Tất cả ba quá trình dự a vào sự phân chia không gian và phân biệt các lớp xã
hội khác nhau đang s ống, làm việc, và chơi ở nơi khác nhau. Nếu không có
phân bố không gian không thể duy trì được sự khác biệt như vậy, do đó,
không gian là cái cơ bản để phát triển cơ cấu xã hội theo thời gian. Trong khi
phân tích của G rossberg diễn đạt các khái niệm khó khăn và n gôn ngữ của
các nghiên cứu văn hóa, cho rằn g các xã hội hiện đại và các lý thuyết gắn
liền với xã hội này có xu hướng định hướng thời gian nhiều hơn hơn so với
không gian. Ví dụ, tiếp cận quá t rình ngày càng phổ biến hơn đã khuyến
khích các nhà nghiên cứu suy nghĩ rõ ràng về thời gian như ng phần lớn
không đề cập đến không gian. Mặc dù các nhà lý thuyết quan trọng và không
quan trọng không bị ảnh hưởng của các lý thuyết về tổ chứ c thay đổi, cả hai
đều dựa trên giả đ ịnh rằn g thế giới xã hội bao gồm nhiều quy trình, không
phải t hực th ể tĩnh. Do đó, có rất nhiều kiến thức sâu sắc của các học giả về
sự thay đổi và đổi mới trong nội dung này. Phần này chỉ đề cập một vài kiến
thức, và độc giả được khuyến khích để khám phá nội dung này.
60 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề cốt lõi trong nghiên cứu của sự đổi mới và cách tân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rúc tổ chức, và các yếu t ố theo ngữ cảnh. Có phải chủ thể có ý
nghĩa to lớn như các nguyên nhân khác?
M ột cách để giải quy ết vấn đề này là để xác định các nhân tố trong tổ chức,
nhóm, đơn vị công việc, hoặc thậm chí ngành công nghiệp. Kết quả là, sự
đảo ngược của vị trí đã thảo luận và đặc điểm của yếu tố con người được
chọn lựa hoặc sự tồn t ại của yếu tố con người trước đó. Điều này làm cho
yếu tố quản trị bằng cách quay tròn trên các hành động của nhiều nhân tố và
sự phức tạp của hệ thống tổ chức vào một thực thể đơn mà hiện thân và chứa
chúng là tổ chức.
Nhiều lý thuyết và truyền thống nghiên cứu có cách tiếp cận đến chủ thể, và
chúng khác nhau chủ yếu ở mức độ thuộc tính phức t ạp đối với tác nhân.
M ột nhóm các quy luật nhận thức của t ác nhân tổ chức khá đơn giản. N ghiên
cứu t hích nghi phương pháp tiếp cận (chương 7) làm mô hình cho tác nhân
như một hệ thống nghiên cứu đơn giản tương tự như trong việc học lý thuy ết
về tâm lý học: các tác nhân khám phá môi trường của nó, ứng dụng và
nghiên cứu để đáp ứng với kết quả t ích cực hay tiêu cực. Nghiên cứu dân số
và cộng đồng s inh thái học (chương 5 và 8) có tổ chức như các thành viên
của cộng đồng dân cư hoặc đối xử từng thành viên như hoạt động logic đơn
giản, chẳng hạn như sự sống hoặc tiện ích tối đa. Lý thuy ết về phụ thuộc
nguồn lực (chương 5) phân tích nhân tố tổ chức như là một chức năng của sở
hữu nguồn lực cần thiết.
Quan điểm khác đối với các nhân tố tổ chức trong nhiều điều khoản phức
tạp, tương tự các nhân tố của con người được nhấn mạnh trong cách t iếp cận
cá nhân riêng lẽ. Trong trường hợp này, quá trình mà các tác nhân hoạt động
không được mô t ả trong điều khoản rõ ràng, nhưng thay vì tác nhân được
cho là phức tạp khi nó không thể diễn tả đầy đủ về một chu kỳ nghiên cứu
hoặc mô hình hợp lí. Các lý thuyết của các nhóm như hệ thống hành động
phức tạp đã thảo luận trong chương 3. Trong khi bản chất của các quá trình
nhóm có thể được mô tả, làm thế nào các quá trình này diễn ra và thiết lập cụ
-38-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
thể của các quá trình đó sẽ xảy ra khi một nhóm các hành vi được giả đ ịnh là
không xác định, đối tượng đáp ứng của nhóm thì cấp bách cho tình huống
đó. Lý thuy ết tổ chức được thảo luận trong chương 5, 9, và 10 cũng áp dụng
cách tiếp cận này. Tổ chức được được đưa đến các thực thể phức tạp người
mà lịch sử định dạng phản ứng của họ bằng những cách phức t ạp.
M ặc dù các hoạt động đáp ứng thường xuyên để áp lực thể chế và các giai
đoạn của thể chế có thể được xác định, đây là những giả định là tổng đại lý
mô hình và mỗi tổ chức được giả định nghề đáp ứng riêng của mình, giống
như y ếu tố của con người sẽ xây dựng các khóa học riêng của riêng mình.
Các lý thuyết của sự thay đổi văn hóa để phản ứng lại các sự kiện bên ngoài
(chương 7) cũng áp dụng một điểm phức tạp về cách tổ chức thích ứng với
các sự kiện.
Nhiều học thuyết gia có thể làm theo lợi ích thuận tiện hơn là thừa nhận các
nhân tố siêu nhân. Trong khi điều này có thể là ý định của họ, chiến lược
cường điệu góp phần vào việc xây dựng các đối tượng lý thuyết. Những kết
quả lý thuyết hình thành các nhóm, các tổ chức, và các ngành công nghiệp
như họ nghĩ họ đang lựa chọn và giám sát kết quả hoạt động của mình. Đã
có m ột truy ền thống lâu đời của cuộc tranh luận về việc liệu chủ thể có ý
nghĩa ở các cấp độ hơn là con người riêng lẽ (Pfeffer, 1982). Cá nhân chủ
nghĩa phương pháp luận chứng tỏ rằng hành động đó là không có ý nghĩa trừ
khi liên kết với các nhân tố con người riêng lẽ. M ặt khác, hành động có t hể
được định nghĩa trong điều khoản của các thuộc tính của nó. Bất kỳ hệ thống
nào có ý thức ý định khi tham gia vào các khóa học mới của hành động,
giám sát kết quả của hành động và điều chỉnh các khóa học của mình cho
phù hợp, ghi vào ý định trong hoạt động lặp lại hàng ngày, và thói quen khi
có bằng chứng họ không làm những việc như những gì mà con người thường
làm. Mặc dù họ có thể không có linh hồn, những tổ chức có thể có các nhân
tố (agents). Cuộc tranh luận này bắt đầu rất lâu trước khi có cuốn sách này
và nó sẽ còn được tiếp tục trong tương lai. Nó không đáng giá khi giả định
rằng các nhóm và các tổ chức là những chủ thể có thể phải đối mặt với câu
hỏi cơ bản về nền t ảng của lý thuyết của họ.
-39-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
M ột cách để trả lời những câu hỏi này là xây dựng lý thuyết về cách tập hợp
các chủ thể có thể xuất hiện từ các hoạt động của nhân tố con người. Một số
lý thuyết tương lai trong sách này được đưa ra. Đồng thời họ cũng có trình
độ khác nhau qua tác nhân con người. Họ cũng khác nhau cho dù các yếu tố
con người được đối xử như là nền tảng của nhân tố t ập hợp hoặc đưa ra tình
trạng nổi bậc cùng với các nhân tố t ập hợp.
Các lý thuyết cơ bản về kinh tế dựa trên một nền t ảng của lý thuyết lựa chọn
hợp lý mà đã được phát triển trong hơn 150 năm qua. Tổ chức này xử lý các
quy trình lựa chọn của tất cả các chủ thể riêng lẽ như là mặc dù chúng là như
nhau, đơn giản hóa rất nhiều nhân tố. Đây là một động thái mạnh mẽ cho
phép toàn bộ xã hội của các yếu tố để được tổng hợp vào hiệu quả kinh tế
cấp cao hơn. Những lý thuyết như chi phí giao dịch, kinh tế công nghiệp, và
kinh tế phát triển (chương 5) căn cứ vào lý luận thực tế, trong đó sử dụng
các nhân tố dựa trên lý trí làm nền tảng cho sự phát triển lý thuyết. Giống
như sự phức tạp của lý thuyết tiến hóa về thay đổi tổ chức được mô tả trong
chương 8 của Baum và Rao. Baum và Rao thừa nhận là họ hoạt động tất cả
theo một logic tương tự như nhấn mạnh vào sự sống và tăng trưởng.
