Nghiên cứu chủ nghĩa duy vật Tây  u thời Cận đại cũng như nghiên cứu triết
học sẽ bổ sung thêm cho con người năng lực t ư duy trừu tượng trong hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới.
Tư duy trừu tượng là năng lực duy nhất của con người không thể bị thay thế.
Các khoa học cụ thể, do đặc thù của lĩnh vực, của ngành nghiên cứu, không thể
cung cấp khả năng trừu tượng và hệ thống ở tầng bậc phổ quát nhất. Chỉ có triết
học, bằng những nội dung tri thức đặc biệt của mình, mới là k hoa học có thể đảm
trách nhiệm vụ này.
Nhờ có triết học mà tư duy con người có thể tạo ra một trí tưởng tượng tích cực
trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5707 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật Tây Âu thời cận đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LỚP CAO HỌC ĐÊM 1 – K19
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT TÂY ÂU
THỜI CẬN ĐẠI
Giảng viên hướng dẫn : TS Bùi Văn Mưa
Học viên : Ngô Kiên Định
Lớp : Cao học Đêm 1 – Khóa 19
TP.HCM, Tháng 03 Năm 2010
M Ụ C L Ụ C
Lời nói đầu ................................................................................................................................
CHƯƠNG 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN, CÁC ĐẶC ĐIỂM
CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI
1.1. ĐIỀU KIỆN VỀ KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI ...............................................1
1.2. ĐIỀU KIỆN VỀ KHOA HỌC KỸ THUẬT...............................................................1
1.3. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC GIAI ĐOẠN NÀY...........1
CHƯƠNG 2
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CNDV TÂY ÂU THỜI
CẬN ĐẠI QUA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỤ THỂ
2.1. TRƯỜNG PHÁI DUY VẬT KINH NGHIỆM – DUY GIÁC.................................4
2.1.1. Phơrăngxít Bêcơn (Ph.Bêcơn, 1561-1626) .....................................................4
2.1.2. Tôma Hốpxơ (Thomas Hobbs, 1588 – 1679) ...............................................11
2.1.3. Giôn Lốcơ (John Locke, 1632 – 1704) ..........................................................14
2.2. TRIẾT HỌC KHAI SÁNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT PHÁP VỚI ĐẠI
DIỆN TIÊU BIỂU LÀ ĐÊNÍT ĐIĐƠRÔ (1713-1784) ..........................................15
CHƯƠNG 3
VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT TÂY ÂU TRONG THỜI
CẬN ĐẠI VÀ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
3.1. VAI TRÒ CỦA CNDV TÂ Y ÂU TRONG THỜI CẬN ĐẠI ...............................19
3.2. VAI TRÒ CỦA CNDV TÂ Y ÂU TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY..................19
Lời kết luận ...............................................................................................................................
Tài liệu tham khảo...................................................................................................................
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử triết học từ cổ đại đến nay là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua con đường phát triển lâu dài
và tùy thuộc vào lịch sử đời sống vật chất của xã hội (trước hết là cơ sở kinh tế),
mối quan hệ của triết học với tư tưởng chính trị, pháp quyền, tôn giáo, trình độ
phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội…. từng thời kỳ mà chủ nghĩa
duy vật đã có nhiều hình thức tồn tại khác nhau 1.
+ Hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật cổ đại. Đó
là chủ nghĩa duy vật chất phác, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích
chúng, và do đó chưa có cơ sở khoa học để đứng vững trước sự tiến công
của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo ngự trị trong thời trung cổ.
+ Hình thức thứ 2 của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật siêu hình thế
kỷ XVII – XVIII. Hình thức này ra đời trong hoàn cảnh giai cấp tư sản
đang lên, họ xây dựng chủ nghĩa duy vật của mình nhằm chống lại thế giới
quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Do hạn chế bởi trình độ
khoa học và lợi ích giai cấp cho nên nó mang tính chất siêu hình.
+ Hình thức thứ 3 của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Là
chủ nghĩa duy vật được xây dựng trên cơ s ở của khoa học hiện đại và
không ngừng phát triển do nhu cầu thực tiễn cùng sự phát triển của khoa
học thời đại mới.
Trong phạm vi tiểu luận chúng ta sẽ nghiên cứu Những thành tựu và hạn chế
của Chủ nghĩa duy vật Tây Âu thời Cận đại (thuộc hình thức tồn tại thứ 2 của
chủ nghĩa duy vật) để đánh giá một giai đoạn của chủ nghĩa duy vật trên con
đường phát triển lâu dài của mình.
1
Xem: TS Nguyễn Ngọc Thu - TS Bùi Văn Mưa (đồng chủ biên), Giáo trình Đại cương lịch sử triết học,
Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, Tp.HCM, 2003, tr. 5 - 15.
- 1 -
CHƯƠNG 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN, CÁC ĐẶC
TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI
1.1 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI:
Khác với thời Phục hưng, thời Cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây
Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp
phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: cách mạng tư
sản Hà Lan (cuối thế kỷ XVI), cách mạng tư sản Anh (1642 – 1648) và đặc biệt là
cuộc cách mạng tư sản khá toàn diện và rất triệt để ở Pháp (1789 – 1794) đã xóa
bỏ hoàn toàn chế độ Phong kiến, xác lập chế độ cộng hòa tư sản. Đây cũng là thời
kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức
sản xuất thống trị Tây Âu.
1.2 ĐIỀU KIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT:
Những tiền đề trên đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát
triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ
sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên -
thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn t ới “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận
thức trong sự trừu tượng, t ách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập
đến vận động thì là sự vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm
cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc, s iêu hình. Tuy nhiên
việc khoa học đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt là khoa học tự nhiên đã tạo
tiền đề cho sự xem xét thế giới một cách biện chứng.
