trong năm 2008 sẹ dừng lại ở mức 13 triệu thuê bao cố định ứng với mức độ thâm nhập là 15%. Tăng trưởng sẽ được thúc đẩy bởi sự cắt giảm 15-20% thuế, áp dụng cho phí điện thoại cố định và điện thoại thẻ công cộng từ tháng 6 năm 2007. Tuy nhiên, trong những năm cuối của thập kỷ này, sự giảm sút trong tốc độ tăng trưởng của điện thoại cố định như là kết quả của sự gia tăng thuê bao di động và sự mở rộng của dịch vụ VoIP. Sự giảm sút này một phần phản ánh sự bão hòa của điện thoại cố định trong khu vực thành thị của Việt Nam, trong khi khu vực nông thôn có khuynh hướng sử dụng hệ thống điện thoại di động. c- Thị trường intrnet: Với sự phát triển internet hệ thống băng thông rộng, với đường truyền tải nhanh đã mang lại lợi ích hữu hiệu cho người tiêu dùng. Vì thế số thuê bao sử dụng dịch vụ tăng lên mạnh mẽ, kéo theo là sự tăng vọt về doanh thu. Tổng doanh thu dịch vụ internet năm 2008 là 248,43 triệu USD tăng hơn 53% so với năm 2007. Biểu đồ doanh thu dịch vụ Internet Nguồn: MIC VNNIC cho biết có 18.9 triệu người sử dụng internet ở VN tính đến cuối tháng 1 năm 2008, tương đương với 22% tổng dân số. Dự đoán số người sử dụng internet sẽ tăng 24% trong năm 2009, lên tới hơn 23 triệu vào cuối năm. Cũng theo VNNIC, tính đến hết năm 2008, tổng số thuê bao ADSL đạt 2.13 triệu thuê bao phục vụ trên 20 triệu người sử dụng, trong đó VNPT là đơn vị chiếm thị phần chi phối với trên 1.3 triệu thuê bao Biểu đồ thị phần các nhà cung cấp dịch vụ Internet Nguồn: MIC Số người sử dụng đường truyền băng thông rộng đã gia tăng một cách ấn tượng 130% năm 2007 và lên tới 1.3 triệu người vào cuối tháng 1 năm 2008, tương đương với mức độ thâm nhập 1.5%. Sự phát triển mạnh mẽ của người dùng băng thông rộng trong 5 năm tới, và dự báo sẽ có hơn 10 triệu thuê bao băng thông rộng tính đến cuối năm 2012 (tương đương với 11% mức độ thâm nhập). Chính phủ đang đầu tư mạnh vào sự phát triển của băng thông rộng ở Việt Nam (ví dụ như chính phủ đang gia tăng gấp đôi khả năng truyền tải của mạng lưới cáp quang quốc gia. Năm 2009, hai hệ thống cáp quang biển quốc tế có dung lượng lớn gồm Liên Á – Mỹ (AAG) và Liên Á (IACS) sẽ kết nối với Việt Nam ), tin rằng sự gia tăng cạnh tranh là cần thiết để gia tăng khả năng đáp ứng của dịch vụ băng thông rộng. Sự xuất hiện của một số nhà cung cấp dịch vụ băng thông rộng, đặc biệt là các công ty quốc tế, sẽ kích thích cạnh tranh. Việc tung ra dịch vụ băng thông rộng mới WiMAX trong những tháng tới sẽ thúc đẩy thị trường. Trong tháng 2 năm 2008, VNPT đầu tư 1 tỷ USD phát triển băng thông rộng.. VNPT cũng thử nghiệm dịch vụ WiMAX tại các thành phố của Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Điều này sau thành công trước đó của nhà điều hành với các thử nghiệm WiMAX tại Lào Cai. Tuy nhiên, VNPT không phải là đơn vị đầu tiên để thử nghiệm WiMAX, cả Viettel và FPT Telecom đã được tiến hành thử nghiệm tương tự. Trong tháng ba năm 2008, Tổng công ty Saigon Postel (SPT) đã trở thành nhà điều hành thứ sáu để được trao giấy phép cung cấp WiMAX. SPT là liên kết với S-Fone. Ba trong số năm nhà điều hành khác đã được trao giấy phép tương tự cũng có liên kết với ngành điện thoại di động: VNPT có trách nhiệm khai thác di động VinaPhone và MobiFone; Viettel và trong khi