Quan điểm tính năng khác tổ chức nhưng kết hợp một cái nhìn phức t ạp hơn
về nhân tố con người như một phần nền t ảng của tổ chức. N ghiên cứu tổ
chức xây dựng dựa trên công việc của Argyris, Schon, và Senge (chương 4
và 7) tập trung hòan toàn chủ yếu vào tổ chức, nhưng nó cũng biết được vai
trò quan trọng của nhà phân tích, sáng tạo, và nghiên cứu quá trình để thoát
khỏi tình trạnh “học để học”. Lý thuyết này có nét đặc trưng của tổ chức, và
nó là không rõ ràng chính xác cách thức các hoạt động của cá nhân và bắt
đầu tập hợp đến mức độ tổ chức. Lý thuyết của Hatch về thay đổi văn hóa tổ
chức (chương 7) đưa ra khái niệm về thay đổi văn hóa tổ chức trong điều
khoản của sự biểu lộ của các quá trình, tượng trưng, thực hiện, và giải thích,
quy trình cấp tổ chức rõ ràng phải được thúc đẩy bởi các y ếu tố cá nhân và
khớp nối trong hệ thống tổ chức.
Còn có một số lý thuyết đưa ra tình trạng ngang bằng của các cá nhân và tổ
chức. Lý thuyết hành động hợp lý sẽ được thảo luận trong chương 9, khởi
-40-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
xướng thay đổi như thế nào bởi các nhân tố cá nhân hoặc quan trọng có t hể
tạo ra thay đổi tổ chức. Sự ảnh hưởng qua lại, được thảo luận trong chương
2, cũng cung cấp một cách cân bằng về sự ảnh hưởng qua lại của cá nhân và
tổ chức. Những lý thuy ết về cấu trúc (chương 4, 9 và 10) cũng kết hợp cả hai
nhân tố cá nhân và nhân t ố tập thể trong giải thích của họ. Cuối cùng, một
trong những lý thuyết phát triển tốt nhất hiện nay là liên kết các hoạt động cá
nhân và t ổ chức lại với nhau là lý thuyết Coleman (1990) về hoạt động xã
hội, mà sẽ được thảo luận ngắn gọn trong phần tiếp theo.
Nhiều tác giả trong sách này đã quan sát thấy rằng các lý thuyết gần đây về
thay đổi tổ chức và đổi mới tổ chức là việc đặt tầm quan trọng ngày càng
cao về tác nhân và cho phép tính không đồng nhất trong hoạt động. Theo
quá trình phát triển này, cần thiết phải làm rõ thêm bản chất của các nhân tố
tập thể và làm thế nào nó có liên quan đến nhân tố cá nhân. Xu hướng hoạt
động tập thể như là mặc dù họ có các nhân tố con người cần được đặt câu
hỏi. Có thể là nhân tố t ập thể hoạt động khác với quá trình do nhân tố cá
nhân. Chắc chắn công việc hoạt động t ập thể có một số hiểu biết quan trọng
để biết.
Xem xét sự ảnh hưởng lẫn nhau của các loại nhân tố khác nhau trong sản
xuất thay đổi là rất quan trọng. Trong phạm vi hoạt động, các nhân tố khác
với quyền lực, cho dù là y ếu tố cá nhân hay tập thể. Làm thế nào để các yếu
tố khác nhau tác động qua lại và hậu quả của quá trình thay đổi là gì? M ột
công cụ đầy hứa hẹn để giải quyết cả hai vấn đề là mô hình tác nhân cơ bản,
sẽ được thảo luận trong chương 11 (xem thêm M cKelvey, 2002). Nó hỗ trợ
các mô hình lý thuyết của các yếu tố cộng đồng, có thể được sử dụng để
khám phá mối quan hệ giữa các yếu tố cá nhân và yếu t ố tập thể như thế nào
và những điểm khác nhau của chúng là gì. Tuy nhiên, mô hình tác nhân cơ
bản cũng có những hạn chế của nó, khi nó mô tả hình mẫu mạnh mẽ của các
tác nhân. Trong khi mô hình tác nhân cơ bản có thể đưa ra về việc làm t hế
nào hiện lên tầm quan trọng của cấp độ hệ thống từ sự ảnh hưởng qua lại của
các nhân tố, họ không nắm bắt ý nghĩa của hành động hoặc tầm quan trọng
của nó đối với các tác nhân. Để giải thích lý thuyết như lý thuyết về đặc
-41-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
trưng của sự t ác động qua lại t hì phù hợp hơn cho việc giải thích quá trình.
Hiện tại hệ thống mô hình t ác nhân cơ bản sẽ cần phải phát triển để đưa ra ý
nghĩa và giải thích quá trình, nếu họ có t hể làm được (đối với một cái nhìn
lạc quan, xem Leveque và Poole, 1998; Poole, 1997).
Thập kỷ qua đã chứng kiến sự gia tăng tinh tế trong khái niệm của chúng ta
về chủ thể và vai trò của chủ thể trong sự thay đổi và đổi mới tổ chức, và
không có nghi ngờ điều này sẽ t iếp tục. Có nhiều cấp độ của chủ thể trong
nghiên cứu đương thời về sự thay đổi và đổi mới cho thấy nó cũng rất quan
trọng để xem xét vấn đề tổng quát hơn của các cấp về phân tích, khái niệm
“không gian” hợp thành sự thay đổi và đổi mới.
Các cấp độ phân tích
Có sự đồng thuận chung rằng các t ổ chức là hiện tượng nhiều cấp độ. Phần
đông các học giả cho rằng có đủ lý thuyết về hiện tượng tổ chức nên kết hợp
các khái niệm từ nhiều cấp độ và giải thích các mối quan hệ giữa các cấp độ
đó. M ột nhóm nhỏ các học giả đã tiến hành nghiên cứu kết hợp phân tích ở
nhiều cấp độ, như cuốn sách này cho thấy, phát triển nhiều cấp độ lý thuy ết
sự thay đổi và đổi mới của tổ chức (ví dụ, Klein và Koslowski, 2000). Chỉ có
một vài học giả đã phản ứng lại vấn đề làm thế nào để phát triển các lý
thuyết nhiều cấp độ, và một số ít học giả vẫn phát triển lý thuyết nhiều cấp
độ về sự thay đổi và đổi mới.
M ột phân tích của Dansereau, Yammarino, và Kohles (1999) có một số ý
nghĩa quan trọng cho việc phát triển các lý thuyết nhiều cấp độ về sự thay
đổi. Họ làm như là điểm khởi đầu (cá nhân, nhóm, tổ chức) trên một cấp độ
duy nhất của phân tích và phân biệt ba loại nhóm:
M ột nhóm đồng nhất hiện diện khi tất cả các thành viên được sáp
nhập vào một đơn vị cấp độ cao hơn và hành động như một người.
Khi chúng t a cho rằng tổ chức hoặc đơn vị làm việc như một thực
thể duy nhất, chúng ta đề cập đến mức độ phân tích.
Một nhóm không đồng nhất bao gồm thành viên là phụ thuộc lẫn
nhau, nhưng không phải sáp nhập vào một đơn vị duy nhất. Nhóm
-42-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
không đồng nhất có thể có các nhóm con hoặc của các cá nhân
riêng lẽ là người phụ thuộc, nhưng vẫn khác nhau và t ách khỏi
nhau.
M ột nhóm các đơn vị độc lập bao gồm các đơn vị độc lập mà họ
hoạt động riêng của họ mà không tham chiếu đến nhóm toàn thể.
Dansereau lập luận rằng một điều quan trọng của việc thay đổi cấp độ
ngang (cross-level) là khi một dạng của nhóm thay đổi vào một nhóm khác.