1.3 NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC THỜI KỲ NÀY:
Thứ nhất, trên bình diện thế giới quan, triết học thể hiện rõ thế giới quan duy
vật máy móc bên cạnh quan điểm tự nhiên thần luận của giai cấp tư sản. Chủ
nghĩa duy vật trở thành thế giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ và cách mạng,
khoa học đã trở thành sức mạnh của họ trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp
Phong kiến và Nhà thờ. Mặc dù các thành tựu khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học,
được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn cuộc sống và trong nhận thức nhưng những
niềm tin tôn giáo vẫn chưa bị đẩy lùi, những giá trị của Thượng đế được thừa nhận
- 2 -
trước đây bây giờ được coi là những giá trị của Giới tự nhiên. Giới tự nhiên được
gán ép cho những tính siêu nhiên, thần thánh. Do đó, màu sắc tự nhiên thần luận là
một nét đặc sắc của chủ nghĩa duy vật máy móc lúc bấy giờ.
Thứ hai, trên bình diện nhận thức – phương pháp luận, triết học chủ yếu đi
tìm phương pháp nhận thức m ới để khắc phục triệt để phương pháp k inh viện giáo
điều, nhằm xây dựng một tr iết học và một k hoa học mới có sự liên hệ mật thiết với
nhau, hướng đến xây dựng tri thức. Tuy nhiên sự đối lập giữa cảm tính và lý tính
rất gay gắt kéo theo sự đối lập giữa phư ơng pháp quy nạp và phương pháp diễn
dịch, giữa tư duy tổng hợp và tư duy phân tích đã sản sinh ra sự đối lập của chủ
nghĩa kinh nghiệm – duy giác và chủ nghĩa duy lý – tự biện. Sự đối lập này đã sản
sinh ra hai phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức khoa học: phương pháp
kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học tự nhiên thực nghiệm và phương pháp tư
duy tư biện trong nghiên cứu khoa học tự nhiên lý thuyết. Do khoa học thực
nghiệm chiếm ưu thế nên phương pháp siêu hình kinh nghiệm đư ợc đề cao và do
cơ học vươn lên vai trò hàng đầu trong các ngành khoa học tự nhiên nên chủ nghĩa
cơ giới (máy móc) xuất hiện và xâm nhập trở lại vào các ngành khoa học đó. Vì
vậy, trào lưu triết học thống trị trong giai đoạn này là chủ nghĩa duy vật siêu hình –
máy móc. Tuy nhiên sau đó chủ nghĩa duy vật siêu hình – máy móc lại bộc lộ
những nhược điểm yếu kém của mình trong quá trình tư duy lý luận vì vậy phép
biện chứng duy tâm đã ra đời thay thế.
Thứ ba, trên bình diện nhân sinh quan – ý thức hệ, nền triết học thời kỳ này
thể hiện rõ tinh thần khai sáng và chủ nghĩa nhân đạo tư sản. Nó là ngọn cờ lý
luận của giai cấp tư sản để tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn quần chúng thực hiện
những hành động cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – chủ
nghĩa tư bản. Khát vọng giải phóng con người ra khỏi sự thống trị của chế độ
Phong kiến – giáo hội Nhà thờ, ra khỏi sự ngu dốt, ra khỏi chi phối âm thầm của
các lực lượng tự nhiên nhằm hướng đến một cuộc sống tự do, hạnh phúc, công
bằng, bác ái, sung túc cho con người trên trần gian được đặt ra. Khát vọng này có
sức cuốn hút mạnh mẽ quần chúng đi đến một hành động cách mạng cụ thể để giải
phóng mình và giải phóng xã hội.
- 3 -
Cuối thời cận đại, khi tiếp tục dào sâu nhân sinh quan nhân đạo tư sản, khắc
phục thế giới quan duy vật máy móc và phương pháp luận s iêu hình của các
trường phái triết học đầu thời cận đại đã xuất hiện Triết học cổ điển Đức - giai
đoạn bản lề của triết học phương Tây nối thời kỳ cận đại và thời kỳ hiện đại.2
2
Xem: TS Nguyễn Ngọc Thu - TS Bùi Văn Mưa (đồng chủ biên), Giáo trình Đại cương lịch sử triết học,
Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, Tp.HCM, 2003, tr. 100 – 102.
- 4 -
CHƯƠNG 2
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CNDV TÂY ÂU THỜI
CẬN ĐẠI QUA CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CỤ THỂ
2.1 TRƯỜNG PHÁI DUY VẬT KINH NGHIỆM – DUY GIÁC:
Là trường phái triết học Anh do Ph.Bêcơn đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển
theo khuynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốcơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy giác.
2.1.1 Phơrăngxít Bêcơn (Ph.Bêcơn, 1561-1626)
Ph.Bêcơn là nhà triết học vĩ đại thời cận đại, là người sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Người có công lao to lớn
chống lại chủ nghĩa kinh viện, khôi phục và phát triển truyền thống duy vật cổ đại
trong thời kỳ mới.
Ph.Bêcơn đã coi chủ nghĩa kinh viện là vô ích, chỉ là những lập luận trừu
tượng, không có nội dung. Khoa học mới (phương pháp luận của khoa học tự
nhiên thực nghiệm) sẽ đem lại cho con người sức mạnh trong cuộc chinh phục giới
tự nhiên. Để đạt được điều đó, nhận thức khoa học phải dựa trên các sự kiện và từ
đó khái quát thành lý luận. Phương pháp quy nạp dựa trên quan sát, phân tích, so
sánh, thực nghiệm là phương pháp chủ yếu để nhận thức chân lý. Song, để có được
phương pháp trước hết phải loại bỏ những “ảo tưởng” cản trở con đường nhận thức
như: ảo tưởng loài, ảo tưởng hang động, ảo tưởng thị trường, ảo tưởng nhà hát.
Ph.Bêcơn đã đưa ra những quan điểm duy vật, coi vật chất là tổng hợp cát hạt,
coi giới tự nhiên là tổng hợp các vật thể đa dạng về chất. Vận động cũng đa dạng
và là thuộc tính không thể tách rời của vật chất… Những tư tưởng của Ph.Bêcơn
có ý nghĩa lớn, chống lại chủ nghĩa duy tâm tôn giáo.