EVN Telecom cũng cung cấp dịch vụ di động. Trong khi đó,Tổng công ty truyền thông đa phương tiện Việt Nam (VTC) là đơn vị thứ tư có giấy phép WiMAX, cung cấp dịch vụ truyền hình di động kỹ thuật số giữa các khác dịch vụ phát sóng. Cho đến nay, FPT đã được cấp phép chỉ thực hiện các thử nghiệm có dây và dịch vụ không dây WiMAX. Sự kết nối giữa WiMAX được cấp phép và lĩnh vực điện thoại di động cũng chỉ ra rằng WiMAX đã trở nên chặt chẽ hơn khi kết hợp công nghệ di động không dây hơn là dưới dạng một mạng cố định công nghệ không dây,như ban đầu được hình thành. Cũng trong thời gian đó, Bộ Thông tin và Truyền thông trao giấy phép cho CMC Telecom cung cấp dịch vụ internet tại Việt Nam. CMC Telecom sẽ là nhà cung cấp dịch vụ internet thứ 10 trong cả nước. CMC Telecom sẽ cung cấp dịch vụ của mình thông qua quan hệ đối tác với EVN Telecom, một mạng thoại di động CDMA ởViệt Nam. Chủ tịch Tập đoàn CMC khẳng định rằng, nếu được cấp phép, CMC sẽ xem xét tung ra dịch vụ băng thông rộng không dây WiMAX và nói rằng nhà sản xuất chip Intel sẽ hỗ trợ triển khai. Tuy nhiên, bất kỳ nhà cung cấp WiMAX hiện đang phải có ít nhất 51% thuộc sở hữu nhà nước để khởi động dịch vụ. Cùng với giấy phép của mình để cung cấp truy cập internet, CMC Telecom cũng đã đạt được thêm hai giấy phép- một cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến và một cho nội dung internet cung cấp. Tuy nhiên, nhà mạng chưa được cho phép để xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông riêng của mình. Là một phần của quan hệ đối tác với CMC, EVN Telecom có trách nhiệm đầu tư vào cơ sở hạ tầng truyền dẫn, trong khi CMC là đầu tư vào CNTT và dịch vụ truyền thông mà sẽ cung cấp dịch vụ cho khách hàng của cả hai nhóm. CMC đã tuyên bố rằng chiến lược của nó là tập trung vào khách hàng lớn của công ty và tổ chức chính phủ, một khu vực mạnh mẽ cho sử dụng internet tại Việt Nam,nơi 89% các công ty được ước tính có kết nối internet. Nhu cầu mạnh đối với internet và các dịch vụ băng thông rộng tại Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng.Theo một điều tra của Alcatel-Lucent, 95% hộ gia đình Việt Nam đã truy cập vào một máy tính để bàn, trong đó 16% đang có kế hoạch mua một máy tính xách tay. Hơn nữa, tăng trưởng trong nhu cầu băng thông rộng được thiết lập để bay lên, như chính phủ Việt Nam thông báo cam kết đầu tư thêm 100 tỷ đồng (tương đương 6,3 triệu USD). Ngoài ra, kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã có một số công ty toàn cầu hoạt động tại đây, và sử dụng lao động địa phương đã nâng cao thu nhập. Kết quả số chi tiêu trên các hóa đơn internet của họ (truy cập nội dung đa phương tiện, bao gồm các trò chơi và tải về) là từ 10USD đến 20USD. Tăng cạnh tranh cũng sẽ khuyến khích tăng cách sử dụng băng thông rộng. III- NHỮNG RỦI RO TỪ MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH : 1. Rủi ro từ cạnh tranh về giá: Giá luôn được coi là vũ khí của các nhà mạng trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường viễn thông. Những doanh nghiệp lớn luôn có lợi thế về cơ sở hạ tầng, vốn và số lượng thuê bao; do đó trong cuộc cạnh tranh về giá họ khó có thể thua thiệt so với các doanh nghiệp nhỏ hay mới tham gia vào ngành với đầu tư thăm dò và số lượng thuê bao