Đề tài Phân tích chi tiêu công trường hợp của Lafrasia

Về chi tiê u công: đặc biệt là chi tiêu đầu tư nhà nước cần ưu tiên đầu tư hỗ trợ cho chính quyền địa phương xây trường học và trung tâm y tế, bảo dưỡng đường xá, trồng cà phê, mở rộng đường sắt vì tình trạng xấu của đường bộ và đường sắt hiện tại thì cần có cả sự nâng cấp giao thông để vận chuyển cà phê kết hợp cải thiện hệ thống lưu trữ gần cảng. Cũng cần thiết tăng diện tích trồng trọt và cung cấp dịch vụ hỗ trợ tốt hơn cho nông nghiệp, hệ thống cấp nước và điện tới người dân để đảm bảo đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu cho người dân; bảo dưỡng các toà nhà công, mở rộng hạ tầng sân bay và cảng. Ngành cà phê có tiềm năng phát triển thêm về khâu chế biến và sản xuất thành phẩm, sẽ mang lại thêm nhiều việc làm với mức lương cao hơn đồng thời tăng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, đều này đòi hỏi có sự đầu tư công cho việc bảo dưỡng và phục hồi đường bộ và đường sắt cũng như chi phí điều hành cho hỗ trợ kỹ thuật. Ngành cà phê cũng đòi hỏi một dự án quy hoạch cây trồng ngay để có thể duy trì sản lượng trong tương lai Ngoài ra, phải dành một khoản chi tiêu bắt buộc cho việc bảo dưỡng và điều hành, bao gồm nhân sự, thiết bị và các nguồn cung ứng. Về lĩnh vực giáo dục và sức khỏe: nên xem xét phân bổ lại chi cho giáo dục giữa trung ương và địa phương, tư nhân, và giữa sinh viên và gia đình. Các trường đại học nên chú ý dạy lý thuyết kết hợp với thực tiễn và trang bị thêm nhiều hơn nữa các thiết bị, dụng cụ học tập cho các ngành khoa học kỹ thuật. Cần có những chương trình dạy học cho những người lớn mù chữ để họ biết đọc, biết viết và những khóa học về những kỹ thuật trong nông nghiệp. Cần có những lớp tập huấn cơ bản để trang bị cho người dân những kiến thức về chăm sóc sức khỏe từ bước cơ bản (dinh dưỡng, miễn dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và những chương trình tương tự) đến bước 2, bước 3, bao gồm cả việc điều trị tại bệnh viện và chăm sóc sức khỏe dài hạn.

pdf26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2134 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chi tiêu công trường hợp của Lafrasia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cường sự kiểm soát với ngân sách chi đầu tư. Ngân sách hàng năm được chuẩn bị theo một cơ sở tăng trưởng cơ bản, và thường giữa năm sẽ có sự cắt giảm toàn diện nếu doanh thu được tính toán không đạt được. Kết quả là việc thực hiện các chiêu tiêu theo kế hoạch (chẳng hạn thực hiện dự án) thường bị trì hoãn. Hơn nữa, các dự án đầu tư công thường cho thấy các khó khăn trong việc thực hiện do thiếu hụt kỹ năng quản lý và kỹ thuật. Hạ tầng đô thị Tại Lafrasia có một lượng lớn dân di cư đến các thành phố đặc biệt là thủ đô. Giao thông cộng cộng trở nên quá tải và xuống cấp. Chỉ khoảng 60% dân số đô thị (tỷ lệ này ở nông thôn là thấp hơn) được tiếp cận với nguồn cung nước sạch và thuận tiện, hệ thống cấp nước đang trong điều kiện hư hại cần sửa chữa. Sự thiếu hụt về nhà ở đã là một vấn đề thường xuyên trên cả nước, các khu ổ chuột xuất hiện tại các thành phố lớn. M ột hậu quả của việc bùng nổ dân số và thiếu hụt dịch vụ bảo vệ sức khỏe, cấp nước là tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm cao hơn, tình hình càng xấu hơn bởi việc không có chính sách y tế công thích hợp cho đô thị. Các tòa nhà công, bảo tàng và thư viện cũng cần thiết được duy trì và phục hồi. Hệ thống đường giao thông. Quốc gia có 2600 dặm đường cao tốc chính, 8.600 dặm đường