Song chủ nghĩa duy vật của Ph.Bêcơn là siêu hình và không triệt để. Ông quá
nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp, đề cao phân tích. Tuy chống lại chủ nghĩa
kinh viện nhưng lại thừa nhận sự tồn t ại của Thượng đế, thừa nhận lý luận về
“chân lý hai mặt”…
Những tư tưởng chủ yếu của hệ thống triết học của Ph.Bêcơn
a) Quan điểm thực tiễn:
- 5 -
Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Ph.Bêcơn đã
nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và triết học và sự cần thiết phải
đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng lý luận của công cuộc phát
triển kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ
những bất công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn vinh. Khác với những nhà nhân
đạo cộng sản không tưởng, Ph.Bêcơn khẳng định phải cải t ạo chính xã hội hiện
thực đương thời trên cơ sở phát triển khoa học và triết học chứ không phải bằng
cách tạo ra mô hình lý tưởng. Ông cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các
nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của
con người đối với giới tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm được.
Ph.Bêcơn cho rằng nhiệm vụ của triết học là đại phục hồi các khoa học,
nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Đánh giá
cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Ph.Bêcơn khẳng định "tri
thức là sức mạnh". Từ đó ông đi đến một một kết luận mang tính cách mạng đối
với người đương thời, coi "hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và
ghi nhận tính chân lý của các triết học". Muốn chinh phục tự nhiên thì con người
cần phải nhận thức các quy luật của nó, vận dụng và tuân theo chúng.
b) Quan niệm về thế giới và con người
Thế giới tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất:
Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Ph.Bêcơn cho rằng để lý giải
được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất là đủ. Để giải
thích thế giới, ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixt ốt theo hướng duy
vật. Ông xoá bỏ nguyên nhân mục đích của các sự vật và cho rằng, mọi cái trên thế
gian chỉ tồn tại từ ba nguyên nhân: hình dạng, vật chất và vận động. Khác với
Arixtốt, ông coi hình dạng của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản
chất hoàn toàn khách quan của nó; không thể có cái gọi là "hình dạng của hình
dạng" phi vật chất, cũng như "vật chất đầu tiên" phi hình dạng là không có thực;
mọi "hình dạng" đều chỉ là "h ình dạng" của vật chất. Cả ba nguyên nhân "hình
dạng", "vật chất" và "vận động" thực chất đều là bản tính của vật chất. Vì thế vật
chất có bản tính là tích cực, có sinh khí chứ không phải thụ động.
- 6 -
Ph.Bêcơn đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và đương
thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất
của sự vật và vận động của nó. Khẳng định vận động là đặc tính của sự vật,
Ph.Bêcơn cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động của chúng. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhận xét, Ph.Bêcơn đã hiểu "rằng trong những đặc tính vốn có của
vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và quan trọng nhất, không phải chỉ với tính
cách là máy móc và toán học mà hơn nữa còn với tính cách là xu hướng, sức sống
của vật chất".
Ph.Bêcơn đã tìm cách phân loại các dạng vận động. Theo ông có 19 dạng
vận động: 1) vận động xung đối; 2) vận động móc nối; 3) vận động giải phóng mà
thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực; 4) vận động, trong đó sự vật
hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5) vận động liên tục; 6) vận động có lợi;
7) vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8) vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9)
vận động từ tính; 10) vận động sản s inh ra; 11) vận động chạy trốn; 12) vận động
thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi nhận; 14) vận động ngoại tuyến; 15) vận động
theo xu hướng; 16) vận động hùng tráng; 17) vận động tự quay; 18) vận động rung
động; 19) đứng yên.
Từ đây, có thể thấy rằng, về cơ bản Ph.Bêcơn đã phân loại vận động theo
cảm tính, mô tả, chưa biết phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất,
mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học;
không thấy được sự phát triển của thế giới vật chất đã dẫn đến xuất hiện những
hình thức vận động khác nhau về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc của vật chất.
Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng vận động ở Ph.Bêcơn là một quan niệm
duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó. Ông cũng là người đầu tiên
nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Con người là một sản phẩm của thế giới:
Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con
người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixt ốt về con người,
Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật",
"linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và
- 7 -
động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng
trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác
động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn
này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có
nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con
người, mang tính thần thánh. Vì con người có cả hai dạng linh hồn nên con người
vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó s iêu phàm, và do đó, bản chất con
người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người
cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo
mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện
pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ
thuật của con người. Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả
hiệp giai cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo.
c) Quan niệm về nhận thức:
Cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi nhận thức:
Ph.Bêcơn luôn cho rằng cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri
thức. Khoa học thực sự phải biết sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp
khoa học để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các
quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Với
hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan, Ph.Bêcơn
đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con người, những
hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt và nhất thời, mà là những
sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức. Ông gọi
chúng là các “ảo tượng”
Lý luận về ảo tưởng:
Các ảo tưởng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một phần có
trong bản chất của trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong quá trình lịch sử
nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lí và nhân cách của mỗi
người. Theo Ph.Bêcơn, "trí tuệ con người tự đặt ra chướng ngại vật và cạm bẫy
cho mình”. Vì các ảo tưởng thường xuyên ám ảnh con người, tạo nên cho nó
- 8 -
những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, nói tóm lại,
cản trở con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu". Vì vậy,
quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng là quá
trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình.
Ph.Bêcơn phân loại các dạng ảo tưởng như sau:
Ảo tượng “loài”: nó s inh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản
chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai cũng dễ dàng gán cho
sự vật những đặc tính của riêng con người. Bêcơn nói: "Các ảo tưởng loài có cơ sở
trong chính bản thân loài người, bởi vì thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm
tính của chúng ta là thước đo sự vật. Ngược lại, t ất cả các giác quan cũng như trí
tuệ đều được dựa trên sự tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự
tương đồng của thế giới. Tr í tuệ con người cũng tương tự như chiếc gương méo,
khi nó pha trộn bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự
vật dưới dạng bị xuyên tạc, bóp méo".
Sở dĩ có loại ảo tưởng này, theo Ph.Bêcơn là do các giác quan cũng như trí
tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Một trong những biểu hiện của ảo
tưởng này là ở chỗ, người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan
của mình là thước đo tất thảy mọi vật. Ảo tưởng loài do vậy rất bền vững. Chúng
ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ảo tưởng này bằng cách hoàn thiện các nhận
thức của con người như thực nghiệm ….