nhỏ. Cuộc cạnh tranh về giá diễn ra sôi động chưa từng có giữa các nhà mạng để tranh giành thị phần, đã đem đến lợi ích không nhỏ đến khách hàng, nhưng tồn taị sau đó là những rủi ro không thể lường trước được cho chính doanh nghiệp, đó là những rủi ro đến lợi nhuận, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Trong cuộc chơi này, rủi ro không chỉ đến với doanh nghiệp nhỏ, mới vào ngành mà còn là những doanh nghiệp lớn. Đối với những doanh nghiệp lớn thì đứng trước rủi ro về giảm thị phần và đôi khi cái giá mà họ đưa ra lại là vũ khí chống lại họ. Như Viettel luôn ấn tượng với mạng di động có mức cước rẻ nhất Việt Nam, vì trong chiến lược cạnh tranh, giá như là vũ khí của họ. Do sự cạnh tranh về giá đã kéo mức giá trung bình của Việt Nam xuống mức thấp nhất, giá không còn là một vũ khí của các nhà mạng nữa thì Viettel lại tiếp tục giảm giá cước một lần nữa trong đầu năm 2009, ngay lập tức 2 đại gia còn lại là Mobifone và Vinafone giảm cước và mức giảm lại còn lớn hơn so Viettel, đẩy Viettel vào tình thế khó khi trở thành mạng có mức cước đắt nhất trong 3 mạng lớn. Đối với các doanh nghiệp nhỏ hay mới vào ngành, thị phần còn rất nhỏ và vốn đầu tư thấp thì với cuộc đua về giá này là một khó khăn vô cùng lớn trong việc giữ khách hàng chưa nói đến việc thu hút khách hàng. Với sự nóng lên của cuộc đua này, thì dự đoán thị trường trong tương lai: một là các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ mất thị phần; hai là các doanh nghiệp không có vốn lớn sẽ phải rút ra khỏi cuộc đua. Ví dụ: Trên thị trường di động, các nhà mạng luôn đưa ra những gói cước hấp dẫn với khách hàng mà nổi trội là 3 nhà di động lớn Việt Nam: Viettel, Vinaphone và Mobiphone. Khiến cho các mạng di động nhỏ như S-Fone và EVN Telecom phải “chật vật” với số lượng thuê bao không tăng và có nguy cơ giảm. Hơn nữa, mới đây là sự tham gia của nhà mạng nước ngoài GTel của Nga với thương hiệu Beeline đã đưa ra gói cước Big Zero, được coi là gói cước “khủng” trên thị trường, khiến 3 nhà di động lớn không khỏi nhức đầu. Với gói cước này, chỉ chưa được 1 năm, số lượng thuê bao của hãng này đã đạt con số 2 triệu, được coi là tốc độ phát triển đáng nể. Và đạt được thành công tương tự, phải kể đến liên doanh mới giữa HT mobile và Hitchuson Telecom với thương hiệu Vietnamobile. Trái với sự thành công của hai nhà mạng này, là sự tan rã của liên doanh Saigon Postel và SK Telecom với thương hiệu S-Fone khi tháng 1/2010, SK-Telecom chính thức tuyên bố không đầu tư nữa và rút toàn bộ nhân lực về nước, vì trong suốt gần 7 năm hoạt động S-Fone hiếm khi nào hoạt động có lãi. S-Fone đứng trước nguy cơ bị mất khỏi thị trường. 2. Rủi ro từ cạnh tranh về khuyến mãi: Sau giá, khuyến mãi được xem là công cụ thứ hai được các doanh nghiệp viễn thông sử dụng. Về hình thức cạnh tranh khuyến mãi của các nhà mạng không khác là mấy so với cuộc cạnh tranh về giá. Các doanh nghiệp vẫn đua nhau thực hiện khuyến mãi lớn như khuyến mãi tặng 100% giá trị thẻ nạp, rối 150% và cao nhất 200%. “Công cuộc” khuyến mãi của họ được nhiều người coi là cho không khách hàng. Cuộc chạy đua khuyến mãi sôi nổi hơn hết vẫn thuộc về 3 nhà mạng lớn. Trước nguy cơ cạnh tranh làm rối loạn thị trường, “cá lớn nuốt cá bé”, để bảo vệ doanh