Ví dụ, một nhóm các cá nhân độc lập có thể được đưa vào một nhóm đồng
nhất bằng cách thay đổi lãnh đạo. Trong trường hợp này việc phát triển thiết
lập các đơn vị được chuyển từ một mức này sang mức khác như một phần
của quá trình thay đổi. Dansereau phân biệt một số loại hình chuyển đổi có
thể được chia t hành hai loại chính:
Các thay đổi đi lên xảy ra khi những đơn vị độc lập mức dưới
(lower- level independent units) chuyển đổi thành các nhóm đồng
nhất hoặc đồng nhất. Ví dụ, một nhà lãnh đạo có thể t ạo ra các
nhóm không đồng nhất gốm các thành viên ưa thích và không ưa
thích (favored and unfavored) thông qua quá trình LMX. Thay đổi
ở trên cũng xảy ra khi một nhóm không đồng nhất được biến đổi
thành một nhóm đồng nhất, có thể xảy ra khi một nhà lãnh đạo
biến đổi thống nhất các phe phái và chia thành một tổ chức kết
dính.
Các thay đổi đi xuống xảy ra khi những đơn vị đồng nhất cấp cao
được chuyển đổi thành các nhóm không đồng nhất hoặc những
đơn vị độc lập. Ví dụ, một nền văn hóa mạnh có thể đổ vỡ thành
nhiều phe phái bởi khủng hoảng tổ chức làm cho các thành viên đi
vào nhóm khác và một số thì không. Thay đổi đi xuống cũng sẽ
xảy ra khi một nhóm không đồng nhất tan rã thành từng cá nhân
riêng biệt. Một ví dụ thường thấy của việc này là việc giải thể của
một tổ chức hoặc nhóm.
Lưu ý rằng trong trường hợp có sự thay đổi này xảy ra trong các mối quan
hệ của các đơn vị với nhau cũng như cho các đơn vị mình. Việc di chuyển từ
-43-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
một tập hợp của các cá nhân để kết dính thành một nhóm, ví dụ, các mối
quan hệ giữa các cá nhân thay đổi, và các cá nhân tự có thể thay đổi là tốt.
Việc chuyển đổi có thể được phân biệt với trường hợp trong đó một đơn vị
còn lại ở cùng cấp và những thay đổi bên trong cấp độ đó. Ví dụ, các mô
hình vòng đời của tổ chức thường được đúc ở cùng một mức độ phân tích,
lập bản đồ thay đổi theo thời gian trong tổ chức. Trạng thái thay đổi cũng có
thể được phân biệt với trường hợp trong đó các đơn vị tại cùng một mức độ
ảnh hưởng với các mức độ khác mà không có một thay đổi trạng thái. Ví dụ,
tổ chức có t hể thay đổi thành viên cá nhân của mình và cả hai cấp độ tổ chức
và cấp độ cá nhân vẫn còn “nguyên vẹn”.
Điều này cho thấy rằng trong khái niệm thay đổi qua các mức độ, chúng ta
phải phân biệt sự thay đổi trạng thái (khi thay đổi xảy ra thông qua các đơn
vị thay đổi từ một loại thay đổi khác) từ ảnh hưởng mức độ ngang (cross-
level) (khi các đơn vị tại một cấp độ ảnh hưởng thay đổi các đơn vị khác ở
mức độ khác mà không thay đổi trạng thái). Thay đổi trạng thái liên quan
đến t hay đổi trong thực thể trải qua nhiều thay đổi và có nhiều cấp độ thông
qua cầu nối hoặc di chuyển qua các cấp. Thay đổi thông qua ảnh hưởng cấp
độ ngang (cross-level) là cái gì đó thẳng thắng hơn vì các mức độ còn lại thì
ổn định và chịu ảnh hưởng từ một cấp độ khác.
Trong lý thuyết về nhóm của McGrath và Tschan như các hệ thống thích
nghi phức t ạp, các cấp độ được lưu giữ riêng biệt và chỉ có cấp độ ngang
được thừa nhận. Ví dụ, một dự án lâu dài của nhóm ảnh hưởng đến nhiệm vụ
ngắn hạn trong quan hệ từ cấp độ cao đến cấp độ thấp. Lý thuyết của Baum
và Rao về sự pha trộn ảnh hưởng của cấp độ ngang và trạng t hái thay đổi:
đơn vị ở các cấp độ khác nhau của các cộng đồng dân cư và ảnh hưởng lẫn
nhau qua các cấp độ. Ngoài ra, các cộng đồng có thể thay đổi trạng thái theo
thời gian, như dân số đặt họ vào trong mối quan hệ với nhiều cấp độ khác
nhau về sự bổ sung và sự cộng sinh. Cộng đồng với cộng s inh ít ở trong
quần thể có nhiều quan hệ đến những nhóm đơn vị độc lập (và cộng đồng do
đó yếu hơn), trong khi những người có mối liên kết chặt chẽ đều giống như
các nhóm đồng nhất hoặc không đồng nhất (và cộng đồng do đó mạnh hơn).
-44-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
Thực tế là cả hai loại thay đổi có thể xảy ra trong cùng quá trình thay đổi
hiện tại thách thức đối với lý thuy ết và nghiên cứu về thay đổi và các quá
trình đổi mới. Nó làm tăng sự phức tạp của các lý thuy ết và những vấn đề
mà nghiên cứu thực tế phải đối phó. Điều này được tô đậm hơn khi chúng ta
xem xét vai trò của thời gian.
Thời gi an
Thời gian là thay đổi. Chúng ta đánh giá rằng sự thay đổi xảy ra để chống lại
nền t ảng của thời gian. Ta sử dụng các số liệu trên nền tảng này để đánh giá
khi thay đổi xảy ra, tỉ lệ t hay đổi, phạm vi thay đổi, và cũng để t hiết lập phần
đối của thay đổi là ổn định. Thời gian thì quan trọng như nghiên cứu thay
đổi và đổi mới, cho tới gần đây nó vẫn còn là mơ hồ như là môn vật lý cổ
điển.
Thời gian là một chủ đề sâu thẳm và khó khăn, nhưng điều quan trọng là ta
phải tham gia vào nó. Trong khi chúng ta đang ở xa sự hiểu biết và mất thời
gian cho nghiên cứu về t hay đổi và đổi mới, một s ố nghiên cứu cơ bản về
thời gian và vai trò của nó trong các tổ chức đã có tiến bộ (Ancona,
Okhuysen, và Perlow năm 2001; Barkema, Baum, và Mannix, 2002;
Goodman, Ancona, Lawrence, và Tushman năm 2001; McGrath và Kelly,
1986; McGrath và Rotchford, 1983). Nhiều vấn đề nổi bật được đưa ra: Bản
chất của thời gian là gì? Vai trò của nó trong lý thuyết về sự thay đổi và đổi
mới là gì? Làm thế nào để chúng ta nắm t hời gian bắt tốt nhất để xây dựng
các lý thuyết của chúng ta?
Bản chất của t hời gian là một vấn đề cũ như triết học và chắc chắn sẽ không
được quyết định ở đây. Tuy nhiên, có thể nhận dạng một số quan điểm có
liên quan về bản chất của thời gian dựa trên một phân tích ảnh hưởng bởi
M cGrath và Kelly (1986). Thời gian của các lý thuyết Newton là thời gian
của vật lý cổ điển. Quan điểm này giả đ ịnh thời gian là một thể liên t ục
tuyến tính được chia t hành các đơn vị thống nhất tương đương với nhau.
Thời gian là độc lập với các đối tượng và những người có kinh nghiệm về
nó. Thời gian có thể được đo khách quan, và nó có thể đảo ngược ở chỗ nó
-45-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
chỉ đơn giản là một chiều hướng trừu tượng. M ột nhà nghiên cứu các lý
thuyết của Newton xem thời gian là trung lập, là vật trung gian bên ngoài
cho các đối tượng và các tổ chức và đo lường bằng đồng hồ.