Việc Ph.Bêcơn đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp
lý. Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt
động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong
nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan thuần tuý" của ông là một
điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan
niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó, vì sự tiến bộ của khoa học.
Ảo tưởng “hang động”: Ngoài những ảo tưởng đối với cả loài người, thì
mỗi người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc thù của mình làm
xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật. Chúng còn xuất hiện do hoàn cảnh giáo
dục của mỗi người cũng khác nhau. Thực chất ảo tưởng hang động chính là ảo
- 9 -
tưởng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác nhau.
Sở dĩ gọi là ảo tưởng hang động vì mượn câu chuyện của Platôn về hang động,
Ph.Bêcơn ví trí tuệ của con người như hang động méo mó của Platôn, mà trong đó
thể hiện cái bóng của các sự kiện diễn ra bên ngoài.
Để hạn chế dạng ngẫu tượng này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách
của mình, thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể ….
Ảo tưởng “thị trường”: Nó xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái,
chạy theo các quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm phổ
biến giáo điều, các tập quán truyền thống, trong đó bên cạnh nhiều yếu tố tích cực,
cũng chứa đựng không ít những điều lạc hậu. Các ảo tưởng này còn xuất hiện do
ngôn ngữ khoa học của chúng ta đôi chỗ còn chưa thật chuẩn xác. Quan niệm trên
của Ph.Bêcơn có nhiều điểm hợp lý và tiến bộ.
Ảo tưởng “nhà hát” : Đó là những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuy ết,
quan niệm thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý. Phê phán tệ sùng bái
cá nhân của nhiều nhà khoa học thời đó, Ph.Bêcơn khẳng định "chân lý là con gái
của thời gian chứ không phải của uy tín". Để tìm ra chân lý chúng ta không nên rơi
vào chủ nghĩa hoài nghi luận, nhưng cũng không nên giáo điều trong nhận thức.
Nhìn chung, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo tưởng của
Ph.Bêcơn còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh nhận thức luận,
vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục ảo tưởng một cách hợp lý. Công
lao của ông trong học tuyết về ảo tưởng là ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề cơ sở xã hội
của quá trình nhận thức; ở chỗ khẳng định quá trình nhận thức sự vật phải hoàn
toàn khách quan, xem xét với tinh thần phê phán, cách mạng chứ không giáo điều.
Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với thời đại của ông mà còn
đối với cả hiện nay.
Quan điểm về phương pháp nhận thức khoa học:
Ph.Bêcơn là một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế của
tam đoạn luận và của lôgic hình thức - cái mà từ trước đến bấy giờ vẫn được coi là
phương pháp nhận thức vạn năng, đồng thời ông là một trong những người khởi
xướng ra tư tưởng lôgic mới. Ph.Bêcơn liệt kê, phân tích những phương pháp nhận
- 10 -
thức cơ bản đang được sử dụng phổ biến để từ đó đưa ra một phương pháp nhận
thức mới cao hơn.
Theo Ph.Bêcơn, từ trước đến bấy giờ người ta chủ yếu dùng hai phương
pháp nhận thức là "phương pháp con nhện" và "phương pháp con kiến". Phương
pháp con nhện là phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng và cứ liệu vụn vặt
người ta đã vội vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một cách vô căn cứ về bản chất
của sự vật. Phương pháp đó chẳng khác gì con nhện chăng tơ, chỉ trong khoảnh
khắc đã xong nhưng không chắc chắn. Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm
lặt, sưu tầm từng ít dữ kiện về sự vật, nhưng rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra
những kết luận đúng đắn trên cơ sở những dữ kiện đó. Phương pháp này chỉ cho ta
hiểu những nét bề ngoài vụn vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích thực
của sự vật.
Để khắc phục những hạn chế nói trên, Ph.Bêcơn đưa ra "phương pháp con
ong". Bản chất của "phương pháp con ong" là từ những tri thức do cảm tính đem
lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra những tri thức
mới bằng tư duy lý tính. Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Ph.Bêcơn, là phương
pháp quy nạp. Ông coi phương pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa học. Nhưng
ông không thoả mãn với những phương pháp quy nạp đã có (quy nạp đầy đủ, quy
nạp không đầy đủ). Ông là người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy nạp loại
trừ, tức phương pháp quy nạp mà trong đó có phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ,
đi đến khẳng định bản chất của sự vật.
Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Ph.Bêcơn là nhà duy cảm
(mặc dù không cực đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm; là
người có công khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống
phương pháp luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại.
d) Quan điểm về chính trị - xã hội:
Ông đòi hỏi phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để chống lại mọi
đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ. Phải phát triển một nền công
nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ của
- 11 -
kỹ thuật. Ông chủ trương cải tạo xã hội thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
đông thời ông cũng chống lại mọi cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân.
2.1.2 Tôma Hốpxơ (Thomas Hobbs, 1588 – 1679)
Hốpxơ là nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ
XVII, người có công cụ thể hoá và phát triển nhiều quan niệm duy vật của
Ph.Bêcơn. Cụ thể:
Ông đã khẳng định chỉ có các vật thể là tạm thời, còn vật chất là tồn tại vĩnh
viễn. Do thế giới quan s iêu hình nên ông đã phủ nhận sự đa dạng về chất của thế
giới, coi sự vận động của thế giới vật chất chỉ là sự di chuy ển vị trí đơn giản trong
không gian.
Điểm tiến bộ hơn của Hốpxơ so với Ph.Bêcơn là ông đã kiên quyết chống lại
chủ nghĩa kinh viện và tôn giáo, ông không thừa nhận “chân lý hai mặt”. Ông phê
phán học thuyết duy tâm của Đềcáctơ về “ý niệm bẩm sinh” và phát triển cảm giác
luận duy vật trong lý luận nhận thức. Ông coi cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc
của mọi tri thức, song ông cũng không coi nhẹ vai trò của lý tính.
