MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN 2
I- CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN: 2
1- Vốn sản xuất 2
2- Vốn đầu tư 2
II- NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN ĐẦU TƯ: 2
1- Nguồn vốn đầu tư trong nước: 3
2- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: 5
III- VAI TRÒ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ: 6
IV- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: 7
1- Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới cơ sở hạ tầng: 7
2- Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới nông nghiệp nông thôn: 8
I- THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM: 10
1- Tình hình kinh tế Việt Nam: 10
2- Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam và tình hình sử dụng: 11
3- Vốn đầu tư từ NSNN ở Việt Nam: 14
II - PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM: 17
2 - Vốn đầu tư từ NSNN với tăng trưởng kinh tế: 19
2.1 - Ảnh hưởng cuả vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế: 19
2.2 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các lĩnh vực kinh tế: 20
2.3 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các nguồn vốn khác: 29
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỦ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN 33
1. Những tồn tại trong đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước: 33
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước tại Việt Nam: 35
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
43 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2411 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế và giải pháp nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia tăng mạnh của giá cả, nhập siêu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng xấu đến sản xuât và đời sống nhân dân. Bên cạnh những hạn chế, bất cập và thách thức không nhỏ đó, thì đầu tư nước ngoài (FDI) lại là điểm sáng nhất. Tính riêng tháng 5/2008 đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt 7,5 tỉ USD, đưa tổng số 5 tháng lên 14,7 tỉ USD, cao gấp trên 2,6 lần cùng kỳ năm trước. Nếu kể cả 0,6 tỉ USD của các dự án tăng vốn thì tổng lượng vốn đang ký mới và bổ sung đạt trên 15,3 tỉ USD, cao gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước, không những lớn nhất so với cùng kỳ từ trước tới nay mà còn lớn hơn mức cả năm từ năm 2006 trở về trước, bằng trên hai phần ba lượng vốn của cả năm 2007. Điều đó chứng tỏ bất chấp những khó khăn của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là điểm thu hút FDI hấp dẫn.
Mức nhập siêu 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, chiếm 61,6% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô là 2,5 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch nhập siêu; nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước là 11,9 tỷ USD, chiếm 82,4%. Bên cạnh yếu tố về tăng số lượng hàng nhập khẩu, thì sự tăng giá của một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong thời gian gần đây cũng góp phần không nhỏ gây nên tình trạng nhập siêu.
Kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đạt 23,4 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm đã có 8 nhóm hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép, gỗ, thủy sản, gạo và cà phê.
Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của giá cả nguyên liệu trên thế giới tăng đã khiến chi phí sản xuất cũng như giá thành các dịch vụ tăng lên, nhưng hoạt động thương mại cũng diễn ra khá sôi động trên hầu khắp các địa bàn trong cả nước. Tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội 5 tháng đầu năm đạt 370.000 tỷ đồng, tăng tới 29,5% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam và tình hình sử dụng:
a- Cơ cấu vốn:
* Về cơ cấu ngành, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 512 dự án, thông qua tổng vốn đăng ký 32,5 tỷ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% về vốn đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ có 400 dự án với tổng vốn đăng ký 25,5 tỷ USD, chiếm 42% về số dự án và 44% về vốn đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp.
* Xét về cơ cấu nhà đầu tư, Malaysia nổi lên dẫn đầu trong số 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam về vốn đăng ký trong 10 tháng với 40 dự án được cấp phép, tổng vốn đăng ký 14,8 tỷ USD, chiếm 25,5% về vốn tổng đầu tư đăng ký của cả nước. Đài Loan đứng vị trí thứ hai với 122 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỷ USD, chiếm 14,8% về vốn đăng ký. Nhật Bản đứng thứ ba với 90 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỷ USD, chiếm gần 13% của tổng vốn đăng ký.
" Tính đến tháng 9-2008, Hà Nội đã thu hút tổng cộng 1.400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 18 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư vào Hà Nội có sự chuyển biến mạnh mẽ từ lĩnh vực công nghiệp sản xuất và kinh doanh sang lĩnh vực dịch vụ, tài chính ngân hàng và đặc biệt là các dự án bất động sản lớn.
b- Tình hình sử dụng:
Tồn tại quá nhiều vấn đề trong sử dụng vốn, xảy ra tình trạng lãng phí kép, và “bệnh hình thức”
“Lãng phí kép” trong sử dụng vốn: với một nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, thực tế hiệu quả sử dụng vốn gây lãng phí, tiền tiêu không hợp lý. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ về việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA.
Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, tiền ngân sách là gì khác ngoài tiền thuế của dân đóng góp. Đầu tư trong nước là một nguồn lực tốt, thậm chí, trong năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đảy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng lẽ ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn ,do chính nhà nước tạo ra.
Về vốn bên ngoài, chúng ta nhận được nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD.
Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Bài học Phần Lan cần phải tránh
Chúng ta không thể chỉ dựa riêng vào ngân sách, vào ODA để làm hạ tầng. Phải tin mình và tin các nhà đầu tư để mạnh dạn mở cửa. Không thể quay lưng lại với cơ hội, nhất là khi chúng ta đã có hệ thống pháp lí quốc tế để soi chiếu, có kinh nghiệm hợp tác nhiều năm. Tâm lí e ngại đáng ra không được duy trì lâu như vậy. Giá của sự chờ đợi ấy không đáng.
Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất.
Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân.
Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố Hồ Chí Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực hiện biện pháp mang tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao nhiêu.
Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào.
Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội.
Vốn đầu tư từ NSNN ở Việt Nam:
Như đã nói ở trên, tiền ngân sách chính là tiền thuế của dân đóng góp. Thế nhưng một thực trạng đáng lo ngại là đầu tư từ ngân sách lại chưa hiệu quả, và nâng cao hiều quả từ vốn đầu tư ngân sách nhà nước là một trong những vấn đề cần giải quyết.
Một số câu trả lời cho câu hỏi đó là:
- Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng
- Quá chú trọng tới chỉ tiêu tăng trưởng
- Chưa sẵn sàng cho hình thức đầu tư ngoài nhà nước
Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng, chiếm 50% ngân sách, như vậy sẽ khiến cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh hưởng. Đầu tư khu vực nhà nước tuy đã có xu hướng giảm nhưng vẫn còn cao. Từ mức bình quân 51% thời kỳ 1991 – 2005, đến nay tỷ lệ này còn là 43%. Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời quan tâm đầu tư hơn cho vùng nghèo, xã nghèo vùng đồng bào dân tộc.
Tuy nhiên, công tác quản lý đầu tư còn yếu kém, chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho họach định các kế hoạch phát triển. Việc quản lý vừa rườm rà, vừa lỏng lẻo trong đầu tư thể hiện ở tất cả các khâu từ xác định chủ trương lập, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư, thiết bị kỹ thuất, lập tổng dự toán,… đến khâu triển khai thực hiện, theo dõi cấp phép và thanh toán gây ra tình trạng thất thoát không nhỏ cho vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn có tình trạng số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp vốn ngày càng tăng, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách.