Thời gian giao dịch là thời gian của các sự việc quan trọng. Quan điểm này
coi thời gian thì “có thể chia được, nhưng sự khác biệt, với một số điểm
phục vụ là giá trị giới hạn (ví dụ sinh nhật, biến hóa, phân chia tế bào, vv)”
(McGrath và Kelly, 1986, Trang 33). Quan sát là quan trọng trong việc xác
định những điểm chính, và do đó thời gian phụ thuộc vào quan sát hoạt động
bên trong nó. Các sự kiện quan trọng được xác định không phải bởi việc đo
lường thống nhất đối với một nền tảng mà có t hể không tính bởi toán học,
mà bởi những gì quan sát được hoặc t in là quan trọng. Dòng chảy của thời
gian là không thể đảo ngược và khái niệm thời gian kế tiếp được xem là một
quá trình phát triển. Nhà nghiên cứu xem các giao dịch thông qua thời gian
sẽ đo lường bằng xác định các sự kiện quan trọng hoặc đáng kể cho các đối
tượng. Trong một số trường hợp này được thực hiện “từ bên ngoài” bởi các
nhà nghiên cứu đã xác định các sự kiện quan trọng, có thể là bước ngoặt lớn
(ví dụ, một cuộc khủng hoảng tổ chức, đánh giá một hiệu suất) hoặc những
sự việc tầm thường hơn (ví dụ, mỗi nhân viên có sự ảnh hưởng với người
quản lý của mình hoặc mỗi phát biểu thực hiện bởi một nhóm thành viên
trong một cuộc thảo luận ra quyết định).
Các trường hợp khác ''này đư ợc thực hiện từ bên trong” bằng cách đối tượng
chỉ ra các sự kiện là quan trọng, như Van de Ven, Polley, Garud và
Venkatraman (1999) đã làm khi họ phỏng vấn các thành viên của các đội
sáng tạo, yêu cầu họ xác định các sự kiện quan trọng. Mỗi lần xuất hiện sự
kiện quan trọng lại phân ranh giới một đơn vị thời gian xét về góc độ chuyển
đổi. Thời gian văn hóa thống tr ị tương tự như quan niệm về thời gian của
Newton , nhưng dòng chảy của thời gian được coi là đơn hướng thay vì song
hướng. Trong khi quan niệm của N ewton về thời gian là thích hợp khi xem
một thế giới vật lý độc lập với các mối quan tâm của con người, thì các quan
điểm thời gian thống trị cũng cho biết thêm các chiều văn hóa của con người
đối với quan điểm của Newton. Con người, sống trong cuộc sống không t hể
-46-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
đảo ngược, không những sử dụng các số liệu chính xác để phân chia và đo
thời gian mà còn nhìn thấy thời gian như là một sự tiến triển qua các chu kỳ
thường xuyên. Một nhà nghiên cứu làm việc với quan điểm này về thời gian
sẽ sử dụng số liệu có ý nghĩa xã hội, chẳng hạn như lịch, lịch đo lường các
đơn vị thời gian tương đương nhau như là ngày hay tuần. qua các nghiên cứu
khoa học xã hội Cách tiếp cận này đã xem thời gian như là một phương tiện
truyền thông khách quan. Ví dụ, theo chiều dọc được chia làm ngày, tuần,
hoặc tháng như là một đơn vị phân tích cơ bản. Thời gian tổ chức kết hợp
quan điểm của Newton và quan điểm giao dịch. Một thước đo chính xác là
cần thiết để phối hợp các hoạt động, sự kiện quan trọng diễn ra có 1 ý nghĩa
nào đó. Thời gian chẳng những đơn hướng, mà còn phát triển, bởi vì người
ta khi thực hiện nhiệm vụ phải mất nhiều thời gian để phát hiện và phát triển
để hoàn thành nhiệm vụ này. Quan điểm này giả định rằng người dân và các
tổ chức thường không chỉ tự định hướng chia thang đo thời gian như lịch,
mà còn nhận thức được sự quan trọng và ý nghĩa của các sự kiện tương t ác
với thang đo thời gian. Phần lớn các nghiên cứu tập trung vào chu kỳ cuộc
sống hoặc mô hình thang đo đều sử dụng quan điểm thời gian này. Sự phát
triển của người dân, các nhóm, tổ chức, và các ngành công nghiệp được đo
bằng cách sử dụng cả số liệu bên ngoài như vậy như ngày, tuần, tháng, hoặc
năm và ý nghĩa của các giai đoạn đó. các quan điểm có ý nghĩa quan trọng
cho lý thuyết của sự t hay đổi tổ chức và đổi mới. Quan niệm của Newton về
thời gian nhiều khả năng được liên kết với các lý thuyết cho rằng thời gian
như là một nền tảng hoặc phương t iện cho các quá trình thay đổi t hay vì chỉ
là một phần tự vận động của chính nó. Trên góc độ khái niệm giao dịch và tổ
chức, thời gian được xem như có ý nghĩa và do đó trở thành một phần của lý
thuyết chính nó. Cả văn hóa thống trị và t ổ chức thì quan điểm về thời gian
dường như nắm bắt được bản chất thay đổi và phát triển của tổ chức tốt hơn
quan đển giao dịch của Newton. Chìa khóa chính trong các quá trình này,
con người, đã xây dựng các hệ thống đo thời gian chính xác nhưng sử dụng
chúng trong một thế giới xã hội bao gồm những thời điểm, mục tiêu, và sự
-47-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
kiện quan trọng. Tuy nhiên, tất cả bốn quan điểm về thời gian có thể được
tìm thấy trong chương này.
Tiềm ẩn trong mỗi quan điểm về thời gian là làm thế nào thời gian có t hể
được đưa vào lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới. Chúng ta có thể phân biệt
bốn vai trò mà thời gian có thể đóng trong lý thuyết tổ chức và nghiên cứu.
Phổ biến nhất, các con số thời gian được xem như m ột phương tiện trong lý
thuyết của sự thay đổi và các quá trình đổi mới. Trên quan điểm này- thường
là liên kết với quan điểm Newton nhưng cũng ngầm định trong quan điểm
giao dịch-thời gian được coi là một nền phản chiếu quan trọng nhất cho các
hiện tượng khác khi đều tra t ìm hiểu. Số liệu thời gian của phương tiện này
được sử dụng để phân tích các đơn vị thời gian theo chiều dọc và đơn vị
khoảng thời gian theo thang đo chiều ngang và đối chiếu sự thay đổi so với
sự ổn định. Như vậy số liệu thay đổi chính xác ngẫu nhiên theo đơn vị phân
phôi bằng nhau của chuỗi thời gian để phân tích các đơn vị tương đương
của các trường hợp nghiên cứu và về dân tộc học. Trong khi các s ố liệu có
thể có vẻ thích hợp hơn để đo lường, thì nhiều loại số liệu của lý thuy ết
nghiên cứu và đổi mới lại làm cho vấn đề này trở thành 1 vấn đề của lý
thuyết (Zaheer, Albert, và Zaheer, 1999). Chúng tôi sẽ xem xét sự phức t ạp
của các số liệu sau đó trong phần này. Thời gian cũng có thể được xem như
là một biến trong lý thuy ết của t hay đổi và đổi mới. thời gian được xem như
là phương tiên trực tiếp liên quan đến vai trò của nó như là biến, vì Bảng 1.4
phân biệt rõ ràng thời gian trong lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới. Các
giả sử về Vai trò của thời gian trong lý thuyết Thang đo Thời gian Newton
vừa t ồn tại khoảng biến giao dịch có giá trị trong quan điểm văn hoá thống
trị …..cùng một số liệu được áp dụng trong nghiên cứu các hiện tượng khác
có thể được dùng để biến đổi thời gian thành một biến độc lập, phụ thuộc
hay điều chỉnh. Khi thời gian là một biến độc lập, thì khoảng t hời gian là
một yếu tố trong sự thay đổi. Ví dụ, nghiên cứu nổi tiếng của Gersick (1989)
thấy rằng các đội dự án thường khi đang ở điểm quá độ họ sẽ tổ chức lại và
suy nghĩ lại chiến lược công việc của họ. Các lý thuyết về cách thức thay đổi
thời gian cá nhân (Woodman và Dewett, chương 2), nhóm phát triển
-48-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
(McGrath và Ts chan, chương 3), t iến hóa kinh tế (Lewin et al., chương 5),
và thể chế thay đổi (Hinings et al., chương 10) sử dụng thời gian như là một