Những tư tưởng chủ yếu của hệ thống triết học của T.Hôpxơ
Cũng như Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ cho rằng tri thức là sức mạnh, do vậy phải tăng
cường phát triển các khoa học, nhất là triết học. Lý luận triết học phải phục vụ thực
tiễn của con người vì nó giúp cho con người hiểu biết về các sự vật. T.Hôpxơ là
người cụ thể hoá và phát triển các quan niệm duy vật của Ph.Bêcơn trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Ông loại bỏ nhiều yếu tố thần học và tiếp tục cuộc đấu
tranh cho thế giới quan khoa học duy vật. Các vấn đề chính trị xã hội được ông đặt
lên hàng đầu.
Khác với Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ khẳng định thần học là lĩnh vực hoàn toàn
thuộc về tôn giáo; sự ngu dốt, sợ hãi sinh ra tôn giáo. Còn triết học là hoạt động trí
tuệ của con người nhằm khám phá ra bản chất của sự vật. Tất cả những lĩnh vực
khoa học như hình học, vật lý học, đạo đức... đều chỉ là những lĩnh vực khác nhau
của triết học. Trong một mức độ nhất định, T.Hôpxơ đã đồng nhất đối tượng của
triết học với đối tượng của các khoa học cụ thể. Tuy nhiên cách đặt vấn đề của ông
- 12 -
mang tính tiến bộ, với mong muốn loại bỏ hoàn toàn thần học và chống lại thuyết
về chân lý hai mặt của Ph.Bêcơn.
Theo T.Hôpxơ, vấn đề trung tâm của triết học là vấn đề con người. Các t ác
phẩm Về con người (1658), Về người công dân (1642)...của ông đều bàn về vấn đề
này. Từ việc coi con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể đạo
đức và tinh thần, ông chia triết học thành triết học tự nhiên và triết học đạo đức,
hay còn gọi là triết học xã hội.
a) Quan điểm về tự nhiên:
T.Hôpxơ thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới. Đó là sự tồn tại có
trước con người, không phải do chúa trời sinh ra. Theo quan điểm duy danh, ông
khẳng định thế giới chỉ tồn tại những sự vật riêng lẻ. M ọi khái niệm như "thực thể",
"vật chất"... đều chỉ là những tên gọi. Ông nói, "trong thế giới chẳng có gì chung
cả, ngoài các tên gọi". Tuy nhiên ông không phủ nhận cái chung trong trí tuệ con
người, mặc dù quy nó thành các ngôn từ, tên gọi. Từ đây, ông phủ nhận nội dung
bản thể luận của tất cả các phạm trù mang tính khái quát của khoa học. Thậm chí
ông coi "chân lý không phải là tính chất của các sự vật mà là tính chất của các suy
diễn của chúng ta về các sự vật". "Giữa các tên gọi và các sự vật chẳng có sự giống
nhau nào cả, và không thể có một sự so sánh nào cả".
Nói chung, trong quan niệm của T.Hôpxơ về thế giới, ông là nhà duy vật nhưng
lập trường duy danh đã làm giảm giá trị các quan niệm duy vật của ông. Ông triệt để
hơn so với Ph.Bêcơn trong quan niệm về giới tự nhiên, về quan hệ giữa triết học và
thần học…. nhưng chủ nghĩa duy danh đã dẫn ông xa rời lập trường đó.
b) Quan điểm về nhận thức:
T.Hôpxơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng, cơ sở của nhận thức là tri
giác cảm tính. Nhận thức có hai cấp độ: cảm tính và lý tính. Nhưng do hạn chế lịch
sử, T.Hôpxơ vẫn chưa hiểu được mối liên hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính.
T.Hôpxơ là nhà duy vật cơ học điển hình. Ông coi cơ học và toán học là mẫu
mực của bất kì tư duy khoa học nào. Ông quan niệm vận động chỉ là sự thay đổi vị
trí của các vật thể; nguồn gốc vận động là do va chạm bên ngoài đầu tiên giữa các
- 13 -
vật thể chứ không phải do nguyên nhân bên trong, là cái vốn có của vật chất.
T.Hôpxơ không thấy đặc điểm riêng của giới hữu cơ. Ông cho rằng trái tim là gì
nếu không phải là cái lò xo; dây thần kinh là gì nếu không phải những sợi chỉ; còn
khớp xương là gì, nếu không phải là những bánh xe làm cho cơ thể vận động.
c) Triết học xã hội
Con người, theo T.Hôpxơ là một thực thể thống nhất giữa tính tự nhiên và
tính xã hội. Về bản tính tự nhiên, mọi người khi sinh ra đều như nhau, sự khác
nhau nhất định giữa họ không lớn. Nhưng con người ai cũng có khát vọng và nhu
cầu riêng của mình. Đây là tiền đề để con người làm điều ác. Mỗi người đều ích kỉ,
vì lợi ích riêng của mình mà có thể chà đạp tất cả. "Con người là một động vật độc
ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn". Mỗi người hành động trước tiên là "vì
tính ích kỉ yêu bản thân mình chứ không phải vì xã hội, không phải vì lợi ích của
người khác". Vì thế mà đẩy loài người đến chiến tranh liên miên, gây ra bao nhiêu
đau khổ và chết chóc. Công lý và khoa học về pháp quyền, bởi vậy, luôn luôn bị
bác bỏ bởi những ngòi bút và thanh kiếm. Theo T.Hôpxơ, bản tính tự nhiên của
con người đó là tính ích kỉ; trạng thái xã hội mà con người sống là "một cuộc chiến
tranh của tất cả chống lại tất cả".
Tuy nhiên, theo T.Hôpxơ, "trạng thái tự nhiên" trên đây của con người ngày
nay không còn nữa; nó tồn tại một cách trọn vẹn ở thời nguyên thuỷ xa xưa. Tư
tưởng của T.Hôpxơ được Đácuyn áp dụng vào thế giới động vật và phát hiện ra
quy luật đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên của các loài sinh vật. Sau đó
những người theo chủ nghĩa Đácuyn xã hội truyền bá, áp dụng trở lại xã hội.