nghiệp, bộ Thông tin và truyền thông ra quy định các nhà mạng chỉ khuyến mãi 50% giá trị thẻ cào. Đầu tháng 4/2010, Mobifone đã gửi tin nhắn khuyến mãi 170% giá trị thẻ nạp đến khách hàng, nhưng không ghi rõ nội dung. Trước thông tin gây sốc trên thị trường, trái với quy định nhà nước, Mobifone đã trả lời rằng khuyến mãi chỉ dành cho những khách hàng kết nối dài lâu với nhà mạng. Trên thực tế, nội dung tin nhắn khuyến mãi không ghi rõ đối tượng khách hàng nào. Điều này đã gây ra bất bình đối với khách hàng Mobifone và đã để lại hình ảnh không tốt, và trước nguy cơ này Mobifone đã phải thực hiện khuyến mãi của mình với tất cả khách hàng. Cũng tương tự Mobifone, Vietnamobile đã “bấm bụng” thực hiện khuyến mãi 100% cho các thẻ nạp có mệnh giá trên 50000 đồng. Nhưng theo điều 5, nghị định 37 hướng dẫn Luật Thương mại quy định: Giá trị vật chất dùng để khuyến mãi cho một đơn vị hàng hóa không được vượt quá 50%. Điều 99 Luật Thương mại nhấn mạnh: Các thương nhân thực hiện khuyến mãi phải công khai thông tin về tên, số điện thoại của đơn vị thực hiện khuyến mãi, thời gian khuyến mãi (bắt đầu, kết thúc), các điều kiện kèm theo… Điều 100 của Luật thì nhấn mạnh các hành vi nghiêm cấm như: Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng…. Như vậy Mobifone và Vietnamobile đã “xé rào” không tuân thủ theo quy định của nhà nước. Điều này có thể tạo ra một tiền lệ xấu, mỗi khi doanh nghiệp cạnh tranh có thể làm sai quy định pháp luật. Đây là một rủi ro pháp luật, khi mà doanh nghiệp có thể mắc phải khi cố gắng cạnh tranh mà quên đi quy định của pháp luật. 3.Rủi ro từ chiến lược kinh doanh: Chiến lược kinh doanh là chìa khóa quyết định thành công của doanh nghiệp. Và nhất là khi thị trường trở nên cạnh tranh gay gắt, chiến lược kinh doanh lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nhưng những rủi ro mà doanh nghiệp không thể dự báo được có thể làm phá sản chiến lược của doanh nghiệp. Ví dụ: thương vụ IPhone của các nhà mạng di động để phục vụ cho công nghệ 3G của mình. Các nhà mạng đã phải chịu các điều khoản hết sức khắt khe của nhà phân phối Appel để được tham gia vào hệ thống phân phối của hãng. IPhone là một thương hiệu nội tiếng có đẳng cấp do đó thông tin bất cứ doanh nghiệp nào trở thành nhà phân phối sản phẩm của Appel là một cách tăng thêm giá trị thương hiệu. Với việc áp đặt doanh số mà không thông qua nghiên cứu thăm dò thị trường nào. Thêm nữa, là việc quảng cáo thương hiệu cũng được kiểm soát hết sức chặt chẽ nhưng điều này rất khó bởi tâm lý tiêu dùng người Việt mua bằng mắt, không xuất hiện hình ảnh quảng bá đồng nghĩa với việc không kinh doanh thì tốt hơn. Điều này có thể tạo ra những rủi ro mà doanh nghiệp khó tránh khỏi, nhưng vì cuộc cạnh tranh 3 nhà mạng di động lớn thông báo đã kí hợp đồng phân phối với Appel. Chính vì sự kí kết này, mà hứa hẹn thị trường IPhone sẽ có cuộc tranh về giá cước. Hai nhà mạng Viettel và Vinaphone đã chính thức phân phối vào thị trường Việt Nam, nhưng Mobifone vẫn nằm ngoài cuộc chơi để xem xét đối thủ đưa ra những gói cước hấp dẫn. Nhưng giá mà gói cước hai hãng đưa ra chỉ phục vụ cho những khách hàng có thu nhập cao. Theo thông tin, giai đoạn đầu hai hãng đã nhập 13000 chiếc với chi phí là 10 triệu USD. Trong khi, Việt