Đề tài Nội dung chủ yếu của thuyết quản lí của M.Weber, H.Fayol, W.Taylor và sự vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay các doanh nghiệp hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang phấn đấu đạt được những mục tiêu mới, mang lại lợi ích cho đất nước và cho riêng doanh nghiệp của mình. Các doanh nghiệp của Việt Nam đang đứng trước những thời co và thách thức mới. Để nắm lấy thời cơ và vượt qua thử thách đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải phát huy hơn nữa tinh thần chủ động sáng tạo, áp dụng tốt những mặt tích cực của các thuyết và quyết tâm đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
8 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 19044 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nội dung chủ yếu của thuyết quản lí của M.Weber, H.Fayol, W.Taylor và sự vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SEMINAR MÔN HỌC: KHOA HỌC QUẢN LÝ
Tiểu đề số 1.1: Nhóm lý thuyết cổ điển
Nội dung chủ yếu của thuyết quản lí của M.Weber, H.Fayol, W.Taylor và sự vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Quản lý là một trong những công việc khó khăn, phức tạp nhất trong các lĩnh vực hoạt động của con người. K.Mark đã coi việc xuất hiện của hoạt động quản lý như một dạng hoạt động đặc thù của con người gắn với sự phân công và hợp tác lao động. Quản lý nhằm đạt tới mục tieu chung trong tương lai mà trong tương lai các mục tiêu này luôn biến động do hàng loạt yếu tố khách quan và chủ quan. Do đó quản lý cũng diễn ra trong một quá trình hết sức biến động mà nếu chủ thể quản lý không đủ tiềm năng và bản lĩnh sẽ khó có thể thích ứng được và tất yếu sẽ dẫn tới thất bại.
Một công việc muốn đạt kết quả trước hết phải có đường lối, chủ trương đúng đắn và một quá trình tổ chức thực hiện công phu, chặt chẽ với những giải pháp thiết thực, hữu hiệu. Từ ý tưởng hình thành đường lối, chủ trương đã là công việc khó khăn, phức tạp, nhưng biến đường lối chủ trương đó thành hiện thực thì còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Nói cách khác, muốn cho tư tưởng đường lối chính sách thành hiện thực phải có tổ chức, phải tổ chức con người lại với những phương tiện nhất định, chỉ đạo và định hướng mọi người hành động theo đúng mục tiêu, phương hướng, tư tưởng đó đã xác định. Do đó, quản lý về tổ chức là một khâu quan trọng và có tính chất quyết định. Hiểu và nắm vững cách tổ chức không chỉ về mặt cơ cấu, bộ máy của con người, phương tiện làm việc, mà phải tìm hiểu sâu, nắm chắc các chức năng hoạt động quản lý theo cơ chế của một tổ chức
Nội dung chủ yếu của thuyết quản lí của M.Weber, H.Fayol, W.Taylor
Nội dung học thuyết quản trị khoa học TAYLOR (1861-1919) cần vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 1911,Taylor (1856-1915) dựa vào kinh nghiệm làm việc tại các nhà máy Midvase Steel, Simond Rolling Machine và Bethlehem Steel cho xuất bản tác phẩm “Những nguyên tắc quản trị theo khoa học” nhằm chống lại phương thức sản xuất đương thời mà ông gọi là kiểu “trại lính” và họ quản trị bằng cách “làm sai rồi sửa” và rút kinh nghiệm mà không dựa trên cơ sở khoa học nào. Ông cho rằng nhiệm vụ của nhà quản trị là phải xác định cho được “phương pháp làm” cũng như tiêu chuẩn của công việc đồng thời phải cung cấp cho công nhân sự kích thích bằng quyền lợi để họ gia tăng năng suất. Ông đưa ra 4 yếu tố chính cần có để quản trị một cách khoa học gồm:
Các nhà quản trị cần dành nhiều thời gian và công suất để lập kế hoạch hoạt động và kiểm tra, thay vì cùng tham gia công việc cụ thể của người thừa hành.
Các nhà quản trị phải đầu tư để tìm ra phương cách hoạt động khoa học để hướng dẫn cho công nhân, thay vì cứ làm sai rồi sửa, rút kinh nghiệm.
Các nhà quản trị nên sử dụng các biện pháp kinh tế để động viên công nhân hăng hái lạm việc, thay vì cách làm việc với nỗ lực tự nguyện.
