Đề tài Nhũng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiên nay và hướng hoàn thiện

Sự điều chỉnh cần đặt trong mối quan hệ với các sắc thuế khác. Cụ thể, trong điều kiện thuế nhập khẩu tiếp tục được điều chỉnh giảm theo cam kết thực hiện CEPT, áp dụng thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB , theo đó, cần điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành xuống mức hợp lý nhằm không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các DN đang SX- KD các mặt hàng, dịch vụ này. Bên cạnh đó, để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, chúng tôi đề nghị mỗi loại hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB chỉ nên áp dụng một hoặc hai mức thuế suất để đảm bảo tính đơn giản, khả thi chứ không chia nhỏ như hiện nay làm cho biểu thuế TTĐB phức tạp và khó áp dụng. Theo đó, đối với mặt hàng thuốc lá không nên áp dụng các mức thuế suất khác nhau phân biệt giữa thuốc lá có đầu lọc và thuốc lá không có đầu lọc bởi như quy định hiện hành thuốc lá không có đầu lọc (có hại cho sức khỏe nhiều hơn thuốc lá có đầu lọc) lại được hưởng thuế suất thấp hơn thuốc lá có đầu lọc (25% so với 45% và 65%) là không hợp lý, khi quy định áp dụng cùng một mức thuế suất nhưng giá trị thuốc lá có đầu lọc lớn hơn giá trị thuốc lá không có đầu lọc nên mức điều tiết thu nhập vào người tiêu dùng thuốc lá có đầu lọc vẫn cao hơn; còn đối với mặt hàng rượu không nên chia thành quá nhiều loại rượu như hiện nay gồm rượu thuốc, rượu dưới 200, rượu chế biến từ hoa quả, rượu từ 200 đến 300, rượu từ 300 đến 400 và rượu trên 400 để áp dụng các mức thuế suất khác nhau làm cho biểu thuế của thuế TTĐB quá phức tạp, thiết nghĩ chỉ nên chia thành hai loại là rượu trên 300 và rượu dưới 300 là đủ, vì rượu dưới 300 đã có cả các loại rượu chế biến từ hoa quả và rượu thuốc trong đó. Đặc biệt, cần xóa bỏ thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định hiện hành phân biệt giữa thuốc lá có nguyên liệu nhập khẩu trên 51% với thuốc lá có nguyên liệu trong nước là chủ yếu, giữa ô tô nhập khẩu với ô tô SX trong nước vì nó vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2864 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhũng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiên nay và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU:……………………………………………………………... 1 NỘI DUNG:……………………………………………………………….. 1 A. Khái quát chung về Thuế tiêu thụ đặc biệt:………………………….. 1 1. Khái niệm:………………………………………………………………... 1 2. Đặc điểm:………………………………………………………………… 1 3. Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt:………………………………. 2 B. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay ……………………………………….. 2 I. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước……… 2 II. Yếu tố kinh tế……………………………………………………………. 3 III. Yếu tố xã hội……………………………………………………………. 4 IV. Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt…. 4 V. Yếu tố tâm lý……………………………………………………………. 5 1. Tâm lý và lợi ích cá nhân………………………………………………. 6 2. Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp……………………………………… 6 3.Mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân…………………………….. 7 VI. Mức đồng bộ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nước ta……………. 7 C. Thực trạng thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay…………………………………………………… 8 I. Những thành tựu đạt được……………………………………………….. 8 II. Những hạn chế…………………………………………………………… 9 1. Về mức độ linh hoạt của thuế tiêu thụ đặc biệt ……………………….. 9 2. Về đối tượng chịu thuế…………………………………………………. 9 3. Về thuế suất…………………………………………………………….. 10 4. Về vấn đề miễn giảm thuế……………………………………………… 10 5.Về giá tính thuế…………………………………………………………. 10 6. Về công tác quản lý thu nộp thuế………………………………………. 11 III. Những ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 11 KẾT LUẬN ……………………………………………………………… 15 LỜI MỞ ĐẦU Thuế tiêu thụ đặc biệt bắt đầu được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ năm 1990. Cùng với sự thay đổi của hoàn cảnh đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế, nhận của người dân về pháp luật cũng cao hơn. Do đó, để bảo đảm cho những quy định của pháp luật được ban hành phù hợp với thực tế, pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần. Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta còn dựa vào nhiều yếu tố. Việc tìm hiểu những yếu tố đó là cần thiết và quan trọng trong giai đoạn nền kinh tế đất nước ta hiện nay, và cũng để việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt được toàn diện hơn. Do vậy, bài viết này em xin được đề cập đến vấn đề : phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt và ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế. NỘI DUNG A. Khái quát chung về thuế tiêu thụ đặc biệt 1. Khái niệm Hiện nay trên thực tế, chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh mang tính chất pháp lý về thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, dựa trên những đặc điểm và vai trò của loại thuế này, chúng ta có thể hiểu một cách thông thường và khái quát rằng : Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc đối tượng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Việc coi hàng hoá, dịch vụ có đặc biệt hay thông thường ở mỗi nước có sự khác nhau xuất phát từ khía cạnh kinh tế - xã hội như: chính sách điều tiết, hướng dẫn sản xuất tiêu dùng, phong tục tập quán tiêu dùng của mỗi nước. Ngay trong một nước việc coi 1 hàng hoá dịch vụ có tính chất đặc biệt hay thông thường trong từng thời kì cũng có sự khác nhau do sự thay đổi của đường lối kinh tế, sự phát triển của thị trường. 