phụ, và 11.000 dặm đường nhỏ rẽ nhánh không được tráng nhựa. Ngân sách dùng cho các công trình xây dựng chủ đạo và nâng cấp nhưng việc tu bổ và cải tạo hệ thống đường xá không chủ yếu thì phải sử dụng vượt ngân sách 342 triệu pesos (theo tỷ giá hiện hành khoảng 45.6 triệu USD) để tu bổ mặt đường 11,200 dặm đường và 11.000 dặm dường phụ. Quỹ này dùng để phân bổ Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 8 cho nhân công, vật liệu, thiết bị máy móc và xe cộ. Bởi vì có nhiều dự án còn dang dở, việc chi tiêu này đồng nghĩa với việc các con đường nhỏ sẽ được quan tâm trong 10 năm nữa, đường cao tốc trong vòng mỗi 5 năm, đường phụ và đường cao tốc cấp 2 trong vòng 6-8 năm. Các con đường phụ thì không được trải nhựa, nhưng đảm bảo lưu thông bình thường. Sự sao nhãng các con đường phụ đã làm cho ¾ các con đường này không thể cho phương tiện nào nặng hơn xe gắn máy lưu thông được. Các con đường chính cũng ở trong tình trạng xấu cần cải thiện bề mặt. Hai con đường chính, 1 con đường dẫn đến thủ đô Bahia Linda và 1 dẫn đến khu vực nông trường trồng ca cao có nhiều đường vòng và mỗi đường trong số này đều trong tình trạng xấu. Một vài cây cầu không chịu được trọng tải nặng và phải được xây dựng lại hay ít nhất gia cố lại để cho phép xe tải lưu thông. Theo tính toán của bộ trưởng bộ tài chính, chi phí tu bổ tất cả các con đường sẽ gấp 10 lần cho chi phí cấp sách vở cho sinh viên ở 8 cấp bậc trong 10 năm nữa. Áp lực chi tiêu thường xuất hiện vào cuối chu kỳ ngân sách làm phức tạp hơn chương trình nâng cấp đường giao thông bằng cách rút ngắn đi giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch chi tiêu sửa chữa và tu bổ . Đăng kí tài sản Vấn đề chính yếu trong lĩnh vực đường xá là sự thiếu vắng của bảng kê đầy đủ các con đường. Việc đăng kí tài sản hạn chế, đặc biệt việc xem xét điều kiện thuận lợi công việc tu bổ là vấn đề chủ yếu. Loại trừ các công trình xây dựng của chính phủ vốn được ghi chép và kiểm kê tốt, hầu hết tài sản công không tuân theo 1 lịch trình thanh tra thường xuyên và tu bổ theo kế hoạch. Tu bổ sửa chữa Việc tu bổ bị hoãn lại liên tục do cơ sở hạ tầng bị hư hỏng nghiêm trọng đặc biệt là đường xá, hệ thống thủy lợi, các công trình xây dựng của chính phủ. Việc sao nhãng chi tiêu cho tu bổ bảo quản đã đẩy chi phí ước tính 2.5%GDP, hay 9% trong tổng chi tiêu của chính phủ. Lịch trình bảo dưỡng càng yếu kém thì nhu cầu cải tạo hạ tầng càng gia tăng mạnh mẽ. Đội ngũ nhân viên kỹ thuật không được đào tạo đầy đủ, kế họach chương trình ngân sách không nhận được số liệu dự thảo hay từ nhà quản lý DNNN, và họ cũng không đánh giá được các nhu cầu cần bảo dưỡng. Việc giám sát bảo dưỡng khá phức tạp do mâu thuẫn phát sinh – hầu hết các quỹ được lập từ chính phủ, nhưng trách nhiệm thực hện bảo dưỡng là do địa phương thực hiện. So sánh chi phí So sánh với các quốc gia khác trong khu vực, chi tiêu của Lafrasia trong lĩnh vực quản lý và cho sức khỏe và giáo dục vẫn còn ở mức thấp. M ặc dù có nền quân chủ 10 năm và mối quan hệ tương đối mềm dẻo với các nước láng giềng, chi cho quốc phòng vẫn còn cao. Trợ cấp cho SOEs làm kiệt quệ ngân sách, khi mà có một số lượng lớn các nhân viên chức trong khu vực công. Số liệu bảng 2.3 Bảng 2.3 So sánh chi tiêu vốn trên đầu người tại một số lĩnh vực năm 1989 Danh mục Lafrasia Các quốc gia cùng trình độ phát triển Đường xá Bảo dưỡng Phục hồi/Xây dựng mới 3.76 1.14 2.62 7.50 1.15 4.35 Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 9 Giáo dục Xây dựng Chi quản lý 26.6 3.76 22.81 