Cần có sự phân chia trách nhiệm và quyền hạn giữa nhà quản trị và người thừa hành, tránh đổ hết trách nhiệm cho người công nhân.
Kết luận: học thuyết quản trị khoa học của Taylor có 2 đóng góp đáng kể cho ngành quản trị học: Phương pháp làm việc tốt nhất. Công nhân được trả lương theo sản phẩm.đó chính là điểm tích cực mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung thuyết quản lí hành chính của M.Weber cần vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam.
Trong trường phái quản trị khoa học chú trọng đến hợp lý hóa công việc và những nhiệm vụ mà các công nhân phải làm thì trường phái quản trị tổng quát (hay hành chính) lại phát triển những nguyên tắc quản trị chung cho cả một tổ chức, chính vì thế trường phái này còn được gọi là tư tưởng quản trị tổ chức cổ điển. Đây là tên gọi để chỉ các ý kiến về cách thức quản trị xí nghiệp do Henry Fayol ở Pháp và Max Weber ở Đức nêu lên, cũng cùng thời với Taylor ở Mỹ Max Weber (1864-1920): Là một nhà xã hội học người Đức, có nhiều đóng góp vào lý thuyết quản trị thông qua việc phát triển một tổ chức quan liêu bàn giấy là phương thức hợp lý tổ chức một công ty phức tạp. Khái niệm quan liêu bàn giấy được định nghĩa là hệ thống chức vụ và nhiệm vụ được xác định rõ ràng, phân công phân nhiệm chính xác, các mục tiêu phân biệt, hệ thống quyền hành có tôn ti trật tự. Cơ sở tư tưởng của Weber là ý niệm thẩm quyền hợp pháp và hợp lý. Ngày nay thuật ngữ "quan liêu" gợi lên hình ảnh một tổ chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ tục hành chính phiền hà và nó hoàn toàn xa lạ với tư tưởng ban đầu của Weber.
Thực chất những đặc tính của chủ nghĩa Weber là: Phân công lao động với thẩm quyền và trách nhiệm được quy định rõ và được hợp pháp hóa như nhiệm vụ chính thức. Các chức vụ được thiết lập theo hệ thống chỉ huy, mỗi chức vụ nằm dưới một chức vụ khác cao hơn. Nhân sự được tuyển dụng và thăng cấp theo khả năng qua thi cử, huấn luyện và kinh nghiệm Các hành vi hành chính và các quyết định phải thành văn bản. Quản trị phải tách rời sở hữu .Các nhà quản trị phải tuân thủ điều lệ và thủ tục.Luật lệ phải công bằng và được áp dụng thống nhất cho mọi người.
Đồng thời với sự phát trển của kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, quy mô của các xí nghiệp và tổ chức xã hội được mở rộng, nên người ta ngày càng nhận rõ giá trị của thể chế quản lý hành chính trong lý tưởng do Weber nêu ra. Ngày nay, thể chế quản lý ấy đã trở thành một cơ cấu điển hình của các tổ chức chính thức, một hình thức tổ chức chủ yếu, được ứng dụng rộng rãi trong các thiết kế tổ chức và đã phát huy tác dụng chỉ đạo một cách hữu hiệu. Những quan điểm sắc sảo của ông đã ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc đến sự phát triển của lý luận quản lý phương tây sau đó. Cống hiến của Weber đối với sự phát triển của lý luận quản lý đã được các nhà khoa học về quản lý ở phương tây thừa nhận một cách rộng rãi những ý kiến bổ ích của ông đã không ngừng gợi mở nhiều vấn đề cho các nhà quản lý. Việc áp dụng tư tưởng này của ông vào các doang nghiệp Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.
Nội dung của thuyết quản lí hành chính của Henry Fayol (1841-1925) cần vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam.
Henry Fayol (1841-1925) Là một nhà quản trị hành chính ở Pháp.Với tác phẩm "Quản trị công nghiệp và quản trị Tổng quát”. Khác với Taylor, cho rằng năng suất lao động kém là do công nhân không biết cách làm việc, và không được kích thích kinh tế đầy đủ, Fayol cho rằng năng suất lao động của con người làm việc chung trong tập thể tùy vào sự sắp xếp, tổ chức của nhà quản trị.
Việc sắp xếp tổ chức đó được gọi là quản trị tổng quát và việc này cũng quan trọng như 5 việc khác trong cơ sở sản xuất kinh doanh. 1. Sản xuất, 2. Tiếp thị hay Marketing, 3. Tài chính, 4. Quản lý tài sản và con người, 5. Kế toán - thống kê.
