Đề tài Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công

LỜI CẢM ƠN!1 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP CÔNG3 I.1. Khái niệm thu nhập công. 3 I.2. Đặc điểm thu nhập công. 4 I.3. Phân loại thu nhập công. 4 PHẦN II: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CÔNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐÓ ĐẾN THU NHẬP CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY7 II.1 Trình độ phát triển kinh tế. 7 II.2. Trình độ tổ chức hoạt động thanh toán và hạch toán. 11 II.3. Trình độ nhận thức của dân chúng. 13 II.4. Năng lực pháp lý của bộ máy nhà nước. 15 II.5. Hiệu quả hoạt động của Chính phủ. 16 PHẦN III: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NHẬP CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.18 III.1. Thực trạng thu nhập công ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay.18 III.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay20 PHẦN IV. KẾT LUẬN

doc23 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2850 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN! Chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của của thầy giáo Vũ Xuân Thủy Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy hiệu trưởng trường Thương Mại. Xin chân thành cảm ơn các thầy (cô) giáo trong nhà trường đã tạo điều kiện giúp chúng em thực hiện và giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này./. MỤC LỤC PHẦN IV. KẾT LUẬN PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP CÔNG I.1. Khái niệm thu nhập công Về bản chất, thu nhập công là quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực để huy động một bộ phận của cải xã hội hình thành nên các quỹ tài chính Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước Đó là hệ thống các quan hệ kinh tế và phi kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành nên các quỹ tài chính của Nhà nước . - Những quan hệ kinh tế: là những quan hệ dựa trên cơ sở trao đổi và có sự hoàn trả. - Những quan hệ phi kinh tế: là những quan hệ được xây dựng từ nghĩa vụ công dân và không có sự hoàn trả. Thu nhập công được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó là sự trao đổi giữa các nghĩa vụ: các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ trích chuyển một phần thu nhập vào Ngân sách nhà nước để hình thành các quỹ tài chính của Nhà nước đổi lại nhà nước có nghĩa vụ sử dụng hiệu quả các nguồn thu nhập này. I.2. Đặc điểm thu nhập công - Đặc điểm nổi bật nhất của thu nhập công là phần lớn các khoản thu nhập công được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ công dân, điển hình là thuế. Ngoài ra thu nhập công còn bao gồm các khoản thu dựa trên cơ sở trao đổi như lệ phí và phí thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu do thỏa thuận như vay mượn, các khoản thu do người dân tự nguyện đóng góp chiếm tỷ trọng không đáng kể. - Các khoản thu không mang tính bồi hoàn trực tiếp: các tổ chức và cá nhân nộp thuế cho nhà nước không có nghĩa là phải mua một hàng hóa hay dịch vụ nào đó của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước sẽ dùng thuế nhằm tạo ra những hàng hóa và dịch vụ công và tất cả hàng hóa và dịch vụ công sẽ được thụ hưởng bởi chính người dân trong nước. Như thế, các khoản thu nhập công được chuyển trở lại cho dân chúng theo một cách gián tiếp và công cộng - Thu nhập công gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Nhà nước thu để tài trợ cho mọi hoạt động của nhà nước tức là thu để chi tiêu công chứ không phải là thu để kiếm lợi nhuận. Do đó thu nhập công phát triển theo các nhiệm vụ của nhà nước. - Thu nhập công luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái …chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thực trạng của nền kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ), GDP là yếu tố khách quan quyết định mức động viên của thu nhập công. Sự vận động của các phạm trù giá trị khác vừa có tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu ngân sách nhà nước. I.3. Phân loại thu nhập công Phân loại thu nhập công nhằm quản lý và sử dụng các nguồn lực công phù hợp với pháp luật và có trách nhiệm trước công chúng. Căn cứ theo tính chất thu nhập: Thu nhập công được chia thành 2 nhóm: các khoản thu thuế và các khoản thu không phải thuế. - Các khoản thu thuế: bao gồm các sắc thuế mà Nhà nước ban hành dưới hình thức luật là khoản thu mang tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp, được xây dựng trên nghĩa vụ công dân. Thuế được Nhà nước áp đặt bằng quyền lực chính trị, được thể chế hóa bằng pháp luật các pháp nhân và thể nhân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thuế không hoàn trả trực tiếp ngang giá cho người nộp thuế mà một phần thuế đã nộp cho ngân sách nhà nước được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế dưới hình thức hưởng thụ hàng hóa dịch vụ công như y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng…tất cả mọi người đều được hưởng các dịch vụ công cộng đó như nhau cho dù nghĩa vụ đóng góp có thể khác nhau. - Các khoản thu không phải thuế: bao gồm lệ phí và phí, quyên góp, vay mượn…đây là những khoản thu mang tính đối giá( dịch vụ hàng hóa công được hưởng tương ứng với số tiền phải bỏ ra ) và được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa dân chúng và Chính phủ. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu thu Ngân sách nhà nước song đây cũng là khoản thu không thể thiếu. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ: Thu nhập công được chia thành thu trong nước và thu ngoài nước - Thu trong nước: bao gồm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí, vay trong nước, cho thuê công sản, khai thác và bán tài nguyên thiên nhiên, thu khác… Thu trong nước là nguồn nội lực cơ bản giúp Chính phủ xây dựng một ngân sách nhà nước chủ động, mọi sự dựa dẫm vào bên ngoài đều để lại những hậu quả lâu dài, nền tài chính chỉ lành mạnh và bền vững khi nguồn thu dựa chủ yếu vào nội lực của nền kinh tế quốc dân. - Thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu từ đầu tư nước ngoài, viện trợ nước ngoài, vay nước ngoài Đây là nguồn ngoại lực giúp đất nước tích tụ và tập trung vốn đầu tư vào nhiều công trình then chốt từ đó tạo ra những bước chuyển đáng kể trong tiến trình phát triển. Căn cứ vào nội dung kinh tế: Thu nhập công bao gồm các khoản thu không mang nội dung kinh tế và những khoản thu mang nội dung kinh tế - Khoản thu không mang nội dung kinh tế: bao gồm thuế, các khoản quyên góp, viện trợ nước ngoài và thu khác ( thu từ phạt vi cảnh, thanh lý tài sản, quà biếu tặng…) Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa công dân và nhà nước, còn quyên góp và viện trợ nước ngoài là những khoản thu hình thành trên cơ sở tự nguyện nhỏ dần về mặt tỷ trọng. Đây là những khoản thu không mang tính chất đối ứng với việc thụ hưởng các dịch vụ hàng hóa công của các chủ thể, tức là không phải cứ nộp vào ngân sách nhà nước nhiều thuế hay ủng hộ cho chính phủ nhiều…là được hưởng nhiều hàng hóa dịch vụ công hơn người khác. - Khoản thu mang nội dung kinh tế: bao gồm lệ phí, phí, vay nợ, cho thuê công sản, bán tài nguyên thiên nhiên… Lệ phí và phí là những khoản thu mang tính đối giá. Là khoản thu có tỷ trọng nhỏ hơn so thuế nhưng góp phần rất quan trọng cho quá trình nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng hàng hóa dịch vụ công đảm bảo phân phối một cách tương đối công bằng phúc lợi công cộng cho mọi công dân trong xã hội. Vay nợ trong và ngoài nước là khoản thu mang tính bồi hoàn, nó tích cực đẩy nhanh tốc độ tích tụ và tập trung vốn tạo những công trình lớn khi các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu chi đầu tư phát triển của nhà nước. Nhưng nếu những công trình đầu tư từ vay nợ mà không mang lại lợi ích kinh tế xã hội như mong muốn thì sẽ trở thành gánh nặng do phải trả vốn và lãi hàng năm. Do đó phải xác định rõ vay nợ sử dụng cho mục đích gì và sử dụng nợ như thế nào Cho thuê công sản gồm cho thuê đất, bầu trời, mặt nước, vùng lãnh thổ…là khoản thu tương đối hấp dẫn nhưng cái giá phải trả là sự tổn hại về môi trường thiên nhiên sau thời hạn cho thuê. Thu từ bán tài nguyên thiên nhiên là những khoản thu do bán quặng, dầu thô, than, sán vật của rừng nguyên sinh…tài nguyên thiên nhiên là nguồn lợi do thiên nhiên ban tặng và đa phần là không thể tái tạo do đó cần phải có chính sách khai thác hợp lý. Căn cứ vào tính chất phát sinh: - Thu thường xuyên: bao gồm thu thuế, phí, lệ phí là các khoản thu phát sinh đều đặn và liên tục ổn định về số lượng và thời gian thu . - Thu không thường xuyên: bao gồm khoản vay nợ, viện trợ là các khoản thu mang tính chất thời điểm lúc có lúc không, lúc nhiều lúc ít, không ổn định về số lượng và thời gian thu. PHẦN II: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CÔNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐÓ ĐẾN THU NHẬP CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY II.1 Trình độ phát triển kinh tế Thu nhập công chủ yếu được hình thành từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra, muốn thu nhập công nhiều và bền vững thì chỉ có cách duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế sáng tạo ra ngày càng nhiều giá trị gia tăng chứ không phải là nhà nước dùng quyền lực ép buộc dân chúng và các tổ chức kinh tế trích chuyển thu nhập cho mình nhiều hơn. GDP là cơ sở duy nhất và bền vững nhất của thu nhập công, mối quan hệ giữa GDP và thu nhập công được mô tả bằng công thức: Thu nhập công = f (GDP) Mọi nguồn vay hay viện trợ chỉ đáp ứng nhu cầu tạm thời và đều phải trích từ thuế để trả, vì vậy chăm lo phát triển kinh tế chính là chăm lo nguồn thu nhập công trong tương lai. Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định đặc biệt tới các nước đang phát triển. Nó là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo, giảm khoảng cách tụt hậu với các nước phát triển, củng cố quốc phòng, an ninh chính trị, tạo niểm tin cho cộng đồng quốc tế. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập và phúc lợi xã hội cho nhân dân. Từ đó tạo đà cho nhà nước thu ngân sách nhà nước. Của cải xã hội làm ra ngày càng tăng, thu nhập công cũng ngày càng tăng mà không tăng gánh nặng cho xã hội. Mặt khác, thu nhập công ngày càng tăng, nhà nước có đủ điều kiện hơn để đầu tư cho các công trình sự nghiệp, các chương trình phúc lợi xã hội, các cơ sơ hạ tầng phục vụ phát triển đất nước…Nhân dân được hưởng nhiều lợi ích hơn từ các công trình công đó. Tạo cơ sở vật chất cho xã hội phát triển. Từ đó, giúp kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, thu nhập công lại được đảm bảo, lại là điều kiện để giúp kinh tế tăng trưởng nhanh hơn. Đó là mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tương hỗ nhau, cùng tạo đà cho nhau phát triển. Và ngược lại, nếu nền kinh tế chậm phát triển, tụt hậu, của cải xã hội tạo ra ít, tình trạng thất nghiệp gia tăng thì sẽ làm giảm đáng kể thu nhập công. Muốn ổn định kinh tế thì nhà nước lại phải tăng thêm chi tiêu công, khi mà nguồn thu nhập công không đủ bù đắp các khoản chi tiêu công thì gây ra tình trạng mất cân đối ngân sách. Tình trạng này càng nghiêm trọng thì sẽ dẫn đến làm tụt hậu thêm nền kinh tế, thu ngân sách quá gắt gao lại gây ra tình trạng mất ổn định chính trị, nhân dân không tin tưởng vào nhà nước nữa. Cái vòng luẩn quẩn này sẽ lặp lại mãi nếu không có chính sách giải quyết phù hợp. Chính vì vậy, một nền kinh tế phát triển là mảnh đất màu mỡ cho thu nhập công tăng trưởng, là tiền đề cần thiết để phát triển xã hội. Thu nhập công cũng chính là đòn bẩy cho nền kinh tế quốc gia đi lên. Sơ đồ mối quan hệ giữa thu nhập công và sự phát triển kinh tế: Đầu tư công được tăng cường GDP lớn Thu NSNN nhiều Kinh tế phát triển Sơ đồ 1 : Thu nhập công với nền kinh tế phát triển Kinh tế lạc hậu Đầu tư công manh mún, nhỏ bé và kém hiệu quả GDP nhỏ Thu NSNN ít Sơ đồ 2 : Thu nhập công với nền kinh tế phát triển Thực tiễn tại Việt Nam những năm gần đây cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế tới thu nhập công. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều cảnh báo cho rằng, thu nhập công sẽ giảm đi trông thấy khi mà theo cam kết, chúng ta phải giảm thuế suất nhập khẩu cho nhiều mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Điều đó sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu cho ngân sách, lại thêm nguy cơ hàng hóa nước ngoài cạnh tranh gắt gao với hàng nội địa. Tuy nhiên, việc giảm thu nhập công từ thuế suất thuế nhập khẩu chỉ vào khoảng 10% tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, còn lợi ích đối với nền kinh tế khi gia nhập WTO là lớn hơn nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài chính Mý lan ra toàn cầu làm nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Bởi sự phát triển quá nóng những giai đoạn trước mà dẫn đến lam phát phi mã, chính phủ phải sử dụng đến những biện pháp kinh tế vĩ mô có tính tạm thời để giảm lạm phát. Đẩy mạnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất sàn, các ngân hàng phải nâng mức lãi suất cho vay lên cao, đến 24%. Nhà đầu tư và người đi vay khốn đốn và giảm các hoạt động đầu tư. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tuy có tăng 13,5% so với năm 2007 nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính là 80,4 tỷ USD, tăng 21,4% so với năm 2007. Cán cân thương mại không đều. Bội chi ngân sách nhà nước là 66,200 tỷ đồng, bằng 4,95% GDP. Đến năm 2009, dự kiến mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ là 8% GDP, thu ngân sách nhà nước giảm mạnh. Trong 6 tháng đầu năm 2009 ước đạt 14,9 nghìn tỷ đồng, lũy kế đến nửa đầu tháng 6 ước đạt 171nghìn tỷ đồng, bằng 43,9% dự toán cả năm. Trong đó thu nội địa đạt 105 nghìn tỷ đồng, bằng 45,1% dự toán năm. Thu từ dầu thô đạt 23 nghìn tỷ đồng, bằng 36,1% dự toán năm. Thu từ xuất nhập khẩu đạt 41,1 nghìn tỷ đồng, bằng 46,6% dự toán năm. Nhưng tổng chi ngân sách nhà nước đạt 197,5 nghìn tỷ đổng, bằng 40,2% dự toán năm cho thấy mức thâm hụt ngân sách ở nước ta. Thu ngân sách nhà nước đang bị đè nặng bởi khủng hoảng kinh tế và các chương trình phát triển nền kinh tế. Chính phủ phải đưa ra hai gói kích cầu để kích thích nền kinh tế, kích thích tiêu dùng trong xã hội và tăng thu nhập công lên. Tuy nhiên, hiệu quả của hai gói kích cầu này vẫn chưa thể giải quyết hết sức ép đè nặng lên thu nhập công. Nền kinh tế tăng trưởng chậm với GDP dự đoán không vượt quá 5% đã đang là thách thức với thu nhập công của nước ta. Một khi dòng vốn FDI chảy yếu đi và mức giải ngân yếu kém như hiện nay, thì nhà nước lại càng phai đẩy mạnh chi tiêu công thêm để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế chính trị của mình. Cho thấy rằng, giải quyết tốt quan hệ giữ thu nhập công và sự phát triển kinh tế, tăng cường phát triển kinh tế chính là yếu tố tác động mạnh mẽ đến thu nhập công, làm cho ngân sách nhà nước giảm bội chi quá mức, ổn định trong thời kỳ biến động. II.2. Trình độ tổ chức hoạt động thanh toán và hạch toán Khi trình độ hiện đại trong thanh toán và hạch toán gia tăng, thu nhập công cũng sẽ tự động tăng theo mà không cần điều chỉnh mức thu vì lúc đó mọi khoản thu và chi phí của mọi tổ chức và cá nhân được ghi chép và phản ánh minh bạch hơn, nên quá trình Nhà nước động viên một phần thu nhập của nhân dân cũng chính xác và công bằng hơn, đặc biệt trong quản lý và thu thuế. Vì trong thu nhập công, thuế chiếm hơn 70% tổng thu ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trình độ thanh toán và hạch toán càng hiện đại, nhà nước có thể giảm và kiểm soát phần nào sự thất thoát trong thu ngân sách, tăng thu ngân sách và đảm bảo công bằng giữa các chủ thể trong xã hội. Tăng động viên vào ngân sách nhà nước và làm lành mạnh hóa đời sống kinh tế- xã hội. Tính hiện đại trong công nghệ thanh toán thể hiện trước hết ở sự phong phú đa dạng của các phương tiện thanh toán, loại hình thanh toán, trình độ công nghệ, sự phát triển của các tổ chức tài chính trung gian cung cấp dịch vụ và thói quen của dân chúng. Xu hướng chung khi mà nền kinh tế các phát triển thì tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế càng tăng, theo đó thu nhập công cũng tăng lên. Cuối tháng 8-2007, thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về thực hiện chi trả lương các đối tượng được hưởng lương từ nguồn ngân sách Nhà nước qua tài khoản từ đầu năm 2008. Lợi ích của việc chi trả lương qua tài khoản không chỉ dừng lại ở việc góp phần hạn chế và ngăn chặn được tình trạng tham nhũng vì kiểm soát được nguồn thu của cán bộ, công nhân viên chức qua tài khoản, mà ý nghĩa của nghiệp vụ này còn rộng lớn hơn. Đó là tiết kiệm nhân lực và tiết kiệm hàng loạt chi phí cho các đơn vị chi trả lương, tiết kiệm chi phí cho hệ thống Kho bạc Nhà nước và tiết kiệm thời gian cho người hưởng lương… Hiệu quả chung mà cả nền kinh tế tiết kiệm được thật sự là rất lớn. Cũng chính nhận thấy hiệu quả của dịch vụ này mà các đơn vị tiên phong chính là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp có đông công nhân, đã chủ động phối hợp với các Ngân hàng thương mại thực hiện từ nhiều năm qua. Bởi vì tiết kiệm các chi phí trong chi trả lương cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức mạnh cạnh tranh, vì có thể giảm chi phí, giảm giá thành, tăng lợi nhuận. Từ những lợi ích đó mà thu nhập công tăng lên. Số liệu mới nhất đến đầu tháng 7.2009 cho thấy, số đơn vị thực hiện trả lương qua tài khoản đạt trên 26.600 đơn vị với số người nhận lương đạt gần 1,32 triệu người, tương đương mức tăng hơn 2 lần so nửa đầu năm 2008. Số lượng các máy ATM được lắp đặt mới cũng tăng mạnh trong thời gian qua khi đạt 8.900 máy, tăng 1.230 máy so với cuối năm 2008. Ngoài tiện ích thông thường, nhiều dịch vụ mới cũng được triển khai mở rộng và nhờ đó, thay vì chỉ thực hiện rút tiền, chủ các tài khoản có thể mua sắm hàng hoá, dịch vụ qua mạng, đặt vé máy bay... Song khi mà năng lực đầu tư cơ sở hạ tầng ATM, POS của các tổ chức cung ứng còn hạn chế cũng như thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ biến, dịch vụ trả lương qua tài khoản đến nay vẫn chưa thể phát huy hết các tiện ích cho người sử dụng. Do đó không chỉ dừng ở việc phát triển về số lượng, Vụ Thanh toán (NHNN) nhấn mạnh, phải sớm mở rộng kết nối các hệ thống ATM, POS của các Ngân hàng trong hệ thống liên minh với nhau và tiến hành cải tiến quy trình tra soát, xử lý lỗi liên Ngân hàng nhằm giảm thiểu thời gian tra soát, khiếu nại cho khách hàng. Đồng thời, ứng dụng các giải pháp công nghệ mới làm gia tăng tính năng của thẻ thanh toán và đẩy mạnh hợp tác với nhiều đơn vị cung ứng dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Về lâu dài Ngân hàng nhà nước cho rằng, Bộ Tài chính cần sớm hoàn thiện và triển khai các đề án thành phần trong Đề án thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ, đặc biệt với nội dung khuyến khích dịch vụ này bằng chính sách thuế giá trị gia tăng và chính sách thuế xuất nhập khẩu. Trình độ hạch toán thể hiện ở ở phương tiện sử dụng, thể hiện ở công nghệ và thói quen của dân chúng. Trình độ hạch toán cao sẽ làm giảm được thất thoát ngân sách và phản ánh minh bạch, chính xác hơn các khoản thu và chi phí của mọi tổ chức và cá nhân. Ở Việt Nam hiện nay mọi doanh nghiệp, tổ chức đều hạch toán theo chế độ kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 23/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính được sửa đổi bổ sung theo thông tư số 161/2007/TT-BTC ngày 31/12/2007 của Bộ Tài Chính. Trước đây, trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp việc hạch toán ở các cửa hàng cấp 2, cấp 3, cấp 3 còn thô sơ, nhà nước quản lý không chặt chẽ làm thất thoát trong thu, chi công, do đó đã dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, lạm phát tăng hơn 