biến độc lập. Khi thời gian là một biến phụ thuộc, quãng thời gian được sử
dụng như một chỉ số của các sự kiện quan trọng. Sự kiện lịch sử phân tích tỷ
lệ thất bại của tổ chức (xem Baum và Rao, chương 8), ví dụ, dự đoán khoảng
thời gian thất bại cùng với các yếu tố khác có thể giải thích được sự thất bại
của t ổ chức. Khi t hời gian là một biến điều chỉnh, các hiệu ứng nhân quả của
các biến độc lập khác được giả định thay đổi là hàm của thời gian. Ví dụ,
Agarwal, Sarkar, và Echambadi (2002) báo cáo 1 bằng chứng cho thấy như
là một ngành công nghiệp trưởng thành, có các mối quan hệ giữa trật tự
thâm nhập và mật độ và thay đổi sự sống còn của doanh nghiệp. Trong một
số các lý thuyết tổ chức (Van de Ven và Hargrave, chương 9; Lewin et al.,
Chương 5), yếu tố khác nhau phụ thuộc rất quan trọng vào từng giai đoạn
của lĩnh vực thể chế. Một cách thứ ba, trong đó thời gian có thể nhập vào lý
thuyết như 1 thuật ngữ thiên về con người, tổ chức, và các nền văn hóa. Thời
gian là một phương tiện cơ bản của đời sống xã hội và một biến quan trọng
trong xã hội thế giới, và các cá nhân, nhóm, t ổ chức, và nền văn hóa phát
triển thiên về phản ứng và sử dụng thời gian trong nhận thức của họ. Một số
khuynh hướng đã được tích hợp vào các lý thuyết của sự thay đổi và đổi
mới. Khuynh hướng cấp Cá nhân bao gồm thời gian cấp bách (Waller,
Conte, Gibson, và Carpenter, năm 2001), thời định hướng (Quá khứ, hiện
tại, tương lai) (Waller et al. 2001; Zimbardo và Boyd, 1999), và tương t ác
tiến độ (Warner, 1988), khuynh hướng tổ chức bao gồm định hướng thời
gian (Lawrence và Lorsch, 1967) và tốc độ (Perlow, Okhuysen, và
Repenning 2002). Văn hóa bao gồm thời gian thay đổi đơn hướng và đa
hướng (Hall, 1983), hiện tại so với tương lai thời gian định hướng (Jones,
1988), và tốc độ (Levine, 1988). Logic khác nhau của tổ chức (Drazin et al.,
chương 6) kết hợp những quan điểm khác nhau thời gian, cũng như các hệ
thống quốc gia khác nhau (Lewin và Kim, chương 11).
Cuối cùng, thời gian có thể được xã hội xây dựng như một phần của một sự
thay đổi hoặc quá trình đổi mới. Khi thời gian được xem như một biến hoặc
-49-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
1 khuynh hướng thời gian, nó là 1 cấu trúc riêng biệt có thể được t ách ra từ
các cấu trúc khác trong quá trình thay đổi hay đổi mới. Tuy nhiên, thời gian
bị ràng buộc rất mật thiết với thay đổi và đổi mới mà nó cũng hữu ích để
xem xét làm thế nào nó có thể được xây dựng trên các quá trình. Orlikowski
và Yates (2002) trình bày một quan điểm hữu ích về cách cơ cấu các quy
trình trong các tổ chức có thể được sử dụng để xây dựng ''Một loạt các cấu
trúc t hời gian hình thành nhịp thời gian và hình thức đang diễn ra (p. 684).
cấu trúc này bao gồm lịch, dự án kế hoạch, t hời hạn, và kết thúc thời gian
(Xem thêm Yakura 2002). Cấu trúc thời gian không được nói đến nhiều
trong chương này, nó nằm trong lý thuy ết của việc xây dựng xã hội của các
tổ chức (Van de Ven và H argrave, chương 9) và các nhóm như hệ t hống vận
động (M cGrath và Tschan, chương 3). Bốn vai trò không loại trừ lẫn nhau.
Vai trò của thời gian như thước đo là nền tảng cho ba vai trò còn lại, và lý
thuyết có thể kết hợp nhiều yếu tố t hời gian. Ví dụ, vai trò quan trọng của
nhịp điệu- chu kỳ thường xuyên của hành vi-trong cá nhân, nhóm, và các
quá trình xã hội (Warner, 1988) có t hể sử dụng nhịp điệu như biến độc lập,
phụ thuộc, hoặc điều chỉnh, như là một cấu trúc có khuynh hướng, hoặc là
một cấu trúc xã hội, và đôi khi là các cấu trúc khác. Và điều này không đề
cập đến việc cần t hiết có vai trò của các số liệu thời gian trong việc đánh giá
tính chất của nhịp điệu. N goài ra còn có mối quan hệ khác nhau giữa các cấu
trúc thời gian. Ví dụ, khuynh hướng cá nhân và văn hóa đối với quá trình
xây dựng xã hội, và các khuynh hướng này hầu hết đều được hình thành bởi
quá trình này. Cũng với mức độ phân tích, nhiều y ếu tố thời gian có liên
quan đến hầu hết quá trình thay đổi và đổi mới. Điều này đúng không chỉ vì
những nội dung thời gian đóng vai trò trong các lý t huyết của sự thay đổi và
đổi mới, mà còn vì sự phức tạp của thời gian đi vào hoạt động vào con
người. đặc biệt các hoạt động thú vị của con người như xây dựng các lý
thuyết và tiến hành các nghiên cứu ảnh hưởng đến nhiều y ếu tố t hời gian.
Zaheer et al. (1999) phát triển một phân tích sâu sắc về cách thức thang đo
thời gian được thể hiện trong lý thuy ết và nghiên cứu tổ chức.
Họ phân biệt năm loại khác nhau của quy mô thời gian
-50-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
1. Khoảng thời gian tồn tại là ''chiều dài của thời gian cần thiết cho một
trong những thời điểm của quá trình, khuôn mẫu, hiện tượng, hoặc sự kiện
xảy ra hoặc diễn ra'' (P. 730). Điều này có thể xem 1 cách khách quan như
trong trường hợp của chu kỳ nhịp nhàng 24-giờ -hay được xây dự ng- trong
trường hợp khoảng thời gian mà một công ty luật đặt ra cho nhân viên học
việc trở thành 1 NV chính thức.
2. Khoảng thời gian hiệu lực của thời gian đề cập đến quy mô thời gian trên
lý thuyết. Ví dụ, nhịp điệu sinh học được giả định để giữ cho tất cả các ngày
của năm hay cuộc sống của sinh vật trong nghiên cứu.
3. Khoảng t hời gian quan sát đề cập đến khoảng thời gian dành để nhà
nghiên cứu nghiên cứu quy trình, mô hình, hiện tượng, hoặc sự kiện. Thông
thường khoảng thời gian này phải dài hơn khoảng thời gian tồn tại.
4. Khoảng ghi là độ dài của mỗi bản ghi của quá trình, mô hình, hiện tượng,
hoặc sự kiện kéo dài. Lựa chọn khoảng ghi ảnh hưởng đến kết luận của các
nhà nghiên cứu về các đối tượng của nghiên cứu: một ghi âm khoảng 1 phút
của quá trình ra quyết định của nhóm sẽ có mô tả rất khác so với ghi trong 6
giờ.
5. Khoảng tập hợp thể hiện cho sự lựa chọn ''mô hình thời gian ghi thông tin
nào sẽ được tổng hợp cho lý luận hay kiểm tra lý thuy ết về''quá trình, mô
hình, hiện tượng, hoặc sự kiện (p. 731). Trong nhiều trường hợp khoản t ập
hợp và khoảng ghi là như nhau, nhưng nếu các bản ghi được kết hợp, thì
khoảng t ập hợp sẽ lâu hơn. với khoảng ghi, độ dài của khoảng tập hợp ảnh
hưởng đến quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện tượng. Ví dụ, một nghiên
cứu về thay đổi 1 tổ chức có thể cho rằng khoảng tồn tại của 1 chu kỳ VSR
trong một ngành công nghiệp là độ dài của một của 1 sóng kinh t ế dài trong
Kondratieff, trong khi khoảng hiệu lực là vô cùng, cho tất cả các tính năng,
(tức là, lý thuy ết tiến hóa sẽ cho thấy trước trong tương lai). Do thực tế là
các nhà nghiên cứu sẽ tận dụng bản ghi kinh tế trong nghiên cứu ngành, các
khoảng quan sát không có liên quan trong trường hợp này, nhưng bởi vì các
bản ghi chỉ được ghi hàng quý cho nên khoảng ghi chỉ có giá trị khoảng 3
tháng. Do nhu cầu cân bằng các nghiên cứu về độ tin cậy của các bản ghi
-51-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
phải có đủ dữ liệu để tiến hành phân tích chuỗi thời gian, nghiên cứu các
quyết định, thiết lập các khoảng t ập hợp 6 tháng.