Quam niệm của T.Hôpxơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc trưng riêng
của loài người so với loài vật, chưa thấy được bản tính xã hội, tính nhân loại của
con người, nhưng nó mang những yếu tố hợp lý nhất định: M ột mặt, nó cho thấy
sự tương đồng nào đó giữa loài người và loài vật, mặt khác, nó chỉ ra rằng, chính
lợi ích của các cá nhân là một trong những động lực trực tiếp của hoạt động của
con người và phát triển của xã hội.
Xuất phát từ quan niệm trên đây về trạng thái tự nhiên của con người,
T.Hôpxơ khẳng định khả năng bẩm sinh của con người càng bình đẳng bao nhiêu
- 14 -
thì nó càng bất hạnh bấy nhiêu, vì cuộc đấu tranh s inh tồn của mỗi người càng khó
khăn và phức t ạp. Ai cũng phải lo sợ cho tính mạng và cuộc sống của mình. Và
chính điều đó đã thúc đẩy mọi người đi đến kí kết khế ước xã hội, thiết lập nên nhà
nước. Do vậy, mỗi dân tộc đều phải trải qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn tự
nhiên và giai đoạn xã hội công dân (giai đoạn có nhà nước).
Nhà nước là sự sáng tạo cao nhất mà con người có thể làm được. Sau khi nhân
dân lập ra nhà nước, nhà nước đóng vai trò điều hành sự phát triển của xã hội, xử
phạt những ai vi phạm lợi ích chung của mọi người. Nhà nước "tựa như một con
người nhân tạo" mà chính phủ là linh hồn của con người đó. Tuy nhiên sự xuất
hiện của nhà nước cũng có mặt hạn chế, ở chỗ nó làm giảm các khát vọng tự nhiên
của con người, do đó tự do của con người bị thu hẹp. Nhưng con người cần phải có
nhà nước để được sống yên ổn. Đạo luật của nhà nước là tất yếu. Nhiệm vụ của nhà
nước là phải trừng phạt, nhưng công minh; mỗi cá nhân có nghĩa vụ phải tuân theo.
Mặc dù cho rằng, sự ngu dốt, sự sợ hãi sinh ra tôn giáo nhưng T.Hôpxơ lại
khẳng định bản thân tôn giáo là cần thiết để khuyên răn mọi người làm theo các
chuẩn mực của nhà nước, tức làm theo luật pháp. Đó là công cụ để nhà nước dễ
dàng chỉ đạo xã hội hơn, nhưng nhà nước không phải tuân theo nhà thờ mà nhà thờ
phải phục tùng nhà nước. Các nhà vô thần tuy không có tội nhưng là những người
suy nghĩ nông cạn.
Nhìn chung, triết học xã hội của T.Hôpxơ có nhiều mặt hạn chế trong quan
niệm về bản chất, nguồn gốc của nhà nước, cũng như về bản chất con người. Ông
còn chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật tự nhiên trong việc xem xét các
hiện tượng xã hội. Tuy nhiên, việc ông coi nhà nước là do con người lập ra để phục
vụ con người là một đòn giáng mạnh vào các quan niệm duy tâm, thần thánh hoá
chế độ phong kiến đang thối nát, suy tàn. Việc khẳng định cần thiết phải xoá bỏ
trạng thái tự nhiên của con người là thể hiện xu hướng tư sản tiến bộ đòi đấu tranh
xoá bỏ thần quyền và đẳng cấp của chế độ phong kiến, mở rộng dân chủ và xã hội.
2.1.3 Giôn Lốcơ (John Locke, 1632 – 1704)
Lốcơ đã phát triển hơn nữa cảm giác luận duy vật của Ph.Bêcơn, Hốpxơ, phê
phán học thuyết duy tâm của Đềcáct ơ. Song vấn đề ở đây là chủ nghĩa duy vật của
- 15 -
Lốcơ không triệt để khi ông cho rằng nhờ cảm giác chúng t a tri thức được đặc
tính có trước và đặc tính có sau. Ngoài ra ông còn coi những đặc tính có sau: mùi
vị, màu sắc, âm thanh, không có ý nghĩa khách quan mà chỉ là những cảm giác
chủ quan dựa trên cơ sở kết hợp những đặc t ính có trước theo các cách khác nhau.
Và chính chỗ không triệt để này mà chủ nghĩa duy giác Lốccơ trở thành cội
nguồn lý luận đưa đến sự xuất hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan Béccơly lẫn
chủ nghĩa duy vật Pháp.
2.2 TRIẾT HỌC KHAI SÁNG VÀ CH Ủ NGHĨA D UY VẬT PHÁP VỚI
ĐẠI DIỆN TIÊU BIỂU LÀ ĐÊNÍT ĐIĐƠRÔ (1713-1784):
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một giai đoạn phát triển quan trọng
trong tiến trình phát triển tư tưởng triết học Tây Âu và thế giới. Triết học K hai
sáng Pháp thế kỷ XVIII là sự kế tục và phát triển mới về chất các khuynh hướng tư
tưởng bài trừ siêu hình học thế kỉ X VII, cũng như đánh giá lại các giá trị tuyền
thống. Nó bắt đầu từ việc phê phán không thương tiếc các quan niệm cũ về thế giới
và con người.
Là vũ khí lí luận của giai cấp tư sản Pháp trong thời kì chuẩn bị cho cuộc đại
cách mạng tư sản Pháp 1789, được hình thành bởi các nhà khai sáng Pháp, triết học
Khai sáng Pháp có nhiệm vụ thu hút, giác ngộ, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tiến
bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ phong kiến,
xây dựng chế độ tư sản. Chính vì vậy mà triết học Khai sáng Pháp có nội dung cơ
bản là duy vật, tiến bộ, nó đề cập nhiều đến tiến bộ xã hội, tự do của con người...
Cùng với sự hưng thịnh của văn hoá Pháp thời kì này, trên lĩnh vực tư tưởng
có nhiều nhà khai sáng, họ vừa là các nhà triết học, vừa là những người uyên bác
về nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học. T iêu biểu là Sáclơ Đờ
Môngtexkiơ (1689-1775), Phrăngxoa Mari Vônte (1694-1778), Giăng Giắc Rut xô
(1712-1778), Đênít Điđơrô (1713-1784), Giuliên Ốpprôi đờ La M éttơri (1709-
1751), Hônbách (1723-1789)... Ở đây chỉ đề cập đến tư tưởng triết học của các nhà
duy vật vô thần Pháp mà người giữ vai trò lãnh đạo là Đ.Điđơrô.