Tất cả những yếu kém trên đã khiến cho đầu tư kém hiệu quả. Điều này được thể hiện qua chỉ số ICOR ngày càng lớn. Thời kỳ 1991-1995 chỉ số này là 3, nhưng thời kỳ 1996-2000 lên tới 4,3; thời kỳ 2001-2005 khoảng 4,7 đến là trên 5,0.
Ngoài ra, nguyên nhân sâu xa là do đã đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung quá nhiều vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở, chưa đầu tư thoả đáng cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá có giá trị làm tăng GDP.
Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển đời sống, kinh tế nhân dân, nhưng đây cũng không phải là cách ứng xử duy nhất, vì chúng ta có thể vận dụng những hình thức như BOT, BTO, PPP.
Hiện đầu tư công của chúng ta đã vượt xa so với khả năng của ngân sách nhà nước. Trong khi đó, đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã chiếm tới 50% ngân sách. Điều này sẽ khiến đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh hưởng.
Quá chú trọng tới chỉ tiêu tăng trưởng. Những năm gần đây, chúng ta đã quá chú ý tới tốc độ tăng trưởng và quyết tâm đạt tốc độ tăng trưởng cao nên đã dẫn tới tình trạng đầu tư năm sau cao hơn năm trước. Bên cạnh đó, cách làm phổ biến hiện nay vẫn là chọn việc dễ để thực hiện. Cộng thêm với tâm lý quá trông chờ vào vốn ngân sách nhà nước và khai thác tận thu nguồn tài nguyên sẵn có của đội ngũ lãnh đạo đã tạo nên lối “ứng xử” địa phương cát cứ, đầu tư theo kiểu “chộp giật”. Hình thức phân bổ các dự án vẫn mang tính bình quân, theo kiểu ban phát lợi ích chứ chưa theo quy hoạch phát triển tổng thể.
Tất cả đã khiến cho những dự án quy hoạch thường có tính địa phương, ít tạo được tính kết nối thị trường. Vì vậy, cùng một khoản tiền đầu tư nhưng hiệu quả mang lại chưa có tính lan tỏa mạnh.
Ngoài ra, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước lẽ ra cần đầu tư cho bộ máy công chức thông qua tiền lương lại chưa được quan tâm thích đáng. Thiếu sự quan tâm đúng mức cũng đã làm giảm hiệu quả của đội ngũ này gây ảnh hưởng trực tiếp tới việc thẩm định, giám sát việc thực hiện các dự án.
Chưa sẵn sàng cho hình thức đầu tư ngoài nhà nước. Hiện nay, chúng ta vẫn còn quan niệm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển. Chưa sẵn sàng cho sự chuyển đổi mô hình từ đầu tư của nhà nước sang hình thức đầu tư ngoài nhà nước.
Thêm vào đó là sự lạm dụng đầu tư công cho xây dựng cơ bản, tập trung phát triển theo chiều rộng không chú trọng tới chiều sâu. Lối tư duy nhiệm kỳ đã tạo ra tâm lý là lãnh đạo ai cũng muốn xây dựng hình ảnh đẹp trong thời gian đương nhiệm.
Ngoài ra, tư tưởng cục bộ dựa trên lợi ích của nhóm nhỏ trong xã hội cũng đã làm nảy sinh tham nhũng. Dự toán, quyết toán công trình lỏng lẻo khiến cho chất lượng của các công trình đầu tư cơ bản thường thấp. Chi phí bảo trì, duy tu công trình thường không được tính tới trong dự án càng khiến cho nhưng các công trình càng mau xuống cấp. Để các công trình này hoạt động theo đúng yêu cầu chi phí vận hành là rất lớn. Vì vậy, để các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng thực sự mang lại hiệu quả về mặt nhận thức cần có sự chuyển trọng tâm đầu tư phát triển ra ngoài khu vực nhà nước. Vận dụng hình thức chìa khoá trao tay cũng sẽ tránh được việc phải điều chỉnh khi có sự biến động về giá cả. Công trình sẽ được đảm bảo tiến độ hoàn thiện và vốn đầu tư cũng không bị đội lên.
Cơ chế xin cho cũng cần phải được xóa bỏ thay vào đó là hình thức đầu thầu công khai, minh bạch và có sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài. Nếu chưa tìm được đối tác thích hợp sẽ tổ chức đấu thầu lại.
II - PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM:
Phân tích tác động của vốn đầu tư tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam:
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào đầu tư, và nhiều chính sách vĩ mô được thiết kế cho mục tiêu này. Vậy làm thế nào để tăng trưởng thật sự bền vững. Theo Bộ Kế hoạch đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã lên mức gần 44% GDP năm 2007, và 42% GDP trong nửa đầu năm 2008. Tỷ trọng này, theo các nhà kinh tế là rất cao xét trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
Đầu tư nhà nước ồ ạt. Trong cơ cấu này, điều đáng chú ý, là đầu tư từ ngân sách nhà nước đang có xu hướng giảm mạnh từ mức 45,3% năm 2006, và dự báo 41,9% năm 2008. Tỷ lệ đầu tư từ ngân sách giảm dần là dấu hiệu đáng mừng, nhưng vẫn còn cao, chiếm phần nhiều trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Tuy nhiên, hiệu quả của vốn đầu tư khu vực nhà nước đã được đặt ra từ lâu, khi mà vẫn còn xảy ra tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ, nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, đầu tư đa ngành của các doanh nghiệp nhà nước. Rõ rang, để tạo ra cùng một năng lực sản xuất, Nhà nước phải bỏ ra nhiều kinh phí, và nhập khẩu nhiều đầu vào cho đầu tư hơn. Đây là lãng phí không đáng có, nhưng đến nay, vẫn chưa khắc phục được.
Giảm vốn tư nhân. Trong tổng đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn của khu vực này giảm từ 37.3% năm 2006, xuống 32,3% năm 2007, và ước tính 31% năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Xu hướng giảm xuống trong ba năm nay của khu vực này đã đi ngược lại với xu hướng của năm năm trước đó. Điểm không thể chối cãi là, bất ổn trong tình hình kinh tế vĩ mô từ cuối năm 2007 đến nay, dẫn đến giá cả đầu vào tăng cao, khó tiếp cận tín dụng, ngoại tệ…đã gây khó khăn lớn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là loại vừa và nhỏ. Câu hỏi được Quốc hội đặt ra, làm sao để hỗ trợ khu vực kinh tế quan trọng này, dường như vẫn còn treo đó.
Trong khi đó, vốn đầu tư FDI giải ngân đang tăng cao, từ 15,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2006 lên 24,8% năm 2007, và ước đạt 24,7% năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Xu hướng gia tăng của nguồn vốn này đang đặt ra không ít quan ngại.