Hai thang đo thời gian đầu tiên của Zaheer et al. 'S liên quan đến khái niệm
của hiện tượng hay trình tự, trong khi ba thang đo cuối đề cập đến như
khung tham chiếu của các nhà nghiên cứu. Zaheer et al. cho rằng khoảng tồn
tại ép các khoảng khác, trong khi khoảng tập hợp và ghi cũng hạn chế bởi
khoảng quan sát. các khoảng tồn tại và giá trị là điều kiện cho các lý thuyết
của sự thay đổi và đổi mới trong hai khía cạnh.
Trước t iên, các lý thuyết khác nhau có thể được yêu cầu để giải thích thay
đổi và đổi mới theo thang đo thời gian khác nhau. Ví dụ, các lý thuyết tiến
hóa tổ chức đã được nâng cao để giải thích sự tác động lâu dài của hoạt động
tổ chức mang tính cá nhân; các hành động cá nhân mang t ính tổ chức bao
gồm cả 1 dân tộc, trong đó diễn ra trong quy mô thời gian ngắn hơn nhiều,
thường được giải thích với lý thuy ết sự lựa chọn hợp lý (Hay một thay thế
không hợp lý,[tháng ba năm 1994]). Thứ hai, ' 'Sự lựa chọn của quy mô thời
gian xác định không chỉ đơn giản là hiện tượng nào được quan sát, mà còn
xem đến ý nghĩa của chúng ''(Zaheer et al., 1999, trang 734-735).. Để tiếp
tục Ví dụ của chúng tôi, ý nghĩa của hành động trong khung t iến hóa và sự
lựa chọn hợp lý là khá khác nhau: lý thuy ết lựa chọn hợp lý liên quan đến
từng hành động được cá nhân hoá, tình trạng quyết định phản ứng cấp bách,
trong khi quan điểm lý thuyết tiến hóa xem các hành vi tương tự như góp
phần vào sự sự sống còn (hoặc sử dụng) như một phần của một quá trình lựa
chọn lâu dài của tổ chức.
Các nghiên cứu khác nhau của cùng một hiện tượng có thể sử dụng thang đo
thời gian khá khác nhau. Quay trở lại ví dụ trước của chúng tôi về lý thuyết
tiến hóa, một loại nghiên cứu khác tập trung vào các ngành công nghiệp phát
triển khá nhanh chóng, chẳng hạn như các nhà sản xuất chip máy tính. Một
nhà nghiên cứu có thể thừa nhận rằng hai chu kỳ của luật Moore là khoảng
tồn tại cho một chu kỳ VSR và dự kiến tính hợp lệ của lý thuyết là vô hạn
định. Cô ta có t hể dành mười năm để nghiên cứu trực tiếp của các công ty
như 1 khoảng quan sát và phỏng vấn khoảng mỗi mười công ty trong mỗi 2
-52-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
tháng cho một khoảng ghi 2 tháng. sau đó Cô có thể phân tích dữ liệu qua ba
giai đoạn ghi âm cho một tập hợp khoảng 6 tháng. Sự khác biệt giữa nghiên
cứu này và mô t ả được lưu trữ trước đây về thang đo thời gian được Zaheer
et al 'S đánh dấu phân loại., như là các kiểu hiểu biết khác nhau của các nhà
nghiên cứu rút ra.
Khung của Zaheer et al. 'S làm nổi bật những phức tạp trong lựa chọn của
các nhà nghiên cứu trong việc phát triển các lý thuyết và thiết kế nghiên cứu.
Khi chúng ta xem xét khung này dưới góc nhìn của những ý tưởng khác
được thảo luận trong chương này, sự phức tạp hơn càng thể h iện rõ. Trước
tiên, xem xét khả năng mà nhiều lý thuyết có thể hoạt động trong bất kỳ quá
trình thay đổi, đổi mới. Hai lý thuyết (VSR và sự lựa chọn hợp lý) trong
cùng một Lý thuyết tiến hóa là một ví dụ tốt về điều này.
Điều này ngụ ý rằng cần nhiều hơn một tập hợp các quy mô thời gian khi
xem xét cho một số lý thuyết. Thứ hai, mô t ả của Zaheer et al. 'S về thang đo
thời gian không nói gì về quan điểm về thời gian trong lý thuyết. Hầu hết các
ví dụ của họ đều không nói đến thời gian và họ không thảo luận nhiều những
quan điểm khác. Nếu chúng t a bỏ qua thang đo thời gian với quan điểm trên
về thời gian ví dụ mỗi khoảng thời có thể được thể hiện theo thuật ngữ của
Newton như giao dịch, văn hóa thống trị, hoặc đơn vị thời gian tổ chức-
khoảng khả năng thời gian tăng đáng kể. Rõ ràng, khi chỉ ra các tác động
thời gian của lý thuyết thay đổi và đổi mới thì cả hai đều quan trọng và phức
tạp.
Kết luận
Các giả định rằng lý thuy ết của sự t hay đổi và đổi mới cơ quan, các cấp phân
tích, và thời gian là không phải lúc nào cũng khớp nhau. Thông thường
chúng là một phần của 1 nhóm các quan điểm và các thuật ngữ nào đó. Tuy
nhiên, có nhiều lợi ích khi xem xét một cách rõ ràng cho các điểm quy ết
định cơ bản trong việc phát triển và thử nghiệm các lý thuyết. Tập trung xem
xét khái niệm các mức độ, cơ quan, và thời gian trong 1 lý thuyết khuyến
-53-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
khích cả nhà lý thuyết và độc giả kiểm tra lý thuyết về sự nhất quán và để
hỏi những gì đã bị nó bỏ đi.
Nó đòi hỏi độc giả phải xem lý thuyết có thể là quá đơn giản hay quá phức
tạp. Nó cũng tạo điều kiện so sánh và tương phản của các vị trí lý thuyết.
Trong khi nó có thể rất khó để so sánh một lý thuyết về phát triển sự nghiệp
và một lý thuyết về quyết định cá nhân xét về khía cạnh cơ quan, các mức độ
và thời gian đại diện cho sự thống trị của các lý thuyết về s ự thay đổi, phát
triển, và đổi mới. Phân tích so sánh các khía cạnh sẽ cho thấy mức độ mà hai
lý thuyết được tương tự hoặc không tương thích trong hoạt động cơ bản của
chúng. Điều này, ngược lại, có thể tạo thuận lợi cho việc phát triển các vị trí
tích hợp, phân định các khác biệt cơ bản giữa các học t huyết của sự thay đổi
và đổi mới. các giả định của chúng ta càng chính xác và càng cần t hiết để
biện minh chúng ta là gì thì, các lý thuy ết của chúng ta sẽ được củng cố hơn.