2. Đặc điểm Về bản chất, thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là một loại thuế gián thu, do người tiêu dùng chịu. Ngoài những đặc điểm của thuế nói chung thuế tiêu thụ đặc biệt còn những đặc điểm riêng biệt sau: Thứ nhất: Thuế tiêu thụ đặc biệt có diện đánh thuế hẹp. Tuỳ theo quan điểm của các nhà làm luật ở mỗi quốc gia mà danh mục hàng hoá dịch vụ phải chịu loại thuế này có thể rất khác nhau. Điều này được lí giải bởi chủ trương chính sách của nhà nước trong việc hướng dẫn sản xuất tiêu dùng cũng như trong lĩnh vực điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư ở từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của mỗi nước. Thứ hai: Thuế suất tiêu thụ đặc biệt có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ và thường cao hơn so với thuế suất các loại thuế gián thu khác. Thứ ba: Thuế tiêu thụ đặc biệt thường chỉ thu một lần ở khâu sản xuất hoặc nhập khẩu. 3. Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt Dựa vào những đặc điểm trên, những ảnh hưởng và tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt được thể hiện như sau: - Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước động viên một phần thu nhập đáng kể của người tiêu dung vào ngân sách nhà nước. - Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng hướng dẫn sản xuất và điều tiết tiêu dùng xã hội. - Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là công cụ để nhà nước điều tiết thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn người tiêu dùng ít hoặc không phải nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó. - Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để điều chỉnh việc sản xuất, kinh doanh, lưu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cường quản lý, kiểm soát của nhà nước một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này. B. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luât thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. I. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Pháp luật là cụ thể hóa đường lối, cơ sở phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Bởi vậy, tất cả các văn bản pháp luật được ban hành đều phải dựa trên đường lối, cơ sở của Đảng và Nhà nước, lấy đó làm thước đo, làm kim chỉ nam để cụ thể hóa nó, đưa nó vào đời sống xã hội. - Thông qua thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước thực hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh đối với một số hàng hoá, dịch vụ; là công cụ kinh tế để nhà nước điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, hướng dẫn tiêu dùng hợp lí. Chẳng hạn những mặt hàng nhà nước thấy rằng việc sử dụng thuốc lá ảnh hưởng không tốt đối với sức khoẻ người dân nên đánh thuế rất cao đối với sản phẩm này ( 65%)… - Các chính sách chủ trương của Đảng và nhà nước có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi pháp luật về thuế. Nếu các chính sách thuế phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thực tế của đất nước thì pháp luật về thuế được tôn trọng và tuân theo. Các quy định về thuế đánh quá nhẹ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân sách nhà nước, tuy nhiên nếu các quy định về pháp luật thuế quá hà khắc, nặng nề dễ dẫn đến tư tưởng “làm liều” của người dân chính sách về thuế không đảm bảo. Vì vậy, Đảng và nhà nước cần cân nhắc hợp lí các quy định của pháp luật với thực tiễn của đất nước. Thế nhưng, nhà nước chỉ ban hành ban hành các quy định pháp luật thể hiện đường lối, chủ trương của mình chưa đủ để người dân tuân thủ theo. Vì vậy, nhà nước ban hành các biện pháp chế tài mạnh đối với những người không thực hiện đúng theo quy định thuế tiêu thụ đặc biệt. Những quy định này tác động mạnh đến suy nghĩ của người dân buộc họ phải thực thi đúng các quy định pháp luật II. Yếu tố kinh tế Theo học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế xã hội thì cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Do đó yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến việc thực thi pháp luật của người dân chính là cơ sở kinh tế. Điều kiện kinh tế thấp kém thì tính chất của hành vi ít phức tạp hơn ngược lại kinh tế càng phát triển thì tính chất của hành vi càng trở lên phức tạp. Có thể thấy sự vận động và phát triển của nền kinh tế tác động 1 cách toàn diện và sâu sắc lên hầu hết các quan hệ xã hội và các lĩnh vực của đời sống. + Có thời kì nền kinh tế của nước ta hầu như không phát triển với cơ chế quản lý bằng kế hoạch hoá tập trung, con người sống và chịu áp đặt của cơ chế và vì vậy trong tư tưởng người ta cũng thấy bóng dáng của sự bao cấp – bao cấp cả trong suy nghĩ…sự trì trệ đó là do cơ sở kinh tế thấp kém, ít phát triển thậm chí ở 1 mức độ nào đó còn có thể khẳng định nhà nước quyết định số hàng hoá cụ thể đối với từng người cụ thể. Công bằng mà nói trong giai đoạn này việc ban hành luật thuế tiêu thụ đặc biệt không thật sự cần thiết, do đó đến năm 1990 luật thuế tiêu thụ mới được đưa vào Việt Nam và áp dụng với những hàng hoá ảnh hưởng đến sức khoẻ con người là chủ yếu + Tuy nhiên sự hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung không thể chống lại sự phát triển của kinh tế theo một xu hướng mới – cơ chế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần. Cơ chế kinh tế mới đã thức dậy những khả năng tiềm ẩn trong xã hội, đời sống xã hội của người dân tăng lên. Kinh tế phát triển kéo theo sự chạy đua về nhu cầu nhất là tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Họ bắt đầu có những nhu cầu mới về đời sống cũng như tinh thần, đặc biệt trong đó có cả nhu cầu về những hàng hoá dịch vụ được quy định trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt…Khi nhu cầu về những hàng hóa này xuất hiện thì người dân càng muốn tìm hiểu về luật thuế tiêu thụ đặc biệt, buộc phải thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt III. Yếu tố xã hội Sự phát triển của nền kinh tế đương nhiên sẽ dẫn đến sự thay đổi của xã hội. Các điều kiện xã hội rất phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như văn hoá, giáo dục, y tế…Ngay những cái được coi là bản sắc cũng có thể bị mai một, thậm chí còn biến chất trước sự thay đổi các điều kiện mới. Nhờ các điều kiện về kinh tế được nâng lên nên các điều kiện về xã hội cũng có nhiều chuyển biến. Sự chuyển biến này cũng xảy ra theo 2 xu hướng hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực. Khi nền kinh tế càng kém phát triển thì sự giao lưu văn hoá, lượng thông tin, tri thức…cũng có nhiều hạn chế và do vậy àm khả năng hiểu biết của con người cũng bị giới hạn. Giới hạn này cũng có thể làm cho con người không được tiếp xúc với pháp luật và vì vậy mà dẫn đến không biết pháp luật mà vi phạm quy định pháp luật. Ngược lại khi có nhiều thông tin nó có thể mang đến ảnh hưởng rất mạnh mẽ và cũng xảy ra theo 2 xu hướng. Xu hướng thứ nhất đem lại hiểu biết cho con người, các kiến thức về pháp luật thường thức, nó tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật, thói quen đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Xu hướng thứ hai là nó có thể đem lại những hiểu biết có hại, nếu các thông tin được cung cấp là những thông tin không “sạch”, có hại chẳng hạn như : các thông tin về lẩn tránh pháp luật, mặt hạn chế của thuế tiêu thụ đặc biệt với kích động không thực thi thuế...dễ dẫn đến sự lệch chuẩn trong cách ứng xử, trong đó có vi phạm pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Do đó, vấn đề kiểm soát thông tin và xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng đối với nhà nước. IV. Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế là công cụ quan trọng để nhà nước tồn tại và phát riển, qua đó duy trì trật tự công bằng xã hội. Hiện nay nước ta đang phát triển kinh tế thị trương theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ các nhà làm luật có trình độ nhận thức cao, nắm bắt được xu hướng phát triển của đất nước, nhạy bén trước những biến đổi của đời sống kinh tế xã hội trên thế giới. Như vậy có thể thấy trình độ năng lực của các nhà xây dựng pháp luật thuế có ảnh hưởng lớn đến nội dung của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Bởi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành phải đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Nếu trình độ của các nhà làm luật cao thì tất nhiên pháp luật thuế sẽ đảm bảo được tính khả thi, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, thể hiện được nguyện vọng của nhân dân. Ngược lại, nếu trình độ nhận thức của các nhà làm luật còn hạn chế, không nắm bắt được xu thế phát triển chung thì pháp luật thuế nhập khẩu khó có thể được thực hiện tốt và nghiêm minh, hơn nữa cũng không đảm bảo được sự công bằng xã hội. Như vậy, có nghĩa là luật sẽ không có tính khả thi, tạo sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của Nhà nước đối với người dân, đồng thời tạo cho người dân ý thức coi thường pháp luật thuế. Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng ban hành phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc trên thực tiễn. Nếu pháp luật thuế quá phức tạp, vượt quá trình độ quản lý của bộ máy hành thu thì sẽ dẫn đến tình trạng thất thu hoặc lạm thu, hoặc pháp luật thuế đó không được thực hiện đầy đủ trong thực tế. Bởi vậy, khi ban hành pháp luật thuế về chính sách thuế, quản lý thuế phải tính đến yếu tố này, nhằm đảm bảo tính phù hợp với tính khả thi của nó trong thực tiễn. Trong những năm qua nhà nước đã chăm lo nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất đạo đức, tác phong cho đội ngũ cán bộ quản lý thuế, tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý thuế, đổi mới cơ cấu tổ chức ngành thuế cho phù hợp, đổi mới cải cách thủ tục hành chính… Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, diện đối tượng cần quản lý khá rộng, lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao khả năng quản lý thuế phụ thuộc rất lớn vào công nghệ thông tin với những phần mềm quản lý hiện đại. Song hiện tại hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được một khâu toàn diện trong các khâu quản lý thuế, cũng như ở các địa phương, việc kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa được thực hiện hoàn chỉnh. Tuy vậy, dù trình độ năng lực của cán bộ thuế đã được nâng cao song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý trong điều kiện mới. Do một số chưa làm tròn trách nhiệm quản lý thuế, thậm chí có những trường hợp tiêu cực, tham nhũng; đồng thời công tác tuyên truyền pháp luật thuế còn hạn chế, các tầng lớp nhân dân trong xã hội còn chưa thật sự nắm được nội dung các sắc thuế hiện hành, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ khi nộp thuế, điều này dẫn đến việc thực hiện còn nhiều khó khăn, lúng túng, tình trạng trốn thuế, tránh thuế diễn ra thường xuyên, phổ biến. Nói chung, nhà nước cần thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ năng lực quản lý của cả bộ máy quản lý thuế để tiến đến việc ban hành các quy định mới trong pháp luật thuế như quản lý thuế