Đề tài Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ thanh toán

LỜI NÓI ĐẦU Hơn một năm trước, trong lúc đang làm thủ tục check-out khỏi khách sạn để về nước sau một chuyến công tác nước ngoài, tôi được cô nhân viên tiếp tân lễ phép hỏi mượn ‘credit card’ (thẻ tín dụng) để thanh toán. Ngạc nhiên về phương thức này, tôi mang theo câu hỏi ngỏ về loại hình thanh toán không dùng tiền mặt về nước. Đồng nghiệp trong cùng cơ quan và những người thuộc thế hệ liền trước đều khẳng định với tôi tính ưu việt của loại hình thanh toán thẻ và khuyến nghị ‘cậu nên gia nhập vào thế giới thẻ đi’. Họ bày ra trước mắt tôi những điều hấp dẫn của việc dùng thẻ tín dụng để thanh toán các chi tiêu thông thường của mình thay cho tiền mặt. Những cái tên như VISA, MASTER, Diners’ Club, American Express, JBC . đã dần khiến tôi quan tâm hơn. Từ nhận thức sơ bộ ban đầu rằng thẻ thanh toán là một trong những thành tựu của ngành công nghiệp ngân hàng, với tham vọng muốn tìm hiểu rõ hơn về thẻ thanh toán, đặc biệt là thẻ tín dụng quốc tế, để nhìn nhận được bản chất và thực trạng của việc sử dụng thẻ tín dụng trong thanh toán thay cho tiền mặt. Đồng thời với mong muốn đi sâu tìm hiểu thực tế ứng dụng và phát triển dịch vụ thẻ tại hệ thống ngân hàng Việt nam, đặc biệt là tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam; được sự khuyến khích của thầy giáo Phan Anh Tuấn, giảng viên khoa Kinh tế Ngoại thương, trường Đại học Ngoại thương, tôi mạnh dạn chọn đề tài cho luận văn này là: ‘ Thực trạng phát hành và thanh toán thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam từ 2000 đến nay’ Bố cục của luận văn ngoài Lời giới thiệu và Kết luận ra được chia làm ba chương lớn: ã Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ thanh toán. ã Chương 2: Thực trạng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. ã Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Quá trình viết luận văn này chủ yếu dựa trên phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng lịch sử để nghiên cứu nội dung lý luận về thẻ qua đó làm sáng tỏ bản chất và lợi ích của thẻ tín dụng, thẻ thanh toán. Bên cạnh đó luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp và thống kê để tìm hiểu thực trạng phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam trong ba năm vừa qua để rút ra những điểm mạnh, yếu của dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng này và phần nào đưa ra những gợi ý và kiến nghị cho việc nâng cao chất lượng và mở rộng loại hình dịch vụ đa tiện ích này. Để hoàn thành được luận văn này, tôi chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và khoa học của thầy giáo Phan Anh Tuấn, của các thầy cô trong khoa Kinh tế Ngoại thương – Trường Đại học Ngoại thương – và của các cô, chú, các bác cán bộ Phòng Thanh toán thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Chân thành cám ơn sự giúp đỡ của Thư viện Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Thư viện Viện kinh tế Thế giới, Thư viện điện tử của Ngân hàng Thế giới và của tập thể các anh chị cán bộ Vụ Chiến lược phát triển Ngân hàng và Vụ Tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt nam. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẺ THANH TOÁN A. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN I. Khái niệm về thẻ thanh toán: 1. Định nghĩa: Ngày nay, thẻ thanh toán – hay vẫn được hiểu một cách nôm na là tiền điện tử - là phương tiện thanh toán hiện đại và tiên tiến trên thế giới. Thẻ thanh toán ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển và ứng dụng công nghệ tin học trong ngân hàng. Thẻ thanh toán là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc để rút tiền mặt ở các máy rút tiền tự động hay tại các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư của tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Hoá đơn thanh toán thẻ chính là giấy nhận nợ của chủ thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ. Cơ sở chấp nhận thẻ và đơn vị cung ứng dịch vụ rút tiền mặt đòi tiền chủ thẻ thông qua ngân hàng phát hành thẻ và ngân hàng thanh toán thẻ. Như vậy, sẽ có 3 hoặc 4 thành viên tham gia vào một giao dịch thẻ: Chủ thẻ (Khách hàng), cơ sở chấp nhận thẻ (nơi cung ứng hàng hoá dịch vụ), ngân hàng phát hành, ngân hàng thanh toán. 2. Đặc điểm và cấu tạo thẻ: 2.1. Đặc điểm của thẻ:  Tính linh hoạt : Thẻ thanh toán có nhiều loại, đa dạng, phong phú về hạn mức tín dụng của thẻ nên thích hợp với hầu hết mọi đối tượng khách hàng, từ những khách hàng có thu nhập thấp (thẻ thường) cho tới những khách hàng có thu nhập cao (thẻ vàng), khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt (thẻ rút tiền mặt), cho tới nhu cầu du lịch giải trí , thẻ cung cấp cho khách hàng độ thoả dụng tối đa, thoả mãn nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng.  Tính tiện lợi: Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ cung cấp cho khách hàng sự tiện lợi mà không một phương tiện thanh toán nào có thể mang lại được. Đặc biệt đối với những người phải đi ra nước ngoài đi công tác hay là đi du lịch, thẻ có thể giúp họ thanh toán ở gần như bất cứ nơi nào mà không cần phải mang theo tiền mặt hay séc du lịch, không phụ thuộc vào khối lượng tiền họ cần thanh toán. Thẻ được coi là phương tiện thanh toán tốt nhất trong số các phương tiện thanh toán phục vụ tiêu dùng trong xã hội hiện đại và văn minh.  Tính an toàn và nhanh chóng: Không tính đến những vấn nạn ăn cắp và làm giả thẻ thanh toán trên toàn cầu hiện nay, có thể nói người sử dụng thẻ thanh toán rất yên tâm về số tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp do móc túi hay trộm cắp. Ngay cả trong trường hợp thẻ bị lấy cắp, ngân hàng cũng bảo vệ tiền cho chủ thẻ bằng số PIN, ảnh và chữ ký trên thẻ nhằm tránh khả năng rút tiền của kẻ ăn trộm. Hơn thế nữa, hầu hết các giao dịch thẻ đều được thực hiện qua mạng kết nối trực tuyến từ cơ sở chấp nhận thẻ hay điểm rút tiền mặt tới ngân hàng thanh toán, ngân hàng phát hành và các Tổ chức thẻ Quốc tế. Do đó việc ghi nợ, ghi có cho các chủ thể tham gia quy trình thanh toán được thực hiện một các tự động, dẫn đến việc quá trình thanh toán diễn ra rất dễ dàng, tiện lợi và nhanh chóng. 2.2. Cấu tạo của thẻ: Các loại thẻ thường có đặc điểm chung là: được làm bằng Plastic, có kích thước theo tiêu chuẩn quốc tế là 5,5 cm  8,5 cm. Thẻ thường dày từ 2-2,5 mm. Trên thẻ có in các thông số nhận dạng như: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của nhà phát hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực (ngày cuối cùng có hiệu lực) và một số đặc tính khác tuỳ theo quy định của các Tổ chức thẻ quốc tế hoặc Hiệp hội phát hành thẻ Mặt trước của thẻ:  Biểu tượng: Mỗi loại thẻ có một biểu tượng riêng, mang tính đặc trưng của tổ chức phát hành thẻ. Đây được xem như một đặc tính mang tính an ninh nhằm chống giả mạo. Ví dụ: - VISA: Hình chữ nhật 3 mầu: xanh, trắng, vàng có chữ Visa chạy ngang giữa màu trắng, trên hình chữ nhật 3 mầu là hình chim bồ câu đang bay in chìm. - MASTERCARD: Có hình 2 hình tròn lồng nhau nằm ở góc dưới bên phải (một hình mầu da cam, một hình mầu đỏ) và dòng chữ Mastercard mầu trắng chạy ở giữa; trên hai hình tròn lồng nhau là hai nửa quả cầu lồng nhau in chìm. - JCB: Biểu tượng 3 mầu xanh công nhân, đỏ, xanh lá cây, có chữ JCB chạy ngang giữa. - AMEX: Biểu tượng hình đầu người chiến binh.  Số thẻ: Số này dành riêng cho mỗi chủ thẻ, được dập nổi trên thẻ và được in lại trên hoá đơn khi chủ thẻ thanh toán bằng thẻ. Tuỳ theo từng loại thẻ mà chữ số khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.  Thời gian có hiệu lực của thẻ: Là thời hạn mà thẻ được phép lưu hành. Tùy theo từng loại thẻ mà có thể ghi ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ hoặc ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng được sử dụng thẻ.  