Đề tài Phân tích báo cáo tài chính acb giai đoạn 2008 - 2012

Qua phân tích báo cáo tài chính giai đoạn 2008-2012 của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần ACB có thể nhận thấy: ACB là 1 ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, chất lượng tài sản được quản lí khá tốt, thanh khoản đảm bảo, tốc độ tăng trưởng ổn định, hoạt động hiệu quả, thu nhập tăng đều qua các năm. Giai đoạn 2008 – 2012 kinh tế trong nước gặp nhiều biến động bất lợi do chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên cũng phần nào tác động đến hoạt động của ACB cũng như toàn hệ thống ngân hàng. Tuy có sự giảm sút trong các chỉ tiêu lợi nhuận ROE , ROA và tỷ lệ nợ xấu gia tăng nhưng các chỉ số n ày vẫn nằm trong hàng top của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Điều đó khẳng định được uy tín và thương hiệu của ACB trong ngành nhưng có phải lúc nào hoạt động của ACB cũng xuôi chèo mát máy. Năm 2012 là 1 năm hoạt động đầy sóng gió của ACB khi ngân hàng hàng này để liên tiếp các vụ bê bối xảy ra liên quan đến pháp luật. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2012 sụt giảm nghiêm trọng là điều tất yếu . Cuộc khủng hoảng của ACB có nguyên nhân sâu xa từ việc quản trị , giám sát hoạt động của ngân hàng không chặt chẽ và được bùng nổ sau vụ ông Nguyễn Đức Kiên. Sự kiện mà có lẽ giới đầu tư cũng như các cổ đông của ACB có lẽ không bao giờ quên hôm 21/08/2013 đă khiến giá gần như tất cả các cổ phiếu trên cả hai sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội đồng loạt giảm sàn , bất kể tốt xấu

pdf39 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4863 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích báo cáo tài chính acb giai đoạn 2008 - 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhưng về cơ bản, tổng đầu tư vẫn ở mức cao (khoảng 40% GDP) do chi tiêu của Chính phủ vẫn còn lớn (khoảng 30% GDP). Ngoài ra, do tỷ lệ tiết kiệm nội địa không tăng trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giảm nên trong giai đoạn lạm phát và thâm hụt thương mại ở mức cao cùng người người dân tích trữ USD, tình trạng căng thẳng về ngoại tệ vẫn chưa được giải quyết triệt để. Bên cạnh đó, hệ thống tài chính của Việt Nam còn phải chịu một số cú sốc về giá vàng tăng, thúc đẩy người dân rút tiền khỏi hệ thống ngân hang để mua vàng và gây sức GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 3 ép lên tỷ giá hối đoái. 1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Có sự nhất quán trong điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm mục tiêu duy trì đà tăng trưởng. Mặc dù mục tiêu ổn định giá cả được tuyên bố là mục tiêu ưu tiên trong luật NHNN nhưng lựa chọn cuối cùng luôn là vấn đề tăng trưởng. Có thể nhìn thấy điều này cả trong giai đoạn kiềm chế lạm phát năm 2008, giai đoạn kích cầu năm 2009-2010 và cả giai đoạn thực hiện nghị quyết 11 tập trung ổn định vĩ mô năm 2011. Các chính sách thực hiện trong các giai đoạn 1.2.1 Giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô sau khủng hoảng. Từ đầu năm 2008, NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát - Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn; - Phát hành bắt buộc 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín phiếu NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN; - Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12 rồi 14%. Hệ thống lãi suất điều hành gồm cặp lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13% - Khống chế mức tín dụng và yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản… - Cùng với CSTT, chính sách cắt giảm chi tiêu công cũng được đặt ra thông qua chủ trương rà soát, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách, các dự án có khả năng đưa vào sử dụng trong năm 2008, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên. 1.2.2 Giai đoạn kích cầu 2009. Từ cuối 2008, CSTT lại hướng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm đối phó với suy thoái kinh tế trong nước và khủng hoảng kinh tế thế giới thông qua các công cụ: - Triển khai thực hiện cơ chế hổ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng cung tiền - Hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn xuống 7,5% và 9,5% - Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền đồng xuống còn 5% - Thực hiện thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Nghiệp vụ thị GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 4 trường mở chủ yếu là mua giấy tờ có giá để cung ứng thêm tiền; - Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong suốt năm 2009, tăng lên 8% vào 11/2009 1.2.3 Giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mô thận trọng nhằm ổn định và duy trì mục tiêu tăng trưởng năm 2010. Kiềm chế mức lạm phát khoảng 7% và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng khoảng 6,5%.Xem xét và nâng cao tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng theo thông tư 13 và thông tư 19/2010/NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD đã thệ hiện một động thái tích cực của NHNN nhằm hạn chế việc cung ứng tín dụng quá năng lực dự phòng rủi ro và đảm bảo an toàn của từng ngân hang và hệ thống. Tuy nhiên, nửa đầu 2010, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng chỉ có hơn 10% và bị chỉ trích chính sách tiền tệ quá chặt chẽ, kiềm chế tăng trưởng. Trong giai đoạn 6 tháng cuối năm đã thực hiện giải pháp nới rộng cung tiền và CSTK cũng theo đuổi mục tiêu nới rộng tổng cầu trong suốt năm 2010 nhằm kích thích tăng trưởng. 1.2.4 Giai đoạn ưu tiên vĩ mô, kiềm chế lạm phát 2011-2012 -Tuyên bố mục tiêu vĩ mô và cam kết và thục hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát thể hiện sự nhất quán cao trong tư tưởng chỉ đạo của chính phủ theo nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011. Theo đó, cả CSTT và CSTK đều được yêu cầu sử dụng triệt để các công cụ chính sách nhằm ưu tiên kiềm chế lạm phát. CSTT một lần nữa quay lại thực hiện thắt chặt với mục tiêu trung gian gồm dư nợ tín dụng dưới 16%. -Thực hiện CSTK thắt chặt, giảm chi thiêu công được đưa ra khá quyết liệt. -Năm 2012 đã chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang thúc đẩy phục hồi kinh tế, sử dụng CSTT cho năm 2012. Cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất trần xuống 11%, liên tiếp hạ lãi suất chỉ đạo, áp trần lãi suất 15% rồi giảm xuống 14%. Cơ cấu lại nợ và các giải pháp khác tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc quy định nới rộng tín dụng cho khu vực bất động sản với mục đích thúc đảy sản xuất các ngành vật liệu xây dựng và giải phóng các khoản nợ đọng của ngân hang trong tài sản đảm bảo là bất động sản. 1.3 Đặc điểm hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn 2008 – 2012: Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động rất tiêu cực đến kinh tế nước ta. Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Ngân hàng GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 5 Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2011, 2012. Mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu Có thể nói rằng, vốn chủ sở hữu của một NHTM là thước đo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cũng như tỷ lệ đòn bẩy tài chính. Vốn chủ sở hữu thấp dẫn đến rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng khi nợ xấu phát sinh tăng vượt quá quy mô vốn chủ sở hữu. Trong trường hợp như vậy, vốn chủ sở hữu đã bị ăn mòn hết. Hậu quả là ngân hàng rất dễ bị tổn thương và nguy cơ phá sản rất cao. Để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn theo thông lệ Basel II, NHNN đã yêu cầu các NHTMCP tăng vốn điều lệ từ 70 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng bắt đầu thực hiện từ năm 2007 và hạn chót là hết năm 2011. Chính vì vậy, vốn chủ sở hữu của các nhóm ngân hàng cũng được mở rộng tương ứng bởi vì vốn điều lệ là thành phần chính của vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu của NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh từ năm 2008 đến 2011 (Biểu đồ 1) là nhờ có nguồn vốn thặng dư từ cổ phiếu, lợi nhuận tăng trưởng cao trong giai đoạn này đãkéo theo quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và lợi nhuận giữlại tăng lên. Các ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài có mức tăng trưởng vốn chủ sở hữu chậm hơn là do không có phần thặng dư vốn cổ phần. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của 2 nhóm NHTMCP và ngân hàng nước ngoài giảm nhẹ năm 2012 so với năm 2011; trong khi vốn chủ sở hữu của các NHTMNN vẫn tăng. Sự sụt giảm vốn chủ sở hữu của 2 nhóm ngân hàng trên trong năm 2012 là do nợ xấu phát sinh tăng, nguồn lợi nhuận chưa phân phối của năm 2011 sẽ được kết chuyển cho mục đích trích lập dự phòng rủi ro để giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an toàn và làm trong sạch bảng tổng kết tài sản hơn. Nếu tăng vốn chủ sở hữu theo phương pháp cơ học thông qua phát hành cổ phiếu hàng năm và trích dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5% từ nguồn lợi nhuận để lại, quy mô tăng vốn chủ sở hữu rất chậm. Cụ thể, tỷ lệ tăng trưởng vốn bình quân của khu vực NHTMCP giai đoạn 2008-2012 là 20%, trong khi khu vực ngân hàng nước ngoài là 46% và khu vực NHTMNN là 25%. Tăng vốn theo hình thức này sẽ có giới hạn nhất định bởi lợi nhuận không thể tăng trưởng vô hạn. Giải pháp để tăng trưởng nhanh hơn là lựa chọn hình thức mua, bán, sáp nhập với các TCTD khác. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 6 Sự thay đổi tổng tài sản giữa các khối ngân hàng Sự thay đổi lớn của nhóm NHTMCP từ năm 2007 đã tạo ra sự chuyển dịch khác nhau về tổng tài sản giữa các khối. Sự chuyển đổi của một số NHTMCP trước đây chỉ hoạt động tại một khu vực nông thôn với địa bàn hẹp sang hoạt động trên phạm vi cả nước như NHTMCP Bưu điện Liên Việt, NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội, NTHMCP Tiên Phong… đã góp phần làm cho tổng tài sản của các NHTMCP tăng vọt từ năm 2008 đến năm 2011 với mức tăng trưởng bình quân lên tới 46%, trong khi các NHTMNN chỉ tăng ở mức 29% và ngân hàng nước ngoài ở mức 30%. Diễn biến tổng tài sản của 3 khối ngân hàng trong giai đoạn 2008-2012 (Biểu đồ 2) cho thấy xu hướng cũng tương đồng với xu hướng dịch chuyển của vốn chủ sở hữu. Tổng tài sản của khối NHTMNN tăng trưởng ổn định trong cả giai đoạn, trong khi khối NHTMCP sụt giảm tổng tài sản đến cuối năm 2012. Tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài cũng theo xu hướng của NHTMCP, giảm nhẹ đến cuối năm 2012. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 7 Tổng tài sản của 2 khối NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh trong giai đoạn 2008-2011 là do quy mô hoạt động của nhiều ngân hàng được mở rộng, thặng dư cổ phiếu sau đợt IPO ra công chúng từ 3 NHTMNN hoặc phát hành thêm cổ phiếu hoặc gia tăng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận của các NHTMCP. Nguyên nhân quan trọng hơn cả giải thích sự tăng trưởng nhanh tổng tài sản của 2 khối NHTMNN vàNHTMCP là sự bùng nổ mạng lưới chi nhánh của một số ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, ACB, Sacombank, Techcombank đã dẫn đến tốc độ tăng trưởng vượt bậc về huy động vốn, khai thác hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Quy mô tổng tài sản của các ngân hàng nước ngoài tăng trưởng chậm một phần do quy mô mạng lưới phát triển chậm so với NHTMNN và NHTMCP, một phần là do người gửi tiết kiệm chưa tiếp cận với nhóm ngân hàng này mặc dù họ có rất nhiều chương trình marketing, khuyến mại để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư. Năm 2012, tổng tài sản của khu vực NHTMNN vẫn tăng trưởng cao hơn so với năm 2011, trong khi hai khu vực NHTMCP và ngân hàng nước ngoài giảm sút. Nguyên nhân tổng tài sản của khu vực NHTMNN tăng một phần có sự đóng góp không nhỏ của việc Vietcombank bán 15% vốn cổ phần cho ngân hàng Mizuho của Nhật Bản, tương đương 11.800 tỷ đồng với thặng dư vốn cổ phần lên tới hơn 8.300 tỷ đồng. Huy động vốn của các khối ngân hàng: Khoảng cách huy động vốn thu hẹp giữa khối NHTMNN và NHTMCP GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 8 Huy động vốn từ nền kinh tế của 3 khối ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ ràng, đặc biệt là 2 khối NHTMNN và NHTMCP. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân của khu vực NHTMCP tăng 33%/năm trong giai đoạn 2008-2012, trong khi NHTMNN chỉ tăng trung bình 18% và ngân hàng nước ngoài tăng 20%. Nhờ tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao nên khoảng cách số dư huy động giữa hai khu vực NHTMNN và ngân hàng nước ngoài giảm rất nhiều, tiệm cận ngay từ năm 2010. Huy động vốn của khu vực NHTMCP có bước tăng đột biến trong 3 năm từ 2009-2011 là do giai đoạn này các NHTMCP vẫn được quyền sử dụng công cụ lãi suất để cạnh tranh huy động vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng huy động vốn năm 2012 của NHTMCP chững lại trong khi nhóm NHTMNN có tốc độ tăng cao hơn hẳn nhóm NHTMCP. Điều này một phần do tác động của chính sách trần lãi suất huy động cũng như giới hạn tín dụng của NHNN. Trần lãi suất huy động khiến nhiều người lựa chọn ngân hàng có uy tín gửi tiền thay vì lựa chọn ngân hàng có mức lãi suất cao hơn. Hạn mức tín dụng cũng làm xoa dịu sức ép nhu cầu vốn của nhiều ngân hàng, đặc biệt các ngân hàng sử dụng tối đa nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay. Huy động vốn của khu vực NHTMNN tăng nhanh hơn trong năm 2012 so với hai khu vực kia là do sự cố tại một sốNHTMCP. Thông tin về sự dịch chuyển nhân sự tại các NHTMCP hàng đầu tại Việt Nam như: ACB, Sacombank và Eximbank đã tạo ra những tin đồn về mất khả năng thanh khoản tại các ngân hàng này. Hậu quả là một lượng tiền lớn được rút ra trong một một thời gian ngắn tại các ngân hàng này vàđược chuyển tới các GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 9 NHTMNN. Các ngân hàng nước ngoài có tốc độ tăng trưởng huy động vốn cũng theo xu hướng chung của nền kinh tế. Khi chính sách tiền tệ được thắt chặt để kiểm soát lạm phát từ cuối năm 2011, tốc độc tăng trưởng huy động vốn của khối ngân hàng nhà nước đã chững lại trong năm 2012. Tuy nhiên, quy mô huy động vốn giữa ba khu vực ngân hàng đã có sự thay đổi lớn từ năm 2008 đến 2011. Nếu số dư huy động vốn năm 2008 giữa NHTMCP và ngân hàng nước ngoài chỉ chênh lệch khoảng hơn 300 nghìn tỷ đồng thì sự chênh lệch giữa hai nhóm đến cuối năm 2012 đã kéo rộng tới hơn 3,5 lần, tương đương với mức chênh lệch hơn 1,1 nghìn tỷ đồng. Như vậy, sự chênh lệch này cho thấy các NHTMCP đã rất nỗ lực trong việc thực hiện chính sách giá, chăm sóc khách hàng và mở rộng quy mô hoạt động. Điều này đồng nghĩa với việc các NHTMCP có đủ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có lợi thế hơn về kinh nghiệm quản lý, công nghệ và sự phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ. Ngược lại, khoảng cách huy động vốn giữa nhóm NHTMNN và NHTMCP đã thu hẹp đáng kểtừnăm 2008 đến 2012. Nếu khoảng cách giữa 2 nhóm ngân hàng này là trên 300 nghìn tỷ năm 2008 thì khoảng cách đó đã thu hẹp xuống dưới 60 nghìn tỷ năm 2012. Điều này khẳng định sựnỗlực của các NHTMCP trong việc mởrộng thịphần huy động vốn nhằm tiến tới giảm sự phục thuộc nguồn vốn từ các NHTMNN cũng như tự chủ hơn nữa trong quản trị thanh khoản. Hoạt động tín dụng dịch chuyển về tỷ trọng: Nếu khoảng cách về số dư huy động vốn có sự thay đổi mạnh mẽ trong vòng 4 năm qua thì dư nợ của các nhóm ngân hàng này cũng có sự dịch chuyển nhưng chưa nhiều. Biểu đồ 4 mô tả tín dụng của 3 khu vực này với tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất trong 2 năm 2009-2010 thuộc về nhóm NHTMCP. Đây cũng chính lànhững năm tăng trưởng tín dụng nóng dẫn đến lạm phát bùng nổ năm 2011 lên tới hơn 18%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 và2012 đã chững lại do NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua kênh lãi suất (trần lãi suất huy động) và thông qua kênh tín dụng (hạn mức tăng trưởng tín dụng vàhạn mức tín dụng thắt chặt cho một số ngành không khuyến khích) đã chặn đà tốc độ tăng trưởng tín dụng. Kết quả là tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 và2012 của cả 3 nhóm ngân hàng đều chững lại. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 10 Các ngân hàng nước ngoài đã được phép huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư nhưng tốc độ tăng trưởng huy động vốn tương đối thấp hơn so với 2 nhóm ngân hàng nên đã hạn chế cho vay của các ngân hàng này. Một lý do khác giải thích cho sự chênh lệch giữa 2 nhóm NHTMCP và ngân hàng nước ngoài nới rộng ra làcác NHTMCP có thể đẩy mạnh cho vay các khu vực tăng trưởng kinh tế nóng như lĩnh vực bất động sản trong giai đoạn 2007-2010. Khoảng cách này đã nới rộng đến 4 lần từ năm 2008 đến 2009. Tuy nhiên, lý do cũng có thể là sự đầu tư an toàn của các ngân hàng nước ngoài nhằm hạn chế rủi ro tín dụng (vì kinh nghiệm và bài học của họ trải qua ở các nền kinh tế phát triển như ở Mỹ năm 2007-2008 hay ở Nhật Bản trong những năm đầu 1990). Xu hướng cạnh tranh mới: Các chỉ số chính vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, huy động vốn và cấp tín dụng cho nền kinh tế đã thấy rõ sự thay đổi. NHTMCP đã khẳng định vị thế, thị phần khi tăng trưởng trung bình luôn cao hơn hai khối NHTMNN và ngân hàng nước ngoài. Vị thế cạnh tranh và quyền lực thị trường của khu vực NHTMCP sẽ tiếp tục được cải thiện trong thời gian tới vì đã có sự thay đổi lớn trong khối này. NHTMCP Liên Việt hợp nhất với Công ty tiết kiệm Bưu điện sẽ có lợi thế phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ thông qua việc khai thác gần 10.000 điểm giao dịch tiết kiệm trải rộng trên cả nước. NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội hợp nhất với NHTMCP Nhà Hà Nội tạo ra NHTMCP với quy mô rộng lớn, mở rộng thị phần GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 11 và nâng cao quyền lực thị trường. Hàng loạt sự sáp nhập hoặc cấu trúc lại của các NHTMCP Phương Tây, Đại Á, Tiên Phong, Dầu khí toàn cầu cũng củng cố năng lực cạnh tranh của khu vực này. Một điểm nổi bật là thời gian tới sẽ là sự sáp nhập của 2 ngân hàng lớn của khu vực NHTMCP là Eximbank và Sacombank. Quy mô hoạt động của hai ngân hàng này sau sáp nhập sẽ tiến sát quy mô của Vietcombank. Theo báo cáo tài chính riêng lẻ, tổng tài sản của Sacombank và Eximbank đến hết năm 2012 đạt 321.483 tỷ đồng, trong khi của Vietcombank đạt 414 tỷ đồng (trong đó có 118.000 tỷ từ phát hành cổ phiếu cho Mizuho). Tương tự như vậy, tín dụng của hai ngân hàng đạt 167.591 tỷ đồng và huy động vốn 177.603 tỷ đồng, trong khi của Vietcombank lần lượt là 239.773 tỷ đồng và 285.096 tỷ đồng. Như vậy, xu hướng cạnh tranh đang có sự thay đổi lớn, NHTMCP đã tạo được hình ảnh và vị thế nhiều hơn, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, sự lớn mạnh của khu vực NHTMCP sẽ là thách thức khi NHTMNN cũng quyết tâm giữ vững thị phần, trong khi khối ngân hàng nước ngoài đầy tham vọng mở rộng thị phần để tạo ra nền tảng phát triển bền vững và nâng cao sức mạnh của các hoạt động liên quan đến đồng nội tệ thay vì chỉ khai thác lợi thế từ hoạt động liên quan đến ngoại tệ như trước đây. II. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ACB 1.2 Hình thành và quá trình phát triển ACB Ra đời vào năm 1993, đến nay ngân hàng ACB đã có bề dày 20 năm thành lập và phát triển.Từ những ngày đầu thành lập, ngân hàng đã xác định trở thành NHTMCP bán lẻ hàng đầu Việt Nam với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.1.1 Thông tin chung của Ngân hàng ACB • Ngày thành lập: 13/5/1993 (theo giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. HCM cấp). • Ngày chính thức đi vào hoạt động: 04/06/1993. • Mã chứng khoán: ACB. • Ngày niêm yết: 31/10/2006 theo Quyết định số 21/QĐ-TTGDHN. • Vốn điều lệ: 9.376.965.060.000 đồng (31/12/2012). GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 12 2.1.2 Quá trình phát triển của Ngân hàng ACB Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tóm tắt lại một số diễn biến giai đoạn gắn liền với quá trình phát triển 20 năm qua của Ngân hàng ACB. • Giai đoạn 1993 - 1995: Đây là giai đoạn hình thành ACB. Những người sáng lập ACB có năng lực tài chính, học thức và kinh nghiệm thương trường, cùng chia sẻ một nguyên tắc kinh doanh là “quản lý sự phát triển của doanh nghiệp an toàn, hiệu quả” và đó là chất kết dính tạo sự đoàn kết. Giai đoạn này, xuất phát từ vị thế cạnh tranh, ACB hướng về khách hàng cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực tư nhân, với quan điểm thận trọng trong việc cấp tín dụng, đi vào sản phẩm dịch vụ mới mà thị trường chưa có (cho vay tiêu dùng, dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, thẻ tín dụng). • Giai đoạn 1996 - 2000: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam phát hành thẻ tín dụng quốc tế MasterCard và Visa. Năm 1997, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại theo một chương trình đào tạo toàn diện kéo dài hai năm, do các giảng viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua chương trình này, ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành của một ngân hàng hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện Việt Nam. Năm 1999, ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng hệ thống mạng diện rộng nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động giao dịch. Cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau, giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập trung. Năm 2000, ACB đã thực hiện tái cấu trúc như là một bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Việc tái cấu trúc nhằm đảm bảo sự chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống, sản phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù hợp với từng phân đoạn khách hàng, quan tâm đúng mức việc phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro. • Giai đoạn 2001 - 2005: Năm 2003, ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 13 theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực huy động vốn, cho vay ngắn hạn và trung dài hạn, thanh toán quốc tế và cung ứng nguồn lực tại Hội sở. Năm 2005, ACB và Ngân hàng Standard Charterd (SCB) ký kết thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật toàn diện và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. ACB triển khai giai đoạn hai của chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, bao gồm các cấu phần nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân hàng bằng một phần mềm mới có khả năng tích hợp với nền công nghệ lõi hiện có, và lắp đặt hệ thống máy ATM. • Giai đoạn 2006 - 2010: ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vào tháng 11/2006. Năm 2007, ACB đẩy nhanh việc mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập mới 31 chi nhánh và phòng giao dịch, thành lập Công ty Cho thuê tài chính ACB. ACB cũng hợp tác với các đối tác như Open Solutions (OSI) - Thiên Nam để nâng cấp hệ ngân hàng cốt lõi, hợp tác với Microsoft về áp dụng công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý, hợp tác với SCB về phát hành trái phiếu. ACB phát hành 10 triệu cổ phiếu mệnh giá 100 tỷ đồng, với số tiền thu được là hơn 1.800 tỷ đồng. Năm 2008, ACB thành lập mới 75 chi nhánh và phòng giao dịch, hợp tác với American Express về séc du lịch, triển khai dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ JCB. Trong năm này, ACB tăng vốn điều lệ lên 6.355 tỷ đồng. Năm 2009, ACB hoàn thành cơ bản chương trình tái cấu trúc nguồn nhân lực, tái cấu trúc hệ thống kênh phân phối, xây dựng mô hình chi nhánh theo định hướng bán hàng. Tăng thêm 51 chi nhánh và phòng giao dịch. Hệ thống chấm điểm tín dụng đối với khách hàng cá nhân và doanh nghiệp cũng đã hoàn thành và áp dụng chính thức. Hệ thống bàn trợ giúp (help desk) bắt đầu được triển khai. Năm 2010, ACB tập trung vào công tác dự báo tình hình để có các quyết sách phù hợp với từng thời gian cũng như tìm các giải pháp linh hoạt nhằm thực thi nghiêm túc các quyết định của các cơ quan nhà nước, đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động. • Năm 2011: ACB xây dựng chương trình chuyển đổi hệ thống quản trị điều hành trong Định hướng chiến lược và tầm nhìn giai đoạn 2011-2020. ACB đã khánh thành Trung tâm Dữ liệu dạng mô đun tại TPHCM với tổng giá trị đầu tư gần 2 triệu USD. Đây cũng là trung tâm dữ liệu xây dựng theo chuẩn quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Trong năm, ACB đưa vào hoạt động thêm 45 chi nhánh và phòng giao dich. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 14 • Năm 2012: Sự cố tháng 08/2012 đã tác động đáng kể đến nhiều mặt hoạt động của ACB, đặc biệt là huy động và kinh doanh vàng. ACB đã ứng phó tốt sự cố rút tiền xảy ra trong tuần cuối tháng 8. Sau đó, nhanh chóng khôi phục số dư huy động tiết kiệm VND chỉ trong thời gian 2 tháng. Đáng lưu ý là tuy tổng tiền gửi khách hàng có giảm nhưng huy động tiết kiệm VND của ACB tăng trưởng 16,3% so với đầu năm. ACB cũng lành mạnh hóa cơ cấu bảng tổng kết tài sàn thông qua việc xử lý các tồn đọng liên quan đến hoạt động kinh doanh vàng theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước. Trong năm 2012, ACB thành lập mới 16 chi nhánh và phòng giao dịch, nâng tổng số chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước lên thành 345 đơn vị. 2.2 Tầm nhìn và chiến lược hoạt động 2.2.1 Tầm nhìn Ngay từ những ngày đầu thành lập, tầm nhìn của Ngân hàng ACB đã xác định là trở thành một NHTMCP bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân hàng mới thành lập như ACB. 2.2.2 Chiến lược hoạt động Cơ sở cho việc xây dựng chiến lược hoạt động qua các năm là: - Tăng trưởng cao bằng cách tạo nên sự khác biệt trên cơ sở hiểu biết nhu cầu khách hàng và hướng tới khách hàng; - Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu quả và chuyên nghiệp để đảm bảo cho sự tăng trưởng được bền vững; - Duy trì tình trạng tài chính ở mức độ an toàn cao, tối ưu hóa việc sử dụng vốn cổ đông (ROE mục tiêu là 30%) để xây dựng ACB trở thành một định chế tài chính vững mạnh có khả năng vượt qua mọi thách thức trong môi trường kinh doanh còn chưa hoàn hảo của ngành ngân hàng Việt Nam; - Có chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực và đào tạo lực lượng nhân viên chuyên nghiệp nhằm đảm bảo quá trình vận hành của hệ thống liên tục, thông suốt và hiệu quả; Xây dựng “Văn hóa ACB” trở thành yếu tố tinh thần gắn kết toàn hệ thống một cách GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 15 xuyên suốt. ACB đang từng bước thực hiện chiến lược tăng trưởng ngang và đa dạng hóa. Chiến lược tăng trưởng ngang: thể hiện qua ba hình thức. - Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động: Trên phạm vi toàn quốc, ACB đang tích cực phát triển mạng lưới kênh phân phối tại thị trường mục tiêu, khu vực thành thị Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới để cung cấp cho thị trường đang có và thị trường mới trong tình hình yêu cầu của khách hàng ngày càng tinh tế và phức tạp. Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, ACB sẽ mở văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ. - Tăng trưởng thông qua hợp tác, liên minh với các đối tác chiến lược: ACB đã xây dựng được mối quan hệ với các định chế tài chính khác, thí dụ như các tổ chức thẻ quốc tế (Visa, MasterCard), các công ty bảo hiểm (Prudential, AIA, Bảo Việt, Bảo Long), chuyển tiền Western Union, các ngân hàng bạn (Banknet), các đại lý chấp nhận thẻ, đại lý chi trả kiều hối, v.v... Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, ACB đang quan hệ hợp tác với các định chế tài chính và các doanh nghiệp khác để cùng nghiên cứu phát triển các sản phẩm tài chính mới và ưu việt cho khách hàng mục tiêu, mở rộng hệ thống kênh phân phối đa dạng. Đặc biệt, ACB đã có một đối tác chiến lược là SCB, Ngân hàng nổi tiếng về các sản phẩm của ngân hàng bán lẻ. ACB đang nỗ lực tham khảo kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn cũng như công nghệ của các đối tác để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình cho quá trình hội nhập. - Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập: ACB ý thức là cần phải xây dựng năng lực tiếp nhận đối với loại tăng trưởng không cơ học này và thực hiện chiến lược hợp nhất và sáp nhập khi điều kiện cho phép. Đa dạng hóa Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng khác mà ACB quan tâm thực hiện, ACB đã có các công ty: Công ty chứng khoán ACB, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản (ACBA), Công ty Cho thuê tài chính và Công ty Quản lý quỹ. Với vị thế cạnh tranh đã được thiết lập khá vững chắc trên thị trường, trong thời gian sắp tới, ACB có thể xem xét thực hiện chiến lược đa dạng hóa tập trung để từng bước trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện thông qua các hoạt động sau đây: - Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để phối hợp cung cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 16 - Nghiên cứu thành lập công ty thẻ (phát triển từ trung tâm thẻ hiện nay), công ty tài trợ mua xe. - Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư. Tuy ACB đã khẳng định được mình nhưng luôn nhận thức rằng thách thức vẫn còn phía trước và phải nỗ lực rất nhiều, đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện các chương trình trợ giúp kỹ thuật, các dự án nâng cao năng lực hoạt động, hướng đến áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế để có khả năng cạnh tranh và hội nhập khu vực thành công. Do vậy, từ năm 2005, ACB đã bắt đầu cùng các cổ đông chiến lược xây dựng lại chiến lược mới. 2.3 Cơ cấu tổ chức GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 17 III. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA ACB: 3.1 Các chỉ tiêu đo lường quy mô hoạt động của ACB 3.1.1 Qui mô tốc độ tăng trưởng: GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 18 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng Tốc độ tăng trưởng quy mô tài sản bình quân 5 năm qua đạt 20.3%. Dư nợ cho vay và nguồn vốn huy động cũng tăng trưởng tương ứng với tổng tài sản qua các năm nhưng với tốc độ chậm hơn: tăng trưởng dư nợ bình quân 5 năm đạt 34%, tăng trưởng nguồn vốn chủ sở hữu bình quân 5 năm đạt 13%. Riêng dư nợ cho vay có tốc độ tăng trưởng bính quân cao hơn so với tổng tài sản do sự gia tăng đột biến trong dư nợ vào năm 2009 tăng với mức 78,78% khiến tăng trưởng bình quân đạt 29,01% trong 5 năm Chứng khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ chưa đến 5% qua các năm. Năm 2010 là năm Ngân hàng đầu tư chứng khoán mạnh nhất với hơn 49.000 tỷ đồng, chiếm 24% tổng tài sản nhưng đã nhanh chóng giảm hơn 45% vào năm sau đó. Năm 2012, tổng tài sản của ACB đạt 176.307 tỷ đồng, giảm 37% so với cuối năm 2011. Nguyên nhân dư nợ cho vay trên thị trường và chứng khoán kinh doanh giảm là do nền kinh tế gặp khó khăn, lãi suất giảm mạnh, một số ngân hàng nhỏ gặp khó khăn về thanh khoản khiến cho các ngân hàng thu hẹp hoạt động cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Mặt khác, thị trường chứng khoán ảm đạm, chưa ổn định nên các ngân hàng có xu hướng thu hẹp hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát rủi ro, chuyển hướng sang các kênh đầu tư khác hiệu quả hơn? GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 19 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng Nguồn vốn tự có của ACB được tăng cường qua các năm với tốc độ tăng trưởng VCSH bình quân 5 năm đạt 13%. Trong đó, vốn điều lệ liên tục được bổ sung, giúp cho hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR của Ngân hàng luôn được đảm bảo trên 9%. Vốn chủ sở hữu của ACB tăng đều qua từng năm tuy nhiên tăng vượt bậc từ năm 2008 đến 2009 với tỷ lệ 30,12% do ACB được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép tăng vốn điều lệ lên 7.814.138 triệu đồng bằng cách chuyển 1.349.931 triệu đồng trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu và 108.394 triệu đồng từ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ sang vào ngày 3/9/2009 theo công văn số 1879/NHNN-HCM.02. Tiếp tục mức tăng trưởng mạnh vào năm 2010, ACB cho tăng vốn chủ sở hữu với tỷ lệ tăng 12,57% so với năm 2009. Trong Đại hội cổ đông 2010, ACB đã thông qua kế hoạch tăng vốn điểu lệ năm 2010 thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu và đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận vào ngày 11/11/2010 nhằm nâng cao năng lực cho vay và tăng vốn cho Công ty Cho thuê tài chính ACB Đến năm 2012, tổng nguồn vốn huy động từ thị trường 1 đạt 145.616 tỷ đồng, tổng nguồn vốn huy động từ thị trường 2 đạt 19.922 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu đạt 12.624 tỷ GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 20 đồng, vốn điều lệ đạt 9.377 tỷ đồng. Mặc dù Vốn điều lệ được tăng liên tục để nhằm cải thiện tình hình tài chính của ACB tuy nhiên vẫn không tăng vượt so với sự tăng trưởng lớn mạnh của Tổng tài sản trong đó chiếm tỷ lệ tăng cao là Tổng dư nợ qua từng năm trong giai đoạn 2008-2012. Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng Thu nhập lãi thuần và thu nhập hoạt động tăng đều qua các năm trong giai đoạn 2008-2012 tuy nhiên đến năm 2012 do tình hình kinh tế khó khăn kèm theo sự kiện không tốt ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ACB khiến cho lãi thuần gia tăng chỉ 4% so với năm 2011. Sự sụt giảm từ sự giảm của tổng thu nhập hoạt động 23,69% khiến cho ACB sụt giảm tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 75% so với năm 2011. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 21 3.1.2 So sánh với các NHTM khác: Nguồn: BCTC qua các năm của NH, đvt: nghìn tỷ đồng Nguồn: BCTC qua các năm của NH, đvt: nghìn tỷ đồng GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 22 Để so sánh tính cạnh tranh của ACB với các NH khác, chúng tôi chọn tập hợp nghiên cứu gồm 10 NHTM được NHNN xếp nhóm 1 là ACB, CTG, VCB, EIB, STB, VIB, MSB, BIDV, SHB và Techcombank (TECH). Chúng tôi không lựa chọn các NH khác do một trong số các nguyên nhân sau: (1) quy mô tài chính quá chênh lệch với ACB; (2) không tiếp cận được số liệu thích hợp để so sánh. Trong số các NH so sánh, STB và EIB là 2 Ngân hàng có quy mô, đặc điểm và mô hình kinh doanh giống với ACB nhất. Và nhóm xin lấy số liệu năm 2012 để so sánh do năm 2012 là năm nhiều khó khăn nhất và xảy ra nhiểu biến cố trong ngành ngân hàng. Tổng tài sản của ACB hiện đang đứng thứ 5, xếp sau 4 NHTM nhà nước là CTG, BIDV, VCB, TECH. ACB là NHTM ngoài quốc doanh duy nhất huy động và cho vay trên 100 nghìn tỷ đồng từ khách hàng. Như vậy, ACB là NHTM ngoài quốc doanh có quy mô tổng tài sản, dư nợ cho vay và số dư tiền gửi khá mạnh tuy nhiên trong năm 2012 thì sụt giảm do tình hình kinh tế khó khăn, sự kiện 7.000 tỷ đồng liên quan đến Bầu Kiên . Những khoản vay này đều có tài sản thế chấp bao gồm: cổ phiếu của tổ chức tín dụng khác 3.458 tỷ đồng; cổ phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trị giá 1.989 tỷ đồng; góp vốn vào doanh nghiệp hơn 925 tỷ đồng và thư bảo lãnh của ngân hàng 750 tỷ đồng. Kế tiếp là vụ án lừa đảo của Huỳnh Thị Huyền Như với số tiền 718 tỷ đồng gửi tại CTG và thêm vào đó là 700 tỷ đồng dư nợ với Vinalines được xếp vào nợ nhóm 2 cần phải trích lập dự phòng 5%. Nói như vậy để thấy rằng, từ vụ “bầu” Kiên đã gây ra rất nhiều tác động tiêu cực cho ACB. Về Vốn chủ sở hữu, ACB xếp thứ 7 sau VCB, CTG, BIDV, STB, EIB, TECH. Theo chúng tôi, nguyên nhân VCSH của ACB thấp là do Ngân hàng thực hiện chi trả cổ tức bằng tiền mặt đợt 1 năm 2011 ở mức 20%. 3.1.3 Cơ cấu cho vay: Cơ cấu cho vay theo loại hình tiền tệ: GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 23 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Các khoản tín dụng bằng VND chiếm khoảng từ 70 – 83% qua các năm, cao nhất đạt 83% trong năm 2009. Tỷ trọng cho vay bằng vàng và ngoại tệ dao động trong khoảng 25 – 30%, tương đối lớn trong tương quan với các NH khác. Do đó, việc phòng vệ rủi ro tỷ giá và rủi ro giá vàng có vai trò quan trọng đến khả năng thanh khoản của ACB. Cơ cấu cho vay theo ngành qua các năm Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Thương mại 23% 31% 32% 36% 32% Nông, lâm nghiệp 1% 0% 0% 0% 1% Sản xuất và gia công chế biến 13% 18% 16% 15% 13% Xây dựng 3% 4% 4% 5% 3% Dịch vụ cá nhân và cộng đồng 51% 37% 38% 34% 42% Kho bãi, giao thông vận tải và thông tin liên lạc 2% 3% 3% 3% 2% Giáo dục và đào tạo 0% 0% 0% 0% 0% Tư vấn và kinh doanh bất động sản 2% 1% 1% 1% 1% Nhà hàng và khách sạn 1% 2% 2% 2% 2% GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 24 Ngành nghề cho vay chính của ACB là Thương mại và Dịch vụ cá nhân với dư nợ cho vay chiếm khoảng 70% tổng dư nợ của Ngân hàng. Trong khi tỷ trọng các khoản vay cá nhân và cộng đồng có chiều hướng giảm thì tín dụng thương mại lại có xu hướng tăng nhẹ. Hai lĩnh vực liên quan đến bất động sản là Xây dựng và Tư vấn kinh doanh BĐS chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ từ 4 – 6%, do đó rủi ro nợ xấu tiềm ẩn từ khu vực BĐS không phải là mối lo lớn. Cơ cấu cho vay theo phân bổ địa lý Khu vực Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 TP. HCM 71% 65% 65% 61% 62% Đồng bằng sông Cửu Long 4% 4% 4% 5% 5% Miền Trung 4% 5% 5% 6% 7% Miền Bắc 16% 21% 20% 22% 19% Miền Đông 5% 5% 6% 6% 7% Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Về địa lý, ACB chủ trương phát triển ở khu vực truyền thống là ở TP HCM và Hà Nội, sau đó từng bước tăng sự hiện diện ra các khu vực đô thị dọc theo trục giao thông Bắc – Nam và một số đô thị lớn ở khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ. TP Hồ Chí Minh vẫn là địa bàn cho vay chính của Ngân hàng, song tỷ trọng cho vay đã giảm dần từ 74% năm 2006 xuống còn 61% năm 2011. Cùng với việc gia tăng số lượng chi nhánh tại Hà Nội, tỷ trọng cho vay ở khu vực miền Bắc tăng đáng kể từ 16% năm 2006 lên 22% năm 2011. Tỷ trọng cho vay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và miền Đông không có nhiều biến động và chỉ chiếm khoảng 15% tổng dư nợ cho vay của ACB. 3.1.4 Tương quan giữa kì hạn tiền gửi và cho vay: GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 25 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Với cơ cấu huy động dài và cho vay ngắn, rủi ro kỳ hạn không phải là mối lo ngại lớn của ACB. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn được duy trì trên 50% trong khi cơ cấu cho vay GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 26 trung và dài hạn có sự chuyển dịch: tỷ trọng các khoản vay trung hạn tăng dần và thay thế cho các khoản vay dài hạn. Ngược lại, cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn không có nhiều biến động khi tiền gửi tiết kiệm vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo là tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn. Mặc dù tiền gửi tiết kiệm chiếm hơn 70% tổng số dư tiền gửi, kỳ hạn chủ yếu vẫn là từ 1 năm trở xuống, các khoản tiết kiệm trên 1 năm chiếm tỷ trọng không đáng kể. Do hơn 80% các khoản tiền gửi của khách hàng tập trung ở kỳ hạn dưới 3 tháng nên chênh lệch thanh khoản ròng dưới 3 tháng của ACB luôn bị âm. Tuy nhiên, nhờ các khoản tín dụng chủ yếu ở kỳ hạn trên 3 tháng (các khoản tín dụng dưới 3 tháng chiếm 19%) nên chênh lệch thanh khoản ròng tại các kỳ hạn trên 3 tháng của ACB vẫn đạt mức dương. Với việc đường cong lãi suất đang được thiết lập trở lại, cùng với sự hạ nhiệt của lãi suất huy động, chúng tôi kỳ vọng tiền gửi tại các kỳ hạn dài sẽ tăng lên trong thời gian tới. 3.2 Các chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động của ACB: 3.2.1 Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản – ROA: ĐVT: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011 2012 Lãi ròng 2.211 2.201 2.335 3.208 784 Tổng tài sản bình quân 95.365 136.594 186.492 243.061 228.664 Tổng vốn chủ sở hữu bình quân 6.954 8936 10.742 11.668 12.292 ROA 2.32% 1.61% 1.25% 1.32% 0.34% ROE 31.79% 24.63% 21.74% 27.39% 6.38% GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 27 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Cả 2 tỷ số quan trọng là ROA và ROE của ACB qua các năm đều giảm sút rõ rệt cho thấy hiệu quả sử dụng nguồn lực tài sản và nguồn vốn chủ sở hữu giảm, lợi nhuận đạt được không tương xứng với nguồn tài sản và vốn chủ sở hữu hiện có. Cụ thể trong năm 2009, mặc dù ACB đã cố gắng đẩy mạnh hoạt động gửi tiền và cho vay trên cả 2 thị trường I và II khi tăng lần lượt 79% và 52% nhưng do lúc này lãi suất cả huy động và cho vay đã hạ nhiệt rất nhiều cộng với việc các NHTM khác cũng cải thiện được tình hình thanh khoản của mình so với năm 2008 khi NHNN bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ nên tổng tài sản năm 2009 mặc dù tăng đến 43% nhưng thu nhập lãi ròng lại giảm nhẹ 8.5% so với năm 2008 làm cho ROA chỉ đạt 1.61%, tức là giảm tới 70%. ROA được giữ tương đối ổn định trong 2 năm tiếp theo, tuy nhiên đến năm 2012 thì lại giảm rất mạnh, chỉ đạt 0.34%- mức thấp nhất trong giai đoạn này. Ngoài lý do khách quan về sự khó khăn chung của nền kinh tế thì sự cố tháng 8/2013 của ACB cùng với việc thực hiện chỉ đạo tất toán trạng thái vàng của NHNN đã khiến cho hoạt động kinh doanh vàng và ngoại hối bị lỗ nặng, khoảng 1.864 tỷ đồng và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng cao cộng với chi phí hoạt động tăng mạnh (nhất là chi cho quản cáo, khuyến mãi) đã làm cho ROA giảm mạnh. Để làm rõ vấn đề hơn, ta xét riêng từng quý trong năm 2012: Rõ ràng, sự kiện "bão" tháng 8/2013 đã ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản cũng như nguồn vốn của ACB từ đó ảnh GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 28 hưởng lớn đến cả thu nhập và chi phí. Việc rút tiền hàng loạt đã buộc ACB phải giảm mạnh lượng tiền gửi và cho vay trên thị trường II cũng như hạn chế giải ngân cho khách hàng trong một số thời điểm trong khi gia tăng việc vay nợ các TCTD khác nhằm đảm bảo tính thanh khoản cho Ngân hàng. Từ đó làm cho thu nhập lãi thuần lũy kế trong năm 2012 giảm đến hơn 3.200 tỷ tức khoảng 15% so với năm 2011 và làm cho tốc độ tăng trưởng của thu nhập từ lãi bị sụt giảm, chỉ nhỉnh hơn 3% so với năm 2011. Chỉ tiêu Quý II Quý III Quý IV 2012 2011 2012 2011 2012 2011 Tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD khác - Tiền, vàng tại các TCTD khác - Cho vay tại các TCTD khác 56.003 55.693 312 55.341 35.417 34.062 1.368 70.057 22.525 20.867 1.673 81.274 80.550 1.125 Cho vay khách hàng 101.494 55.340 100.359 98.715 100.387 100.929 Tiền gửi của KH 145.622 141.944 123.025 148.496 126.680 142.828 Vay các TCTD khác 250 - 4.805 - 4.448 - 3.2.2 Các chỉ tiêu thu nhập cận biên: Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011 2012 Thu nhập lãi thuần 2.728 2.801 4.174 6.608 6.871 Thu nhập ngoài lãi 1.511 2.135 1.319 1.039 (1.036) Tổng thu nhập 4.239 4.936 5.493 7.647 5.835 GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 29 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Trong giai đoạn 2008-2011, ACB đã có tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần mạnh mẽ, bình quân 22.3%/năm và chiếm khoảng 70.8% trong tổng thu nhập. Tuy nhiên bước sang năm 2012, tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn và do thực hiện chỉ đạo tất toán trạng thái vàng của NHNN đã khiến cho hoạt động kinh doanh vàng và ngoại hối bị lỗ nặng khoảng 1.864 tỷ đồng, thêm vào đó lãi từ hoạt động dịch vụ chỉ đạt 703 tỷ đồng, giảm 15% đã kéo theo tổng thu nhập thuần của ngân hàng bị sụt giảm đến 22% so với năm 2008. - Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên- NIM Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011 2012 Thu nhập từ lãi 10.498 9.614 14.960 25.461 22.269 Chi phí trả lãi 7.770 6.813 10.797 18.853 15.398 Tổng tài sản sinh lời 82.667 108.143 149.958 200.564 137.420 YOEA (%) 12.7 8.8 9.9 12.7 16.3 COF (%) 9.4 6.3 7.2 9.4 11.2 NIM (%) 3.3 2.5 2.7 3.3 5.1% Ngành GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 30 Trong năm 2008 và 2011, NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ đã làm cho hệ thống Ngân hàng Việt Nam mà đặc biệt là các NH nhỏ gặp rất nhiều khó khăn về tính thanh khoản và buộc phải vay vốn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, chênh lệch lãi suất trên thị trường 2 lớn đã tạo cơ hội cho một ngân hàng lớn như ACB gia tăng hoạt động gửi tiền và cho vay trên thị trường này đặc biệt là ở năm 2011 khi tiền gửi và cho vay tại các tổ chức tín dụng tăng đến 140% (từ 33.961 tỷ đồng lên 81.274 tỷ đồng), kết quả là tỷ số NIM đạt ở mức 3.3%, mức cao thứ hai trong giai đoạn này. Đến năm 2012- năm mà ACB bị sự cố vào tháng 8 thì lượng tiền gửi đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt là tiền gửi có kỳ hạn làm cho tổng tài sản sinh lời giảm tới 31%, chi phí trả lãi của ACB ngay lập tức giảm hơn 18%; tuy nhiên thu nhập từ lãi chỉ giảm 15% (do lãi suất cho vay thay đổi chậm hơn lãi suất huy động nên thu nhập từ cho vay tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước- nguồn thu lãi chính không giảm nhiều mà chỉ ở mức 3%), chậm hơn tốc độ giảm tài sản sinh lời kéo theo đó NIM của ACB lại đạt tỷ lệ cao nhất trong giai đoạn này. 3.3 Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro: 3.3.1 Rủi ro thanh khoản: Tỷ lệ cho vay/tiền gửi (LDR) Tỷ lệ cho vay/tiền gửi (LDR) của ACB tăng nhanh từ 53.9% năm 2008 lên đến 80.9% năm 2012. Tỷ lệ này khá cao so với quy định tại thông tư 19/2010/TT-NHNN cho phép tỷ lệ LDR đối với ngân hàng không vượt quá 80%. Sự gia tăng đột biến này bắt nguồn từ việc tiền gửi khách hàng và các tổ chức khác giảm mạnh trong năm 2012, đặc biệt là sự cố rút tiền tại ACB vào tháng 08/2012 liên quan đến ông Nguyễn Đức Kiên. Ngoài ra, thông tư 12/2012/TT-NHNN về việc tổ chức tín dụng không được huy động vốn bằng vàng cũng là một trong những nguyên nhân gây sụt giảm nguồn huy động. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 31 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Việc phát hành giấy tờ có giá tăng lên nhanh chóng từ năm 2008 đến năm 2011 và giảm trong năm 2012. Đây là nguồn huy động vốn tích cực bên cạnh tiền gửi của khách hàng. Đến 31/12/2012, ACB có 3.000 tỷ đồng với trái phiếu kỳ hạn trên 10 năm do NHNN phát hành. Chứng chỉ tiền gửi bằng vàng là 15.501 tỷ đồng. Vì thế, ACB vẫn còn có thể sử dụng các nguồn huy động khác. LDR được điều chỉnh thêm chứng khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư ở tử số, ủy thác đầu tư và các khoản nợ chứng khoán hóa ở mẫu số. LDR hiệu chỉnh sẽ phản ánh chính xác hơn khả năng thanh khoản của ACB. So với LDR, LDR hiệu chỉnh cao hơn qua các năm, đạt mức đỉnh vào năm 2010 với 93,2% trước khi hạ xuống còn 66,6% năm 2011. Tỷ lệ LDR điều chỉnh 2012 là 86.9%, với tỷ lệ này ACB vẫn có đủ nguồn lực để tài trợ các khoản vay mới, không bị phụ thuộc nhiều vào tài trợ bên ngoài. Với tỷ lệ LDR của ACB đạt 80.9% vào năm 2012, khả năng thanh khoản của ACB vẫn đang ở mức cao so với các ngân hàng khác. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 32 Nguồn: BCTC năm của các Ngân hàng Hệ số an toàn vốn CAR Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng Với tình hình tài chính lành mạnh, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR của ACB luôn cao hơn mức quy định tối thiểu 9% của NHNN. Tổng nguồn vốn của ACB chủ yếu đến từ nguồn vốn cấp 1 được bổ sung qua các năm. Nguồn vốn cấp 2 hầu như không đáng kể. Tỷ lệ khả năng chi trả (tài sản có khả năng thanh toán ngay trên tổng dư nợ) của ACB trong giai đoạn 2008-2012 cũng luôn cao hơn mức quy định 15% của NHNN. 2008 2009 2010 2011 2012 Vốn cấp 1 (vốn và các quỹ) 7,766,48 10,106,27 11,376,77 11,959,02 12,624,42 CAR 12.40% 9.97% 10.80% 9.25% 13.50% Tỷ lệ khả năng chi trả 38.57% 28.65% 24.65% 34.94% 20.15% GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 33 3.3.2 Rủi ro tín dụng Tỷ lệ nợ xấu ACB là một trong những ngân hàng quản lý chất lượng tài sản tốt nhất khi tỷ lệ nợ xấu (NPL) luôn duy trì dưới 1% từ năm 2008 đến năm 2011. Năm 2012, một năm đầy khó khăn đối với ngành Ngân hàng do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, tỷ lệ nợ xấu của ACB tăng nhanh (2.46%) nhưng vẫn nằm trong ngưỡng an toàn. Tuy nhiên, việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh của ACB. Tỷ lệ các nhóm nợ ACB qua các năm Nguồn: BCTC qua các năm của ACB GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 34 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB Tỷ lệ nợ xấu của ACB cuối năm 2012 ở mức trung bình so với các Ngân hàng khác và vẫn dưới mức 3%. Tuy nhiên với mức 2.46% năm 2012, ACB cần phải quan tâm hơn về vấn đề nợ xấu để tránh tình trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Ngân hàng. Hiện tại, hai khoản dư nợ vay lớn của Vinalines là 853,7 tỷ đồng và 6 công ty có liên quan đến ông Nguyễn Đức Kiên là 3.511,5 tỷ đồng đang được Ngân hàng xếp vào nhóm nợ cần chú ý trong báo cáo hợp nhất năm 2012. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 35 Nguồn: BCTC năm của các Ngận hàng Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng/tổng cho vay Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng/tổng cho vay cũng tăng từ 0.66% năm 2008 lên 1.46% trong năm 2012. Đây là hệ quả tất yếu của việc gia tăng nợ xấu ở ACB trong giai đoạn này. Mặc dù vậy, chất lượng tài sản của ACB đang được quản lý khá tốt, Ngân hàng hoàn toàn có khả năng phòng vệ trước rủi ro nợ xấu trong thời điểm hiện tại. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 36 Nguồn: BCTC qua các năm của ACB IV. KẾT LUẬN: Qua phân tích báo cáo tài chính giai đoạn 2008-2012 của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần ACB có thể nhận thấy: ACB là 1 ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, chất lượng tài sản được quản lí khá tốt, thanh khoản đảm bảo, tốc độ tăng trưởng ổn định, hoạt động hiệu quả, thu nhập tăng đều qua các năm. Giai đoạn 2008 – 2012 kinh tế trong nước gặp nhiều biến động bất lợi do chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên cũng phần nào tác động đến hoạt động của ACB cũng như toàn hệ thống ngân hàng. Tuy có sự giảm sút trong các chỉ tiêu lợi nhuận ROE , ROA và tỷ lệ nợ xấu gia tăng nhưng các chỉ số này vẫn nằm trong hàng top của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Điều đó khẳng định được uy tín và thương hiệu của ACB trong ngành nhưng có phải lúc nào hoạt động của ACB cũng xuôi chèo mát máy. Năm 2012 là 1 năm hoạt động đầy sóng gió của ACB khi ngân hàng hàng này để liên tiếp các vụ bê bối xảy ra liên quan đến pháp luật. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2012 sụt giảm nghiêm trọng là điều tất yếu . Cuộc khủng hoảng của ACB có nguyên nhân sâu xa từ việc quản trị , giám sát hoạt động của ngân hàng không chặt chẽ và được bùng nổ sau vụ ông Nguyễn Đức Kiên. Sự kiện mà có lẽ giới đầu tư cũng như các cổ đông của ACB có lẽ không bao giờ quên hôm 21/08/2013 đă khiến giá gần như tất cả các cổ phiếu trên cả hai sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội đồng loạt giảm sàn , bất kể tốt xấu. Bên cạnh đó , GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 37 ACB cũng đang dính đến các sự kiện ảnh hưởng đến hình ảnh và hoạt động kinh doanh như: vụ lừa đảo của Bà Huỳnh Thị Huyền Như, vụ tranh cấp căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai... Cùng với những cú sốc nói trên và áp lực phải đóng trạng thái vàng theo yêu cầu của NHNN – mà theo đó ACB lỗ 1.700 tỷ đồng, cổ phiếu ACB đă giảm 1 mạch từ mức 25.900 đồng/cp xuống tới gần 15.000 đồng/cp. Nếu so với mức giá hơn 40.000 đồng/cp hồi năm 2008 thành mức giá quanh 16.000 đồng/cp hiện nay là một dấu hiệu cho thấy niềm tin vào ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam này đă suy giảm mạnh. Với định hướng phát triển là ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, ACB cần có những thay đổi tích cực để lấy lại uy tín thương hiệu và hiệu quả hoạt động của mình. Chú trọng đến công tác quản trị đồng thời mở rộng phát triển dịch vụ , chủ động giới thiệu các phương tiện dịch vụ, thanh toán mới đến khách hàng. GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphan_tich_bao_cao_tai_chinh_acb_nhom_7_nhdem_1_101.pdf
Luận văn liên quan