Đề tài Những sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên - Bộ môn sinh học

Đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá giúp học viên tự tin hơn khi tham gia các môn học đặc biệt là môn Sinh học, môn Sinh học không còn là một gánh năng đối với học viên nữa. Trong năm học 2008-2009 tỉ lệ học viên đỗ tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông tại Trung tâm đạt tỷ lệ 87,5% trong đó tỉ lệ học viên thi tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông môn Sinh học đạt tỉ lệ 100% đạt điểm trung bình trở lên.

doc17 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7246 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên - Bộ môn sinh học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI “NHỮNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN - BỘ MÔN SINH Mục Lục THAM LUẬN: “NHỮNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN - BỘ MÔN SINH HỌC” I. Đặt vấn đề. 1. Cơ sở lý luận Chất lượng giáo dục là vấn đề luôn dược đặt nặng trên vai của các thầy, cô giáo, việc nâng cao chất lượng giáo dục luôn là mục tiêu cần phải phấn đấu tới. Do đó việc đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh giá nói riêng là tính tất yếu. Đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới kiểm tra đánh giá là một trong những nội dung quan trọng của đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay, là một trong các vấn đề chủ yếu quyết định chất lượng giáo dục. Đổi mới phương pháp giảng dạy và và đổi mới kiểm tra đánh giá để đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện đại và mục tiêu đổi mới giáo dục hiện nay. Mục tiêu chung về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục hiện nay là “tạo được chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu quả và qui mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân”…Để đạt mục tiêu đó phải “ Đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet”… Ngày nay, do yêu cầu, mục đích của giáo dục hiện đại, chúng ta đang đứng trước thách thức lớn. Phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá phải được đổi mới nhanh chóng để đáp ứng những yêu cầu và mục đích đó. 2. Cơ sở thực tiễn Môn Sinh học cấp trung học phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp học sinh hiểu đúng đắn hoàn chỉnh và nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... Học viên có thể hiểu, giải thích được các hiện tượng tự nhiên, vấn đề thực tiễn thông qua nội dung các bài học ... Đồng thời phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Sinh học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người... Để đạt được mục đích của dạy học Sinh học cấp trung học phổ thông thì giáo viên dạy Sinh học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về Sinh học, người giáo viên dạy Sinh học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức sinh học của học sinh, biết đánh giá xác định đúng trình độ nhận thức của học sinh để từ đó đưa ra những phương pháp phù hợp cho từng đối tượng. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin trình bày một số khía cạnh của vấn đề về “đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của bộ môn sinh học” với mục đích phần nào giảm nhẹ bớt gánh nặng trên vai các thầy(cô) và cũng phần nào giảm bớt tỉ lệ học sinh yếu kém cấp THPT để bộ môn Sinh học không còn là một bộ môn “gánh nặng” về học thuộc lòng bài học đối với học sinh vì tính đặc thù của nó. 3. Thực trạng dạy và học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên Thực tế giảng dạy cho thấy, đối tượng học viên của các trung tâm GDTX thường là học viên có độ tuổi phổ thông chiếm đa số, trình độ so với học sinh THPT chênh lệch nhau khá xa do tính chất tuyển sinh đầu vào. Kiến thức ở cấp THCS hầu như quên hoàn toàn hoặc mất căn bản ở các môn tự nhiên. Ý thức học tập rất kém (do mặc cảm tự ti với học sinh bên THPT). Nhận thức của học viên về trung tâm GDTX còn xa lạ, chưa hiểu biết gì về vai trò của ngành học GDTX này, ý thức tổ chức kỷ luật chưa tốt, tinh thần, thái độ tham gia học tập còn rất kém, việc tham gia học tập còn mang tính chất ép buộc (đo gia đình ép học, không còn nơi để tham gia học tập, trốn nghĩa vụ quân sự…). Vị thế của trung tâm giáo dục thường xuyên truớc đây được đánh giá rất thấp do hiệu quả đào tạo thấp và có nhiều tiêu cực, tỉ lệ tốt nghiệp không cao và thường là tỉ lệ ảo. Sau khi thực hiện cuộc vận động hai không tỉ lệ tốt nghiệp càng thấp hơn nữa, lòng tin của quần chúng vào trung tâm giáo dục thường xuyên giảm, việc đưa con em vào học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên là chọn lựa cuối cùng. Tập thể giáo viên tại các trung tâm GDTX trước đây chưa thực sự có tâm huyết và tinh thần trách nhiệm trong giảng dạy, chủ yếu là dạy cho hết bài, hết ngày, dạy theo phân phối chương trình. Sau khi thực hiện cuộc vận động “hai không”, một số giáo viên đã có chuyển biến tích cực trong đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới kiểm tra đánh giá nhưng chỉ mang tính nhỏ, lẻ, làm cho có … chưa thực sự hiệu quả. Cơ sở vật chất yếu kém, phòng học còn chưa đáp ứng đủ cho lớp học, đồ dùng dạy học hoàn toàn không có hoặc nếu có thì không sử dụng được. Những năm gần đây mặc dù đã được bổ sung thêm đồ dùng dạy học nhưng rất ít người muốn sử dụng để đổi mới phương pháp (có thể do ngại sử dụng hoặc không biết sử dụng). Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập là một mục tiêu đang được đẩy mạnh và phát huy tại tất cả các cơ sở giáo dục trên cả nước bằng các cuộc vận động lớn của ngành giáo dục. Tuy nhiên với mỗi cơ sở giáo dục lại áp dụng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực cho đơn vị mình. Phần sáng kiến kinh nghiệm về “đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của bộ môn sinh học cấp THPT” với mục đích nhằm góp một phần giúp các thầy cô có thể nâng cao chất lượng giảng dạy và tăng cường hiệu quả giáo dục của mình hơn nữa qua các tiết dạy, đặc biệt là các thầy cô ở các trung tâm giáo dục thường xuyên. II. Giải quyết vấn đề 1. Nội dung. Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh giá là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Nhằm thực hiện triệt để tinh thần cuộc vận động “2 không” đồng thời nâng cao được chất lượng giáo dục đòi hỏi mỗi thầy, cô giáo cần phải tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra, đánh giá đúng thực chất trình độ của học viên nhằm xác định đối tượng giảng dạy một cách có khoa học, đây là vấn đề cần thiết không thể thiếu trong dạy và học. “Đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của bộ môn sinh học hệ bổ túc THPT” bằng cách định hướng xác định mục tiêu học tập cho từng học viên. Thay đổi phương pháp dạy truyền thống, sử dụng các phương pháp giảng dạy có hiệu quả phù hợp nhằm cung cấp cho học viên nguồn kiến thức lớn nhất, thay đổi phương pháp học trong đó phải phát huy tính tích cực tự học, tự tìm kiếm tri thức ở mỗi