Trước hết, luồng vốn này đang dịch chuyển từ khu vực chế biến hướng xuất khẩu, sang bất động sản. Chỉ trong nửa đầu năm 2008, có tới 89% vốn đăng ký liên quan đến sử dụng nguồn tài nguyên khan hiếm như căn hộ và văn phòng, dầu khí, khách sạn và du lịch, sắt thép.
Xu hướng này là đáng lo ngại, xét trên cơ sở các doanh nghiệp FDI chiếm tới hơn 57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm – vốn là nhân tố giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong 10 năm qua. Hơn nữa, các dự án FDI đổ vào ngành bất động sản sẽ không tạo ra của cải, việc làm, thu ngoại tệ và chuyển giao công nghệ, trong khi các khoản lãi khổng lồ sẽ được chuyển ra nước ngoài.
Điều đáng lo ngại nhất là, việc giải ngân luồng vốn FDI này được dự báo sẽ giảm đi rất nhanh, do nền kinh tế không đủ khả năng hấp thụ. Những yếu tố nội tại như sự yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn này.
Trong khi đó, tỷ lệ thâm hụt tiết kiệm nội địa/GDP của Việt Nam luôn được xếp hạng xấu nhất trong khu vực, ở mức 11,7% GDP năm 2006, 16,7% năm 2007, và ước 10% cho năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Điều này là hậu quả của tiêu dùng đang có xu hướng tăng lên.
Những con số thống kê trên cho thấy, Việt Nam đang dựa ngày càng nhiều vào đầu tư nước ngoài để chi trả cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là khi FDI sụt giảm. Đây là điều có thể xảy ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính đang lan rộng trên quy mô toàn cầu.
Rõ ràng, cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, bên cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng. Bài học này, tiếc thay, sẽ còn mất rất nhiều thời gian.
2 - Vốn đầu tư từ NSNN với tăng trưởng kinh tế:
2.1 - Ảnh hưởng cuả vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế:
Nước ta đang trên con đường CNH – HĐH đất nước, khởi điểm từ một vị trí rất thấp, khi mà cơ sở hạ tầng chưa phát triển hoàn chỉnh, tiềm lực của khu vực tư nhân chưa được tập trung và khơi dậy thì đầu tư từ NSNN có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn khác. Đầu tư từ NSNN được coi như một “mồi lửa” để thổi bùng nền kinh tế bước vào thời kỳ hoạt động sôi động, điều chỉnh nền kinh tế đi vào ổn định tăng trưởng.
Đầu tư phát triển từ NSNN là một bộ phận của tổng đầu tư xã hội, mỗi sự thay đổi nhỏ của Đầu tư phát triển từ NSNN đều tác động trực tiếp tới tổng đầu tư xã hội, tác động đó thường theo tính chất cùng chiều nên ta kỳ vọng sự thay đổi đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới sự thay đổi của tổng đầu tư toàn xã hội là tích cực.
Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Tuy tác động trực tiếp tới nền kinh tế chưa nhiều song nó có tác dụng kích thích tới các nhân tố khác, tạo hành lang cho các thành phần kinh tế khác hoạt động thuận lợi hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa trong điều kiện hội nhập quốc tế hện nay, yêu cầu đối với nguồn vốn NSNN rất lớn. Vốn NSNN vừa đảm bảo được nhiều hơn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa đảm bảo nâng cao chất lượng bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước và ngân hang thương mại quốc dân, góp phần cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế theo yêu cầu hội nhập quốc tế.
2.2 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các lĩnh vực kinh tế:
a- Đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn:
Nông nghiệp là nền tảng quan trọng để góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Trong 5 năm (2001 - 2005) Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cũng như thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia khác, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người nông dân. Nông nghiệp tiếp tục duy trì đà phát triển khá cao với nhịp tăng trên 5,7%, góp phần giữ vững ổn định lương thực, cung cấp nông sản cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, góp phần ổn định chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước.
Để đáp ứng mục tiêu phát triển ngành, nhu cầu vốn đầu tư phát triển 5 năm (2001-2005) dự kiến khoảng 133,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư phát triển, tăng bình quân hàng năm trên 9%, trong đó: vốn đầu tư công cộng khoảng 97,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 80% tổng vốn đầu tư phát triển ngành, riêng vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 56,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 57% tổng vốn đầu tư công cộng của ngành. Như vậy, trong bố trí vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn đã đầu tư thêm hang nghìn tỷ vốn Ngân sách cho xóa đói giảm nghèo và các mục tiêu kinh tế - xã hội khác và cả vốn bảo dưỡng, duy trì công trình.
Vốn đầu tư phát triển ngành nông, lâm, ngư nghiệp 2001-2005
Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
tổng số
133.8
20.7
23.5
25
26.3
28.1
Vốn chương trình đầu tư công cộng
97.6
17.6
18.6
19.6
20.3
21.5
-Vốn NSNN
56.6
10.9
11
11.4
11.5
11.8
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
15.4
2.9
3
3.1
3.2
3.2
-Vốn tự có của DN Nhà nước
21
3
3.8
4.2
4.6
5.4
-Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn
NSNN)
4.6
0.8
0.8
0.9
1
1.1
Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – NXB thống kê
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát trỉên khá nhanh, chiếm khoảng 15% giá trị sản xuất toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng cao. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, nhiều vùng sản xuất nông sản hang hóa với quy mô lớn, gắn liền với công nghiệp chế biến được hình thành, các làng nghề bước đầu được khôi phục, sản xuất trang trại phát trỉên nhanh, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo thêm việc làm ở nông thôn.
b- Đối với lĩnh vực công nghịêp:
Do chủ trương xóa bỏ dần bao cấp trong đầu tư từ Ngân sách Nhà nước, tăng cường tính tự chủ của các doanh nghiệp Nhà nước nên lĩnh vực này thu hút khá nhiều vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần phải tập trung phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, tăng nhanh các ngành công nghiệp, các sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hang xuất khẩu, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn,… Để đạt đựơc các mục tiêu trên, trong những năm vừa qua, nhất là trong kế hoachk 5 năm (2001-2005) Nhà nước ta đã đầu tư rất lớn cho lĩnh vực này và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ,
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp và xây dựng 2001-2005
Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số
369.6
62.6
71
74.9
78.05
83.05
Vốn chương trình đầu tư công cộng
197.5
31.6
36.1
40
43.4
46.4
-Vốn NSNN
17.9
3.3
3.5
3.6
3.7
3.8
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
70
11.5
13.2
14
15.3
16
-Vốn tự có của DN Nhà nước
108.7
16.7
19.2
22.2
24.2
26.4
-Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN)
0.9
0.1
0.2
0.2
0.2
0.2
Nguån: Quy ho¹ch, chiÕn lîc ph¸t triÓn ngµnh- ch¬ng tr×nh u tiªn-NXB thèng kª
Nhờ có nguồn vốn trên, ngành công nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến hết sức quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hang năm ngành công nghiệp trong 5 năm đã tăng mạnh. Đó là bước phát triển khá nhanh, góp phần làm cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 7% trong điều kiện kinh tế các nước trong khu vực đều suy giảm.