Có thể thời gian và các yếu tố không gian của lý thuyết thay đổi và sáng tạo
được kết hợp lại một như là trường hợp trong vật lý? s au đó các vật thể sẽ
hoạt động trong một không-thời gian liên tục đồng nhất hơn. T rong khi đây
là một khái niệm hấp dẫn, nó sẽ không đơn giản để làm như vậy. M ức độ
phân tích không chỉ kích thước của không gian, mà còn có công trình xã hội
với cấu trúc độc đáo và đôi khi phức tạp của chúng ta. Ví dụ, thay vì chỉ có
một ''Nhóm'' cấp trong một tổ chức, có thể có nhiều loại công việc, nhóm các
đơn vị, các nhóm không chính thức, đội liên chức năng -có liên hệ phức tạp
với nhau. Theo ví dụ này cho thấy, mức độ hoàn toàn không phải được xây
dựng đồng nhất. Theo các cuộc thảo luận trước cho biết, đều này cũng đúng
đối với thời gian. Trong khi thời gian và không gian như khoa học cơ bản
của con người chúng được xem là khoa học tự nhiên, trong thế giới xã hội
chúng phức tạp, đa dạng, đặc trưng hơn trong thế giới vật lý. Trong việc phát
triển nội dung cho chương này, chúng tôi tham khảo ý kiến rộng rãi và
nghiên cứu sâu để có được các nội dung về t hay đổi và đổi mới. Rồi từ đó,
chúng tôi quyết định không bao gồm một vài nghiên cứu truyền thống đã
xuất hiện để có cam kết tuyệt vời rằng nhưng không khái quát đáng kể cho
lý thuyết về sự thay đổi và đổi mới. Phần này sẽ đề cập ngắn gọn đến hai
-54-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
trong số các lĩnh vực này và các kiến thức có liên quan. Lý thuyết quan
trọng và chống quan trọng (các nghiên cứu dựa trên chống hiện đại, nữ
quyền, văn hóa) đã làm phong phú các nguồn dữ liệu của những hiểu biết
mới về tổ chức (e.g., Alvesson và Willmott năm 1992; Benson, 1977; Calas
và Smircich năm 1999; Deetz năm 1992; Deetz năm 1995; Edwards, Năm
1979, Martin, năm 1990; Mumby, 1988; Sztompka, 1993). Họ đã hướng sự
quan tâm của chúng tôi vào sự năng động của quyền lực và ý thức hệ sâu
hơn trong và giữa các tổ chức và các quá trình mà tiếng nói khác nhau của
chủ sở hữu quyền lực hiện hành đã bị giảm hoặc bị t ắt. Họ đã được cung cấp
quan điểm khác về tổ chức, cuộc sống trong tổ chức cam kết đáp ứng hoàn
toàn nhu cầu của con người và làm giàu dựa vào sự sáng tạo vốn có trong sự
đa dạng. Nó hầu như cho rằng các nghiên cứu về quan trọng và hống quan
trọng cho cái nhìn sâu vào sự thay đổi và đổi mới tổ chức. Lý thuyết cổ điển
của Marx của sự tiến hóa của xã hội và công nghệ và phát triển t iếp t heo của
nó (Sztompka, 1993) vẫn là một lý thuyết quan trọng của thay đổi và đổi
mới ở cấp xã hội. Một số lý thuyết nhân học về sự thay đổi văn hóa với các
yếu t ố quan trọng được xem xét bởi Hatch trong chương 7. Tuy nhiên, sự
chú ý của hầu hết nghiên cứu về lý thuyết quan trọng và chống quan trọng
đương đại có vẻ như được trực tiếp giải thích tại sao chúng có và tương phản
với những gì chúng có thể được thay vì so với lý thuyết hoá quá trình thay
đổi của chính chúng. 1 cách lý tưởng, các doanh nghiệp quan trọng bao gồm
ba khía cạnh: (1) giải thích và phê bình các hệ thống hiện hành và dòng lịch
sử mà họ đã thấy, (2) một t ầm nhìn khác của tổ chức, xã hội mà giải quy ết
các vấn đề và áp lực từ các hệ t hống hiện hành, và (3)sự quan tâm làm t hế
nào một tổ chức di chuyển từ hệ thống hiện hành đến một hệ thống chưa rõ
ràng, hoặc là tự nhiên hoặc thông qua sự t hay đổi có kế hoạch. N ghiên cứu
quan trọng về các tổ chức đã phát hiện ra rằng khía cạnh này thứ ba thường
là yếu nhất. Điều này là chắc chắn, trong phần lớn, bởi vì nhiệm vụ khó khăn
là giải thích các phương t iện kiểm soát, tinh tế và t hường được ẩn đi, giữ gìn
hệ thống hiện tại và rất khó khăn để độc giả có thê hình dung 1 hệ thống
thay thế. Sống trong một thế giới mà bị thống trị bởi tư tưởng hiện thực và
-55-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
thói quen kỷ cương, nhiều người gặp khó khăn khi cố hiểu rằng có được một
sự thay thế, ít chấp nhận thay đổi này là chính đáng và có thể đạt được. Có
dành nhiều thời gian để phát triển hai khía cạnh, các học giả quan trọng có
có xu hướng chú ý ít hơn khi giải thích làm thế nào một sự chuyển đổi tổ
chức, quá trình mà theo đó chuyển đổi diễn ra như thế nào. T rong một số
trường hợp, có vẻ phải có một giả định rằng nhận thức về các quy trình kiểm
soát của các đối tượng thay đổi sẽ là đủ để thay đổi có hiệu lực. Trong những
TH khác, mở rộng tầm nhìn của t ổ chức để tăng cường tham gia thì được
khuyến khích. Mô hình quy trình rời rạc mở được phát triển bởi Habermas
dùng để cung cấp các mô hình cho một hệ thống có sự tham gia t hật sự
(Deetz, 1992). Nhưng đối với hầu hết các phần lý thuyết quan trọng và
chống quan trọng đã cung cấp bức chân dung tốt về điểm cuối của thay đổi
như thế nào, nhưng ít hơn nhiều cái nhìn sâu sắc về biến đổi hoặc thay đổi
bản thân mình.
M ột ngoại lệ này là nghiên cứu của Deetz (năm 1992, 1995) về việc chuyển
đổi của các tổ chức kinh doanh thành '' nơi làm việc đáp ứng và có trách
nhiệm''. Giống như nhiều nhà lý thuyết quan trọng khác Deetz cung cấp một
cách nhìn toàn diện các vấn đề cơ bản của thuật ngữ ''thuộc địa hóa doanh
nghiệp''của xã hội phương Tây đương đại, cùng với một sự quan tâm lịch sử
sâu sắc những vấn đề này và tại sao họ đang kháng cự các b iện pháp khắc
phục truyền thống như tổ chức công đoàn và sự tham gia quản lý. Deetz lập
luận rằng quá trình thay đổi khắc phục những biến dạng hiện có và cấu trúc
quyền lực xảy ra không phải thông qua việc thay đổi cấu trúc mà bằng cách
thay đổi cách tổ chức quyết định những cấu trúc của nó nên như thế nào và
cách làm việc nên được quản lý như thế nào.
Deetz, rút ra trên cả hai nguồn quan trọng và chống quan trọng , mô tả một
quá trình thảo luận mở dựa rên một quan niệm về dân chủ mạnh mẽ đó là cả
hai cuối cùng là mục tiêu thay đổi là trao quyền tham gia vào tổ chức cho tất
cả thành viên của tổ chức.
Deetz (1995) mô tả một tổ chức đàm phán trong đó tất cả các giả định được
mở cho thách thức, một trong những đổi mới liên tục chính nó thông qua
-56-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
phân tích quan trọng của mối quan hệ hiện có và tổ chức lại để tổ chức có
thể có cùng mục tiêu thiết lập bởi các thành viên và các cổ đông lớn. Các
mục tiêu như vậy hông giới hạn chỉ là lợi nhuận, hiệu quả, và sự sống còn và
có thể bao gồm môi trường, xây dựng cộng cồng, và các yếu tố cá nhân, khi
kết hợp giữa các thành viên và cổ đông lớn có một quá trình thảo luận mở.
Các học giả chống quan trọng đã theo đuổi rất nhiều cùng một quỹ đạo như
các nghiên cứu quan trọng khác. Các học giả chống quan trọng có cách nhìn
quan trọng hoá các quan điểm của các học giả quan trọng, thường xuyên
thay thế nhiều quan điểm cho các điểm thuận lợi lý tưởng của học thuyết
quan trọng và nỗ lực thành lập lập trường trong đó không có vị trí nào đặc
quyền hơn bất kỳ vị trí nào khác. Cũng giống như nghiên cứu quan trọng,
những nghiên cứu đã được liên hệ chủ yếu với sự phân tích hiện tượng tổ
chức hiện thời để làm mạnh lên các giọng nói đã im lặng hoặc thiệt thòi hoá
và thay thế quan điểm cho-cấp, thống trị. Những phân tích này có lẽ là khó
khăn nhiều hơn các học giả chống quan trọng hơn cho các học giả quan
trọng, bởi vì họ không được hưởng các lợi ích của các hướng dẫn rõ ràng
một tình hình lý tưởng mà các học giả quan trọng đã hưởng. Kết quả là, chưa
có nhiều quan t âm đến quá trình thay đổi hoặc thay đổi tổ chức. tuy nhiên,
học giả chống quan trọng bị thu hút nhiều vào sự phản chiếu trên các căn cứ
của lý thuyết xã hội, và điều này giữ 1 cái nhìn sâu sắc cho các nghiên cứu
về thay đổi và đổi mới.