học viên. “Đổi mới phương pháp dạy học” phải gắn liền với “đổi mới kiểm tra đánh giá” nhằm nắm bắt chính xác khả năng học tập của từng học viên từ đó đề ra những phương pháp giảng dạy phù hợp. 2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện a. Xác định mục tiêu học tập cho học viên, đảm bảo cho học viên an tâm học tập tại trung tâm GDTX. Việc xây dựng mục tiêu học tập của học viên phải được xem là công tác giáo dục chính trị tư tưởng lâu dài. Phần lớn các Trung tâm giáo dục thường xuyên chưa nhận thấy được tầm quan trọng trong việc xác định mục tiêu học tập cho học viên. Xác định mục tiêu học tập cho học viên khi học viên mới tham gia học tập tại trung tâm giáo dục thường xuyên đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định số lượng học viên tham gia học tập cũng như thái độ học tập của học viên tại trung tâm giáo dục thường xuyên, bởi đa số học viên đăng ký tham gia học tập tại trung tâm giáo dục thường xuyên còn bỡ ngỡ, chưa hiểu biết gì về ngành học GDTX này, chưa an tâm học tập, chủ yếu là học viên thuộc độ tuổi học sinh. Học viên đăng kí vào học tại trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc nhiều thành phần: - Học sinh lưu ban, học sinh bỏ học ở các trường THPT nhiều năm - Học sinh không được tuyển vào THPT, bán công. - Học viên lớn tuổi có nhu cầu học tập nhằm nâng cao trình độ nhưng đã bỏ học từ lâu. Với lực lượng học viên như vậy thì việc xác định mục tiêu học tập phải luôn được nhắc nhở và được thực hiện liên tục xuyên suốt cả một cấp học từ đó giúp học viên ý thức được việc học, an tâm tham gia học tập, giảm bớt tình trạng học viên bỏ học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên. b. Đổi mới phương pháp giảng dạy phải dựa trên cơ sở lấy học sinh làm trung tâm Nhận thức được việc giảng dạy ở trung tâm giáo dục thường xuyên đòi phải có tính kiên nhẫn bởi trình độ học lực của học viên có giới hạn, việc nêu vấn đề và giải quyết vấn đề phải phù hợp với trình độ học lực của đối tượng. Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi trong giảng dạy cũng phải xác định đối tượng, tránh làm học viên mất tự tin khi trả lời, nếu kéo dài tình trạng này dẫn đến học viên thụ động trong các tiết dạy về sau. Ø Với đối tượng học viên lớn tuổi đã có ý thức học tập nhưng phần tiếp thu kiến thức trên lớp lại “chậm nhớ” và “mau quên”. Đặc điểm chung của nhóm này là có ý thức tự giác học tập, cho nên việc hướng dẫn tăng cường đọc và nghiên cứu tài liệu sẽ giúp học viên hệ thống được những kiến thức đã học ở trên lớp và một số kiến thức đã quên ở những tiết học trước đó. Ví dụ: Khi hướng dẫn đọc sách và các tài liệu tham khảo tôi thường hướng dẫn học viên: - Nhìn vào những đầu mục trước khi đọc và nghiên cứu nội dung của tài liệu tham khảo hoặc sách giáo khoa. - Gạch chân hoặc tô màu những khái niệm quan trọng và những nội dung chính. - Tóm tắt các nội dung quan trọng ra giấy. Ø Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng cách thay đổi phương pháp trình bày nội dung trong một bài giảng. Thông thường trong giảng dạy giáo viên thường trình bày nội dung theo các mục đúng trình tự ở trong sách giáo khoa, quá trình lặp lại liên tục như vậy dễ gây cảm giác nhàm chán cho học sinh, việc thay đổi phương pháp trình bày sẽ tạo cảm giác mới lạ, gây sự chú ý cho học sinh. VD: Trong bài phên mã và dịch mã, phần II sách giáo khoa trang 12, thay vì trình bày theo trật tự SGK là: 1. Hoạt hóa axit amin aa + tARN tạo thành