thực hiện theo cơ chế tự khai, tự nộp; quản lý thuế trên cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ… Thực hiện quản lý thuế hiện đại theo chuẩn mực chung của quốc tế. Nếu Việt Nam không chú trọng đến công tác nâng cao năng lực trình độ, năng lực quản lý thuế của bộ máy hành thu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý thuế nhập khẩu hiện nay, chẳng hạn đối với quản lý giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu hiện nay. V. Yếu tố tâm lý. Thực thi pháp luật không chỉ bao gồm hiệu lực theo thời gian, không gian và theo đối tượng mà còn bao hàm các phương thức tác động của quy phạm lên các quan hệ xã hội, lên nhận thức của chủ thể các mối quan hệ, kết quả của các sự tác động đó gắn liền với chúng là yếu tố tâm lý – xã hội và nhiều yếu tố khác tham gia vào quá trình chuyển hoá các quy định của pháp luật thành những hàh vi hợp pháp, thành ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý. 1. Tâm lý và lợi ích cá nhân Vì hành vi của con người được hình thành từ những động cơ mang tính chủ quan, trong quá trình thực thi pháp luật bên cạnh những lợi ích không thể không tính đến mức độ hiểu biết pháp luật, các nhu cầu, nguyện vọng mục đích của chủ thể. Nhấn mạnh yếu tố chủ quan Resetov cho rằng: “ Cần phải làm sao để mỗi công dân nhận thức được một cách rõ ràng cách thức và biện pháp thực thi các quyền của mình, biết vận dụng chúng và hiểu được mối quan hệ không tách rời của quyền và nghĩa vụ. Đây là một kênh cần thiết để củng cố sự thống nhất của các quyền lợi của nhà nước với lợi ích của cá nhân đồng thời cũng nhằm hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật” Mối quan hệ giữa quá trình và thực thi pháp luật với tâm lý con người cũng được Giavadxkaia khẳng định: “ Thực thi pháp luật là bằng chứng cho sự tin tưởng và ủng hộ của xã hội công dân, cuả cộng đồng với cơ quan lập pháp, việc xã hội công nhân và ửng hộ pháp luật góp phần hạn chế những phức tạp trong cơ chế thực thi. Ở đây muốn nói tới ý thức tự nguyện, sự nhiệt tình của mỗi công dân và mỗi tổ chức và cộng đồng với việc thực hiện nghĩa vụ của mình”. Bên cạnh đó Giavadxkaia còn cho rằng, ý thức coi thường pháp luật dẫn đến hàng loạt các văn bản pháp luật mang tính chủ quan, đó là ý thức chống đối ( chủ động hoặc thụ động) của những chủ thể khác nhau, là sự không thừa nhận và coi thường các quy định pháp luật. Tất nhiên là theo đó cả các cơ chế mục đích, các biện pháp…được quy định trong luật cũng sẽ được họ ủng hộ Thông thường mọi người quan tâm đến một văn bản pháp luật sẽ ảnh hưởng như thế nào đến quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhóm đối tượng. Trong phần lớn các trường hợp, chủ thể không tiếp nhận một đạo luật và không tự giác thực thi pháp luật đó (ở đây không bao gồm trường hợp chủ thể không biết đến sự tồn tại của văn bản hoặc cố ý vi phạm một cách công khai) mà theo họ đạo luật này không đề cập đến lợi ích cá nhân thiết thực của mình. Vì vậy, những mục đích, lợi ích được thể hiện trong đạo luật và được luật bảo vệ cho có thể hiện tính hữu ích đối với xã hội. 2.Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp Nhận thức pháp luật được hình thành bởi múc độ nắm bắt và khả năng phân tích thông tin pháp luật - điều mà không phải ai cũng được trang bị đầy đủ. Đó chính là kiến thức pháp luật, sự am hiểu các thuật ngữ, các phương pháp giải thích, phương pháp logíc chuyên ngành…Thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá pháp lý của mỗi công dân, nghĩa là phụ thuộc vào mức độ được thông tin trong lĩnh vực pháp luật. Lẽ dĩ nhiên những hiểu biết của cá nhân và các quyền và nghĩa vụ của mình đóng 1 vai trò quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật, Tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu một cách chính xác từng câu, từng chữ được thể hiện trong văn bản. Bên cạnh đó, những lập luận của những ngươi không có khả năng chuyên môn giải thích pháp luật cũng có thể dẫn đến những điều không hợp pháp. Chính vì vậy, trong quá trình thực thi pháp luật rất cần có sự tư vấn trợ giúp của các chuyên gia pháp lý cho người dân, những người luôn gặp phải khó khăn trong nhận thức cũng như thực thi các quỳên, lợi ích hợp pháp của mình “ Trong thực tế, có rất nhiều các quy phạm pháp luật được đón nhận một cách tự nhiên thông qua giáo dục, đặc biệt là những quy phạm trùng hợp với các quy phạm đạo đức. Có những quy phạm thì người tự tìm hiểu bằng chính hiểu biết của mình. Nhưng có những quy định của pháp luật, để hiểu được cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp lý” Tuy nhiên, để phát triển tình cảm pháp chế, ngoài việc có môi trường thuận lợi, công dân cần phải được tiếp cận với pháp luật của nhà nước. Thật khó trông đợi sao sự tuân thủ pháp luật chỉ theo thói quen và sự tôn trọng, khi một người không hề được biết đến những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình. Vì vậy, việc phổ biến những kiến thức pháp luật phổ thông là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với việc củng cố tình cảm pháp chế của công dân 3. Mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân Một trong những điều kiện bảo đảm cho thực thi pháp luật có kết quả là sự đồng thuận giữa các mục tiêu đặt ra của văn bản và định hướng trong quá trình thực thi. Khi xây dựng các quy phạm pháp luật, nhà làm luật luôn mong muốn sao cho các quy định đó được thực thi một cách tự nguyện. Vì vậy, điều quan trọng là mục tiêu của luật phải hoà nhập được với  mục đích của các chủ thể với sự khác biệt thấp