32.67 10.25 21.92 Doanh thu Doanh thu nội địa gia tăng 10% trong vài năm gần đây, là kết quả của việc cải tiến quản lý kiểm soát thuế. Cùng với các khoản vay nợ và viện trợ từ bên ngoài, thâm hụt ngân sách giảm tư 40% xuống 16% tổng chi ngân sách cho đầu tư và thường xuyên. (khoảng 3.7%). Các con số này thể hiện sự cải tiến vượt bậc so với số liệu cách đây, khoảng thời gian vẫn còn cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, khắc phục sự hỗn loạn 30 năm qua, mong chờ các hỗ trợ đa phương về tư vấn hỗ trợ kỹ thuật, cũng như cần quỹ tài trợ cho tái cấu túc nguồn tài nguyên và giảm thâm hụt ngân sách. Xem bảng 2.4 Bảng 2.4: Doanh thu chính phủ năm 1988-1989 Danh mục Pesos (triệu) Tỷ lệ phần trăm Doanh thu thuế Xuất khẩu Nhập khẩu Thu nhập Thuế khác 27,305 9,370 6,625 5,687 5,623 55.3 19.0 13.4 11.5 11.4 Phí và lệ phí Giao thông Điện Thông tin liên lạc Nước Giáo dục Y tế Khác 8,904 672 1,042 1,946 1,762 322 389 2,771 18.0 1.4 2.1 3.9 3.6 0.7 0.8 5.6 Viện trợ và vay nợ 12,150 5.6 Khác 1,023 24.6 Tổng Doanh thu 49,383 2.1 Tổng chi tiêu 57,622 100.00 Thâm hụt ngân sách -8,239 116,7 Chi phí phục hồi và Trợ cấp Khoản trợ cấp quan trọng được phân bổ cho việc tái phục hồi chi phí đặc biệt là dành cho đường xá, lĩnh vực công và DNNN. Chi phí cho các dịch vụ trong nhóm DNNN thì khá thấp, nhưng vẫn thể hiện gánh nặng của sự nghèo khó. Phí dịch vụ y tế thấp (đặc biệt là dịch vụ điều trị cho nhân viên chức nhà nước), và thường là không thu phí. Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo đang xem xét phân bổ lại chi cho giáo dục giữa trung ương và địa phương, tư nhân, và giữa sinh viên và gia đình, tuy nhiên vẫn chưa có 1 đề nghị nào cả. Về đường xá giao thông, phí cấp phép cho xe mô tô và thuế nhiên liệu hiện đang được dành riêng cho việc tu bổ đường xá nhưng doanh thu từ nguồn này có thể trang trải cho 60% chi phí tu bổ, do đó vẫn không thể đảm bảo hệ thống đường bộ khỏi tình trạng bị hư Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 10 hại. Trợ cấp cho ngành mía đường và cho vận tải công cũng là các vấn đề bàn cãi. Một số trợ cấp cho DNNN để giải quyết tình trạng dư thừa lao động, các doanh nghiệp này sẽ thuê mướn các lao động trình độ thấp. Lương khu vực công Việc xác định chính xác số lượng lao động trong khu vực công gặp khó khăn do có 01 số lượng lao động tạm thời và sự yếu kém của trong việc quản lý tiền lương và tuyển dụng đăng kí công chức. Tuy nhiên, ước tính con số này khoảng 1 triệu người bao gồm trong lĩnh vực quốc phòng, giáo dục và DNNN. Con số này chiếm khoảng 2.5% dân số và 6% số nguời trong độ tuổi lao động. Nếu tính luôn trong quốc phòng và giáo dục và DNNN thì số lượng lên đến 1.8 triệu người chiếm 11% số người trong độ tuổi lao động. Số liệu này cao hơn khoảng 3% so với các nước trung bình cùng trình độ phát triển. Hầu như tốc độ phát triển lao động trong khu vực công diễn ra trong suốt thời kì ngay sau khi tiến lên chế độ dân chủ năm 1978, trong nỗ lực xây dựng sự ủng hộ của đại đa số mọi người cho chế độ mới. Trong điều kiện quốc gia còn nghèo, vẫn còn 1 số lượng rất lớn lao động trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, số lượng nhân viên chức nhà nước còn rất lớn. Lao động dư thừa đạt trình độ thấp. Nhiều nhân viên chức nhà nước phục vụ trong khu vực công lấy sự tốt đẹp hơn thay cho tiền lương- như tài xế và người giúp việc với nhiều chức vụ khác nhau trong cơ quan hành chính công. Đề nghị cải cách Có nhiều áp lực từ các tổ chức đa phương và quốc gia viện trợ yêu cầu