phức hợp aa – tARN 2. Tổng hợp chuỗi polipeptit *Mở đầu: hai tiểu đơn vị ribôxôm gắn vào mARN ở bộ ba mở đầu (AUG) *Kéo dài: các tARN nhờ có bộ ba đối mã đả mang các aa tương ứng đặt đúng vị trí theo khuôn mARN để tổng hợp nên chuổi polipeptit xác định *Kết thúc: Khi rARN gặp bộ ba kết thúc: (UAA, UAG, UGA) -> dừng tổng hợp Thì nên trình bày theo kiểu kẻ bảng Các bước dịch mã Diễn biến *B1: Hoạt hoá axit amin aa + tARN thành phức hợp aa – tARN. *B2: Tổng hợp chuỗi polipeptit *Mở đầu: hai tiểu đơn vị ribôxôm gắn vào mARN ở bộ ba mở đầu (AUG) *Kéo dài: các tARN nhờ có bộ ba đối mã đã mang các aa tương ứng đặt đúng vị trí theo khuôn mARN để tổng hợp nên chuổi polipeptit xác định *Kết thúc: Khi rARN gặp bộ ba kết thúc: (UAA, UAG, UGA) -> dừng tổng hợp Ø Đổi mới phương pháp bằng việc hệ thống lại kiến thức sau mỗi bài, mỗi chương. Việc hệ thống lại kiến thức rất quan trong, nếu giáo viên có thể hệ thống hóa kiến thức (hay đưa những kiến thức vừa học vào hệ thống kiến thức đã học) sau từng bài từng chương cho học viên nắm vững thì học viên sẽ ít gặp khó khăn trong việc ôn tập, ôn thi sau này. VD: Kết thúc chương I (chương đầu tiên của chương trình sinh học 12) tôi thường hệ thống lại kiến thức bằng sơ đồ phân loại biến dị: BIẾN DỊ Biến dị di truyền Biến dị không DT (thường biến) Biến dị tổ hợp Đột biến Đột biến NST Đột biến gen Đột biến số lượng NST Đột biến cấu trúc NST Đa bội Lệch bội Mất đoạn Đảo đoạn Lặp đoạn Chuyển đoạn Mất Nuclêôtit Thêm Nuclêôtit Thay thế Nuclêôtit Ø Đổi mới phương pháp bằng cách thay đổi cách tiếp cận với học viên bằng phương pháp nêu tình huống có vấn đề để gợi sự tò mò mong muốn được giải thích từ đó hình thành ý thức tham gia xây dựng bài. VD: Bài 1-Gen, mã di truyền và quá trình nhân đôi AND (sách giáo khoa trang 6) Phần mở bài, giáo viên có thể trình bày bằng cách nêu ra rất nhiều vấn đề tạo ra sự tò mò muốn tìm hiểu ngay của học viên như: Tại sao con cai lại giống cha mẹ? Tại sao 2 tế bào con sinh ra lại giống hệt tế bào mẹ? Tại sao trong quá trình sinh sản cùng 1 loài lại sinh ra chính loài đó mà không phải là một loài nào khác? Phải chăng có sự truyền lại những thông tin đó từ thế hệ này sang thế hệ khác? Sự truyền đạt đó được thực hiện nhờ cơ chế nào? Ø Đổi mới phương pháp dạy học bằng cách thay đổi phương tiện dạy học. Với những bài tương đối dài và kiến thức trừu tượng khó hiểu thì việc sử dụng phương tiện hiện đại trong quá trình truyền thụ kiến thức sẽ mang lại kết quả nhanh và tốt hơn, làm tăng hiệu quả giảng dạy. VD: Chương I- Cơ chế di truyền và biến dị Bài 1(SGK trang 6), bài 2(SGK trang 11) nếu có những hình ảnh minh họa cụ thể và được phóng lớn trình chiếu qua đầu chiếu thì việc tiếp thu kiến thức của học viên sẽ tốt hơn rất nhiều bởi đa số những kiến thức trong bài là những kiến thức trừu tượng khó hiểu nếu không sử dụng hình ảnh minh họa giúp học viên có thể hình dung, tưởng tượng được thì khó có thể truyền đạt đầy đủ kiến thức trong vòng 45 phút của tiết học. Ø Đổi mới phương pháp dạy học bằng cách sử dụng phiếu học tập. Phiếu học tập có thể sử dụng ở rất nhiều bài, nếu chuẩn bị tốt phiếu học tập thi kết quả thu được từ tiết dạy rất khả quan, học viên có thể tự tìm hiểu bài mới trước ở nhà thông qua trả lời phiếu học tập (phiếu học tập phát sau mỗi giờ học) hoặc có thể tham gia xây dựng bài mới thông qua trả lời phiếu học tập (phiếu học tập phát trong giờ học). Hình thức và nội dung của phiếu học tập cũng tùy theo