Để có thể làm tốt việc sắp xếp, tổ chức Xí nghiệp Fayol đã đề nghị các nhà quản trị nên theo 14 Nguyên tắc quản trị: 1. Phải phân công lao động 2. Phải xác định rõ mối quan hệ giữa quyền hành và trách nhiệm 3.Phải duy trì kỷ luật trong Xí nghiệp 4.Mỗi công nhân chỉ nhận lệnh từ một cấp chỉ huy trực tiếp duy nhất 5.Các nhà quản trị phải thống nhất ý kiến khi chỉ huy 6. Quyền lợi chung luôn luôn phải đặt trên quyền lợi riêng 7. Quyền lợi kinh tế phải tương xứng với công việc. 8. Quyền quyết định trong xí nghiệp phải tương xứng về một mối 9. Xí nghiệp phải được tổ chức theo cấp bậc từ giám đốc xuống đến công nhân 10. Sinh hoạt trong xí nghiệp phải có trật tự 11.Sự đối xử trong xí nghiệp phải công bình 12.Công việc của mỗi người trong xí nghiệp phải ổn định 13. Tôn trọng sáng kiến của mọi người 14. Xí nghiệp phải xây dựng cho được tin thần tập thế. Tóm lại, trường phái hành chính chủ trương rằng năng suất lao động sẽ cao trong một tổ chức được sắp đặt hợp lý.
Nó đóng góp rất nhiều trong lý luận cũng như thực hành quản trị, nhiều nguyên tắc quản trị của tư tưởng này vẫn còn áp dụng ngày nay mà các doanh nghiệp việt nam cần phải vận dụng. Các hình thức tổ chức, các nguyên tắc tổ chức, quyền lực và sự ủy quyền ...đang ứng dụng phổ biến ngày nay chính là sự đóng góp quan trọng của trường phái hành chánh. Giới hạn: Các tư tưởng được thiết lập trong một tổ chức ổn định, ít thay đổi, quan điểm quản trị cứng rắn, ít chú ý đến con người và xã hội nên dễ dẫn đến việc xa rời thực tế. Nên vấn đề quan trọng là phải biết cách vận dụng các nguyên tắc quản trị cho phù hợp với các yêu cầu thực tế chứ không phải là từ bỏ các nguyên tắc đó
Giải pháp chủ yếu để vận dụng có hiệu quả thuyết quản lí của M.Weber, H.Faloy, W.Taylor .
Ngày nay, thể chế quản lý ấy đã trở thành một cơ cấu điển hình của các tổ chức chính thức, một hình thức tổ chức chủ yếu, được ứng dụng rộng rãi trong các thiết kế tổ chức và đã phát huy tác dụng chỉ đạo một cách hữu hiệu. Việc áp dụng tư tưởng này của nhà khoa học vào các doang nghiệp Việt Nam hiện nay còn chưa được triệt để. Như là việc phân công lao lao động vẫn chưa theo đúng chuyên môn, tình trạng sinh viên ra trường làm trái với ngành nghề đang còn rất nan giải. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế lại đi làm hướng dẫn viên du lịch hay cử nhân Anh văn lại làm một nhân viên kế toán... mà đáng ra họ phải đảm nhiệm những công việc mà trên ghế nhà trường họ đã đuợc trang bị một cách rất căn bản...Tình trạng này dẫn đến tính chuyên môn hoá không cao, sự hiểu biết hạn chế về lĩnh vực mình đang làm, thiếu sự tinh thông nghề nghiệp dẫn đến hiệu quả công việc không đạt tối ưu.