nhất. Nếu không, các kết quả thu được của quá trình thực thi pháp luật sẽ xa rời với những dự kiến ban đầu của nhà làm luật. Chẳng hạn: hiện nay nhằm khuyến khích sử dụng ô tô phục vụ sản xuất kinh doanh, vận chuyển hành khách công cộng, hạn chế sử dụng ô tô cá nhân pháp luật quy định ô tô từ 24 chỗ ngồi trở lên không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, điều này cũng phù hợp với tình hình đất nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho những doanh nghiệp sản vận tải phục vụ lợi ích công cộng. VI. Mức đồng bộ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nước ta Tính đồng bộ giữa các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật khác nhau sẽ là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt được thuận lợi và có tính đồng bộ cao. Trong những năm qua thuế tiêu thụ đặc biệt đã đạt được nhiều kết quả trong việc thực hiện cải cách, nhưng với mục tiêu đặt ra trong cải cách là nâng cao trình độ quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực thì chúng ta còn chưa làm được. Điều này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt chặt chẽ hơn. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật có vai trò chủ chốt đối với việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Nếu hệ thống pháp luật tiêu thụ đặc biệt, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh trong nước cũng như mục đích chung của cá nhân thì pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được đảm bảo thực thi trên thực tế. Ngược lại nếu pháp luật có nhiều lỗ hổng lớn tạo điều kiện thuận lợi cho hành vi trốn thuế diễn ra. Ngoài ra, pháp luật thuế TTĐB không chỉ định rõ chức trách, quyền hạn của từng cơ quan đơn vị trong thực thi nghĩa vụ của mình mà còn phải quy định đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức đó với các cơ quan thuế trong việc quản lý kiểm soát việc nộp thuế TTĐB. Vì vậy, tính đồng bộ thống nhất giữa các pháp luật chuyên ngành trong cùng hệ thống pháp luật chung của nước ta có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xây dựng và thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. C. Thực trạng thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay I. Những thành tựu đạt được Ở nước ta thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được ban hành và áp dụng từ năm 1990, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993, 1995 , và đến năm 1998 khi thực hiện cải cách thuế bước 2, Luật thuế TTĐB mới được ban hành thay thế cho Luật thuế TTĐB trước đây và được áp dụng từ ngày 1/1/1999 cùng với sự áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Qua hơn 10 năm thực hiện, thuế TTĐB đã góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn phát triển sản xuất và tiêu dùng xã hội; cùng với các loại thuế khác như thuế GTGT, thuế TNDN và thuế xuất nhập khẩu, bước đầu hình thành nên một hệ thống chính sách thuế mới tương đối đồng bộ trong điều kiện hiện nay ở nước ta, góp phần động viên nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, khoản thu từ thuế TTĐB hàng năm chiếm từ 15% đến 18% trong tổng số thuế gián thu và chiếm từ 7% đến 10% tổng thu ngân sách nhà nước về thuế và phí . Với những kết quả đạt được trên, có thể thấy việc ban hành và áp dụng thuế TTĐB ở nước ta trong thời gian qua là hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, chính sách thuế TTĐB hiện hành ở nước ta đã đặt ra một số vấn đề cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế cuộc sống, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. II. Những hạn chế 1. Về mức độ linh hoạt của thuế TTĐB. Tuy luật không quy định cụ thể nhưng “Thuế TTĐB của ta là một loại thuế tính theo tỷ lệ % trên đơn vị giá trị (đồng Việt Nam) của đối tượng chịu thuế, không tính theo đơn vị (lít, chiếc)”. Điều đó có mặt thuận lợi về tâm lý nhưng trong một số trường hợp không phục vụ tốt nhất cho mục tiêu điều tiết, định hướng tiêu dùng. Nếu đó là loại hàng hóa có giá cả biến động nhiều, thì việc tính toán thuế, nhất là việc đối chiếu giữa các kì nộp thuế với nhau sẽ trở nên rất phức tạp. Thực tế cho thấy khi đánh thuế TTĐB tính trên cơ sở hiện vật đối với những loại hàng hóa thích hợp sẽ rất có lợi cho Ngân sách Nhà nước vì khi đó nguồn thu về thuế TTĐB ổn định, không bị biến động theo giá cả thị trường. Hơn nữa vì đơn giản, đánh thuế trực tiếp trên từng đơn vị tiêu dùng nên hiệu quả điều tiết cao. Nhà nước rất dễ điều chỉnh mức thuế để khuyến khích hoặc hạn chế sản xuất, tiêu dùng đối với một mặt hàng nào đó khi cần thiết. Việc quy định đánh thuế trực tiếp trên khối lượng hiện vật như vậy còn tránh được những thắc mắc không đáng có từ phía người sản xuất, kinh doanh. 2. Về đối tượng chịu thuế. Theo quy định hiện hành thuế TTĐB hiện chỉ thu vào 8 loại hàng hóa và 4 loại dịch vụ. Nhìn chung, đối tượng chịu thuế thuế TTĐB hiện nay ở nước ta còn khá hẹp, đi sâu nghiên cứu, cho thấy: có nhiều loại hàng hóa, dịch vụ lẽ ra phải được điều chỉnh bởi thuế TTĐB nhưng chưa được đưa vào diện chịu thuế như các loại thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp…; ngược lại, có trường hợp có loại hàng hóa đáng lý ra phải được khuyến khích tiêu dùng do yêu cầu sức khỏe, văn minh đô thị thì lại chưa được xem xét đưa ra khỏi diện chịu thuế TTĐB như xe ôtô từ 16-24 chỗ ngồi; có trường hợp lại thể hiện sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước; …Đó là những hạn chế cơ bản về đối tượng chịu thuế của loại thuế này. 3. Về thuế suất. Thuế suất thuế TTĐB hiện khá phức tạp. Trong 8 