- 16 -
Các nhà triết học duy vật vô thần Pháp thế kỷ XVIII mà các đại biểu xuất sắc
là La M éttơri, Hônbách, Điđơrô, Henvêtiúyt (nhóm Bách khoa toàn thư Pháp) đã
góp phần quan trọng vào sự phát triển triết học duy vật vô thần. Họ đấu tranh kiên
quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu giới tự nhiên. Họ cho rằng,
không nắm được các quy luật của tự nhiên thì con người không thể có hạnh phúc.
Mục đích của khoa học và triết học là phải nhận thức và chinh phục giới tự nhiên.
Tư tưởng triết học của Đ.Điđơrô
Đ.Điđơrô sinh tại một thành phố ở Đông Bắc nước Pháp, trong một gia đình
thợ thủ công. Sau nhiều năm học ở Pari, do chịu ảnh hưởng tư tưởng của các nhà
khai sáng, ông từ bỏ ý định thành nhà hoạt động tôn giáo, như mong muốn của
người cha. Ông là người khởi xướng và chủ biên bộ Bách khoa toàn thư của khoa
học, nghệ thuật và thủ công nghiệp (1751-1780). Đây là một trong những bộ bách
khoa toàn thư đầu tiên của thế giới - một trong những di sản văn hoá vĩ đại không
chỉ của nước Pháp mà cả Tây Âu thế kỉ XVIII nói chung. Nó có vai trò rất to lớn
trong việc xây dựng và truyền bá thế giới quan khai sáng. Ông có nhiều tác phẩm
như Tư tưởng triết học (1746), Cuộc dạo chơi của nhà hoài nghi luận hay là Alleax
(1747), là t ác giả nhiều tác phẩm văn học mang đầy tính triết lý như Nữ tu sĩ,
Người cháu của ông Ramô...
a. Quan niệm về thế giới, con người và nhận thức:
Đ.Điđơrô khẳng định tính vật chất của thế giới đồng thời phê phán mạnh mẽ
những điểm không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh, mỉa mai quan niệm duy tâm
chủ quan của G.Béccơly vì ông này đã quy toàn bộ thế giới thành các cảm giác của
một chủ thể. Đ.Điđơrô ví chủ thể của G.Béccơly như một chiếc đàn pianô ngộ
nhận rằng nó là nhạc cụ duy nhất trên thế gian, và mọi sự hài hoà của vũ trụ đều
diễn ra trong đó. Theo ông, trong vũ trụ chỉ có một thực thể, cả trong con người
lẫn động vật và các sự vật khác, đó là vật chất.
Đ.Điđơrô đã có bước tiến mới trong quan niệm về vận động, thừa nhận sự
phát triển của thế giới. Ông cho rằng, bản tính cố hữu của vật chất là vận động.
Chính vận động là năng lực sống động của vật chất. Ông quan niệm sự dịch
chuyển của vật thể từ vị trí này sang vị trí khác không phải là vận động mà chỉ là
- 17 -
sự di động, còn vận động thì có cả ở vật đang vận động lẫn vật đứng yên. Ông
khẳng định, trong quá trình vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ chọn lọc
mhững gì giúp cho nó ngày càng hoàn thiện, đồng thời đào thải những vật nào
không thích nghi hoặc không tuân theo quy luật của nó. Cấu trúc và trạng thái của
các s inh vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Với quan
niệm này, ông là bậc tiền bối của thuyết tiến hoá của Đácuyn.
Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. Thể xác
và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có nguồn gốc từ chúa mà
là một tổng thể các hiện tư ợng t âm lý. Bản thân nó cũng là đặc tính của vật chất.
Ông viết: "Không có cơ thể con người thì nó (tức linh hồn) không là cái gì cả. Tôi
khẳng định rằng, không có cơ thể con người thì không thể giải thích được cái gì
cả". Ông nhấn mạnh, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức cũng
như mọi quá trình tâm lý của anh ta. Ông đã nhận thấy, nhân cách con người là sản
phẩm của hoàn cảnh môi trường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng, bản thân
môi trường và hoàn cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người, và vì vậy,
cả con người lẫn hoàn cảnh sống của nó đều mang tính lịch sử. Đây cũng là hạn
chế chung của các triết học trước M ác.
c. Về lý luận nhận thức
Cũng như các nhà duy vật khác, Đ.Điđrô thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
tính thứ hai của ý thức. Ông cho rằng quá trình chuyển biến từ vô tri vô giác tới
khả năng cảm giác, tư duy gắn liền với quá trình phát triển của cấu trúc vật chất từ
vô cơ, hữu cơ đến sự sống và cơ thể con người. Tuy nhiên, cũng như các nhà duy
vật trước Mác, ông chưa thấy được rằng, ý thức không chỉ là sản phẩm của vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người, mà còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội.
Đề cao vai trò đặc b iệt của quá trình nhận thức đối với sự phát triển của xã hội,
Đ.Điđrô đưa ra tư tưởng biện chứng khẳng định tính vô cùng t ận trong sự phát
triển của giơí tự nhiên, cũng như quá trình nhận thức của con người. Tuy khả năng
nhận thức của mỗi cá nhân là hữu hạn, nhưng đối với nhân loại về nguyên tắc có
thể nhận thức được toàn bộ thế giới, mặc dù quá trình đó cũng là vô tận.
b. Quan niệm về tôn giáo
- 18 -
Là nhà triết học duy vật triệt để và vô thần nhất của triết học Khai sáng Pháp
thế kỷ XVIII, Đ.Điđơrô phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, coi Thượng đế chỉ là
sự thần thánh hoá các điều kiện sống hiện thực của con người. Không phải tôn
giáo sáng tạo ra con người mà là con người sáng tạo ra tôn giáo.