Nam mới bước sang quốc gia có thu nhập trung bình thấp 1000USD/năm, do đó, số lượng khách hàng sẵn sàng tri trả cho chiếc IPhone sẽ không nhiều, vì nó sẽ hết sức lãng phí, và những tiện ích đem lại chỉ là xa xỉ chưa nói sẽ được ứng dụng bao nhiêu khi Việt Nam mới bước vào công nghệ 3G. Với cam kết của nhà mạng về doanh số với nhà sản xuất, thì chắc chắn lượng khách hàng tương ứng với doanh số đó sẽ không bao giờ thực hiện được. Do đó, kết quả thất bại là chỉ chờ vào thời gian. 4. Rủi ro hạ tầng - chất lượng dịch vụ: Khi cuộc cạnh tranh trên thị trường di động diễn ra sôi nổi và ngày càng gay gắt, đã tạo cơ hội cho người dân có thể tiếp cận với điện thoại di động vì chi phí sử dụng ngày càng giảm, có nhiều sự lựa chọn hơn cho khách hàng. Dịch vụ nào có chi phí rẻ, khuyến mãi hấp dẫn, phục vụ tốt thì họ sẽ chọn. Với sim điện thoại di động trả trước, chỉ cần mua từ các đại lý của nhà mạng họ đã có thể sử dụng dịch vụ một cách dễ dàng mà không qua đăng ký. Do đó, mỗi khi nhà mạng nào có chiến dịch giảm giá hay khuyến mãi hấp dẫn thì họ chỉ cần mua sim của mạng đó mà bỏ sim cũ. Điều này dẫn tới một lượng khách hàng ảo rất lớn khiến cho các doanh nghiệp khó xác định được khách hàng thực chính xác của mình là bao nhiêu, vì vậy mà Mobifone và Viettel luôn cùng một lúc nói mình dẫn đầu về thị phần. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Cuộc cạnh tranh này gây ra lãng phí đầu tư vào hạ tầng, lãng phí tài nguyên kho số, khó quản lý thuê bao.. Khi khách hàng tăng lên do những chính sách cạnh tranh về giá và khuyến mãi, mà doanh nghiệp quên đi khả năng tải truyền, cơ sở hạ tầng. Điều này dẫn đến chất lượng mạng của doanh nghiệp ngày càng giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến hình ảnh thương hiệu của các doanh nghiệp, quan trọng là doanh nghiệp sẽ mất khách hàng nếu các doanh nghiệp không có sự thay đổi. Điển hình cho tình trạng này là khi vào các dịp lễ, tết, thì các mạng di động luôn trong tình trạng nghẽn mạch. IV- GIẢI PHÁP: 1- Nhà nước: Để tránh những rủi ro không đáng có từ môi trường cạnh tranh. Nhà nước cần có những chính sách, quy định Pháp luật để điều chỉnh thị trường, điều chỉnh hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp viễn thông để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước cần nhìn nhận rõ đâu là cạnh tranh tích cực và đâu là cạnh tranh tiêu cực, đâu là những lợi ích thực mà từ môi trường cạnh tranh đem lại. Từ đó tránh đưa ra những quy định sai lầm ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh. Ví dụ: khi Beeline đưa ra gói cưới Big Zero với thông điệp: “ gọi quên ngày tháng” đã làm cho 3 nhà mạng di động lớn phải lên tiếng đòi Bộ Thông tin và truyền thông quy định giá sàn để ngăn tác động ảnh hưởng lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi khuyến mãi bị ngăn, cạnh tranh giá cước là dự đoán xảy ra trên thị trường. Xét về góc độ kinh tế, và xã hội, cạnh tranh giá cước sẽ mang lại lợi ích cho đa số người tiêu dùng, mọi người sẽ có cơ hội tiếp cận với dịch vụ viễn thông dễ dàng hơn. Theo góc độ thị trường, cơ chế giá là công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp nhỏ, hay mới vào ngành để thu hút khách hàng, đây cũng chính là cách thức mà các doanh nghiệp lớn đã