Năng lực sản xuất một số sản phẩm công nghiệp tăng khá, không những đảm bảo nhu cầu về ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, học hành và nhiều loại hang tiêu dung thiết yếu khác, mà còn có khả năng xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ khá hiện đại.
Tuy vậy, sản xuất công nghiệp vẫn đứng trước nhiều khó khăn, một số ngành sản xuất còn nhiều bấp bênh, chất lượng sản phẩm còn kém, năng suất lao động công nghiệp thấp, công nghệ chưa đáp ứng được với nhu cầu phát triển. Tuy tốc độ phát trỉên công nghiệp đạt trên 14%/ năm nhưng do tăng nhanh ở một số sản phẩm và phân ngành có tiêu hao vật tư lớn như dệt, may, ô tô, xe máy nên làm cho tốc độ tăng gía trị gia tăng không tăng tương xứng, chỉ tăng khoảng trên dưới 10%/năm. Chính vì vậy, cần phải có những chính sách sử dụng và huy động có hiệu quả nguồn lực trong ngành công nghiệp và những nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này.
Đối với lĩnh vực kết cấu cơ sở hạ tầng dịch vụ:
Kinh nghiệm những năm qua cho thấy việc đầu tư vào phát triển hạ tầng và dịch vụ có ý nghĩa quan trọng, có tác động đến hiệu quả chung của toàn nền kinh tế và chất lượng cuộc sống.
Trong 5 năm 2001-2005, kết cấu hạ tầng đô thị (bao gồm cả cấp thoát nước, đường xá,…) đã được cải thiện rõ rệt, các ngành dịch vụ đô thị phát triển khá, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư.
Hệ thống cấp nước cho sinh hoạt dân cư và cho sản xuất đã được hoàn thiện bước đầu. Hầu hết các thành phố, các tỉnh và phần lớn các thị trấn đều được đầu tư nâng cấp và cải thiện hệ thống cấp nước. Năng lực cấp nước cho khu vực đô thị tăng thêm, đường ống phân phối theo tuyến trục đã rãi đều trong các khu vực dân cư, đạt mức tiêu dung là 70 lít nước/người -ngày (so với mục tiêu đề ra là 80-100 lít/người- ngày).
Hệ thống trụ sở các cơ quan Nhà nước đã được chỉnh trang, mở rộng và đầu tư xât dựng mới. Các khu dân cư đô thị đã được mở rộng, nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,…
Dich vụ đô thị phát triển mạnh, các trung tâm thương mại, hệ thống các chợ, các siêu thị đã được hình thành trong các thành phố, thị xã, thị trấn. Dịch vụ du lịch, nhà hang, khách sạn phát triển đáng kể, đáp ứng đựơc nhu cầu đời sống dân cư.
Nhiệm vụ phát triển hạ tầng và dịch vụ trong 5 năm (2001-2005) là trực tiếp góp phần xât dựng đô thị văn minh, lịch sự, cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, dịch vụ và hạ tầng cơ sở cho đời sống và cho phát triển ở cả vùng nông thôn và đô thị.
Để đáp ứng mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ ở đô thị và nông thôn, nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm (2001-2005) dự kiến vào khoảng 122000 tỷ đồng, chiếm 14% tổng vốn đầu tư xã hội, trong đó riêng chương trình đầu tư công cộng vào khoảng 44,5 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 38% so với tổng vốn của ngành.
Vốn đầu tư phát triển lĩnh vực hạ tầng dịch vụ đô thị thời kỳ 2001-2005
Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số
121.6
21.9
24
24.6
25.2
25.9
Vốn chương trình đầu tư công cộng
44.5
8.4
8.9
9
9
9.2
-Vốn NSNN
21.1
4.3
4.3
4.3
4.1
4.1
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
12
2.3
2.5
2.4
2.4
2.4
-Vốn tự có của DN Nhà nước
7.4
1
1.3
1.5
1.7
1.9
-Vốn duy tu, bảo dưỡng(nguồn NSNN)
4
0.8
0.8
0.8
0.8
0.8
Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – chương trình ưu tien- NXB thống kê.
Nhìn bảng trên cho thấy; riêng vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này là rất lớn. Cụ thể: năm 2001 chiếm 51% tổng vốn chương trình đầu tư công cộng, năm 2002 là 48,3%, năm 2003 là 47,8% và dự kiến năm 2005 là 44,6%.
Tuy vậy, cơ sở hạ tầng đô thị và các hoạt động dịch vụ đô thị vẫn còn nhiều bất cập. Sức vươn tới cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị chưa đáp ứng được quá trình đô thị hóa nhanh chóng trong từng vùng. Sự dồn nến về mật độ dân cư ở các thành phố lớn như hiện nay đang là khó khăn lớn với thực trạng về cơ sở hạ tầng còn yếu kém cần phải đựơc khắc phục trong những năm tiếp theo.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
Trong giai đoạn 2002-2006, NSNN chi cho GDĐT đã tăng gấp 2,4 lần, từ hơn 22.600 tỷ đồng năm 2002 lên đến gần 55.000 tỷ đồng năm 2006. Tỷ trọng chi NSNN cho GDĐT trong GDP tăng từ 4,2%(năm 2002) lên 5,6% (năm 2006). Theo Thứ trưởng Bộ tài chính, đây là mức chi cao so với các nước trong khu vực và thế giới dành cho GDĐT. Trong đó, chi thường xuyên cho GD Đại học đã tăng hơn 2,4 lần trong giai đoạn 2002-2006. Về lĩnh vực đào tạo, nguồn tài chính chi cho hoạt động này vẫn chủ yếu là từ NSNN. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế còn đang phát triển, thu nhập quốc dân tính trên đầu người thấp và nguồn thu ngân sách hạn hẹp, đầu tư cho giáo dục tuy có tăng lên song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tài chính để duy trì và phát triển các hoạt động giáo dục đào tạo.
Vốn đầu tư cho phát triển ngành giáo dục đào tạo thời kỳ 2001-2005
Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số
45
7.9
8.7
9.2
9.4
9.8
Vốn chương trình đầu tư công cộng
30
5.46
5.76
6.06
6.26
6.46
-Vốn NSNN
24.5
4.7
4.8
4.9
5
5.1
-Vốn tín dụng đầu tư phát trỉên của Nhà nứơc
1.2
0.2
0.2
0.2
0.3
0.3
-Vốn tự có của DN Nhà nước
0.3
0.06
0.06
0.06
0.06
0.06
-Vốn duy tu, bảo dưỡng(nguồn NSNN)
9
1.5
1.7
1.9
1.9
2
Nguồn : quy hoạch, chiên lược phát triển ngành – chương trình ưu tiên – NXB thống kê.
Phát triển giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của cả dân tộc, có ý nghĩa hết sức quan trọng đại trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhu cầu đầu tư phát triển trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là rất lớn, nguồn vốn của chương trình đầu tư công cộng cũng chỉ mới đáp ứng được 62,5%. Vì vậy, việc xã hội hóa và huy động các nguồn vốn từ khu vực dân cư để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo vừa là nhu cầu thiết yếu, vừa là trách nhiệm của cộng đồng đối với tương lai của thế hệ mai sau, của cả đất nước và dân tộc.
Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ:
Trong nhiều năm qua, hoạt động khoa học công nghệ đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể, góp phần thiết thực, có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Lĩnh vực khoa học công nghệ, đã tập trung triển khai nghiên cứu những đề tài phục vụ yêu cầu đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, làm chủ công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế ở các ngành.
Công nghệ và trình độ công nghệ của các ngành sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đã được cải tiến, đổi mới đáng kể, nhất là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, các dự án xuất khẩu cũng như các lĩnh vực dịch vụ cao cấp khác.
Mục tiêu khoa học công nghệ trong 5 năm (2001-2005) là bên cạnh việc coi trọng thực hiện các dự án về khoa học xã hội và nhân văn, phải tạo bước phát triển mới, có hiệu quả trong các lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, nâng cao đáng kể tỷ trọng đóng góp của khoa học và công nghệ vào việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Vốn đầu tư cho phát triển lĩnh vực khoa học và công nghệ
thời kỳ 2001-2005
Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số
7.6
1.28
1.48
1.48
1.58
1.78
Vốn chương trình đầu tư công cộng
7.2
1.2
1.4
1.4
1.5
1.7
-Vốn NSNN
4
0.6
0.8
0.8
0.9
0.9
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
2.7
0.5
0.5
0.5
0.5
0.7
-Vốn tự có của DN Nhà nước
0.1
0.02
0.02
0.02
0.02
0.02
-Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN)
0.4
0.08
0.08
0.08
0.08
0.08
Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – chương trình ưu tiên – NXB thống kê
Từ bảng số liệu trên cho thấy trong kế hoạch 5 năm (2001- 2005) nhu cầu vốn đầu tư dự kiến khoảng 7,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% vốn đầu tư phát triển. Trong đó, riêng chương trình đầu tư công cộng khoảng 6,7 nghìn tỷ đồng, bằng trên 90% tổng vốn đầu tư của ngành, vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 4000 tỷ đồng, chiếm 2% nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách. Như vậy, nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ sẽ được dành số khoản vốn đầu tư trực tiếp lớn hơn hẳn các năm trứơc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tuy vậy, trình độ công nghệ của đất nước còn quá thấp và tỷ lện công nghệ lạc hậu trong các ngành sản xuất kinh doanh còn chiếm phần lớn, do đó đã ảnh hưởng nhiều tới hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và của cả nền kinh tế trong điều kiện hội nhập. Việc đổỉ mới công nghệ trong các ngành, các lĩnh vực diễn ra chậm, thiếu chủ động và chưa gắn kết cệăt chẽ với các nhu cầu của thị trường, đây là thách thức rất lớn cho phát triển và trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2.3 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các nguồn vốn khác:
a- Tác động của đầu tư phát triển từ NSNN tới đầu tư tư nhân:
Phần này nghiên cứu tác động của vốn đầu tư từ NSNN tác động tới quá trình đầu tư của khu vực tư nhân như thế nào và liệu thực sự đầu tư từ NSNN có thực sự làm kích thích đầu tư tư nhân không? Hay là đầu tư từ NSNN làm thoái lui đầu tư tư nhân?
Kết quả từ các chuyên gia sau khi sử dụng các mô hình phân tích cho rằng: đầu tư từ NSNN chi cho phát triển không những không kìm hãm đầu tư từ khu vực tư nhân mà còn có tác dụng kích thích mạnh mẽ tới đầu tư ở khu vực này. Đầu tư của khu vực nhà nước mà chủ yếu là đầu tư từ NSNN ở thời kỳ này đã tạo ra một cú huých vào cầu tỉêu dïng còng nh cÇu ®Çu t th«ng qua c¸c dù ¸n x©y dùng c¬ së h¹ tÇng cho nÒn kinh tÕ. Víi ph¬ng ch©m Nhµ níc vµ nh©n d©n cïng gãp vèn, chung søc x©y dùng c¸c c«ng tr×nh c«ng céng phôc vô lîi Ých chung cña d©n c ngay trªn ®Þa bµn, mét lo¹t c¸c ch¬ng tr×nh ®· ®îc triÓn khai nh kiªn cè hãa kªnh m¬ng; x©y dùng nhµ ë; n©ng cÊp giao th«ng n«ng th«n… ChÝnh phñ còng ®· ®Ò ra nhiÒu gi¶i ph¸p quan träng ®Ó khuyÕn khÝch s¶n xuÊt, ®Èy m¹nh xuÊt khÈu, t¹o thªm vèn vµ viÖc lµm, cô thÓ nh bæ sung vèn ®Çu t vµo c¸c c«ng tr×nh quan trong ®Ó sím hoµn thµnh ®a vµo sö dông; t¨ng hç trî vèn cho c¸c doanh nghiÖp s¶n xuÊt nh÷ng s¶n phÈm träng ®iÓm vµ xuÊt khÈu…Do ®ã nhu cÇu tiªu dïng vµ cÇu ®Çu t tõ ®ã ®îc t¨ng m¹nh. NÕu chÝnh phñ bá ra mét ®ång vèn ®Çu t tõ NSNN cho ph¸t triÓn kinh tÕ th× sÏ lµm t¨ng ®ång vèn cña khu vùc d©n c. Tuy nhiªn trong giai ®o¹n nµy cuéc khñng ho¶ng tµi chÝnh ch©u ¸ ®· g©y ra t©m lý hoang mang lo sî ®èi víi c¸c nhµ ®Çu t trong níc nªn nguån vèn ®Çu t nµy cã xu híng chuyÓn vÒ tÝch luü díi d¹ng ngo¹i tÖ m¹nh vµ kim lo¹i quý lµm suy gi¶m rÊt nhiÒu nguån vèn nµy. Trung b×nh trong vµ sau cuéc khñng ho¶ng cø mét n¨m th× vèn ®Çu t cña khu vùc nµy gi¶m xuèng 4657 tû ®ång ®©y thùc sù lµ mét vÊn ®Ò hÕt søc khã kh¨n cho viÖc huy ®éng vèn cho ®Çu t ph¸t triÓn cña x· héi nãi chung vµ cña khu vùc d©n c nãi riªng. Träng tr¸ch cña chÝnh phñ trong thêi gian nµy hÕt søc nÆng nÒ, ph¶i t¹o ra mét m«i trêng ®Çu t th«ng tho¸ng, ®¶m b¶o, cã søc hót trë l¹i kh«ng nh÷ng ®èi víi nh÷ng nhµ ®Çu t trong níc mµ cßn ®èi víi nh÷ng nhµ ®Çu t níc ngoµi. Muèn vËy kh«ng nh÷ng hÖ thèng luËt ph¸p cña níc ta ph¶i ®æi míi cho phï hîp víi hoµn c¶nh thùc tÕ mµ c¬ së h¹ tÇng còng cÇn ph¶i ®îc ®¶m b¶o, c¸c ho¹t ®éng dÞch vô th¬ng m¹i nh dÞch vô cung cÊp ®iÖn, níc, dÞch vô b¶o hiÓm, ng©n hµng còng tõng bíc ph¶i ®îc ®æi míi.