M ột trong số đó, tầm quan trọng của nỗi nhớ như là một phản ứng trước sự
thay đổi, sẽ được thảo luận trong phần kế tiếp . M ột cái nhìn sâu sắc từ việc
phản ánh trên vai trò của thời gian và không gian trong phân tích chống quan
trọng. Grossberg (1993) tranh luận rằng thời gian có, hay hầu như có, được
xem trọng hơn không gian trong các nghiên cứu văn hóa. Nhiều học giả
nghiên cứu văn hóa tập trung vào giải thích nguồn gốc lịch sử của hiện
tượng văn hóa, và Grossberg lập luận rằng điều này đã dẫn đến sự bỏ bê của
vai trò của không gian trong sự tồn tại của con người. Ông thử nghiệm một
số trường hợp cách ly không gian và gần gũi là rất quan trọng để thực hiện
quyền lực, một khía cạnh cơ bản của các tổ chức, và phân biệt ba cơ chế
-57-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
tương t ác mà t ổ chức quyền lực thông qua không gian: (1) ẩn nhưng phổ
biến các quá trình nuôi dưỡng và duy trì giá trị hệ thống và đặc quy ền một số
cách thức của cuộc s ống và xã hội vai trò hơn những người khác, (2) quá
trình mà nhận dạng xã hội được tạo ra và phân biệt, và (3) các quy trình theo
đó các nguồn lực được phân bố không đều giữa các nhóm xã hội.
Tất cả ba quá trình dựa vào sự phân chia không gian và phân biệt các lớp xã
hội khác nhau đang sống, làm việc, và chơi ở nơi khác nhau. Nếu không có
phân bố không gian không thể duy trì được sự khác biệt như vậy, do đó,
không gian là cái cơ bản để phát triển cơ cấu xã hội theo thời gian. Trong khi
phân tích của Grossberg diễn đạt các khái niệm khó khăn và ngôn ngữ của
các nghiên cứu văn hóa, cho rằng các xã hội hiện đại và các lý thuyết gắn
liền với xã hội này có xu hướng định hướng thời gian nhiều hơn hơn so với
không gian. Ví dụ, tiếp cận quá trình ngày càng phổ biến hơn đã khuyến
khích các nhà nghiên cứu suy nghĩ rõ ràng về thời gian nhưng phần lớn
không đề cập đến không gian. Mặc dù các nhà lý thuyết quan trọng và không
quan trọng không bị ảnh hưởng của các lý thuyết về tổ chức thay đổi, cả hai
đều dựa trên giả đ ịnh rằng thế giới xã hội bao gồm nhiều quy trình, không
phải t hực thể tĩnh. Do đó, có rất nhiều kiến thức sâu sắc của các học giả về
sự thay đổi và đổi mới trong nội dung này. Phần này chỉ đề cập một vài kiến
thức, và độc giả được khuyến khích để khám phá nội dung này.
Biểu trưng và các khía cạnh của sự thay đổiTrong thập kỷ qua đã có một sự
quan tâm lớn đến khía cạnh “phi tri thức” của các tổ chức, chẳng hạn như
những cảm xúc và biểu tượng (Ashkanasy, Hartel, và Zerbe, 2000; St aw,
Sutton, và Pelled năm 1994; Whetten và Godfrey, 1998). Sự quan tâm này
cũng đã hình hành các học t huyết về đổi mới hoặc thay đổi tổ chức (ví dụ,
Fiol và O'Connor, 2002; Gioia và Thomas, năm 1996; Huy, 1999). Lý thuy ết
hiện tại về sự thay đổi và đổi mới tổ chức bị chi phối bởi quan điểm mang
tính công cụ và lý trí, mà có xu hướng bỏ hoặc hạ thấp các kinh nghiệm phi
lý trí của con người. Điều này không phải luôn luôn là trường hợp cần xem
xét. Lý thuyết sớm nhất về biến đổi tổ chức của Lewin và trường phái mối
quan hệ con người nhấn mạnh quá trình tác động (xem chương 4). Bây giờ
-58-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
những quan tâm này lại đang nổi lên trong tư duy hiện hành. Thay đổi và đổi
mới là 1 quá trình đam mê. kế hoạch thay đổi thành công đòi hỏi một cam
kết căn cứ trên một tầm nhìn hấp dẫn và cảm hứng sâu sắc khi tham gia
chương trình. Các tầm nhìn có cùng một t hành phần nhận thức, nhưng có vẻ
chúng không cùng trong lý do. Thay vào đó nó bắt nguồn từ sự kết nối của
chúng đến mong muốn và sự đồng nhất của những người tham gia, kết nối
được thực hiện thông qua biểu tượng chỉ ra chỉ số cơ bản có giá trị. Khi thay
đổi xảy ra, nó có 1 yếu tố tình cảm quan trọng vì nó liên quan đến việc từ bỏ
các sắp xếp, trong đó nhiều công sức và thời sẽ được đầu tư. nghiên cứu của
Fiol và của O'Connor (2002)về sự thay đổi cộng đồng cung cấp một minh
hoạ tuy ệt vời trong những cách mà trong đó thay đổi ảnh hưởng và bị ảnh
hưởng bởi các t ính cách và cảm xúc của chủ thế tham gia. Họ phát triển một
mô hình trong đó'' các diễn giải tình cảm nóng liên kết với nhận thức lạnh
hơn để bắt đầu, huy động, và duy trì thay đổi triệt để” (p. 532). Tượng trưng
và các khía cạnh cảm xúc của sự kháng cự thay đổi cũng cần nghiên cứu.
M ột ví dụ là khái niệm về nỗi nhớ. Nỗi nhớ, như được thảo luận bởi các nhà
văn hậu hiện đại, là một phản ứng chung trước thay đổi. N ó liên quan đến
các phản chiếu tưởng tượng của các đặc tính tốt vào quá khứ để t ái t ạo một
quá khứ tốt hơn nhiều tình hình hiện tại. quá khứ này được xây dựng bởi sự
đảo ngược: các đặc tính không mong muốn của hiện tại được nhân đôi với
các đặc tính mong muốn của quá khứ, sau đó được coi là một cái gì đó để tái
chiếm và tái tạo trong hiện t ại. Bất chấp rằng '' những ngày cũ tốt đẹp''chưa
bao giờ tốt như họ đang nhớ lại, nỗi nhớ có thể là một kích thích cảm xúc
mạnh mẽ cho sự phản ứng để thay đổi và đổi mới. Khám phá 1 tổ hợp phức
tạp của ý nghĩa và diễn giải gắn liền với các khái niệm như nỗi nhớ sẽ minh
hoạ các khía cạnh của sức đề kháng trong cách thức mà các lý thuy ết hiện tại
dựa trên lý trí không có. sự chú ý lớn hơn đến ảnh hưởng, bản sắc, biểu
tượng, thẩm mỹ, và các chuyên ngành liên quan sẽ cung cấp một sự cân
bằng hữu ích cho nghiên cứu thay đổi và đổi mới. Điều này là quan trọng để
xác nhận nhiều khía cạnh của con người và xem xét làm thế nào chúng có
thể phát hoạ sự khởi đầu. duy trì, và chống thay đổi.
-59-
QTSTD-NHÓM1-MBA8
Kết luận
Chương này cho thấy một số mô hình mới có thể được gom lại t hành 1
nhóm. Làm như vậy sẽ đòi hỏi một số nội dung cần sáng tỏ, nhưng các nhóm
này sẽ vận động và phát triển, nó sẽ trở nên rõ ràng hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom1_mba8_final_5891.pdf