Họ và tên chủ thẻ: In chữ nổi, là tên của cá nhân nếu là thẻ cá nhân, tên của người được uỷ quyền sử dụng nếu là thẻ công ty. Ngoài ra, có thẻ còn có cả ảnh của chủ thẻ.  Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: Mỗi loại thẻ luôn có ký hiệu an ninh kèm theo in phía sau của ngày hiệu lực. Ví dụ: Thẻ Visa có chữ V ( hoặc CV, PV, RV, GV ), thẻ MasterCard có chữ M và chữ C lồng vào nhau. Thẻ Amex còn in thêm số mật mã cho từng đợt phát hành. Mặt sau của thẻ:  Dải băng từ có khả năng lưu trữ các thông tin như: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ, ngân hàng phát hành .  Dải băng chữ ký: trên dải băng này phải có chữ ký của chủ thẻ để cơ sở chấp nhận thẻ có thể đối chiếu chữ ký khi thực hiện thanh toán thẻ. 3. Phân loại: Đứng trên nhiều giác độ khác nhau để phân loại thì có thể chia thẻ thành nhiều loại khác nhau. 3.1 Phân loại theo công nghệ sản xuất: Có 3 loại  Thẻ khắc chữ nổi: Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần thiết. Ngày nay, người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật của nó quá thô sơ, dễ bị lợi dụng, làm giả, mà kết hợp với những kỹ thuật mới như băng từ hoặc chip thông minh.  Thẻ băng từ: Là loại thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật những thông tin của thẻ và chủ thẻ được mã hóa trên băng từ ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến trong vòng 20 năm trở lại đây nhưng có thể bị lợi dụng để lấy cắp tiền do có một số nhược điểm như: thông tin ghi trong thẻ hẹp và mang tính cố định nên không thể áp dụng kỹ thuật mã hoá an toàn, có thể đọc được dễ dàng bằng thiết bị gắn với máy vi tính.  Thẻ thông minh: Đây là thế hệ mới nhất của thẻ, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, một “chip” điện tử có cấu trúc hoạt động như một máy tính được gắn vào thẻ khiến cho thẻ có tính an toàn và bảo mật rất cao. Tuy vậy, do là một công nghệ mới và có nhiều ưu điểm nên giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận loại thẻ này cũng đắt nên sử dụng còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp nhận thanh toán loại thẻ này mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ chức thẻ quốc tế vẫn đang khuyến khích các ngân hàng thành viên đầu tư để phát hành và chấp nhận loại thẻ này nhằm làm giảm tỷ lệ rủi ro do giả mạo thẻ.

doc75 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4615 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ thanh toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm đáng kể (giảm 11,5%). Năm 2002, lợi nhuận giảm 6,5% so với năm 2001, chỉ còn 910.000 USD, chiếm 6,2% tổng lợi nhuận kinh doanh của toàn Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Nguyên do là trong năm 2002 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có chủ trương giảm mức phí đối với các CSCNT nhằm thu hút thêm khách hàng và mở rộng mạng lưới CSCNT của Vietcombank nên đã chấp nhận một sự giảm sút nhất định về lợi nhuận để đạt được mục tiêu chiến lược của mình. Thực tế đã chứng tỏ sự đúng đắn của chính sách này: năm 2003, số CSCNT của Vietcombank tiếp tục tăng lên – Vietcombank vẫn giữ vững vị trí một ngân hàng đi đầu trong hoạt động kinh doanh thẻ, đặc biệt trong thanh toán thẻ tại Việt Nam. * Nguyên nhân của những kết quả đạt được: Kinh doanh thẻ, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam không chỉ nhằm vào lợi nhuận mà còn nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng bằng việc cung cấp cho khách hàng những tiện ích tốt nhất. Không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng phát hành và thanh toán thẻ chính là một trong những hoạt động trong chiến lược phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Đối với kinh doanh thẻ, dù hoạt động trong một môi trường cạnh tranh gay gắt nhưng Vietcombank vẫn giữ được mức lợi nhuận ổn định, hoạt động có hiệu quả, chất lượng, có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế. Rủi ro trong kinh doanh vốn là vấn đề không thể tránh khỏi, nhưng Vietcombank luôn có những biện pháp phòng tránh rủi ro hiệu quả, giảm thiểu rủi ro. Đối với những rủi ro đã xẩy ra, Vietcombank luôn nỗ lực tìm mọi cách khắc phục thiệt hại, thu hồi lại số tiền bị mất, khắc phục những sơ hở trong quản lý thẻ, phối hợp tốt với các cơ quan chức năng trong phòng, tránh và xử lý đối với các trường hợp phạm tội có liên quan đến thẻ (thẻ giả, trộm cắp thẻ…). Dù chưa có một văn bản hướng dẫn cụ thể từ phía Ngân hàng nhà nước, nhưng trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn và tích luỹ kinh nghiệm, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đưa ra những quy trình, quy chế cụ thể riêng cho hoạt động kinh doanh thẻ của mình và không ngừng hoàn thiện cho nó ngày càng tốt hơn. Việc đầu tư, đổi mới công nghệ rất được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chú trọng. Ngân hàng tích cực đầu tư trang bị mới các máy đọc thẻ, thanh toán thẻ, in thẻ nhằm hạn chế tối đa các thiệt hại do máy móc kỹ thuật gây ra và đạt hiệu quả cao nhất dù cho chi phí để đầu tư trang thiết bị cũng không nhỏ. Bên cạnh đó, công tác marketing và chiến lược khách hàng cũng rất được Vietcombank chú ý. Khách hàng thường xuyên được cung cấp những thông tin, hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho những vấn đề có liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ. Ngân hàng cũng có những chính sách ưu đãi đối với những khách hàng hàng lớn, đáng tin cậy, ví dụ như chính sách về lãi suất, về hạn mức tín dụng, về tài sản thế chấp… Đội ngũ cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn vững vàng lại thường xuyên được bồi dưỡng, thái độ niềm nở, nhiệt tình với khách hàng là đặc điểm nổi bật có thể thấy ở Vietcombank. Đây cũng chính là một hình thức marketing hiệu quả nhất. Trên đây là một số nhận xét về tình hình hoạt động kinh doanh thẻ của Vietcombank. Với tình hình như hiện nay, chắc chắn Vietcombank sẽ còn tiến xa hơn nữa trong lĩnh vực hoạt động này. 4.2 Những hạn chế và nguyên nhân: Bên cạnh những kết quả mà Vietcombank đã đạt được trong kinh doanh thẻ, vẫn còn một số vấn đề tồn tại đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực khác phục bằng những biện pháp linh hoạt để hoạt động kinh doanh của mình ngày càng phát triển hơn. Thứ nhất, hiện nay, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đang phải hoạt động kinh doanh thẻ trong một môi trường đầy khó khăn. Thẻ mới chỉ chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách hàng là những người đi công tác học tập ở nước ngoài còn phần đông dân cư mới chỉ có ý niệm về thẻ, chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích cho mình, cũng chưa có điều kiện sử dụng nó. Điều này xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế ở Việt Nam và cũng xuất phát từ một thực tế là việc sử dụng thẻ còn rất hạn chế ở Việt Nam do số cơ sở chấp nhận thẻ tính trên đầu người quá thấp. Hiện tại các CSCNT chỉ mới tập trung ở các thành phố lớn, với các loại hình kinh doanh chủ yếu là nhà hàng, khách sạn, cửa hàng lớn… nên chỉ phục vụ cho đối tượng khách hàng chính là các thương nhân, khách du lịch người nước ngoài… còn rất xa lạ với phần đông người Việt Nam. Các cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ cũng có ý muốn thu tiền mặt vừa nhanh gọn lại tránh được sự kiểm soát của nhà nước. Chính vì vậy, trong thanh toán tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiêm đến 30% trong bán buôn và 95% trong bán lẻ. Trong hoàn cảnh đó công tác marketing, tuyên truyền, quảng cáo cho thẻ lại chưa thực sự tới được người dân. Chưa có một sản phẩm thẻ nào đáp ứng được nhu cầu của đa số dân chúng: hạn mức vừa phải, phạm vi sử dụng rông rãi, đặc biệt là ở trong nước… Thẻ là một sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nên rất cần phải có những hoạt động hỗ trợ, tuyên truyền, quảng cáo. trong khi đó hoạt động này của Vietcombank cũng như các NHTM Việt Nam khác còn hạn chế, chưa mạnh dạn bỏ chi phí ra để tiếp thị sản phẩm thẻ, nghiên cứu tìm ra những loại thẻ phù hợp với thị trường Việt nam hơn. Thứ hai, dù có nhiều nỗ lực trong đầu tư công nghệ nhưng so với các ngân hàng nước ngoài, sự đầu tư này còn là nhỏ. Do đó, vẫn còn một số trục trặc trong hệ thông máy móc phát hành và thanh toán thẻ gây tổn hại cả về thời gian và tiền bạc cho cả ngân hàng, khách hàng và CSCNT. Điều đó không chỉ dẫn đến tổn thất mà còn dẫn đến suy giảm uy tín của ngân hàng, giảm lòng tin của khách hàng vào ngân hàng. Thứ ba, kinh nghiệm của 12 năm hoạt động là chưa đủ đối với một lĩnh vực kinh doanh phức tạp như kinh doanh thẻ. Nhiều trục trặc, rắc rối xẩy ra cũng do thiếu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, không xử lý được triệt để, làm khách hàng phải kêu ca, phàn nàn. Trong khi đó các ngân hàng nước ngoài vốn rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực này lại có thêm sự hỗ trợ về tài chính mạnh, máy móc chuẩn lại sẵn sàng đầu tư mạnh để dành thị trường nên có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Thứ tư, một điều đáng nói nữa là hiện nay môi trường pháp lý chưa hoàn thiện là một khó khăn lớn cho hoạt động kinh doanh thẻ. Quy chế chính thức về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ (do NHNN ban hành kèm theo quyết định số 317/1999/QĐ-NHNN1 vào tháng 11/1999) quy định việc phát hành thẻ phải có bảo đảm tín dụng như đối với tín dụng trung và dài hạn trong khi đó tín dụng thẻ có tính chất khác với hai loại tín dụng trên. Thêm vào đó, điều kiện cho vay đối với khách hàng sử dụng thẻ như vậy là khá ngặt nghèo, các cá nhân muốn sử dụng thẻ buộc phải thế chấp, ký quỹ với tỷ lệ khá cao. Điểm này làm hạn chế việc mở rộng phát hành và thanh toán thẻ ở Vietcombank nói riêng cũng như ở các NHTM Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, trong tình hình chung là số tội phạm có liên quan đến thẻ (làm, lưu hành thẻ giả mạo, ăn cắp thẻ…) ngày càng tăng thì ở Bộ luật hình sự lại chưa có một quy định nào về khung hình phạt cho những vi phạm trong lĩnh vực này. Cuối cùng, ở Việt nam, hiện chưa có một hoạt động đào tạo chuyên về thẻ nào dù là của NHNN. Do đó, để hoạt động tốt trong lĩnh vực này buộc Vietcombank phải tự cho nhân viên tham gia các khoá học do các Tổ chức thẻ Quốc tế tổ chức mà chi phí của mỗi khoá học này không phải là nhỏ. Do vậy, việc cập nhật thông tin, kiến thức thường xuyên cũng có phần hạn chế. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG THẺ TẠI VIỆT NAM Nền kinh tế Việt Nam hiện nay được đánh giá là khá ổn định và đang trên đà phát triển Báo cáo Phát triển Việt nam – World Bank 2001 . Hệ thống NHTM Việt Nam cũng có những thay đổi đáng kể đặc biệt trong công nghệ thanh toán ngân hàng, đưa những phương thức thanh toán hiện đại của thế giới tiếp cận với thị trường Việt Nam, đồng thời đưa các hoạt động của ngân hàng Việt Nam vào thương trường quốc tế. Bối cảnh kinh tế thuận lợi này chắc chắn sẽ tạo ra nhiều nhân tố tích cực, thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ thẻ tín dụng - một phương tiện thanh toán thuận lợi, được chấp nhận rộng rãi - dần mở rộng phạm vi sử dụng và thanh toán thẻ. Trước hết, công nghệ tin học đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đây là một cơ sở tốt để tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ thanh toán. Nhận thức cũng như kiến thức của xã hội về công nghệ cũng sẽ thay đổi theo hướng tích cực hơn. Theo các chuyên gia kinh tế, với đà phát triển như hiện nay, trong vòng 05 năm tới, thu nhập của dân cư sẽ tăng từ 380USD/người/năm lên 600USD/người/năm Như trên . Điều này cũng phù hợp với nghị quyết của Đại hội Đảng IX là trong vòng 10 năm tới thu nhập bình đầu người sẽ đạt 700USD/người/năm. Tuy vẫn là nước có mức thu nhập bình quân thấp, khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư vẫn còn lớn nhưng chắc chắn bộ phận dân cư có mức thu nhập cao sẽ ngày càng tăng lên. Thêm vào đó, ngoài việc kiến thức xã hội về công nghệ được phát triển một cách tự nhiên cùng với quá trình hội nhập và bước tiến của khoa học cũng có nhiều thay đổi tiến bộ theo hướng thuận lợi cho ứng dụng sản phẩm mang tính công nghệ như dịch vụ thẻ thanh toán. Hiện nay, dân cư các đô thị Việt Nam chiếm khoảng 25 - 30% dân số trong cả nước, trong đó có một tỷ lệ cao những người đang học tập và công tác ở độ tuổi dưới 45 có những kiến thức cơ bản về tin học và khả năng tiếp nhận dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Như vậy, sau 5 - 7 năm nữa, đối tượng có khả năng tiếp nhận sản phẩm mới sẽ được mở rộng ra lứa tuổi dưới 50 - 52 tuổi và chiếm tỷ trọng lớn trong những người trong độ tuổi lao động ở thành thị. Cùng với thu nhập tăng, quỹ chi tiêu thường ngày của người dân cũng tăng tạo điều kiện cho họ dễ dàng chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân hàng và phương tiện thanh toán mới. Môi trường thương mại cũng sẽ thay đổi tích cực hơn với sự ra đời của các trung tâm thương mại, dịch vụ, siêu thị, các cửa hàng tự chọn sẽ làm thay đổi tập quán người tiêu dùng, tạo điều kiện để ứng dụng các cộng cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Một nhân tố không thể thiếu là môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện hơn tạo nên nền tảng cho việc ứng dụng các dịch vụ ngân hàng mới. Nhà nước ta có chủ trương thực hiện nhà nước pháp quyền, xây dựng hệ thống pháp luật; Chính phủ chắc chắn sẽ có những biện pháp nghiêm minh hơn về pháp luật để xây dựng hệ thống văn bản dưới luật; công khai hoá thu nhập của mọi người dân; có giải pháp huy động, không lãng phí tiền nhàn rỗi trong dân cư. Ngân hàng Nhà nước sẽ có những chủ trương mang tính nguyên tắc mở đường cho các NHTM mạnh dạn đầu tư, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nhằm tăng tính cạnh tranh và khả năng cạnh tranh và hội nhập của các NHTM. Trong điều kiện ấy, các quy chế liên quan đến tín dụng, thanh toán, quản lý ngoại hối, kế toán còn nhiều vấn đề trở ngại cho việc phát hành và thanh toán thẻ chắc chắn sẽ được bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện. Với những điều kiện thuận lợi về mọi mặt, trong những năm tới đây, dịch vụ thẻ thanh toán sẽ có những bước chuyển biến tích cực. Đó là chưa kể đến tốc độ tăng trưởng ổn định của hoạt động kinh doanh thẻ những năm gần đây, có thể dự báo một thị trường đầy tiềm năng cho thẻ tín dụng tại Việt nam của Vietcombank nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung. Thành công bước đầu trong công tác thanh toán thẻ là đã vượt qua được tình trạng trì trệ làm giảm lòng tin của khách hàng, cải thiện chất lượng dịch vụ thanh toán kịp thời, an toàn, chính xác có thể sánh với nhiều nước trong khu vực. Trong tương lai không xa, thẻ do các NHTM Việt Nam phát hành sẽ phù hợp hơn với nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư. Hạn mức tín dụng và thanh toán thẻ sẽ hạ thấp hơn hiện nay để mở rộng cho chi tiêu nội địa. Thẻ thanh toán sẽ không chỉ được sử dụng để rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng khác mà còn có thể sử dụng để gọi điện thoại, sử dụng như chứng minh thư nhân dân… và tiến tới cũng sẽ phát hành loại thẻ liên kết giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp như bưu điện, xăng dầu, hàng không. Với nhu cầu sử dụng thẻ phát triển, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ cũng sẽ mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thẻ sẽ được chấp nhận để trả tiền dịch vụ điện nước, xăng dầu, thanh toán cước phí điện thoại, thanh toán học phí,… Dịch vụ thương mại điện tử cũng sẽ phát triển ở Việt Nam và thẻ sẽ là phương tiện thanh toán thuận lợi nhất trong loại hình giao dịch này. Số lượng cơ sở chấp nhận thẻ sẽ không chỉ dừng lại ở con số hàng nghìn mà sẽ đạt tới hàng trăm nghìn. Lượng giao dịch thanh toán thẻ được xử lý tự động đảm bảo an toàn và phòng ngừa rủi ro cho hoạt động thẻ dự báo sẽ đạt tới khoảng 90% Báo cáo của Phòng quản lý thẻ, 12/2002 . CHIẾN LƯỢC KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM “Với phương châm luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt, mục tiêu của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là duy trì vai trò NHTM hàng đầu ở Việt Nam và trở thành một ngân hàng quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cam kết xây dựng mô hình tổ chức tiên tiến theo các chuẩn mực quốc tế; đa dạng hóa hoạt động; đi đầu về ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại nhằm cung cấp những dịch vụ tài chính ngân hàng chất lượng cao cho mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ giữ vững niềm tin với đông đảo bạn hàng trong và ngoài nước Báo cáo Thường niên NHNT 2001 .” Đó chính là tầm nhìn chiến lược mà ban lãnh đạo ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đề ra cho cho giai đoạn 2000-2005. Trên cơ sở đường lối chung này, mỗi phòng nghiệp vụ sẽ có hướng hoạt động kinh doanh riêng của mình. Dịch vụ thẻ của NHNT- một trong những dịch vụ ngân hàng hiện đại nhất - còn gắn với hệ thống chương trình ngân hàng bán lẻ Silverlake Vietcombank Vision 2010. Vì vậy, thời gian tới chiến lược kinh doanh thẻ rất được chú trọng. Theo đó, chiến lược phát triển thẻ của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam như sau: Thành lập Trung tâm Thẻ hoạt động độc lập. Hiện nay, phòng Quản lý thẻ trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, có cơ cấu tổ chức hoạt động giống như mọi phòng kinh doanh khác. Tới đây, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ tách phòng Quản lý thẻ ra, thành lập Trung tâm thẻ có cơ cấu hạch toán thu nhập, chi phí, lợi nhuận kinh doanh độc lập để nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý thẻ, mở rộng và chuyên môn hoá cho từng bộ phận: phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát, quản lý rủi ro. Củng cố các các sản phẩm hiện có, đưa ra các sản phẩm mới. Hiện nay, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mới chỉ phát hành thẻ tín dụng VCB –Visa, VCB-Mastercard và VCB Amex, cùng các loại thẻ thanh toán, thẻ rút tiền mặt VCB Connect 24. Với mục đích đa dạng hoá các loại hình thẻ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, trong giai đoạn tới đây, ngoài việc củng cố các loại thẻ hiện có, Vietcombank dự định sẽ đưa ra một số loại thẻ mới: Củng cố việc phát hành thẻ ATM, đặc biệt là triển khai hệ thống ATM quốc tế – cho phép rút tiền mặt bằng bất cứ loại thẻ nào như thẻ Quốc tế (thẻ tín dụng quốc tế Visa, MasterCard, thẻ Maestro, Visa Plus…) hay thẻ nội địa do các ngân hàng trong nước phát hành. Việc này đã được triển khai tốt trong năm 2002 và sẽ được nâng cấp chất lượng dịch vụ trong hai năm 2003 và 2004. Phát hành thẻ ghi nợ, cho phép khách hàng chi tiêu trên số dư tài khoản của mình mà không phải chịu lãi suất tín dụng nhưng cũng có thể tiêu quá số dư nếu được sự cho phép của ngân hàng. Phát hành thẻ liên kết (Co- brand) với các tổ chức, công ty trong nước như hàng không, bưu điện, du lịch… với mục đích khai thác hiệu quả nhất đối tượng khách hàng chung của các đơn vị có mối quan hệ làm ăn thường xuyên, lâu dài… Phát hành thẻ công ty (Corporate/Business Card). Thẻ này phát hành theo yêu cầu của các công ty, cho nhân viên của các công ty. Chi tiêu của thẻ sẽ do công ty thanh toán. Mở rộng mạng lưới CSCNT. Đây tiếp tục là một chính sách trọng tâm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: giảm phí đối với các CSCNT có doanh số thanh toán lớn, ổn định, trang bị thêm một số máy EDC, CAT cho các CSCNT của NHNT. Đồng thời tiếp tục tăng thêm số CSCNT mới. Triển khai chấp nhận thanh toán trên Internet, E-commerce: dần đưa thẻ do Vietcombank phát hành vào thanh toán trên mạng Internet với các giao dịch điện tử. Đầu tư vào các chiến lược marketing để mở rộng thị trường sử dụng và thanh toán thẻ: tăng chi phí cho marketing để nghiên cứu phát triển các loại thẻ mới, quảng cáo, khuyến mại cho khách hàng sử dụng và thanh toán thẻ Báo cáo của Phòng quản lý thẻ NHNT, 2001 . CÁC GIẢI PHÁP MỞ RỘNG KINH DOANH THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Thẻ là phương tiện thanh toán, sử dụng chủ yếu cho chi tiêu và mua sắm cá nhân thay thế cho tiền mặt. Nếu như các NHTM Việt Nam có thể phổ biến việc sử dụng thẻ cho khoảng 5-10% dân số cả nước nhằm vào các đối tượng đang sinh sống ở các thành phố, thị xã và tạo điều kiện cho việc sử dụng thẻ ở hầu hết các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho chi tiêu cá nhân thì số lượng thẻ ở trong nước có thể lên tới con số hàng nghìn thẻ mỗi năm, lớn gấp hàng trăm lần so với số lượng thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành hiện nay. Vấn đề đặt ra là các ngành chức năng sẽ trợ giúp như thế nào và Vietcombank nói riêng cũng như các NHTM nói chung sẽ triển khai những biện pháp gì để khai thác được tiềm năng đó trong những năm tới. Hệ thống ngân hàng tại một số nước châu Á như Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Malayxia… đã đạt được những thành công trong lĩnh vực thẻ chỉ trong một thời gian ngắn nhờ sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan và sự hỗ trợ đặc biệt của chính phủ. Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài này cố gắng đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị để thúc đẩy mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tín dụng tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 1. Vietcombank – Ngân hàng phát hành 1.1 Hoàn thiện và đơn giản hoá quy trình phát hành: Hiện nay, Vietcombank phát hành thẻ chủ yếu dựa trên thế chấp và ký quỹ với mức ký quỹ là 125% hạn mức thẻ đồng thời quy trình thẩm định phát hành thẻ của Vietcombank cũng rất chặt chẽ. Với cách thức ngân hàng sẽ không lo rủi ro không thu được nợ nhưng lại gây ra nhiều khó khăn cho khách hàng muốn sử dụng thẻ dẫn đến số lượng thẻ hạn chế. Chính vì vậy, để tiến tới tăng số lượng thẻ phát hành trước hết Vietcombank cần hoàn thiện và đơn giản hơn nữa quy trình phát hành thẻ. Khách hàng sử dụng thẻ không chỉ đơn thuần làm phương tiện thanh toán mà còn như một phương thức tăng khả năng tài chính ngắn hạn. Vì vậy, thẩm định để phát hành thẻ nên xét đến tính ổn định của thu nhập, uy tín của khách hàng và coi đó là hình thức đảm bảo (tín chấp) một cách linh hoạt hơn là cứ cứng nhắc với các điều kiện về thế chấp, ký quỹ. Để làm tốt điều này, Vietcombank cần phát triển hơn nữa mạng lưới tài khoản cá nhân và phối hợp với một số công ty, doanh nghiệp để khuyến khích họ trả lương cho nhân viên vào tài khoản tại Vietcombank rồi căn cứ vào đó có thể xác định tình hình hoạt động tài chính của từng cá nhân để khuyến khích sử dụng thẻ. Ngoài ra, những bất cập trong phát hành thẻ cũng cần được nhìn nhận và phải khắc phục những thủ tục phiền hà trong phát hành thẻ tại chi nhánh phát hành như thủ tục tiếp nhận hồ sơ, trong đó có cả đơn xin phát hành có sự phê duyệt của giám đốc chi nhánh, thủ tục lưu giữ hồ sơ… Quá trình này cần sửa đổi, đơn giản hoá để dễ dàng thuận lợi cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, hiệu quả của quá trình thẩm định. Thực hiện chiến lược Marketing rộng rãi: Hiện nay thẻ còn là một phương tiện thanh toán tương đối mới ở Việt Nam. Vì vậy, rất cần quảng cáo, tiếp thị cho sản phẩm thẻ đến mọi đối tượng khách hàng hàng khác nhau. Trong khi đó, khâu marketing thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam và của Vietcombank còn chưa hiệu