Như trên đã nói, bất kì một tổ chức xã hội nào cũng phải lấy quản lý bằng quyền lực làm cơ sở tồn tại. Xã hội và các bộ phận hợp thành nó phần lớn không phải quy tụ với nhau thông qua quan hệ khế ước hoặc sự nhất trí về đạo đức mà thông qua quyền lực. Ngay cả ở những nơi mà sự hoà thuận chiếm ưu thế, việc vận dụng quyền lực cũng chưa bao giờ mất hẳn. Có thể nói, mọi lĩnh vực hành vi của con người đều chịu tác động của quyền lực. Nếu không có quyền lực dưới hình thức nào đó thì hoạt động của tất cả các tổ chức xã hội đều không thể tiến hành bình thường Và các doanh nghiệp của Việt Nam cũng thế. Chỉ có quyền lực mới làm cho bộ máy tổ chức của các doanh nghiệp Việt Nam đitheo đúng mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Sự sắp xếp các vị trí trong tổ chức theo một hệ thống quyền lực, có một tuyến chỉ huy rõ ràng đã mang lại những kết quả rất tốt, tác phong công nghiệp cao song bên cạnh đó nó vẫn mang tính hình thức, sự lạm dụng chức quyền dẫn đến tính áp đặt không dân chủ nhân viên chịu nhiều áp lực làm cho những đề xuất, ý kiến hay của họ không đựơc chấp nhận còn tồn tại nhiều bức xúc. Cấp dưới làm việc như một cái máy rồi ra về họ không coi công ty là một ngôi nhà chung, không quan tâm đến sự đi lên hay tụt hậu, sự sống còn của doanh nghiệp...
Có một hệ thống nội quy thủ tục chính thức chi phối quyết định và hành động, đảm bảo sự phối hợp tốt, định hướng cho họ phát triển, đề bạt theo thành tích và thâm niên. Những người có đóng góp lâu năm cộng với sự làm việc có kết quả cao và tinh thần trách nhiệm, cống hiến đối với công ty qua một số năm công tác nhất định đều sẽ được đề bạt thăng chức.Công tác này đã là động lực rất lớn thúc đẩy nhân viên làm việc tốt, tìm tòi nghiên cứu hoàn thành công việc một cách nhanh nhất, tốt nhất.Họ luôn tận tâm và làm việc hết mình. Điều này rất có lợi cho công ty trong việc nâng cao khả năng lãnh đạo, tổ chức trong doanh nghiệp nhất là trong thời đại hiện nay với xu thế hội nhập và phát triển. Cùng với những kết quả đáng mừng ấy chúng ta không khỏi quan tâm đến một thực tế mà đôi khi lại không hoàn toàn như trên lý thuyết, vẫn có tình trạng những nhân viên làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, năng lực làm việc kém, thế nhưng đến khi đề bạt họ lại là người giữ chức vị cao, như vậy hoàn toàn không tương xứng. Vì sao vậy? Bởi trong cơ chế thị trường ngày nay do chạy theo những lợi ích cá nhân nên còn tồn tại không ít những kẻ nịnh bợ, những kẻ chuyên đi đút tiền để có được chức vị này nọ ... mà kiến thức chuyên môn về lĩnh vực ấy họ không hề hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít... Những tồn đọng ấy không phải là hãn hữu, nó rất cần cố một thể chế quản lý tốt hơn, không những đào tạo về tri thức mà còn cần đào tạo về phẩm chất cá nhân.
Một số đề xuất khắc phục những hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta cần từng bước xây qui chế áp dụng hệ thống quản lý một cách bao quát hơn, toàn diện hơn nhằm đạt mục tiêu to nhất. Các nhà lãnh đạo cần có những quyết định mang tính khoa học và tính chuyên môn nghề nghiệp, việc này cần phải có sự xem xét chặt chẽ trên mọi phương diện. Họ cần đưa ra những quyết sách hữu hiệu, có tính chiến lược liên quan tới sự thành bại, thịnh suy của tổ chức. Hơn nữa các nhà lãnh đạo cần phải là một người lãnh đạo dân chủ, biết lắng nghe những đề xuất và nguyện vọng của cấp dưới, khuyến khích họ tham gia nhiệt tình vào việc đóng góp ý kiến để xây dựng công ty ngày một tốt hơn. Tổ chức doanh nghiệp một cách hệ thống phải áp dụng tốt hơn, chặt chẽ hơn, nghiêm chỉnh hơn. Tất cả những điều trên là cần phải áp dụng thuyết như thế nào vào các doanh nghiệp được tốt và nhịp nhàng vẫn là vấn đề đòi hỏi ở khả năng của các nhà lãnh đạo .
Trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay các doanh nghiệp hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang phấn đấu đạt được những mục tiêu mới, mang lại lợi ích cho đất nước và cho riêng doanh nghiệp của mình. Các doanh nghiệp của Việt Nam đang đứng trước những thời co và thách thức mới. Để nắm lấy thời cơ và vượt qua thử thách đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải phát huy hơn nữa tinh thần chủ động sáng tạo, áp dụng tốt những mặt tích cực của các thuyết và quyết tâm đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1_1_ly_thuyet_co_dien_8511.doc