b- §Çu t tõ NSNN t¸c ®éng tíi vèn ®Çu t trùc tiÕp tõ níc ngoµi
Vèn ®Çu t tõ NSNN t¸c ®éng tíi ®Çu t trùc tiÕp cña níc ngoµi chñ yÕu th«ng qua viÖc dïng vèn nµy ®Çu t vµo n©ng cÊp, x©y dùng c¬ së h¹ tÇng thu hót vèn níc ngoµi. Bëi trong c¸c yÕu tè ®Ó khuyÕn khÝch ®Çu t trong dµi h¹n th× yÕu tè c¬ së h¹ tÇng kÜ thuËt lµ mét nÒn t¶ng quan träng ®Ó ph¸t triÓn s¶n xuÊt thuËn lîi. C¸c yÕu tè nµy bao gåm c¬ së h¹ tÇng chung cña x· héi nh ®êng quèc lé, ®êng giao th«ng quan träng ®Ó nèi kÕt c¸c vïng kinh tÕ, c¸c khu c«ng nghiÖp, c¬ së h¹ tÇng trong vµ ngoµi khu c«ng nghiÖp, khu chÕ xuÊt. §èi víi c¸c vïng xa trung t©m, xa c¸c thµnh phè lín, c¸c tØnh cã c¬ së h¹ tÇng cßn yÕu kÐm th× viÖc ph¸t triÓn c¬ së h¹ tÇng lµ ®iÒu kiÖn tiªn quyÕt ®Ó thu hót vèn ®Çu t FDI.
Song song víi viÖc dïng vèn NSNN x©y dùng c¸c c¬ së vËt chÊt h¹ tÇng kÜ thuËt th× x©y dùng c¬ së h¹ tÇng x· héi, ®µo t¹o nguån nh©n lùc tõ NSNN chÝnh lµ mét trong nh÷ng chiÕn lîc lín ®Ó thùc hiÖn thµnh c«ng sù nghiÖp C«ng nghiÖp ho¸ ë ViÖt Nam. §èi víi viÖc thu hót vèn ®Çu t FDI ®©y lµ lîi thÕ so s¸nh ®éng cña ViÖt Nam trong t¬ng lai. HiÖn t¹i ViÖt ®ang cã lîi thÕ vÒ lao ®éng rÎ nhng chñ yÕu lµ lao ®éng cha ®îc ®µo t¹o tõ khu vùc n«ng th«n. Níc ta cã kho¶ng 30 triÖu lao ®éng n«ng nghiÖp, chiÕm kho¶ng 75% trong tæng 41 triÖu lao ®éng trong c¶ níc. Sè lao ®éng nµy qu¸ d thõa so víi tæng diÖn tÝch ®Êt canh t¸c 7 triÖu ha. Kinh nghiÖm cho biÕt víi diÖn tÝch ®Êt canh t¸c trªn chØ cÇn 8-9 triÖu lao ®éng lµ ®ñ ®¶m b¶o s¶n xuÊt cã hiÖu qu¶, nhng víi ®iÒu kiÖn ViÖt Nam hiÖn nay th× chØ cÇn tèi ®a lµ 15 triÖu lao ®éng lµm viÖc trong n«ng nghiÖp. Nh vËy cßn 15 triÖu lao ®éng d thõa trong n«ng nghiÖp sÏ ®îc chuyÓn sang c¸c ngµnh kh¸c. §©y lµ lùc lîng lao ®éng tiÓm tµng cho c¸c ngµnh c«ng nghiÖp. Nhng ®Ó ®a ®îc mét phÇn nh÷ng lao ®éng nµy vµo lµm viÖc t¹i c¸c ngµnh c«ng nghiÖp cÇn ph¶i cã c¸c biÖn ph¸p ®µo t¹o tay nghÒ.
Lao ®éng rÎ víi tr×nh ®é thÊp ch¾c ch¾n sÏ ®Õn lóc kh«ng cßn lµ ®éng lùc thu hót vèn ®Çu t níc ngoµi vµo ViÖt Nam ®îc n÷a. HiÖn t¹i nhiÒu khu c«ng nghiÖp liªn doanh vµ cã vèn cña níc ngoµi t¹i c¸c ®Þa ph¬ng kh«ng t×m ®îc lao ®éng phï hîp ë chÝnh ®Þa ph¬ng ®ã. §©y chÝnh lµ mét nguyªn nh©n khiÕn cho ®Çu t vµo c¸c ®Þa ph¬ng ë ViÖt Nam cha cao. §iÒu nµy ®Æt ra lµ cÇn t¨ng thªm lîng vèn ®Çu t tõ NSNN ®Ó ®µo t¹o lao ®éng còng nh x©y dùng c¬ së vËt chÊt h¹ tÇng ®Ó t¨ng thªm ®é hÊp dÉn cña m«i trêng ®Çu tiêu dùng cũng như cầu đầu tư thông qua các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng góp vốn, chung sức xây dựng các công trình công cộng phục vụ lợi ích chung của dân cư ngay trên địa bàn, một loạt các chương trình đã được triển khai như kiên cố hóa kênh mương; xây dựng nhà ở; nâng cấp giao thông nông thôn… Chính phủ cũng đã đề ra nhiều giải pháp quan trọng để khuyến khích sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm vốn và việc làm, cụ thể như bổ sung vốn đầu tư vào các công trình quan trong để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng; tăng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm trọng điểm và xuất khẩu…Do đó nhu cầu tiêu dùng và cầu đầu tư từ đó được tăng mạnh. Nếu chính phủ bỏ ra một đồng vốn đầu tư từ NSNN cho phát triển kinh tế thì sẽ làm tăng 0.675421 đồng vốn của khu vực dân cư. Tuy nhiên trong giai đoạn này cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã gây ra tâm lý hoang mang lo sợ đối với các nhà đầu tư trong nước nên nguồn vốn đầu tư này có xu hướng chuyển về tích luỹ dưới dạng ngoại tệ mạnh và kim loại quý làm suy giảm rất nhiều nguồn vốn này. Trung bình trong và sau cuộc khủng hoảng cứ một năm thì vốn đầu tư của khu vực này giảm xuống 4657 tỷ đồng đây thực sự là một vấn đề hết sức khó khăn cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội nói chung và của khu vực dân cư nói riêng. Trọng trách của chính phủ trong thời gian này hết sức nặng nề, phải tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, đảm bảo, có sức hút trở lại không những đối với những nhà đầu tư trong nước mà còn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Muốn vậy không những hệ thống luật pháp của nước ta phải đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế mà cơ sở hạ tầng cũng cần phải được đảm bảo, các hoạt động dịch vụ thương mại như dịch vụ cung cấp điện, nước, dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng cũng từng bước phải được đổi mới.