700%. Hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác hạch toán kế toán với các phần mềm tiện ích như : Misa ,fast ,bravo... công tác kế toán đã được đơn giản hoá, chính xác và minh bạch hơn. Từ đó cung cấp các số liệu chính xác hơn, là cơ sở để nhà nước thu thuế, tránh được tình trạng tham nhũng lãng phí quỹ công. II.3. Trình độ nhận thức của dân chúng Khi ý thức của người dân càng cao họ càng nhận ra sự cần thiết của nhà nước và trách nhiệm của mỗi bên ( nhà nước và dân chúng ) trong tiến trình thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Khi đó, đóng góp tài chính cho Nhà nước là một nghĩa vụ hiển nhiên của mọi công dân để cùng chia sẻ những chi phí công cộng. Đến khi đó nghĩa vụ đóng góp tài chính cho nhà nước không còn là nặng nề nữa bởi nó là kết quả của một quá trình nhận thức của dân chúng về trách nhiệm của mình với nhà nước. Trình độ nhận thức cao của dân chúng cũng giúp Chính phủ có những hành xử công bằng sòng phẳng hơn và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. Hiện nay, Việt Nam đã được thế giới công nhận về nỗ lực xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên bên cạnh nghèo đói kinh tế, hiện người ta đang nghiên cứu thêm nghèo đói dưới các góc độ nghèo tri thức và nghèo nhân văn: "Nghèo về tri thức và nhân văn cho thấy nhiều người giàu lên có thể vẫn ít có ý thức về việc học hành, nâng cao nhận thức về văn hóa thực thụ, dù họ có nhiều cơ hội hơn và thay vào đó, một số có thể dẫm đạp lên các giá trị nhân văn và còn có các hành vi làm tổn hại tới cộng đồng, xã hội và lịch sử.". Vì vậy mà vẫn tồn tại một bộ phận người dân vẫn chưa thực sự hiểu được vai trò của tài chính công đối với sự phát triển của Xã hội, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của Nhà nước. Chính vì vậy nên họ cũng chưa ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. Nên đâu đó một bộ phận người dân cố tình khai khống thuế, trốn thuế, cá biệt có doanh nghiệp cố tình dây dưa chiếm dụng tiền thuế (do lãi suất vay ngân hàng lớn hơn tỷ lệ phạt chậm nộp) làm thất thu Ngân sách Nhà nước mỗi năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng ảnh hưởng tới chương trình phát triển kinh tế Xã hội của chính phủ ta Hiện tượng trốn thuế đặc biệt ở nhóm giàu ở đỉnh trên cùng, mà hiện cũng khó xác định là chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong nhóm chiếm khoảng từ 5-10% dân số Việt Nam, có vẻ là một trong các nguyên nhân trực tiếp của bất bình đẳng xã hội và khoảng cách giàu nghèo đang giãn rộng trong nhóm dân số giàu có, có hiện tượng một bộ phận không nhỏ được hưởng lợi từ hệ thống chính trị, quyền lực và đang đảm bảo lợi thế xã hội giàu có của mình bằng việc trốn thuế, đặc biệt là thuế thu nhập và lợi tức cá nhân. Hiện tượng này cũng xảy ra trong một bộ phận những người có quyền chức ở địa phương, nhiều người có thể trốn thuế thu nhập, lợi tức qua việc không khai báo đầy đủ hoặc lách luật đối với những tài sản hoặc dòng thu nhập dẫn tới tài sản của họ như buôn bán, tích trữ địa ốc, tài chính, cổ phiếu và các tài sản có giá trị khác. Hiện tượng trốn thuế thu nhập và tợi lức, mặc dù đang được kỳ vọng xử lý, đã lan rộng từ các lĩnh vực kinh tế tới giáo dục, nơi thu nhập cá nhân khai thuế của các viên chức ở khu vực công mới bắt đầu được xử lý giản đơn qua hình thức 'trả lương qua thẻ tín dụng ngân hàng”. II.4. Năng lực pháp lý của bộ máy nhà nước Chính Phủ là một bộ máy do xã hội xây dựng để dẫn dắt xã hội đạt được những mục tiêu công cộng. Do đó bộ máy này đương nhiên phải dựa trên một căn bản pháp lý vững chắc và phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng. Năng lực pháp lí của bộ máy nhà nước được nâng cao sẽ giúp Chính phủ đặt ra và quản lí hữu hiệu các khoản thu phù hợp thể chế và khả năng chịu đựng của doanh nghiệp cũng như của dân chúng. Đồng thời hạn chế thất thu đến mức tối thiểu ở cả khu vực Nhà nuớc lẫn khu vực ngoài Nhà nuớc. Qua đó góp phần nâng cao tính minh bạch trong quá trình động viên và sử dụng một phần của cải của xã hội. Năng lực pháp lý của nhà nước đối với thu nhập công thể hiện ở chỗ hệ thống bộ máy thu thuế, phí, lệ phí, và các khoản thu khác hoàn thiện tới đâu, chặt chễ tới đâu, chặt chẽ đến đâu và có hiệu quả đến đâu. Để đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý thu thuế, Chính phủ sẽ ban hành Luật quản lý thuế nhằm quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan và bổ sung quyền cưỡng chế thuế, điều tra khởi tố các vụ vi phạm về thuế. Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt Nam từ nay đến năm 2010 cũng đặt ra mục tiêu: Các chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào Ngân sách Nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và giành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Thực hiện tỷ lệ động viên thuế và phí vào Ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm 20%-21% GDP. Thực hiện hệ thống phục vụ đối tượng nộp thuế có chất lượng cao theo mô hình "một cửa", giảm chi phí cho cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế. Xây dựng các quy trình, thủ tục quản lý thuế đơn giản, minh bạch. II.5. Hiệu quả hoạt động của Chính phủ Đối với một doanh nghiệp hiệu quả hoạt động sẽ được thể hiện thông qua các chỉ tiêu điển hình như: Vòng quay hàng tồn kho, vòng quay vốn lưu động, tốc độ tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu …Và ngưòi ta sẽ dùng các phương pháp so sánh để đánh giá hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Còn đối với một Chính phủ thì một Chính phủ hoạt động hiệu quả khi nó sử dụng nguồn lực tài chính một cách thích hợp để cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công được xã hội chấp nhận. Do đó phải xem bộ máy Chính phủ đó có cồng kềnh hay không. Nếu cồng kềnh thì phải tinh giảm gọn nhẹ nhưng vẫn phải đạt đuợc hiệu quả tốt nhất. Như vậy sẽ giảm được những khoản chi tiêu không cần thiết. Hơn nữa khả năng cung cấp hàng hoá và dịch vụ công đã đúng đắn hợp lí hay chưa. Nếu chưa đòi hỏi phải cung cấp tốt hơn hiệu quả hơn và phải có chất luợng cho xã hội. Do vậy Chính phủ càng hoạt động hiệu quả thì khả năng thu từ các khu vực kinh tế và dân cư càng cao. Ngược lại, khả năng thu từ dân cư càng cao thì sẽ gia tăng tiềm lực tài chính để phát triển bề rộng và chiều sâu những hoạt động của Chính phủ. Cho nên năng lực bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu quả thì tình hình buôn lậu cũng như tìm mọi cách giảm lợi nhuận trước thuế để tránh nộp thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ không còn. Và như thế khả năng thu ngân sách sẽ đuợc hiệu quả hơn. Nhưng trên thực tế thì Chính phủ sử dụng nguồn lực tài chính vẫn chưa thích hợp. Cụ thể là việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cuối tháng 2 vừa qua, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bản báo cáo dài 20 trang chính thức + 147 trang phụ lục về "Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thời gian qua và dự kiến kế hoạch năm 2009".“Thời gian qua” được tính từ năm 2003 đến hết ngày 31/12 năm 2008. Trong 5 năm đó, số vốn đã giải ngân của các bộ, ngành và địa phương đạt 59.812 tỷ đồng, bằng 54% tổng số vốn trái phiếu Chính phủ của cả giai đoạn 2003-2010. Cũng trong giai đoạn này, Bộ Giao thông Vận tải chỉ có 5/181 dự án cơ bản hoàn thành. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 19/62 dự án cơ bản hoàn thành.Riêng trong năm 2008, kết quả giải ngân đạt khoảng 21.342,4 tỷ đồng, bằng 73,4 % kế hoạch. Trong đó kết quả giải ngân các dự án y tế tuyến huyện chỉ đạt 24,3% kế hoạch, các dự án giáo dục cũng chỉ đạt 41% kế hoạch. Trong số nhiều dự án chậm tiến độ có Quốc lộ 32 đoạn Nam Thăng Long – Diễn khởi công từ tháng 10/2004 nhưng hiện còn 250 hộ dân chưa giải phóng mặt bằng (trong đó có 150 hộ chưa có phương án tái định cư). Mỗi năm, ngân sách bội chi 5%, chưa tính tới khoản phát hành trái phiếu Chính phủ và các khoản đầu tư ngoài ngân sách. Nghĩa là Việt Nam phải tiếp tục đi vay cả bên ngoài lẫn trong nước, trong khi tiền lại tồn đọng trong kho bạc, ngân hàng. "Đây là sự lãng phí ghê gớm", Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai nói. Cho rằng phát hành thêm trái phiếu để làm đường ôtô về các xã miền núi như cách làm lâu nay là không khả thi, vì chỉ cần một trận mưa là đường sá trôi hết, dẫn đến sự “lãng phí ghê gớm” đó. Song theo Ủy ban Tài chính - Ngân sách thì ngân sách Nhà nước đã “gánh nặng” khi con số tổng mức đầu tư tăng cao do nhiều dự án kéo dài cùng với sự biến động của giá cả: năm 2003, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ là 63.064 tỷ đồng, đến 2006 tăng lên 110 nghìn tỷ đồng và đến nay số vốn này dự kiến lên tới 230.496 tỷ đồng. Chính phủ cũng tính toán, nhu cầu nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho giai đoạn 2003-2010 và một số năm sau là 385.414 tỷ đồng.“Tình trạng giải ngân chậm, một số dự án, công trình kéo dài, gây lãng phí, hiệu quả thấp, làm tổng mức đầu tư tăng cao và không có điểm dừng…”, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đánh giá. Chỉ rõ “hậu quả nghiêm trọng cho xã hội” như đã nói trên có nguyên nhân từ trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương còn rất thấp. Trước đề nghị xin phát hành thêm 11.500 tỷ đồng trái phiếu trong năm 2009 của Chính phủ để kích cầu, có ý kiến cho rằng “chưa có cơ sở khoa học thì đừng để năm nào cũng ùn lên rồi lại chuyển cho năm sau”. "Chúng ta làm vài năm nữa thì nghỉ nhưng con cháu phải trả nợ như thế nào", ông đặt câu hỏi.Và nỗi quan ngại của các đại biểu “thay mặt nhân dân quyết định việc tiêu tiền” càng tăng thêm khi năm nay, ước tính ngân sách Nhà nước có thể giảm thu từ 50.000-90.000 tỷ đồng, và sức ép tăng chi cho an sinh xã hội ngày càng lớn. Nhưng khi đã chỉ ra hiệu quả “chưa đạt được như mong muốn”, Ủy ban Tài chính - Ngân sách vẫn “đề nghị Chính phủ tính toán, có thể tăng mức phát hành đến 20.000 tỷ đồng” trái phiếu Chính phủ. Chủ nhiệm Phùng Quốc Hiển giải thích, qua giám sát, nhiều dự án giao thông, thủy lợi tính đồng bộ chưa đảm bảo do bố trí vốn không đủ, làm cầu mà không có đường lên cầu, có hồ chứa nước nhưng lại thiếu kênh dẫn nước…nên cần tập trung bố trí đủ vốn để hoàn thành dứt điểm.Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thuyết phục được các vị đại biểu khi thực tế năm 2008 đã cắt giảm 25% tổng vốn trái phiếu Chính phủ nhưng giải ngân vẫn không hoàn thành. PHẦN III: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NHẬP CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. III.1. Thực trạng thu nhập công ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái năm 2009, kinh tế Việt Nam vốn dễ bị thương tổn bởi các cú sốc bên ngoài sẽ càng gặp nhiều khó khăn và thách thức. Các dự báo về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cho năm 2009 đều ở mức thấp hơn hẳn so với tốc độ tăng trưởng thực tế năm 2008 (dự báo xoay quanh mức 5%). Trong bối cảnh đó, dự báo năm 2009 sẽ là năm có rất nhiều áp lực và thách thức đối với thu ngân sách Nhà nước. Đầu tư công được coi là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, do hiệu quả thấp, vốn đầu tư nhà nước luôn đi cùng lãng phí và tốn kém. Tình hình này đã được cảnh báo từ lâu nhưng vẫn chưa được cải thiện. Trong một báo cáo mới đây, các chuyên gia Bộ KH-ĐT cho biết, tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa vào việc gia tăng vốn đầu tư và thâm dụng nguồn tài nguyên một cách thái quá. Theo dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2009, dự toán thu là 296,7 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa từ dầu thô là 233 nghìn tỷ đồng. Cho thấy, cơ câu thu của nước ta vẫn còn dựa khá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên là dầu mỏ, khi mà nguồn thu này luôn biến động khó lường trên thế giới. Vì vậy khi giá dầu thô giảm đã ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách nhà nước. Theo dự toán thu từ dầu thô trên cơ sở giá dầu thô thanh toán bình quân năm đạt 70 USD/ thùng. Tuy nhiên từ đầu năm cho đến nay giá dầu thô trên thế giới luôn dao động ở mức 40-50 USD/ thùng, dự báo nếu giá dầu thô bình quân cả năm 2009 đạt khoảng 50 USD/thùng (giảm 20 USD/thùng so với giá dự toán) thì thu ngân sách từ dầu thô giảm khoảng 6% so với dự toán; thu nội địa từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất giảm khoảng 0,3% so với dự toán. Mặc dù giá dầu thô hiện đang có dấu hiệu nhích lên, nhưng giá dầu thanh toán bình quân của 3 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 42,7USD/thùng, giảm 27,3USD/thùng so với giá tính dự toán và giảm 53,8USD/thùng so với cùng kỳ năm 2008. Vì vậy, dù sản lượng dầu thanh toán ước đạt 3,5 triệu tấn (bằng 22% sản lượn kế hoạch), thu ngân sách từ dầu thô chỉ ước đạt 16,1% kế hoạch. Ngoài lý do suy thoái kinh tế toàn cầu, cần phải nhắc đến một số yếu tố khác làm ảnh hưởng đến thu NSNN. Đó là do thực hiện một số giải pháp miễn, giảm, giãn thuế. Chính phủ được điều hành linh hoạt chính sách thuế và xem xét các điều kiện cụ thể để giảm, giãn, hoãn một số thuế nhằm hỗ trợ sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu, chủ động ngăn ngừa sự suy giảm kinh tế trong nước. Kinh tế suy giảm, doanh nghiệp khó khăn, việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nhưng đối với ngành thuế lại là một thách thức, con số giảm thu sẽ lên đến hàng chục tỷ đồng. Theo báo cáo của Tổng cục thuế (Bộ Tài chính), việc thực hiện các giải pháp về thuế làm giảm số thu ngành thuế năm 2009 khoảng 16-20 % so với dự toán được giao. Trong khi nguồn thu ngân sách đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thì tình trạng gian lận thuế vẫn là những thách thức đối với ngành tài chính, cho dù Luật quản lý thuế đã trao khá nhiều quyền hạn cho cơ quan quản lý thuế (cơ quan thuế và hải quan) trong việc xử lý tình trạng này. Mặt khác nguồn thu về xuất nhập khẩu giảm cũng làm thu nhập công giảm mạnh. Theo số liệu của Bộ Công Thương tổng kim ngạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm nay ước tính chỉ đạt gần 14000 triệu USD, nhập khẩu cũng giảm 42% so với cùng kỳ năm 2008 chỉ đạt gần 12000 tỷ USD. Kinh tế toàn cầu bị khủng hoảng các thị trường lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU cũng trong tình trạng suy thoái làm tăng khó khăn trong việc đẩy mạnh và tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Khủng hoảng đã làm thị trường xuất khẩu của Việt nam bị thu hẹp, dự kiến kim ngạch xuất khẩu có khả năng không tăng, kim ngạch nhập khẩu sẽ còn giảm so với năm 2008 vì suy giảm kinh tế trong nước. Bên cạnh đó Việt Nam kể từ khi gia nhập wto do cam kết hội nhập kinh tế và khu vực nên thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và vat hàng nhập khẩu cũng bị giảm theo. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập khẩu giảm theo". Tổng hợp tác động của các yếu tố thu ngân sách nhà nước năm 2009 có thể giảm hơn 53000 tỷ đồng, một con số rất lớn do đó rất cần có những biện pháp để khắc phục tình trạng trên. III.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách năm 2009 đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2009 cần phải kết hợp nhiều biện pháp. Khủng hoảng kinh tế thế giới làm các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, đầu tư, việc làm, thu ngân sách nhà nước…đã gặp rất nhiều khó khăn vì vậy đòi hỏi mọi người phải đồng lòng triển khai những giải pháp cấp bách mà nhiệm vụ hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế. Để ngăn chặn suy giảm kinh tế Chính phủ đã đưa ra các giải pháp cấp bách nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát. Đầu tiên là thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Các bộ, ngành và các địa phương tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp và người dân duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là những ngành nghề, lĩnh vực là lợi thế của đất nước như nuôi trồng và xuất khẩu các mặt hàng thủy sản, gạo, cà phê, cao su; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn như sản phẩm chế biến, dệt may, giày dép, đồ gỗ, sản phẩm nhựa; mở rộng thị trường du lịch và nghiên cứu việc miễn visa cho một số nước để thu hút khách du lịch… Triển khai ngay nhiều biện pháp tài chính, tiền tệ, đầu tư…giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn qua đó các Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể để tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, như tiếp tục xem xét giảm dự trữ bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô. Còn các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật. Thực hiện kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất, kinh doanh, đảm bảo kích cầu đầu tư và tiêu dùng mà còn đảm bảo việc làm cho người lao động. Chính phủ đã thống nhất dành 1 tỷ đô la (16 nghìn tỷ đồng) để sử dụng vào mục đích kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Để bù đắp những khoản giảm thu ngân sách nhà nước do tác động của suy giảm kinh tế thì ngành thuế bên cạnh việc thực hiện miễn, giảm, giãn thuế đúng, đủ theo đúng quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng thì phải nỗ lực triển khai quyết liệt các giải pháp quản lý thu kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, hạn chế nợ đọng thuế, tăng cường công tác chống thất thu thuế, khai thác tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước… Cơ quan thuế phải tăng cường theo dõi, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế của các tổ chức, cá nhân, phát hiện ngay các trường hợp kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp, phát hiện kịp thời những đối tượng có dấu hiệu gian lận để có biện pháp đôn đốc, xử lý, thu hồi kịp thời. Rà soát, kiểm tra phân loại nợ đọng thuế, tập trung lực lượng triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế để thu hồi nợ đọng, thực hiện giao chỉ tiêu thu nợ năm 2009. Một số đề xuất cho giải pháp cải cách thuế : mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp thuế suất huy động tối đa nguồn tài chính cho ngân sách, mở rộng các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt qua đó điều tiêt thu nhập tăng nguồn thu , kiến nghị tăng mạnh thuế tài nguyên đặc biệt là đối với tài nguyên là khoáng sản kim loại do đây là loại tài nguyên quý hiếm có giá trị kinh tế cao và không tái tạo lại được, nâng cao mức thuế suất đối với khoáng sản sẽ góp phần hạn chế việc khai thác tràn lan thúc đẩy việc khai thác tiết kiệm, hiệu quả góp phần bảo vệ và nâng cao giá trị tài nguyên đồng thời tăng mức thu cho ngân sách. IV. Kết luận: Thu nhập công không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nước cho các bộ ngành địa phương mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân những người giám sát và thụ hưởng các dịch vụ công cộng. Để nâng cao hiệu quả của thu nhập công trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề nhạy cảm luôn tiềm ẩn khó khăn thách thức vì vậy cần được quan tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện một cách thường xuyên có chương trình kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Trên đây là một số giải pháp nổi bật nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập công để góp phần quan trọng vào quá trình sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước từ đó ổn định kinh tế đảm bảo an sinh xã hội. Vì thời gian thảo luận có hạn cộng thêm năng lực và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên bài viết này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm 3 chúng em rất mong được sự chỉ bảo tận tình của các thầy (cô) giáo, sự góp ý chân thành của các bạn trong nhóm phản biện để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN NHÓM 03

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập công (Môn Tài Chính Công - SV nhóm 03 ĐH Thương Mại.doc
Luận văn liên quan