mặt hàng chịu thuế thuế TTĐB có đến 12 mức thuế suất cao thấp khác nhau từ 15% - 100%. Đối với mỗi loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau có mức thuế suất tương ứng khác nhau, trong một số trường hợp đối với cùng một loại hàng hóa nhưng lại chia theo các tiêu chí khác nhau để áp dụng các mức thuế suất rất chênh lệch nhau, nên biểu thuế càng thêm phức tạp, làm cho việc xác định mức thuế suất áp dụng chính xác rất khó khăn và dễ bị vận dụng tùy tiện. Ví dụ như cùng một mặt hàng là rượu nhưng có đến 5 mức thuế suất khác nhau từ 15% - 70%: rượu thuốc 15%, rượu dưới 200 là 20%, rượu từ 200 – 300 là 25%, rượu từ 300 – 400 là 55%, rượu trên 400 là 70%; hay đối với mặt hàng thuốc lá, nếu sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước thì áp dụng thuế suất 45% nhưng sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu thì thuế suất là 65%; ….. Trong khi đó xu hướng chung ở trên thế giới là thực hiện đơn giản về thuế suất. Theo biểu thuế hiện hành của ta thì cùng một mặt hàng nhưng lại chia thành nhiều mức thuế suất khác nhau và rất chênh lệch nhau làm cho biểu thuế phức tạp và việc xác định mức thuế suất chính xác khó khăn, dễ bị vận dụng tùy tiện. Ví dụ, như mặt hàng rượu có đến 5 mức thuế suất khác nhau và rất chênh lệch nhau. Việc phân biệt mức thuế suất theo nguồn gốc hình thành sản phẩm như mặt hàng thuốc lá là để bảo vệ hàng sản xuất trong nước. Nhưng đây cũng là kẽ hở để các doanh nghiệp khai tăng tỉ lệ nội địa trong sản phẩm của mình để được áp dụng mức thuế suất thấp hơn. 4. Về vấn đề miễn giảm thuế. Theo quy định hiện hành của chính sách thuế TTĐB thì với các cơ sở sản xuất bia quy mô nhỏ (có công suất dưới 10 triệu lít/năm) đang hoạt động nếu nộp đủ thuế TTĐB mà bị lỗ, thì được xét giảm thuế TTĐB tương ứng với số lỗ trong năm xét giảm thuế. Quy định này trong chừng mực nào đó không khuyến khích các cơ sở sản xuất nói trên nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, luật còn quy định: cơ sở lắp ráp sản xuất ô tô trong nước được giảm đến 95% thuế TTĐB phải nộp. Điều này có nghĩa là nếu ô tô nhập khẩu thì phải chịu mức thuế suất TTĐB từ 30% - 100%, còn nếu là ô tô sản xuất trong nước thì được giảm đến 95% thuế TTĐB phải nộp, tức là chỉ nộp thuế TTĐB với mức thuế suất tương ứng từ 1,5% đến 5% mà thôi. Quy định phân biệt này nhằm bảo hộ cho ngành lắp ráp ô tô còn khá non trẻ ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang mở cửa hội nhập sâu rộng, đang thực hiện các cam kết theo chương trình CEPT, hiệp định thương mại Việt Mỹ…., quy định đó không còn phù hợp nữa vì đã vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. 5. Về giá tính thuế. Theo quy định của Luật thuế TTĐB thì giá tính thuế TTĐB là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế TTĐB, tức là giá bán có tính cả chi phí bao bì, vỏ hộp trong đó, thế nhưng trong thực tế thì lại áp dụng không thống nhất, không đúng theo qui định của Luật thuế TTĐB, có loại hàng hóa áp dụng trên cơ sở giá bán có bao bì, có trường hợp áp dụng giá bán không có bao bì nên không đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các hàng hóa cùng loại với nhau. Ví dụ, đối với mặt hàng bia, giá tính thuế đối với bia các loại (trừ bia hộp) thì giá tính thuế TTĐB có tính cả chi phí bao bì trong đó, nhưng đối với bia hộp sản xuất trong nước lại được cho loại trừ chi phí bao bì vỏ hộp là 3.000đ/lít ra khỏi giá bán để làm căn cứ tính thuế thuế TTĐB. Mặt khác, do quy định hiện hành không khống chế về mức giá tính thuế đối với hàng hóa chịu thuế TTĐB nên một số cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB đã lách thuế bằng cách thành lập các cơ sở kinh doanh thương mại hạch toán độc lập với cơ sở sản xuất để từ đó hạ giá bán của cơ sở sản xuất bán cho cơ sở kinh doanh nhằm làm giảm số thuế TTĐB phải nộp vào ngân sách nhà nước. 6. Về công tác quản lý thu nộp thuế TTĐB. Công tác thực hiện kê khai của các doanh nghiệp chưa được tốt theo quy định của Nhà nước, hơn nữa việc kê khai hiện nay cũng chưa đảm bảo chặt chẽ. Việc quản lý thu thueets TTĐB với rượu, vàng mã, hàng mã do tư nhân sản xuất gặp nhiều khó khăn vì sản xuất nhỏ, phân tán, lén lút, không đăng kí kinh doanh, không đăng kí nộp thuế. Một vấn đề nữa là hóa đơn thuế TTĐB rất khó kiểm soát. Khoản 2, Điều 9 Luật thuế TTĐB qui định: “Việc mua, bán hàng hóa. Dịch vụ và vận chuyển hàng hóa chịu TTĐB phải có hóa đơn, chứng từ theo qui định của pháp luật”. Qui định này có vẻ cụ thể nhưng thực tế ở nước ta còn nhiều hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB nhưng không thể lập hóa đơn, chứng từ mỗi lần mua bán như vàng mã, hàng mã..Vì vậy, cần phải có hướng dẫn cụ thể, sát thực hơn. Tình trạng thu nộp thuế TTĐB hiện nay vẫn chưa được tốt, nợ đọng thuế khá phổ biến diễn ra ở nhiều doanh nghiệp với số nợ đọng rất lớn. III. Những ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt Từ những vấn đề đặt ra trên đây, để thuế TTĐB phù hợp với quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách thuế hiện nay của nước ta trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, theo chúng tôi trong thời gian tới chính sách thuế TTĐB cần được nghiên cứu sửa đổi bổ sung một số điểm sau : Thứ nhất, nên mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB đối với các loại hàng hóa, dịch vụ sau : các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp; điện thoại di động và dịch vụ kinh doanh nó; vật dụng cao cấp làm bằng pha lê, thảm len; mỹ phẩm cao cấp,… không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp mà thành phần sử dụng đa số là tầng lớp giàu có. Việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB với những loại hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu, Ngoài ra, do dự thảo sửa đổi luật thuế GTGT mới có điều chỉnh giảm thuế suất đối với hoạt động xổ số kiến thiết, nên cần bổ sung hoạt động này vào diện chịu thuế TTĐB nhằm khai thác tối đa số thu từ hoạt động này . Qua việc mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB trên đây, sẽ cho phép tăng thu từ loại thuế này góp phần bù đắp cho việc giảm thu từ các loại thuế khác (thuế nhập khẩu , thuế sử dụng đất nông nghiệp…). Ở các nước, hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB so với nước ta đều khá rộng, như thuế TTĐB của Malaysia thu vào 17 loại hàng hóa, Hungari thu vào 22 loại hàng hóa, Thụy Điển thu vào 19 nhóm hàng hóa,… Mặt khác, nên đưa mặt hàng ô tô từ 16 đến 24 chỗ ngồi ra khỏi danh mục đối tượng chịu thuế TTĐB vì đây là loại phương tiện lưu thông nhiều chỗ ngồi, thiết nghĩ nên được khuyến khích sử dụng để góp phần giảm thiểu áp lực tình trạng quá tải giao thông trong điều kiện nước ta hiện nay. *** Trong điều kiện hiện nay, việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu để phù hợp với thông lệ quốc tế như đã cam kết sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ loại thuế này. Do vậy, việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB là cần thiết để bù đắp ngân sách bị giảm thu do giảm thuế suất thuế nhập khẩu. Đối tượng chịu thuế TTĐB được mở rộng hợp lý sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời phát huy mạnh mẽ được tác dụng của thuế trong việc điều tiết sản xuất hướng dẫn tiêu dùng. Xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội của đất nước và những quy định về đối tượng chịu thuế TTĐB còn nhiều điểm chưa phù hợp, chúng ta nên xem xét bổ sung một số loại hàng hóa, dịch vụ sau vào đối tượng chịu thuế. - Đồ tranh sức bằng vàng, đá quý. Đây là mặt hàng xa xỉ, chỉ những người có thu nhập cao và đa số là dân thành thị mới tiêu dùng. Vì vậy, nên đưa vào danh mục chịu thuế TTĐB để điều tiết, phân phối lại thu nhập. - Điện thoại di động: Hiện nay mặt hàng này chủ yếu là nhập khẩu phải thực hiện cắt giảm thuế quan theo chương trình của CEPT do vậy nên đưa vào danh mục chịu thuế TTĐB để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ mặt hàng này. - Xe máy: xe máy là phương tiện giao thông cá nhân, sử dụng xe máy vừa tốn kém, vừa không an toàn, gây ô nhiễm môi trường và có rất nhiều nhược điểm khác. Khi đường xá chật hẹp lại không có chính sách rõ ràng về giao thông công cộng, không có thuế điều tiết thì việc bùng nổ của xe máy cũng là lẽ đương nhiên. Xe máy Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam với giá chỉ bằng một phần b axe máy sản xuất trong nước vì vậy mọi người đều sử dụng xe máy dẫn đến ách tắc giao thông, đường xá bị hư hỏng nặng. Do đó nên quy định đánh thuế TTĐB vào xe máy để hạn chế sử dụng mặt hàng này. - Mỹ phẩm cao cấp: Hiện nay các công ty liên doanh sản xuất mỹ phẩm phát triển mạnh tại Việt Nam với rất nhiều các chủng loại sản phẩm; số lượng mỹ phẩm nhập khẩu cũng rất lớn nhưng lại không thuộc diện chịu thuế TTĐB. Vì vậy nên cân nhắc để đưa mặt hàng này vào danh mục chiu thuế TTĐB. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB thì cũng nên đánh thuế TTĐB độc lập với thuế GTGT để khi mở rộng đối tượng chịu thuế không ảnh hưởng đến thuế GTGT và cũng là để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. *** Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng diện đánh thuế TTĐB đưa thêm một số loại hàng hóa vào danh mục chịu thuế thì cũng có một số mặt hàng cần được xem xét để loại ra khỏi danh mục hàng hóa chịu thuế TTĐB. Chẳng hạn như mặt hàng hàng mã, vàng mã. Do mặt hàng này bị lợi dụng nhiều vào nhu cầu mê tín dị đoan và gây rất lãng phí nên được qui định vào đối tượng chịu thuế TTĐB. Thế nhưng trên thực tế thì hầu như không thu được thuế TTĐB từ mặt hàng này vì những người buôn bán hàng mã, vãng mã thu lãi lớn lại thuộc diện nộp thuế GTGT, không thuộc diện nộp thuế TTĐB. Còn những người sản xuất vàng mã, hàng mã thuộc đối tượng nộp thuế TTĐB nhưng là những hộ nhỏ, sản xuất không công khai, không đăng kí nộp thuế nên không thu được thuế TTĐB. Như vậy, qui định hàng mã, vàng mã thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB không mang tính khả thi vì vừa không thu được thuế nhưng lại không đạt được mục đích hạn chế tiêu dùng do trên thực tế mức tiêu dùng của người dân không hề giảm đi. Vậy ta không nên qui định hãng mã, vàng mã thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB nữa mà nên áp dụng thuế GTGT với mức thuế suất 20%. Thứ hai: Về đối tượng không thuộc diện chịu thuế Cùng với việc mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB thì chúng ta cần phải hạn chế qui định về đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Trong các trường hợp không thuộc diện chịu thuế TTĐB hiện nay ta nên quy định đơn vị sản xuất, gia công hàng hóa bán hoặc ủy thác cho đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải chịu thuế TTĐB vì như vậy sẽ quản lý được dễ dàng hơn, không phải tiến hành truy thu thuế. Đối với hàng hóa do cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán ủy thác cho các đơn vị kinh doanh xuất khẩu để xuất khẩu ta nên qui định mức thuế suất 0% giống như thuế GTGT. Qui định như vậy để cho hàng hóa đặc biệt khi xuất khẩu được bình đẳng với các loại hàng hóa khác. Kết hợp với