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỦ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN
1. Những tồn tại trong đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện đầu tư của Ngân sách Nhà nước tới tăng trưởng kinh tế thì đầu tư từ Ngân sách Nhà nước của Việt Nam còn những mặt hạn chế sau:
a. Về chính sách huy động vốn:
Để đáp ứng mục tiêu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, trong 13 năm (1991-2003) Ngân sách Nhà nước đã chi trên 133900 tỷ đồng, Năm 2004 tổng thu đạt 171300 tỷ đồng, tổng chi 182875 tỷ đồng. Bội chi Ngân sách là 11575 tỷ đồng, số thiếu hụt phải xử lý bằng vay trong nước và nước ngoài. Nhìn qua số liệu thấy bội chi Ngân sách là rất lớn, đó là nguy cơ tiềm ẩn; Nếu đầu tư kém hiệu quả, vay nợ nước ngoài càng tăng thì chẳng những không tăng trưởng kinh tế vững chắc, mà còn là gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau này. Thực tế này đáng là một báo động, cần hết sức được quan tâm trong việc điều hành kinh tế.
b. Về sử dụng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước:
Hiệu quả đầu tư nói chung có xu hướng giảm sút không chỉ ở cấp độ toàn bộ nền kinh tế mà còn diễn ra ở cấp ngành và cấp cơ sở. Nguyên nhân cơ bản là do cơ cấu đầu tư nói chung và cơ cấu đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước nói riêng theo ngành chưa hợp lý.
* Trong nông nghiệp:
Vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước chỉ tập trung vào các công trình thuỷ lợi, phục vụ mục tiêu tăng sản lượng cho cây lúa mà chưa đầu tư đúng mức vào khoa học công nghệ trong nông nghiệp, nhất là giống mới về cây con và công nghiệp chế biến bảo quản nông sản. Đầu tư vào nghề rừng, nghề cá thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả thấp, giá thành phẩm cao, chất lượng kém làm cho khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới thấp. Chủ trương của Đảng ta là công nghiệp hoá nông nghiệp, thị trường hoá nông thôn, từng bước xoá đói giảm nghèo, nhưng chính sách đầu tư chưa hướng tới mục tiêu này; Bởi lẽ, với cách đầu tư để tăng sản lượng như hiện nay thì may chăng chỉ xoá được đói, chứ chưa thể giảm được nghèo. Để giảm được nghèo thì điều kiện cần thiết là phải thay đổi cơ cấu đầu tư trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ, khi đó mới có thể tham gia vào cạnh tranh với thị trường thế giới.
* Trong công nghiệp:
Thực tế đầu tư cho lĩnh vực này vẫn mang tính chắp vá, giải quyết những khó khăn nhất thời mà chưa thể hiện một chiến lược phát triển thực sự của ngành, trình độ công nghệ trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước nói chung rất lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ, lỗi thời, hiện tượng đầu tư theo phong trào bằng vốn Ngân sách Nhà nước là khá phổ biến và kéo dài, làm giảm hiệu quả, gây khó khăn cho nền kinh tế trong việc xử lý hậu quả.
* Trong lĩnh vực dịch vụ:
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mở cửa như hiện nay, hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng diễn ra sôi động và phức tạp hơn thì hoạt động dịch vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay thì vấn đề nhận thức về tầm quan trọng cũng như vai trò của dịch vụ còn chưa được thoả đáng, chúng ta mới chỉ tập trung chú ý tới việc vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư vào một số khâu của lĩnh vực này như: giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc... mà gần như bỏ trống một số hoạt động dịch vụ khác như: Ngân hàng, bảo hiểm, kế toán… Do đó, việc bố trí và phân bổ vốn đầu tư từ Ngân sách cho lĩnh vực này hợp lý là điều kiện hết sức cần thiết.
* Trong đầu tư kết cấu hạ tầng:
Nét hạn chế nổi bật trong khâu này là chưa bám sát các mục tiêu quan trọng của nền kinh tế dẫn tới hậu quả là: đầu tư dàn trải, tiến độ kéo dài, vốn nằm chờ công trình… diễn ra khá phổ biến và lặp đi, lặp lại nhiều năm ở nhiều Bộ, ngành, địa phương. Năm 1997 cả nước có khoảng 6000 dự án, năm 1998 còn 5000 dự án, năm 1999 còn 4000 dự án nhưng năm 2000 lại có tới 5300 dự án được đầu tư bằng vốn Ngân sách Nhà nước. Nguyên nhân của tình trạng này là do người được quyết định đầu tư các dự án D, C tách rời người lo vốn; Nếu có cơ chế gắn kết quyền hạn và trách nhiệm lại thì tình hình hẳn là khác hoàn toàn. Ngoài ra, khâu xét duyệt đầu tư, giải phóng mặt bằng, đấu thấu đang là một vấn đề hết sức bức xúc.
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước tại Việt Nam:
a. Về kết cấu Ngân sách Nhà nước:
* Thu Ngân sách Nhà nước duy trì ở mức 21 - 22%GDP. Chính sách thu Ngân sách phải giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội, đảm bảo nguồn lực tài chính để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ vững quốc phòng, an ninh, điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô và thực hiện chính sách xã hội; Đồng thời, giải phóng nội lực, tạo động lực thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Các giải pháp cụ thể là:
- Từng bước mở rộng và khai thác nguồn thu cho Ngân sách, tăng cường chống thất thu Ngân sách, đặc biệt là chống thất thu về thuế và phí.
- Tiếp tục kiện toàn hệ thống chính sách thuế theo hướng giảm số lượng thuế suất, hạn chế ưu đãi và miễn giảm thuế, mở rộng phạm vi và đối tượng nộp thuế, thực hiện công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp; Điều chỉnh cơ cấu các sắc thuế và thuế suất phù hợp với yêu cầu phát triển, hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế, nâng dần tỷ trọng thuế trực thu theo những bước đi thích hợp, nghiên cứu, triển khai áp dụng thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản.
- Mở rộng các hình thức thu nộp các khoản thu Ngân sách Nhà nước trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước, đề cao vai trò kiểm tra và kiểm soát thu Ngân sách Nhà nước của cơ quan thuế, hải quan và Kho bạc Nhà nước.
* Đổi mới và hoàn thiện cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phân bổ sử dụng Ngân sách Nhà nước phải cân nhắc phối hợp với các nguyên tắc tài chính của toàn xã hội, để đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Các giải pháp cụ thể là:
- Trong thời gian tới, chi Ngân sách Nhà nước cần tập trung vào 3 mục tiêu lớn:
+ Đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp nhưng có vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mở rộng thị trường.
+ Hỗ trợ đầu tư để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch lao định theo hướng CNH - HĐH và khuyến khích xuất khẩu.
+ Ưu tiên hợp lý chi Ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ, xoá đói giảm nghèo.