quả. Đại đa số người tiêu dùng và phần lớn người cung cấp dịch vụ, tiện ích trong nước đều chưa quen loại hình thanh toán bằng thẻ thay cho tiền mặt. Thẻ mới chỉ phổ biến trong một số ít dân cư, chủ yếu là cán bộ ngân hàng, quan chức chính phủ, những người có người thân sinh sống, học tập và làm việcở nước ngoài, và một số ít trí thức. Vì vậy, muốn cho thẻ được sử dụng rộng rãi thì rất cần có một chiến lược marketing thẻ với các chính sách tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại mạnh mẽ… đến mọi tầng lớp dân cư. Đầu tư cho quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, truyền hình…) hay các panô quảng cáo trên đường phố. Làm các chương trình tìm hiểu cũng như giải đáp thắc mắc về thẻ trên truyền hình, phổ biến kiến thức về thẻ cho mọi đối tượng dân cư. Đồng thời, Vietcombank cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ cho các cuộc thi kiến thức, trò chơi kinh tế…để nhân đó truyền bá về thẻ cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng. Ngoài ra, công nghệ thông tin phát triển, Internet cũng là một phương tiện hữu hiệu để quảng cáo cho sản phẩm thẻ cũng như cho Vietcombank-NHPH. Dựa vào tâm lý khách hàng thích mua hàng hoá với giá rẻ, Vietcombank có thể ký hợp đồng đại lý với một số siêu thị, cửa hàng để họ chấp nhận giảm giá khi khách hàng thanh toán bằng thẻ của Vietcombank phát hành. Đổi lại, Vietcombank sẽ có chế độ thưởng cho CSCNT tính trên % số tiền trên hoá đơn thanh toán bằng thẻ Vietcombank. Các CSCNT sẽ được Vietcombank giới thiệu với khách hàng khi phát hành thẻ cho họ. Thực hiện theo cách này, không những tạo ra đòn bẩy khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ mà còn giúp các CSCNT tăng doanh số bán hàng, chủ thẻ được giảm giá. Tất nhiên, giải pháp này chỉ thực hiện trong một giai đoạn ngắn cho đến khi thẻ do Vietcombank phát hành trở nên quen thuộc với khách hàng. Tăng cường việc tiếp cận, khuyến mại để quảng cáo về sử dụng thẻ cho những đối tượng khách hàng tiềm năng như các công ty lớn, công ty liên doanh, các văn phòng đại diện nước ngoài ở Việt Nam…, phối hợp với họ để phát hành một số lượng thẻ lớn cho nhân viên của họ với các điều kiện ưu đãi hơn. Đầu tư cho việc nghiên cứu, đưa ra những sản phẩm thẻ mới: thẻ công ty, thẻ liên kết, thẻ ATM kiêm thanh toán, thẻ có hạn mức tín dụng thấp (hạn mức nhỏ hơn 10 triệu) để chi tiêu trong nước… nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng, phong phú của khách hàng đồng thời thoả mãn cả đối với những đối tượng khách hàng có thu nhập trung bình… Trong điều kiện hiện nay, marketing thẻ nên nhằm vào đối tượng khách hàng mục tiêu là dân cư ở thành thị gồm những người làm việc trong cơ quan nước ngoài, cơ sở liên doanh, văn phòng đại diện quốc tế đặt trụ sở tại Việt Nam hay những người làm việc trong những ngành có thu nhập cao như dầu khí, bưu điện, hàng không, chủ doanh nghiệp… Đây là những đối tượng có thu nhập cao, ổn định lại hay có điều kiện đi du lịch nước ngoài, công tác trong và ngoài nước, ăn uống ở nhà hàng, nghỉ ở khách sạn… Ngoài ra còn có một bộ phận lớn người nước ngoài là các nhà đầu tư, chuyên gia nước ngoài… có nhu cầu chi tiêu thường ngày lớn. Một bộ phận nữa có xu hướng tăng lên là học sinh, sinh viên đi học tập ở nước ngoài được gia đình bảo lãnh sử dụng thẻ ở nước ngoài. Trên đây là những đối tượng khách hàng chính mà Vietcombank cần chú ý khi marketing, phát triển việc phát hành thẻ. Hợp lý hoá chi phí sử dụng thẻ: Hiện nay, chi phí sử dụng thẻ còn nhiều bất hợp lý. Ngoài phí thường niên, chủ thẻ còn phải trả thêm lãi suất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí chậm trả, phí rút tiền mặt, phí cấp thẻ lần đầu tiên… Các khoản phí này làm cho việc sử dụng thẻ trở nên đắt hơn nhiều so với chi tiêu bằng tiền mặt. Thêm nữa, lãi suất đối với tín dụng thẻ cao hơn so với lãi suất tín dụng thông thường là một điều bất hợp lý. Vì vậy, hợp lý hoá các loại phí cho sử dụng thẻ là một điều cần chú ý điều chỉnh để mở rộng hơn nữa việc phát hành thẻ. Tăng cường mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế để mở rộng phạm vi sử dụng thẻ: Trên cơ sở mối quan hệ sẵn có, Vietcombank phải thường xuyên củng cố hơn nữa và mở rộng mối quan hệ với các Tổ chức thẻ quốc tế, trọng tài quốc tế, các ngân hàng trong và ngoài nước. Mối quan hệ này sẽ giúp cho Vietcombank có được uy tín trên thương trường, các sản phẩm thẻ của Vietcombank có điều kiện thanh toán dễ dàng, thuận lợi cho người sử dụng thẻ. Đồng thời, thông qua các mối quan hệ chặt chẽ này, Vietcombank có thể có được các thông tin thường xuyên, cập nhật liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ để ngày càng hoàn thiện hoạt động phát hành của mình, theo kịp sự tiến bộ của thế giới. 2. Vietcombank – Ngân hàng thanh toán Thanh toán thẻ vốn là một thế mạnh của Vietcombank trên thị trường Việt nam. Nhưng trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, Vietcombank cũng cần có những biện pháp để hoạt động thanh toán ngày càng đem lại lợi nhuận lớn hơn. 2.1 Mở rộng mạng lưới CSCNT: Thực chất hoạt động thanh toán thẻ là cấp tín dụng tiêu dùng cá nhân vì thế phải đặc biệt chú ý đến sở thích, nhu cầu của chủ thẻ. Muốn tăng số lượng phát hành và sử dụng thẻ, Vietcombank cần chú trọng mở rộng các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ chấp nhận thanh toán bằng thẻ, sao cho người dân có thể thoả mãn mọi nhu cầu sinh hoạt tại các CSCNT của Vietcombank. Thực tế cũng phản ánh là, thẻ trong nước nhưng doanh số thanh toán chủ yếu là ở ngoài nước, nên vấn đề đặt ra là phát triển CSCNT và tổ chức thanh toán trong nước, đáp ứng yêu cầu của các tầng lớp dân cư. Hiện nay, mạng lưới CSCNT của Vietcombank chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu… các lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, quầy bán vé máy bay, siêu thị và một số ngân hàng làm đại lý thanh toán thẻ cho Vietcombank. Loại hình nhà hàng, khách sạn chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách nước ngoài, doanh số thanh toán thẻ ở đây chiếm 60 – 70% doanh số. Như vậy, còn một lĩnh vực rất rộng lớn mà thẻ chưa thực sự phát huy tác dụng đó là các điểm bán hàng hoá, quà lưu niệm, khu vui chơi giải trí, nhà trọ… có nhiều khách nước ngoài lui tới. Do vậy, chiến lược chung của Vietcombank là phải chỉ đạo các chi nhánh, đại lý thanh toán thẻ trong nước để mở rộng mạng lưới CSCNT. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả của việc mở rộng phát hành thẻ. Để làm được điều này, Vietcombank cần thực hiện một số điều sau: Tăng cường việc tiếp thị, giảm chi phí và cung cấp máy móc thanh toán thẻ cho các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ nhằm khuyến khích họ chấp nhận thanh toán thẻ. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt để giữ những khách hàng là CSCNT có uy tín, doanh số thanh toán thẻ cao, ổn định. Chú ý phát triển mạng lưới CSCNT tại các nhà hàng, khách sạn, các khu vui chơi, giải trí mọc lên ngày càng nhiều; các cửa hàng thủ công mỹ nghệ, các nhà hàng đặc sản… vốn cũng là nơi thường xuyên có khách nước ngoài lui tới; đồng thời cũng không quên chú ý phát triển hơn nữa việc thanh toán thẻ tại các siêu thị, shop thời trang… phục vụ cho đối tượng khách hàng trong nước. Tập trung nguồn vốn (vốn phát triển công nghệ, lợi nhuận, vốn vay…) để đầu tư vào công nghệ thanh toán thẻ: máy in thẻ, máy EDC, CAT… trang bị cho các CSCNT để đảm bảo quá trình thanh toán tại các CSCNT được nhanh chóng, an toàn, tiện lợi nhất. Nguồn vốn này cũng có thể được dùng để đầu tư trang bị thêm các máy ATM đặt tại các chi nhánh Vietcombank, các trung tâm thương mại, trung tâm giải trí lớn, các khu chợ… sẵn sàng phục vụ nhu cầu chi tiêu bằng tiền mặt bất cứ khi nào khách hàng cần. Thực hiện chiến lược Marketing Hoạt động phát hành thẻ phải gắn liền với việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ, vậy nên marketing trong thanh toán thẻ cũng gắn chặt với marketing trong phát hành thẻ. Tiến hành marketing thẻ là tiến hành quảng cáo, xúc tiến sử dụng cho cả việc phát hành và thanh toán thẻ. Các biện pháp có thể áp dụng là: quảng cáo các loại thẻ do Vietcombank thanh toán và các CSCNT của Vietcombank trên báo chí, truyền hình; khuyến khích người dân mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng…. Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng tham gia thanh toán thẻ Thường xuyên giữ mối quan hệ với các ngân hàng thanh toán thẻ để cùng nhau trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong việc thanh toán thẻ. Đặc biệt, khi đã có Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam thì việc giữ mối quan hệ này là rất thuận lợi. Nhờ có hiệp hội, các ngân hàng thanh toán thẻ trong nước có thể liên kết với nhau, đề ra đường lối, chính sách chung về phí, quy trình thanh toán… nhằm chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh từ các ngân hàng nước ngoài đồng thời tạo ra sự thống nhất trong hoạt động kinh doanh thẻ ở Việt Nam. Mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán thẻ của từng ngân hàng thành viên và của Việt Nam nói chung. Điều này làm cho uy tín của các NHTM Việt Nam tăng lên trên thương trường quốc tế, tăng sự tin tưởng của các Tổ chức thẻ quốc tế cũng như của khách hàng. Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ bằng mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên đã đề ra được nhiều quyết sách chung cho hoạt động của mình và trình lên ngân hàng Nhà Nước và chính phủ, góp phần làm cho hoạt động thanh toán thẻ ở Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn. Tăng cường đầu tư cho hệ thống trang bị kỹ thuật phục vụ thanh toán thẻ Trang bị kỹ thuật phục vụ thanh toán đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trình độ kỹ thuật công nghệ là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ và thành bại trong cạnh tranh. Do vậy, một trong những định hướng lớn trong hoạt động của Vietcombank nói chung và phòng quản lý thẻ Vietcombank nói riêng là tăng cường đầu tư vào công nghệ cho nghiệp vụ thanh toán thẻ về phần cứng, phần mềm cũng như nguồn nhân lực. Trong đầu tư công nghệ, đầu tư trang thiết bị thanh toán cho hệ thống CSCNT là không thể thiếu. Nhưng với một mạng lưới CSCNT ngày càng rộng thì điều quan trọng là phải đảm bảo một hệ thống quản lý và xử lý thông tin có hiệu quả, đảm bảo cho luồng thông tin và luồng chu chuyển tiền liên quan đến việc sử dụng tiền của chủ thẻ được thông suốt. Hệ thống quản lý và xử lý thông tin bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là hệ thống máy móc, trang thiết bị, công cụ để thực hiện. Nhưng phần mềm là các chương trình quản lý và bộ máy nhân sự cũng vô cùng quan trọng. Việc đầu tư cho công nghệ không đơn giản. Nó đòi hỏi một lượng vốn lớn, thu hồi vốn lâu dài. Do vậy, ngân hàng cần có kế hoạch trích từ quỹ đầu tư phát triển hoặc huy động từ một số nguồn dài hạn khác để phục vụ cho công tác này. Có như vậy, hệ thống quản lý mới phát huy được vai trò đảm bảo cung cấp dịch vụ đạt chất lượng cao cho khách hàng - chủ thẻ, CSCNT và phòng ngừa hữu hiệu các rủi ro, thiệt hại do nạn lừa đảo, giả mạo gây ra. Nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ Thẻ thanh toán là một sản phẩm đa tiện ích, nhưng ở Việt nam, các tiện ích của thẻ mới được sử dụng rất hạn chế. Đa số sử dụng thẻ để thanh toán ở các nhà hàng, khách sạn, siêu thị.., Do vậy, nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ đồng nghĩa với việc mở rộng loại hình CSCNT: các tiệm ăn, nhà nghỉ, cửa hàng sách, trạm xăng… để chủ thẻ có thể sử dụng thẻ ở mọi nơi. Ngoài ra, Vietcombank cũng cần triển khai mạnh dịch vụ rút tiền tự động bằng thẻ, phục vụ 24/24 giờ và triển khai việc thanh toán thẻ đối với các giao dịch điện tử (E-commerce). Hiện toàn quốc chỉ có hơn 100 máy ATM của Vietcombank phục vụ 24/24 Nguồn: Phòng quản lý NHNT, 12/2002 . Con số này cần được nhân rộng để người dùng thẻ có thể dễ dàng sử dụng được thẻ thanh toán và thẻ ATM của mình. Đối với chủ thẻ, Vietcombank cũng có thể áp dụng chế độ giảm lãi suất đối những khách hàng có doanh số sử dụng thẻ cao, thưởng điểm cho mỗi lần có số tiền chi tiêu đạt một mức nhất định và dựa vào số điểm đó để có chế độ đãi ngộ đặc biệt… Phát huy vai trò ngân hàng thanh toán: Vietcombank thu được lợi nhuận không nhỏ từ việc thanh toán thẻ Visa, Mastercard, JCB, AMEX do vậy, trong lĩnh vực này Vietcombank cần phát huy để làm tốt hơn nữa. Cụ thể là: Chấp hành tốt các quy định nghiêm ngặt trong quy trình thanh toán thẻ đối với mỗi loại thẻ theo đúng quy định quốc tế để không xẩy ra tranh chấp làm mất thời gian, công sức, tiền bạc và giảm uy tín của Vietcombank. Khuyến khích các CSCNT của Vietcombank làm tốt việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thanh toán bằng thẻ bằng thái độ ân cần, niềm nở. Tiếp tục phối hợp với các CSCNT, cơ quan công an… kịp thời phát hiện các trường hợp giả mạo về thẻ hay các thẻ có vấn đề mà không làm ảnh hưởng đến khách hàng, làm cho những khách hàng trung thực thấy bị xúc phạm. Vai trò thanh toán thẻ của ngân hàng tăng lên cũng đồng nghĩa với việc uy tín của Vietcombank tăng lên và có điều kiện thuận lợi để tăng lợi nhuận bằng cách tăng số loại thẻ thanh toán và phạm vi thanh toán. Các giải pháp khác Thực chất, mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tuy là hai quá trình khác nhau nhưng lại có mối liên hệ mật thiết. Mối quá trình đều có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, Do vậy, đề ra các giải pháp để đẩy mạnh phát hành thẻ tại Vietcombank cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy thanh toán tại Vietcombank. Vì vậy, cần có một số giải pháp chung, tạo ra môi trường cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của Vietcombank. Thành lập trung tâm thanh toán thẻ hoạt động độc lập: Vấn đề tách phòng quản lý thẻ của Vietcombank hiện nay ra, lập thành một trung tâm thẻ hoạt động độc lập đã được đưa ra từ lâu và đến nay đã thành một kế hoạch cụ thể và sẽ được triển khai trong giai đoạn 2001-2005. Các cán bộ phòng thẻ đang xúc tiến việc nghiên cứu để xây dựng một mô hình hoạt động cho trung tâm thẻ của Vietcombank. Khi ra đời, trung tâm này sẽ hoạt động độc lập: doanh thu, chi phí được hạch toán độc lập kể cả những chi phi về nhân sự, chi phí quản lý, khấu hao… Mọi hoạt động của trung tâm sẽ dựa trên cơ sở lợi nhuận từ kinh doanh thẻ, hoàn toàn không phụ thuộc vào ngân sách do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trung ương cấp. Việc ra đời trung tâm thẻ hoạt động độc lập như vậy chắc chắn sẽ làm cho hoạt động kinh doanh thẻ của Vietcombank đạt hiệu quả cao hơn. Tăng cường đầu tư cho chiến lược nguồn nhân lực Con người luôn là chủ thể của quá trình phát triển, đóng vai trò không thể thay thế được và quyết định thành bại của hoạt động kinh doanh. Với kinh doanh thẻ, một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới thì nhân tố này đóng vai trò càng quan trọng hơn. Hiện nay, sau 12 năm hoạt đông trên lĩnh vực thẻ, Vietcombank đã có một đội ngũ cán bộ thẻ năng động, vững chuyên môn, đảm trách tốt công việc của mình. Tuy vậy, nếu xét về tiềm năng phát triển của hoạt động kinh doanh thẻ thì như vậy là chưa đủ. Chúng ta chưa có các chuyên gia hàng đầu trong hoạt động thẻ, các cán bộ quản lý điều hành và cán bộ nghiệp vụ ngoài trình độ ngoại ngữ tương đối phải có một trình độ tổng hợp kiến thức nhất định. Do vậy, để có một chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực thẻ, Vietcombank cần mạnh dạn đầu tư cho nguồn nhân lực cả về lượng lẫn về chất. Các cán bộ quản lý điều hành