thực hiện trên con đường phát triển mà đi đầu là Viettel. Nhưng trong khi đã lớn mạnh, các nhà mạng này lại quay đầu “phản pháo”. Theo các chuyên gia kinh tế, thì nếu có khống chế giá sàn thì chỉ nên khống chế các doanh nghiệp lớn, vì khi khống chế lợi nhuận của họ chỉ giảm. Nếu khống chế các doanh nghiệp nhỏ sẽ không còn lợi thế cạnh tranh. Với thị phần lớn, tiềm lực tài chính mạnh các doanh nghiệp lớn có thể giảm giá mạnh, chèn ép các doanh nghiệp nhỏ sẽ gây cho họ khó khăn trong con đường phát triển, và có thể dẫn tới diệt vọng, mà minh chứng cho điều đó là sự tan đã của liên doanh SPT và SK Telecom. Vì vậy, nếu có khống chế, nhà nước cần quy định giá sàn với những doanh nghiệp lớn. Thứ hai, nhà nước cần đưa ra định hướng phát triển của ngành viễn thông với mục tiêu kinh tế là gì? Mục tiêu xã hội là gì? Lợi ích của doanh nghiệp cũng như của quốc gia sẽ như thế nào với định hướng đó?. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có định hướng để phát triển và đưa ra những chiến lược kinh doanh, chiến lược cạnh tranh phù hợp. 2- Doanh nghiệp: Các doanh nghiệp trên thị trường Viễn thông cần nhìn nhận rằng: cạnh tranh không phải là đối đầu, cạnh tranh không phải là tiệu diệt lẫn nhau. Cạnh tranh cần dựa trên sự hợp tác, cạnh tranh dựa trên những lợi thế mà nội tại mình có. Trên cơ sở như vậy, doanh nghiệp mới có thể có những chiến lược cạnh tranh, chiến lược kinh doanh phù hợp. Tránh được những rủi ro không đáng có do sự cạnh tranh không lành mạnh hay với mục tiêu chèn ép đối thủ trên thị trường, mà đôi khi chính những rủi ro đó đem lại tổn thất cho chính mình và cho cả xã hội.Các doanh nghiệp cần đưa ra những chiến lược cạnh tranh trên lợi thế nội tại, sứ mạng và mục tiêu của mình. Làm những điều này các doanh nghiệp sẽ tránh cạnh tranh trực diện, mà tạo ra cho mỗi doanh nghiệp sự khác biệt, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh bằng sự khác biệt của mình từ những sản phẩm của mình mà đem lại. Trên thực tế, các nhà mạng đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng này. Ví dụ: VinaPhone với các dịch vụ gia tăng: Vinaphone là mạng được bình chọn là có nhiều dịch vụ giá trị gia tăng nhất. Đây là vũ khí cạnh tranh của VinaPhone và được cho là một hướng đi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh của mạng này. Nửa đầu của năm 2009 mạng này tiếp tục cho ra mắt nhiều dịch vụ tiện ích mới hướng tới người dùng. Có thể kể đến ở đây như dịch vụ Say2sent cho phép người dùng có thể gửi tin nhắn thoại với độ dài 30s với mức phí chỉ 500đ, dịch vụ 2friend Online cho phép chuyển tiền giữa các thuê bao từ mạng Internet… Những dịch vụ này đang thu hút một lượng lớn người dùng và sẽ tạo nên một thương hiệu, vũ khí riêng cho VinaPhone trong thời gian tới. Mobifone với chính sách chăm sóc khách hàng: Trong khi VinaPhone được đánh giá là mạng tiên phong trong việc sáng tạo và cung cấp nhiều tiện ích cho người dùng thì MobiFone đã được bình chọn là nhà mạng chăm sóc khách hàng tốt nhất trong ba năm liền. Thực tế thời gian qua với phong cách làm việc được cho là chuyên nghiệp nhất trong các nhà cung cấp di động tại Việt Nam, mạng này đã để lại trong lòng khách hàng nhiều ấn tượng tốt với sự tận tình, chu đáo trong chăm sóc khách hàng. Mạng này