- Tiếp tục nâng tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi Ngân sách Nhà nước, trong đó giảm vốn cấp phát và tăng vốn tín dụng Nhà nước lên khoảng 40 - 50% tổng chi đầu tư phát triển từ khu vực Nhà nước.
* Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành Ngân sách Nhà nước.
Cụ thể là:
- Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước theo hướng tăng cường hơn nữa quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý và phân bổ Ngân sách, tạo thế tự chủ hơn nữa cho Ngân sách địa phương.
- Nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn định mức, chế độ chi Ngân sách Nhà nước làm cơ sở để xây dựng dự toán và kiểm tra, kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước một cách có hiệu quả.
- Cải tiến dần từng bước quy trình lập dự toán, thực hiện dự toán Ngân sách theo hướng giảm bớt các đầu mối trung gian và tránh chồng chéo. Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ công khai tài chính ở tất cả các cấp Ngân sách và các đơn vị dự toán Ngân sách.
* Duy trì bội chi Ngân sách Nhà nước ở mức hợp lý:
Để đáp ứng nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội với quy mô lớn trong những năm tới (như thuỷ điện Sơn La, Đường Hồ Chí Minh…) Ngân sách Nhà nước phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Trong điều kiện nguồn thu và tích luỹ của Ngân sách có hạn, thì việc sử dụng nguồn bội chi Ngân sách Nhà nước (vay trong nước và ODA) cho đầu tư là tất yếu. Nên “Tiếp tục duy trì chính sách tài khoá có bội chi… ở mức thâm hụt Ngân sách trong giới hạn hợp lý”. Mức bội chi Ngân sách chỉ được coi là hợp lý khi nó dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả và được giải quyết tốt trong mối quan hệ: Đầu tư - tăng trưởng - có nguồn thu - trả nợ được. Trong mối quan hệ này, hiệu quả và tăng trưởng là mục tiêu, còn mức bội chi bao nhiêu chỉ là phương tiện để đạt tới mục tiêu đó, không nên quy định mức bội chi ở một tỷ lệ cứng nhắc, mà nên căn cứ vào nhu cầu và khả năng hiệu quả do đầu tư mang lại. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn tài chính, đề phòng nguy cơ lạm phát, thì giới hạn mức bội chi không vượt quá tỷ lệ tăng trưởng GDP.
b. Về chính sách và cơ cấu quản lý vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước:
Như trên đã nêu, do yêu cầu phát triển của nền kinh tế, Việt Nam cần phải có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. Để đáp ứng được nhu cầu trên thì hàng năm Ngân sách Nhà nước phải dành một số vốn đầu tư khá lớn, khoảng trên dưới 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội để đầu tư vào mục tiêu này. Điều đáng lưu ý là khoảng 60 - 70% số vốn đầu tư đó được hình thành từ nguồn vay trong nước và ODA, nhưng đáng tiếc là việc sử dụng nguồn vốn này chưa đạt được hiệu quả mong muốn, tình trạng này nếu kéo dài sẽ gây bất lợi cho nền kinh tế. Để chấn chỉnh tình hình trên, trong vòng 13 năm nay Nhà nước đã nhiều lần ban hành các nghị định để thay thế hoặc sửa đổi bổ sung điều lệ quản lý đầu tư và xây dung. Tuy nhiên, những tồn tại cũ trong đầu tư hàng năm vẫn kéo dài, lặp đi lặp lại. Để giải quyết tình trạng trên, cần có biện pháp sắp xếp lại về mặt tổ chức và điều hành bằng các giải pháp cụ thể sau:
* Về công tác quy hoạch: Cần đặc biệt coi trọng công tác quy hoạch ngành và lãnh thổ, tăng cường giám sát, nghiệm thu chất lượng của khâu này, thực hiện quy hoạch đi trước một bước, kiên quyết loại trừ những dự án đầu tư không nằm trong quy hoạch hoặc chưa rõ ràng về quy hoạch.
* Về công tác kế hoạch hoá: Cần tổng kết, đánh giá và cải tiến cơ bản phương pháp lập kế hoạch, phân bổ vốn và điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng:
- Để tránh thi công kéo dài, đảm bảo đầu tư tập trung dứt điểm thì chỉ ghi vào kế hoạch năm những dự án đã thực sự hoàn thành khâu chuẩn bị đầu tư (lập báo cáo nghiên cứu khả thi) và một số khâu quan trọng nhất trong chuẩn bị thực hiện đầu tư, bao gồm hoàn thành giải phóng mặt bằng và đấu thầu, nhằm giải ngân nhanh, tránh tình trạng vốn chờ công trình.
- Trong việc bố trí vốn đầu tư: Tránh tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, kếo dài, cần kiên quyết thực hiện nguyên tắc mở rộng phân cấp, đồng thời nâng cao trách nhiệm và tự chịu trách nhiệm của các cấp trên chủ đầu tư trong việc phân bổ đầu tư. Nhà nước chỉ kiểm tra, khống chế những quy định chung như dự án nhóm C không quá 2 năm.
- Về phương thức cấp phát vốn đầu tư tránh tình trạng ứ đọng vốn đầu tư ở hệ thống Kho bạc Nhà nước, cần nghiên cứu áp dụng đại trà việc chuyển hình thức cấp phát từ “lệnh chi” sang hình thức “hạn mức”.
- Đối với dự án hoàn thành đưa vào sử dụng cần dứt điểm khâu quyết toán và thẩm tra quyết toán. Lực lượng chính để đảm nhận việc này là các công ty kiểm toán độc lập. Các công ty này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và kết quả thẩm tra quyết toán. Ngành tài chính có chức năng kiểm tra. Bên cạnh đó cần quy định chế tài đối với chủ đầu tư khi quyết toán chậm so với quy định.
- Về mặt tổ chức bộ máy: Cần tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục xét duyệt rườm rà, tránh chồng chéo trong quản lý giữa các cơ quan trong một bộ, tăng cường kiểm tra và đề cao trách nhiệm trong từng khâu công việc quản lý.
* Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, đổi mới hoàn thiện chính sách, cơ chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư, rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh, bổ sung các quy định không còn phù hợp hoặc thiếu minh bạch, rõ ràng. Ban hành mới các luật để điều chỉnh, lành mạnh hoá nền kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế
KẾT LUẬN
Qua phân tích ở trên cho thấy khu vực kinh tế Nhà nước hiện còn đóng một vai trò rất lớn trong tăng trưởng kinh tế. chúng ta đã phân tích được ảnh hưởng của nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước tới quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy tác động trực tiếp tới nền kinh tế chưa nhiều song nó có tác dụng kích thích tới các nhân tố khác, tạo hành lang cho các thành phần kinh tế khác hoạt động thuận lợi hơn và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế phát triển
Giáo trình kế hoạch hóa phát triển
Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội năm 2006 – 2010
Webside bộ kế hoạch đầu tư
Webside tổng cục thống kê
Qui hoạch chiến lược phát triển ngành.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế và giải pháp nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nư.DOC