ngoài những nỗ lực của bản thân phải được tham gia các khoá học dài hạn, bài bản, có thời gian thực tập để co kiến thức chuyên sâu và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong kinh doanh thẻ. Cũng cần thương xuyên tổ chức chức các lớp đào tạo, tập huấn nghiệp vụ hoặc cử đi học tại các tổ chức thẻ quốc tế để thường xuyên bổ xung, nâng cao trình độ. Ngoài ra, không thể thiếu các kế hoạch tuyển chọn, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ mới đáp ứng yêu cầu công việc và vận hành tốt những máy móc thiết bị ngày càng hiện đại. Phòng chống rủi ro: Rủi ro là vấn đề không thể tránh khỏi trong kinh doanh. Do vậy, phòng ngừa và hạn chế rủi ro luôn là một vấn đề mà bất cứ ngân hàng nào cũng cần phải quan tâm để đạt hiệu quả trong kinh doanh. Vietcombank cần thường xuyên giữ mối liên hệ với khách hàng để tránh trường hợp ngân hàng nhận được những thông báo không thật về chủ thẻ, dẫn đến tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng, số thẻ bị lộ. Đặc biệt trong trường hợp giao thẻ cho khách hàng qua đường bưu điện cần có sự xác nhận chính xác của chính chủ thẻ và chỉ thông báo số PIN trực tiếp cho khách hàng khi ngân hàng và khách hàng gặp nhau. Cũng cần thường xuyên cập nhật các thông tin về thẻ giả, thẻ cấm lưu hành, thẻ bị mất cắp, thất lạc… để đưa lên danh sách Bulletin. Đồng thời, kịp thời phát hiện những hành vi lợi dụng nhiều thương vụ có giá trị thanh toán nhỏ hơn hạn mức thanh toán để đạt tổng trị giá thanh toán lớn hơn hạn mức thẻ của chủ thẻ. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ Các giải pháp đề ra có thành hiện thực hay không còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết là sự nỗ lực và khả năng của Vietcombank, và tiếp đó là phụ thuộc vào sự quan tâm giúp đỡ từ phía Ngân hàng Nhà nước. Do vậy rất cần có một số kiến nghị với Ngân hàng nhà nước và các cơ quan chức năng để tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động thẻ. 1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 1.1 Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ Hoàn chỉnh môi trường pháp lý là vấn đề cần thiết để thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong xã hội. Thẻ do Vietcombank phát hành hiện nay chịu sự quy định chặt chẽ của Hiệp hội thẻ quốc tế. Nhưng chỉ như vậy là chưa đủ. Cần có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện, đầy đủ cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có duy nhất một Quy chế của Ngân hàng nhà nước về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ (ban hành ngày 19/10/1999). Đó chỉ là một văn bản có tính hướng dẫn chung còn về quy trình cụ thể thì lại do từng ngân hàng tự đề ra, chứ không có sự thống nhất chung. Một khi thẻ đã được sử dụng phổ biến và trở thành phương tiện thanh toán hữu hiệu thì rất cần có một pháp lệnh về thẻ thanh toán với những điều khoản chặt chẽ, thống nhất với các văn bản có liên quan đến quản lý ngoại hối, tín dụng chung. Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các CSCNT nhưng chưa có phần đề cập đến hạn mức thanh toán và tín dụng của thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Chính sách quản lý ngoại hối cần phải có quy định riêng cho thẻ thanh toán, nhất là thẻ tín dụng quốc tế nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ nhưng vừa phải tạo điều kiện cho phát hành thẻ của ngân hàng và sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế ở mức độ nào đó. Chính sách tín dụng phải có quy định riêng cho tín dụng thẻ – một loại hình tín dụng mới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, đảm bảo tín dụng cho khách hàng của mình, giảm khó khăn phiền hà cho khách hàng để tăng lượng khách hàng sử dụng thẻ. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng chủ thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản vay thông thường mà có thể nới rộng hơn và lưu tâm hơn đến khả năng thanh toán của khách hàng căn cứ vào tính ổn định thường xuyên của thu nhập. Ngoài ra, cũng cần quy định rõ vấn đề liên quan đến dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro cho chủ thẻ và ngân hàng. Hoạch định các chiến lược chung về thẻ cho toàn hệ thống NHTM tránh sự cạnh tranh vô ích. Ngân hàng nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện dịch vụ thẻ để tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ trong cả nước. Cùng với Ngân hàng nhà nước, Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt nam ra đời đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt nam. Hiệp hội các Ngân hàng thanh toán thẻ thường xuyên làm việc với Ngân hàng nhà nước và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các Tổ chức thẻ quốc tế nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nghiệp vụ thẻ ở Việt Nam. Hội cũng đã thu hút hầu hết các ngân hàng thực hiện dịch vụ thẻ tại Việt Nam tham gia, thống nhất mức phí, áp dụng các chính sách chung nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các ngân hàng và thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Hội cũng nắm bắt những khó khăn, thuận lợi của các ngân hàng trong hiệp hội về phát hành và thanh toán thẻ để cùng nhau đề ra các giải pháp khắc phục, bước đầu thực hiện tiêu chí “diễn đàn hợp tác, trao đổi kinh nghiệm của các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt Nam”. Tuy vậy, hoạt động của hội cũng cần mạnh mẽ, có hiệu quả hơn, có những quy định nghiêm khắc về chế tài, đóng góp tích cực hơn cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam. Hội cần tiếp tục là nòng cốt, đi đầu trong việc cải tiến hình thức, phương thức hoạt động kinh doanh thẻ. Thông qua Hiệp hội thẻ, Ngân hàng nhà nước có thể áp dụng những chính sách chung của mình cho hoạt động thẻ như hoạch định chiến lược khai thác thị trường, thúc đẩy việc phát hành, thanh toán thẻ, ứng dụng công nghệ thẻ đã, đang và sẽ phát triển trên thị trường thế giới và khu vực. Thành lập trung tâm thanh toán liên hàng về thẻ: Thực tế hiện nay, các ngân hàng quản lý việc phát hành và thanh toán thẻ theo mạng riêng của mình, điều này có lợi là phù hợp với chức năng hoạt động kinh doanh, kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng. Nhưng qua kinh nghiệm của nước ngoài, chúng ta cũng nên thành lập một trung tâm chuyển mạch, thanh toán liên hàng về thẻ. Trung tâm sẽ xử lý các giao dịch thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành nhằm khuyến khích các ngân hàng phát hành thẻ nội địa trên cơ sở đầu tư mạng thanh toán trực tuyến trong nội bộ từng ngân hàng và tạo điều kiện giảm chi phí thanh toán thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Trung tâm này là đầu mối xử lý các giao dịch cấp phép, thanh toán, tra soát giao dịch thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đảm bảo các loại thẻ do các NHTM khác nhau phát hành có thể thanh toán tại bất cứ CSCNT nào trong toàn hệ thống. Các giao dịch thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành thực hiện tại các CSCNT trong nước sẽ được trung tâm này xử lý, không cần thông qua trung tâm xử lý cấp phép và trao đổi của các Tổ chức thẻ quốc tế. Điều này sẽ làm giảm tính phức tạp về hình thức thanh toán các giao dịch nội bộ trong nước, tăng tốc độ thanh toán, giải quyết được vấn đề chênh lệch về tỷ giá, tiết kiệm khoản chi phí phải thanh toán cho các tổ chức thẻ Quốc tế và thống nhất chủ trương giao dịch thẻ ở Việt Nam chỉ dùng VND… đông thời qua trung tâm đó, các thành viên sẽ có mối quan hệ chặt chẽ hơn trong mọi lĩnh vực: Cập nhật nhanh nhất các thông tin về thẻ giả mạo, tránh thất thoát cho các thành viên; kết hợp in ấn danh sách thẻ cấm lưu hành; thống nhất về đồng tiền thanh toán, phí, tỷ giá… Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh thẻ Ngân hàng nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng không ngại đầu tư mở rộng dịch vụ thẻ bằng việc trợ giúp các ngân hàng trong nước trong việc phát triển nghiệp vụ thẻ để tạo điều kiện cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đồng thời có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động thẻ. Ngân hàng nhà nước cần cho phép các các ngân hàng thương mại thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro cho nghiệp vụ thẻ, thành lập bộ phận quản lý phòng ngừa rủi ro chung cho các NHPH, NHTT thẻ nằm trong trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước. Ngân hàng nhà nước nên thường xuyên phối hợp với các NHTM tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thẻ cho các NHTM cùng tham gia; giới thiệu để các NHTM thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ; cùng các NHTM trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện. Cho phép các NHTM Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định để đảm bảo tính cạnh tranh của các loại thẻ do ngân hàng Việt Nam phát hành so với các loại thẻ của các ngân hàng nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành. Ngân hàng nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các đề án, tính toán hiệu quả kinh tế và vốn đầu tư để trên cơ sở đó huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực thẻ. 2. Kiến nghị với Chính phủ Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ Hiện nay, số tội phạm có liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. Ở Việt Nam, pháp luật thiếu và còn nhiều sơ hở, trang bị kỹ thuật còn thiếu sẽ là mảnh đất lý tưởng cho bọn tội phạm hoạt động. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng pháp luật, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành; bộ luật hình sự nước ta cần sớm đưa ra khung hình phạt cho các tội phạm liên quan đến thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số… nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ công an, cảnh sát kinh tế, cảnh sát quốc tế… cũng cần có những biện pháp phối hợp với ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trong lĩnh vực này. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không là vấn đề của riêng ngành ngân hàng mà của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy, nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng. Riêng đối với lĩnh vực thẻ, nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ mà nếu chỉ có ngành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi. Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định Một môi trường kinh tế xã hội ổn định luôn là nền tảng vững chắc cho mọi sự phát triển. Phát triển thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kinh tế xã hội có ổn định và phát triển bền vững thì đời sống của người dân mới được cải thiện, quan hệ quốc tế mới được mở rộng, mới có điều kiện tiếp xúc với các công nghệ thanh toán hiện đại của ngân hàng. Kinh tế xã hội có phát triển thì ngân hàng mới có thể mở rộng được đối tượng phục vụ của mình. Đầu tư cho hệ thống giáo dục Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này phải nằm trong chiến lược phát triển chung của một quốc gia. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngân hàng thì cần có một đường lối chiến lược chỉ đạo của nhà nước. Nhà nước cần khuyến khích các trường đại học mở ra những ngành học chuyên môn về thẻ ngân hàng, công nghệ thẻ nằm trong khối ngành kinh tế chung. Tóm lại, sự trợ giúp của nhà nước là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với mọi ngành, mọi cấp. Nếu có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ về chính sách thuế, quy định về luật pháp… để các ngân hàng thương mại có định hướng triển khai dịch vụ thẻ thanh toán góp phần phát triển kinh tế xã hội lâu dài thì nhất định dịch vụ này sẽ thu được kết quả khả quan. KẾT LUẬN Theo nghĩa rộng, thẻ thanh toán nói chung bao gồm tất cả các loại: thẻ séc, thẻ rút tiền mặt, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng… Thẻ thanh toán là một trong những thành tựu của ngành công nghiệp ngân hàng. Đó là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tài chính cá nhân và sẽ không có sự bùng nổ trong ngành công nghiệp bán lẻ vào những năm 1970 và 1980 nếu không có sự ra đời của thẻ. Sự phát triển của thẻ là thành quả của sự đổi mới và khả năng marketing của các chuyên gia ngân hàng thế giới. Trong hệ thống ngân hàng, hình thức sơ khai của thẻ là charge-it, một hệ thống mua bán chịu trong ngành ngân hàng. Hệ thống này mở đường cho sự ra đời của thẻ vào năm 1951. Với những lợi ích của hệ thống thanh toán này, càng ngày càng có nhiều tổ chức tín dụng tham gia thanh toán. Tuy nhiên, để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng cần phải có một mạng lưới thanh toán lớn, không chỉ trong phạm vi một địa phương, một quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, có 4 tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất là VISA, MASTERCARD, AMEX, JCB. Các thẻ chủ yếu đều do 4 tổ chức thẻ nói trên phát hành. Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu hút nhiều lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Các loại thẻ MasterCard, Visa, Amex, JCB được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và cùng phân chia những thị trường rộng lớn. Tại Việt nam, Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng đầu tiên tiến hành nghiệp vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế - đưa hình thức thanh toán thẻ vào thị trường nước ta. Năm 1990, lần đầu tiên tại Việt Nam, NHNT Việt Nam đã tham gia làm đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế và thu được những kết quả to lớn. Năm 1993, NHNT Việt Nam phát hành thẻ ngân hàng đầu tiên (chip card) và đến năm 1995 phát hành thẻ ATM - thẻ ghi nợ. Với những thành quả đạt được và uy tín ngày càng tăng, từ năm 1996, NHNT Việt Nam đã được các tổ chức thẻ quốc tế là VISA và MASTER CARD kết nạp là thành viên chính thức, trực tiếp tham gia phát hành thẻ tín dụng quốc tế. NHNT Việt Nam cũng được tổ chức thẻ AMEX và JCB cho phép độc quyền thanh toán các loại thẻ cho 2 tổ chức này ở Việt Nam. Đến nay, NHNT Việt Nam vừa là ngân hàng phát hành, vừa là ngân hàng thanh toán. Các loại thẻ do NHNT phát hành là MasterCard và Visa, các loại thẻ NHNT trực tiếp thanh toán là MasterCard, Visa, JCB, AMEX. Tháng 3/2003, NHNT vừa chính thức khai trương thêm dịch vụ mới của mình – phát hành thẻ AMERICAN EXPRESS VCB và trở thành nhà phát hành và thanh toán thẻ chính thức của American Express tại Việt nam. Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ không phải là dịch vụ mới đối với ngành ngân hàng thế giới. Nhưng đối với qui mô và mức độ phát triển của ngành ngân hàng Việt nam, dịch vụ này vẫn còn chưa thực sự được triệt để khai thác. NHNT Việt nam là một ngân hàng lớn với khá nhiều dịch vụ tiên tiến nhưng dịch vụ thẻ vẫn chưa chiếm tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu của ngân hàng. Vướng mắc này có dấu ấn của cả bản thân ngân hàng lẫn cơ chế và môi trường kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để có thể thúc đẩy và khuyến khích người dân dùng thẻ thanh toán thay cho tiền mặt, NHNT Việt nam còn rất nhiều việc phải làm. Đồng thời, Nhà nước cũng cần có nhiều biện pháp hỗ trợ để các ngân hàng thương mại có cơ sở pháp lý ổn định và nền tảng kinh tế xã hội vững chắc cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ tín dụng, thẻ thanh toán trong và ngoài nước, góp phần vào mục tiêu xóa bỏ dần thói quen dùng tiền mặt trong chi tiêu của người dân, tạo nếp sống và tư duy chi tiêu, thanh toán tiên tiến như những quốc gia văn minh, phát triển trên toàn cầu ./. Hà nội, tháng 5 năm 2003 NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững vấn đề lý luận cơ bản về thẻ thanh toán.doc
Luận văn liên quan