Ông viết: "Nếu như lý tính là của trời cho và tín ngưỡng cũng tương tự như
vậy, nghĩa là trời cho chúng ta hai vật không thể dung hợp được với nhau… Để
loại trừ bế tắc đó, cần phải thừa nhận rằng tín ngưỡng là một nguyên lý huyền
thoại, không tưởng". Ông chỉ ra sự khác biệt giữa khoa học và tôn giáo: Khoa học
thì hướng tới vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người
lớn mạnh thêm lên, còn tôn giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tưởng, làm cho con
người mềm yếu đi. "Thượng đế của những người Cơ đốc giáo - đó là người bố chỉ
coi trọng những đám mây, chứ chẳng để tâm gì đến những đứa con của mình" trên
trần gian cả.
Đ.Điđơrô kịch liệt phê phán những quan niệm đạo đức của tôn giáo, coi đó
chỉ là trò giáo dục con người tới chỗ cả tin vào số mệnh. Thực chất, tôn giáo chỉ là
sợi dây cương y ếu ớt ngăn chặn các hành vi phạm tội của con người. Khẳng định
chính môi trường và hoàn cảnh tạo nên bộ mặt trí tuệ và đạo đức của con người,
Đ.Điđơrô kêu gọi xoá bỏ các quan hệ phong kiến của nước Pháp, cái đã thông qua
tôn giáo làm hư hỏng con người, đồng thời kêu gọi xây dựng một cuộc sống hiện
thực chứ đừng tin vào tôn giáo.
Tuy nhiên Đ.Điđơrô chưa nhận thấy cơ sở kinh t ế - xã hội của sự tồn tại tôn
giáo. Ông mới chỉ thấy được nguồn gốc nhận thức của nó là từ sự kém hiểu biết và
từ tâm lý sợ chết của con người. Vì vậy, ông đã sai lầm khi cho rằng, để xoá bỏ tôn
giáo chỉ cần xoá bỏ nỗi lo sợ của con người, chỉ cần mở rộng hệ thống giáo dục
trong nhân dân, đồng thời tiêu diệt giới tu hành.
Tuy còn hạn chế như trên nhưng sự phê phán tôn giáo của Đ.Điđơrô đã mang
nhiều yếu tố tích cực trong bối cảnh lịch sử lúc đó của nước Pháp và Tây Âu.
- 19 -
CHƯƠNG 3
VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT TÂY ÂU TRONG
THỜI CẬN ĐẠI VÀ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
3.1 VAI TRÒ CỦA CNDV TÂY ÂU TRONG THỜI CẬN ĐẠI:
- Chủ nghĩa duy vật trở thành thế giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ và cách
mạng trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp Phong kiến và Nhà thờ.
- Đưa ra các phương pháp nhận thức mới để khắc phục triệt để phương pháp
kinh viện giáo điều, nhằm xây dựng một triết học và một khoa học mới có sự liên
hệ mật thiết với nhau, hướng đến xây dựng tri thức.
- Triết học thời kỳ này thể hiện rõ tinh thần khai sáng và chủ nghĩa nhân đạo
tư sản. Nó là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản để tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn
quần chúng thực hiện những hành động cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới – chủ nghĩa tư bản.
- Tiếp tục dào sâu nhân s inh quan nhân đạo tư s ản, khắc phục thế giới quan
duy vật máy móc và phương pháp luận siêu hình của các trường phái triết học đầu
thời cận đại đã xuất hiện Triết học cổ điển Đức - giai đoạn bản lề của triết học
phương Tây nối thời kỳ cận đại và thời kỳ hiện đại
3.2 VAI TRÒ CỦA CNDV TÂY ÂU TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY:
Trong thời đại ngày nay thì những đóng góp về nội dung tư tưởng của những
triết gia tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật Tây Âu thời Cận đại đã bổ sung thêm tri
thức vào kho tàng tri thức của con người, giúp con người trên con đường đạt tới sự
hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ, tới “chân lý tuyệt đối”.
LỜI KẾT LUẬN
Nghiên cứu chủ nghĩa duy vật Tây Âu thời Cận đại cũng như nghiên cứu triết
học sẽ bổ sung thêm cho con người năng lực tư duy trừu tượng trong hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới.
Tư duy trừu tượng là năng lực duy nhất của con người không thể bị thay thế.
Các khoa học cụ thể, do đặc thù của lĩnh vực, của ngành nghiên cứu, không thể
cung cấp khả năng trừu tượng và hệ thống ở tầng bậc phổ quát nhất. Chỉ có triết
học, bằng những nội dung tri thức đặc biệt của mình, mới là khoa học có thể đảm
trách nhiệm vụ này.
Nhờ có triết học mà tư duy con người có thể t ạo ra một trí tưởng tượng tích cực
trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Trí tưởng tượng có được trước hết phải dựa trên cơ sở nắm được những tri thức
triết học để biết rằng, mọi kết quả đều có nguyên nhân, nhưng không phải mọi sự
kiện đều có thể tìm được nguyên nhân của nó. Nếu một ngày người ta không thể
dùng quan hệ nhân quả để giải thích các sự kiện thì lúc đó, chỉ có năng lực trừu
tượng của những suy tư triết học mới có thể và cần phải tưởng tượng ra một chìa
khoá vạn năng mới nhằm giải thích và hành động cho phù hợp với hiện thực.
Con người cần phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt là dựa trên kết quả của các
khoa học cụ thể. Nhưng phép cộng giản đơn trong các thành tựu của khoa học cụ
thể tự nó lại không thể tạo thành năng lực tư duy trừu tượng. Đó là lý do các khoa
học cụ thể không thể thay thế cho triết học và triết học cũng không thể làm được
công việc của các khoa học cụ thể. Chính nội dung của những tri thức triết học và
chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực nhận thức của con người cách suy nghĩ
và hành động phù hợp với hiện thực được phản ánh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Nguyễn N gọc Thu - TS Bùi Văn Mưa (đồng chủ biên), Giáo trình Đ ại
cương lịch sử triết học, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, Tp.HCM, 2003.
2. Viện triết học, website: www.vientriethoc.com.vn
3. Nguyễn Văn Hồng - Vũ Dương M inh, Lịch sử thế giới cận đại, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội, 2006.
4. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng H ợp
Tp.HCM, Tp.HCM, 2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai15_ngokiendinh_d1k19_0252.pdf