cũng là mạng tiên phong trong các chương trình chăm sóc các thuê bao trả sau. Năm 2009, tiếp tục khẳng định thương hiệu của mình, MobiFone đã tung ra nhiều chương trình tri ân khách hàng, nhiều chương trình khuyến mại giảm giá… và những chương trình này đang để lại trong khách hàng một ấn tượng MobiFone. Chất lượng sẽ là mong muốn nhiều nhất của khách hàng đối với nhà mạng khi giá cước trung bình của Việt Nam đã ở mức thấp so với thế giới. Do đó, giá không phải là đòi hỏi hàng đầu của khách hàng, mà hiện tại và tương lai, chất lượng mạng sẽ thay đổi vị trí của giá trong nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp cần đầu tư vào việc nậng cao chất lượng hệ thống truyền tải hơn là tăng số lượng hạ tầng để mở rộng thuê bao rất tốn kém và lãng phí. Các doanh nghiệp cần có chính sách quản lý số lượng thuê bao, khách hàng của mình. Lâu nay, các nhà mạng di động lao vào cuộc cạnh tranh giành thị phần với mong muốn tăng số lượng thuê bao. Trên thực tế, số lượng thuê bao thực không nhiều như thuê bao ảo. Với chiến lược này, nhà mạng đã lãng phí rất nhiều vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng. Vì vậy, việc quản lý thuê bao là điều doanh nghiệp cần làm để có những chính sách phát triển hợp lý. KẾT LUẬN Đối với bất cứ thị trường hấp dẫn nào thì cạnh tranh luôn là yếu tố tất yếu xuất hiện trong thị trường. Thị trường viễn thông Việt Nam đặc biệt là thị trường di động, là một thị trường hấp dẫn với bất cứ một nhà đầu tư nào, trong nước và ngoài nước. Sự tham gia của nhiều nhà kinh doanh trong một thị trường tạo nên một thị trường sôi động mà sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt và khốc liệt. Mà theo sau nó, là những rủi ro luôn rình rập những người tham gia cuộc chơi trên thị trường này. Vì vậy thực hiện quản trị rủi ro trở nên cấp thiết đối với các doanh nghiệp viễn thông. Để từ đó, có thể tìm ra những giải pháp để kiểm soát và phòng ngừa rủi ro để đối phó với trường hợp xấu nhất. Các doanh nghiệp Viễn thông cần thay đổi cho mình hướng chiến lược cạnh tranh mới khi cạnh tranh về giá không còn hiệu quả. Mà chiến lược mới cần hướng đến phục vụ khách hàng về chất lượng trên cả mong đợi của khách hàng. Hơn nữa, các doanh nghiệp cần thay đổi chiến lược từ “một mất một còn” chuyển sang “hợp tác để cạnh tranh” cùng nhau chia sẻ thị phần hơn là loại bỏ, chèn ép nhau. Có như vậy, thị trường mới trở nên cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ những rủi ro có thể tổn thất không những cho đối phương mà ngay chính mình. Nhưng để tạo ra môi trường cạnh tranh làng mạnh này, nhà nước cần có những quy định pháp luật để điều chỉnh thị trường, điều chỉnh hành vi cạnh tranh của những doanh nghiệp trên thị trường Viễn thông hấp dẫn này. Bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đưa ra một số giải pháp chung cho ngành Viễn thông, chứ chưa đi sâu vào giải pháp cụ thể cho từng doanh nghiệp. Vì thế, bài này chỉ mang tính chất khái quát chưa thể đi sâu vào từng nội dung cụ thể. Nếu có cơ hội, chúng tôi sẽ thực hiện nghiên cứu sâu hơn nữa trong từng doanh nghiệptrong công tác quản trị rủi ro. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững rủi ro từ cạnh tranh trong thị trường Viễn thông Việt Nam.doc
Luận văn liên quan