nội dung của từng bài mà xây dựng phiếu học tập cho phù hợp, phiếu học tập có thể là bảng so sánh, tóm tắt, điền khuyết … VD: Sau bài Điều hòa hoạt động của gen (SGK Sinh học 12-trang 15) ta nên sử dụng phiếu học tập phát trước về nhà để học viên có thể nghiên cứu trước bài mới là bài Đột biến gen (SGK Sinh học 12-trang 19) và điền những thông tin vào phiếu học tập. PHIẾU HỌC TẬP Các dạng Diễn biến Đặc điểm Hậu quả, ý nghĩa ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… ………………………… …………………… …………………… …………………… …………………… …………………… …………………… Ø Đổi mới phương pháp bằng cách cung cấp tài liệu học tập cho học viên. Thông thường, những kiến thức trong sách giáo khoa thì không bao giờ đủ đối với học viên yêu thích môn sinh học, vì thế việc giới thiệu một số đầu sách để học viên có thể tự tìm và tham khảo là điều cần thiết. Đối với học viên cuối cấp thì việc cung cấp tài liệu giúp các em ôn tập tốt hơn là điều cần thiết, tài liệu đó có thể là tài liệu do chính giáo viên trực tiếp giảng dạy biên soạn hoặc lấy từ nguồn đáng tin cậy khác nhưng phải đảm bảo nội dung đầy đủ, ngắn gọn, chính xác. Tài liệu ôn thi phải được biên soạn theo hướng dẫn về ôn thi tốt nghiệp của bộ Giáo dục. VD: Tài liệu ôn thi tốt nghiệp năm học 2008-2009 của tôi có thể tham khảo tại trang web thư viện trực tuyến Violet theo địa chỉ: Ø Đổi mới phương pháp dạy học bằng cách đổi mới phương pháp ôn tập, ôn thi sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Tỉ lệ tốt nghiệp luôn là gánh nặng trên vai của các học viên và các thầy cô giáo, sự thay đổi hình thức thi tốt nghiệp từ tự luận sang trắc nghiệm khách quan đòi hỏi phải có hướng ôn tập phù hợp, kiến thức ôn tập phải phủ kín chương trình, hình thức ôn tập giúp các học viên có thể làm quen với phương pháp trả lời những câu trắc nghiệm khách quan. VD: Giáo viên có thể soạn thành nhiều đề, mỗi đề gồm khoảng 40 câu trắc nghiệm cho học viên tự làm để giúp học viên làm quen và tập dần tính độc lập suy nghĩ khi làm bài thi. Ø Đổi mới phương pháp dạy học bằng cách tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học, tăng cường làm thí nghiệm thực hành. Thực tế ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, đồ dùng dạy học thiếu rất nhiều, giáo viên thường phải “dạy chay” hoặc tự làm đồ dùng dạy học. Về phần thực hành, rất ít trung tâm giáo dục thường xuyên có phòng thực hành, học viên tại các trung tâm không có điều kiện được quan sát, được làm thí nghiệm và ít được quan sát giáo viên biểu diễn thí nghiệm do thiếu hoặc không có dụng cụ thí nghiệm. Trong những năm gần đây các trung tâm giáo dục thường xuyên được quan tâm hơn, đã được cung cấp một số đồ dùng dạy học mặc dù số lượng ít hơn so với các trường THPT, giáo viên có thể làm những thí nghiệm trực quan cho học viên quan sát ở những môn Lý, Hóa, Sinh. VD: Khi dạy môn Sinh học lớp 10 qua bài: Bài 19: Chu kỳ tế bào và quá trình nguyên phân và Bài 20: Giảm phân Nếu không có đồ dùng dạy học thì giáo viên phải viết, vẽ rất nhiều trên bảng tốn rất nhiều thời gian nhưng chưa chắc có hiệu quả thì việc sử dụng đồ dùng dạy học là mô hình nguyên phân và mô hình giảm phân có thể giúp học viên quan sát và tham gia xây dựng bài rất tốt. c. Đổi mới phương pháp dạy học phải đi đôi với đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá: Ø Vì sao cần phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá? Kiểm tra đánh giá đúng chất lượng của từng học viên sẽ giúp quá trình định hướng