việc áp dụng thuế suất 0% thì sẽ cho các cơ sở này được khấu trừ thuế TTĐB đã nộp ở khâu trước. Thứ ba, về thuế suất: Sự điều chỉnh cần đặt trong mối quan hệ với các sắc thuế khác. Cụ thể, trong điều kiện thuế nhập khẩu tiếp tục được điều chỉnh giảm theo cam kết thực hiện CEPT, áp dụng thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB…, theo đó, cần điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành xuống mức hợp lý nhằm không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của các DN đang SX- KD các mặt hàng, dịch vụ này. Bên cạnh đó, để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, chúng tôi đề nghị mỗi loại hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB chỉ nên áp dụng một hoặc hai mức thuế suất để đảm bảo tính đơn giản, khả thi chứ không chia nhỏ như hiện nay làm cho biểu thuế TTĐB phức tạp và khó áp dụng. Theo đó, đối với mặt hàng thuốc lá không nên áp dụng các mức thuế suất khác nhau phân biệt giữa thuốc lá có đầu lọc và thuốc lá không có đầu lọc bởi như quy định hiện hành thuốc lá không có đầu lọc (có hại cho sức khỏe nhiều hơn thuốc lá có đầu lọc) lại được hưởng thuế suất thấp hơn thuốc lá có đầu lọc (25% so với 45% và 65%) là không hợp lý, khi quy định áp dụng cùng một mức thuế suất nhưng giá trị thuốc lá có đầu lọc lớn hơn giá trị thuốc lá không có đầu lọc nên mức điều tiết thu nhập vào người tiêu dùng thuốc lá có đầu lọc vẫn cao hơn; còn đối với mặt hàng rượu không nên chia thành quá nhiều loại rượu như hiện nay gồm rượu thuốc, rượu dưới 200, rượu chế biến từ hoa quả, rượu từ 200 đến 300, rượu từ 300 đến 400 và rượu trên 400 để áp dụng các mức thuế suất khác nhau làm cho biểu thuế của thuế TTĐB quá phức tạp, thiết nghĩ chỉ nên chia thành hai loại là rượu trên 300 và rượu dưới 300 là đủ, vì rượu dưới 300 đã có cả các loại rượu chế biến từ hoa quả và rượu thuốc trong đó. Đặc biệt, cần xóa bỏ thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định hiện hành phân biệt giữa thuốc lá có nguyên liệu nhập khẩu trên 51% với thuốc lá có nguyên liệu trong nước là chủ yếu, giữa ô tô nhập khẩu với ô tô SX trong nước vì nó vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Thứ tư, không nên áp dụng chế độ miễn giảm thuế TTĐB cho các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB: Bởi đây là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu thuế, các cơ sở sản xuất chỉ là người nộp hộ nên việc quy định miễn giảm thuế đối với loại thuế này là không hợp lý; hơn nữa theo các cam kết quốc tế về thuế phải thực hiện trong tiến trình hội nhập, chính sách thuế nói chung và thuế TTĐB nói riêng không được phân biệt đối xử giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu. Mặt khác, đây là những loại hàng hóa dịch vụ mà Nhà nước cần điêu tiết, định hướng cho việc sản xuất, tiêu dùng để đảm bảo lợi ích cộng đồng, hầu hết những loại hàng hóa dịch vụ này không phải là những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, không thuộc diện khuyến khích tiêu dùng (ngoại trừ những mặt hàng cá biệt như xăng), nên việc quy định miễn giảm thuế đối với các mặt hàng này là không cần thiết. Thứ năm, cần áp dụng thống nhất quy định giá tính thuế đối với hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB như quy định tại điều 6 của Luật thuế TTĐB, theo đó giá tính thuế là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế TTĐB, tức là giá tính thuế bao gồm cả chi phí bao bì, vỏ hộp. Do vậy cần bãi bỏ quy định việc loại trừ chi phí bao bì, vỏ hộp 3.000đ/lít đối với mặt hàng bia hộp hiện nay. Đồng thời để hạn chế việc các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB lợi dụng việc không quy định khống chế về giá TTĐB để lách thuế như đã trình bày, cần thiết quy định áp dụng giá tính thuế TTĐB theo giá thị trường đối với loại hàng hóa đó trong những trường hợp các cơ sở sản xuất kê khai giá bán không hợp lý. Hoặc nên chăng áp dụng thuế suất tuyệt đối ( như một số nước đã làm ),trước mắt thí điểm cho một mặt hàng nào đó nhằm vô hiệu thủ đoạn “chuyển giá” sau đó, sẽ rút kinh nghiệm mở rộng cho các hàng hoá, dịch vụ khác. KẾT LUẬN Luật thuế tiêu thụ đặc biệt có vai trò vô cùng quan trọng đối với nhà nước cũng như cuộc sống của người dân.Qua thực tiễn áp dụng luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta trong thời gian qua cho thấy thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta về cơ bản đáp ứng được những yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh. Tuy nhiên quá trình xây dựng và triển khai thực hiện đã có nhiều vấn đề vướng mắc vì lẽ đó thuế tiêu thụ đặc biệt cần phải hoàn thiện hơn nữa để điều chỉnh các vấn đề phát sinh. Trong quá trình điều chỉnh đó, một trong những vấn đề cần quan tâm là các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt, để có hướng hoàn thiện tốt nhất. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội 2010. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 Phạm vi áp dụng chế độ thuế tiêu thụ đặc biệt trong tiến trình cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, Trần Thị Mai Hương, luận văn tốt nghiệp, Hà Nội 2001 Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi pháp luật, Gorrshunov D.N, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 6/2007 Vi phạm pháp luật một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Bùi Xuân Phái, Hà Nội – 2002 TapChiKeToan.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhũng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiên nay và hướng hoàn thiện.doc
Luận văn liên quan