trong học tập cho học viên đó dễ dàng hơn, việc phân loại học viên thành nhiều nhóm có cùng trình độ để tiện việc theo dõi sẽ giúp giáo viên dễ dàng theo dõi khi phân chia nhóm hoạt động học tập trong giờ lên lớp. Kiểm tra đánh giá đúng chất lượng của từng học viên giúp cho học viên tự tin hơn, khi cần có thể thông báo kịp thời tình hình học tập của học viên đến từng cha mẹ học viên (đối với học viên độ tuổi phổ thông) nhằm giúp kiểm soát chặt chẽ chất lượng học tập từ hai phía. Kiểm tra đánh giá đúng chất lượng của từng học viên của từng bộ môn để từ đó xây dựng quy trình bồi dưỡng học lực cho học viên. Ø Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá phải được thực hiện có khoa học đòi hỏi có độ chính xác cao thì mới đem lại hiệu quả cao. Khi đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá nên: 1. Xây dựng quy trình kiểm tra đánh giá: Việc đánh giá học lực của học viên có thể diễn ra liên tục tùy theo sự khảo sát kiến thức bằng những bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết ở các phân môn và ở những thời gian khác nhau vì vậy rất khó để xác định chính xác học lực của học viên tại thời điểm đó. Do đó nên đánh giá học viên vào những thời điểm sau: + Kiểm tra chất lượng đầu năm (nên kiểm tra những nội dung tương đối khó vì nội dung từ đầu năm để kiểm tra chưa nhiều) + Kiểm tra học kỳ I (nên kiểm tra với nội dung rộng, với 1 số câu tương đối khó để phân biệt được học viên khá và giỏi) + Kiểm tra học kỳ II (nên kiểm tra với nội dung rộng, với 1 số câu tương đối khó để phân biệt đươc học viên khá và giỏi) 2. Xây dựng nội dung để kiểm tra đánh giá: Kiểm tra đánh giá của giáo viên thường mang tính chủ quan (dạy gì thì cho đó) nên chưa thể bao quát hết nội dung của trương trình, vì vậy việc thành lập ngân hàng câu hỏi, đề kiểm tra tại mỗi trung tâm giáo dục thường xuyên riêng cho mỗi bộ môn để cán bộ quản lý có thể đánh giá một cách khách quan hơn đồng thời kiểm soát được cả chất lượng giảng dạy của giáo viên từng bộ môn. Nội dung của ngân hàng câu hỏi, đề kiểm tra phải phong phú, đa dạng, phải bao quát hết toàn bộ kiến thức chương trình phổ thông, đề kiểm tra phải bao gồm cả phần tự luận và trắc nghiệm để đánh giá chính xác hơn, tránh hiện tương học tủ, học vẹt. 3. Xử lý kết quả kiểm tra đánh giá: Căn cứ vào điểm trung bình của các bộ môn sau khi kiểm tra đánh giá, có thể xác định được học lực của học viên ở mỗi môn học. 4. Sử dụng kết quả đánh giá. Tùy từng thời điểm đánh giá mà sử dụng kết quả đánh giá. Có thể căn cứ vào kết quả đánh giá để đề ra kế hoạch phụ đạo các học viên yếu kém, bồi dưỡng các học viên khá giỏi, phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp bổ túc THPT … Sau đây tôi xin nêu một ví dụ về xây dựng quy trình kiểm tra, đánh giá phân luồng học sinh mà theo tôi nên áp dụng ở các trung tâm giáo dục thường xuyên. Kiểm tra, đánh giá lần I (kiểm tra chất lượng đầu năm) Kiểm tra, đánh giá lần II (kiểm tra học kỳ I) Kiểm tra, đánh giá lần III (kiểm tra học kỳ II) Hoc viên yếu, kém Hoc viên TB,khá, giỏi Hoc viên yếu, kém Bồi dưỡng tuyển chọn học viên giỏi tham gia các kỳ thi Phụ đạo thêm để nâng cao tỉ lệ tốt nghiệp bổ túc THPT Ôn tập thi tốt nghiệp, ĐH, CĐ nếu là lớp cuối cấp Hoc viên TB,khá, giỏi Thi CĐ, Đại học Thi TCCN, Học nghề Thi TN. BTTHPT Kết quả đạt được sau khi áp dụng quy trình kiểm tra, đánh giá, bồi dưỡng học viên trung bình, khá giỏi và phụ đạo học viên yếu, kém: Lần kiểm tra đánh giá thứ nhất: (kiểm tra chất lượng đầu năm) Lớp Mức độ áp dụng Kết quả học tập Giỏi Khá TB Yếu kém 10 Không 0% 5% 60% 30% 5% 11 Không 0% 8% 50% 36% 6% 12 Không 0% 16% 45% 25% 14% Lần kiểm tra đánh giá thứ hai: (kiểm tra học kỳ I) Lớp Mức độ áp dụng Kết quả học tập Giỏi Khá TB Yếu kém 10 Thường xuyên 0% 8% 72% 20% 0% 11 Thường xuyên 0% 10% 65% 25% 0% 12 Thường xuyên 0% 20% 52% 20% 8% Lần kiểm tra đánh giá thứ ba: (kiểm tra học kỳ II) Lớp Mức độ áp dụng Kết quả học tập Giỏi Khá TB Yếu kém 10 Thường xuyên 0% 16% 70% 14% 0% 11 Thường xuyên 0% 12% 73% 15% 0% 12 Thường xuyên 0% 25% 62% 10% 0% (Số liệu trên chỉ mang tính tương đối) d. Kết luận: Đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá cần phải được thực hiện đồng loạt từ dưới lên trên, từ giáo viên trẻ đến giáo viên lớn tuổi, từ năm này qua năm khác, đổi mới phương pháp giảng dạy có thể từ một vài bài ở một vài tiết học rồi nhiều hơn nữa, thậm chí có thể chỉ cần nảy sinh ý tưởng đổi mới và áp dụng một vài thay đổi trong một tiết dạy học đã là đổi mới. Tuy nhiên một số giáo viên cho rằng cứ phải giảng dạy bằng giáo án điện tử thì mới gọi là đổi mới phương pháp, trong khi đó phương pháp thì không có gì đổi mới chỉ thay bằng một dụng cụ hỗ trợ giảng dạy khác hiện đại hơn. Đổi mới phương pháp dạy và học phải thật sự là thay đổi “cách dạy” và “cách học” không xa rời, chê bỏ phương pháp cũ mà phải dựa trên phương pháp cũ để đánh giá mức độ thành công của phương pháp mới, so sánh phương pháp cũ và phương pháp mới để nhận biết được vấn đề cần phải thay đổi, đổi mới sao cho có hiệu quả. Đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá là một quá trình lâu dài đòi hỏi phái có thời gian quá độ để giáo viên và học sinh có thể đổi mới và thích ứng kịp thời. Với một sáng kiến kinh nghiệm ngắn gọn không thể nêu được đầy đủ về đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, ở sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ trình bày rút gọn một số kinh nghiệm mà tôi đã và đang thực hiện 3. Kết quả đạt được Đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá giúp học viên tự tin hơn khi tham gia các môn học đặc biệt là môn Sinh học, môn Sinh học không còn là một gánh năng đối với học viên nữa. Trong năm học 2008-2009 tỉ lệ học viên đỗ tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông tại Trung tâm đạt tỷ lệ 87,5% trong đó tỉ lệ học viên thi tốt nghiệp bổ túc trung học phổ thông môn Sinh học đạt tỉ lệ 100% đạt điểm trung bình trở lên. 4. Đề xuất kiến nghị Đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục để thực sự là đổi mới về phương pháp giảng dạy và đổi mới về kiểm tra đánh giá bộ môn Sinh học tôi đề nghị: - Giáo viên giảng dạy bộ môn sinh học cần kiên trì tìm tòi, thay đổi, từng bước thay đổi dần phương pháp giảng dạy, vận dụng sáng tạo các phương pháp giảng dạy để bài giảng thu hút được học sinh nhiều hơn nữa. - Ngành giáo dục cần quan tâm đầu tư hơn nữa về trang thiết bị, cơ sở vật chất để việc đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá có hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy đặc biệt là các trung tâm giáo dục thường xuyên nơi mà chất lượng giáo dục hiện còn đang xuống cấp. (Chúc các thầy(cô) tìm thấy ở đây ít nhiều điều bổ ích cho tài liệu của mình) Long An, ngày tháng năm 2008 Người thực hiện PHAN MẠNH HUỲNH

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài Những sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên - bộ môn sinh học.doc