giảm quỹ lương trong khu vực công, và quỹ lương này cũng đã thực sự giảm nhưng không tương xứng với việc giảm số lương lao động trong khu vực công. Tỷ lệ 10% được đề nghị nhưng có ý kiến chống đối rằng điều này sẽ dẫn đến việc lực lượng lao động rời khỏi các khu vực quan trọng như y tế, giáo dục, nông nghiệp trong khi các khu vực khác sẽ tiếp tục tinh giảm biên chế. Việc tinh giảm biên chế cũng sẽ đòi hỏi trình độ tốt hơn ở mổi công chức so với hiện nay. Kỹ năng và huấn luyện Nhiều lao động thời vụ không có kỹ năng, họ được nhận làm việc để giảm tình trạng thất nghiệp, nhưng hầu hết có năng suất lao động thấp. Họ cảm thấy thỏa mãn với khoản tiền lương nhà nước ít ỏi, làm đêm ngoài giờ và và vắng mặt nhiều trong giờ làm việc. Việc quản lý yếu kém đã tạo điều kiện cho các viên chức làm thêm việc thứ 2. Có ít kỹ năng quản lý (trong lĩnh vực kinh tế, kế toán, quản lý công) và kỹ năng kỹ thuật ( kỹ sư, nhân viên y tế, giáo viên chuyên môn), cũng như ít chương trình đào tạo để phát triển các kỹ năng. Nhiều người được đào tạo tốt thì rời khỏi đất nứơc trong suốt thời gian quân đội chiếm đóng, và các điều kiện không đủ hấp dẫn kéo họ trở lại. Thêm vào đó, việc thiếu các phương tiện làm việc như máy tính cá nhân, máy đánh chữ, thiết bị liên lạc và máy photocopy cũng đã hạn chế trong công tác đào tạo nhân viên. Chế độ đãi ngộ. Các vấn đề của khu vực dịch vụ bị làm trầm trọng thêm bởi cán cân thanh toán không được kiểm tra kỹ kể từ khi đất nước được độc lập. Tiền lương thực tế đã giảm đi nhiều so với tiền lương danh nghĩa do lạm phát, và các nhu cầu chi tiêu cao (nhà cửa, xe hơi, du lịch nước ngoài) là 1 nhân tố đẩy tiền lương lên mức mong đợi cao hơn. Ngay cả khi được toại nguyện, những người được đào tạo và có trình độ tốt vẫn tìm cơ hội ở khu vực tư nhân vốn sẽ có thu nhập cao hơn. Thu nhập trung bình hàng năm của 1 cán bộ viên chức khoảng 18,000 pesos (200 USD/tháng). Các điều kiện khác như nhà cửa, xe hơi làm Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 11 dịu vấn đề này nhưng tiền lương vẫn còn quá thấp để giữ chân được nhân tài làm việc trong khu vực công trong thời gian dài. Đối với các lao động có trình độ thấp, tiền lương trung bình hằng năm khoảng 3000-9000 pesos 1 năm (33-100 USD/tháng). Nhiều nhân viên chức có trình độ thấp phải cải thiện đồng lương bằng cách làm thêm công việc khác. Trong hoàn cảnh đó, cũng dễ hiểu rằng nhiều cơ quan thuê nhân viên làm bán thời gian. Vấn đề quản lý Các cán bộ công chức phải giải quyết các vấn đề hành chính có tiếng trong việc thờ ơ và hờ hững trong vệc nói năng, ăn vận và quan tâm bình thường của công dân. Một ngoại lệ trong lĩnh vực bưu chính, khi một nữ lãnh đạo được đào tạo nước ngoài có sáng kiến khuyến khích và tán dương các nhân viên ăn mặc đồng phục. Thành công của cô bị hạn chế một phần là do quỹ lương có hạn, nhưng cùng với các nỗ lực trong kinh doanh bán các bộ tem kỷ niệm và các dịch vụ đặc biệt đã giúp cho cô gia tăng quỹ lương dùng để khen thưởng trong việc tăng năng suất và khích lệ nhân viên. Và kết quả là việc quản lý của cô đã giảm đi tình trạng nhân viên trốn việc và tỷ lệ tăng doanh thu cao hơn so với các ngành khác trong chính phủ mặc dù ngành bưu chính cũng vẫn phải chịu cảnh thiếu nhân viên được đào tạo tốt. Nhìn chung, cũng khó khăn trong việc quản lý khu vực công bởi vì không có đăng ký số lượng nhân viên tập trung có mô tả công việc và hệ số lương. Chính phủ cũng đang nỗ lực trong việc liệt kê số lượng nhân viên chức và nhiệm vụ họ đảm trách. Trong mọi nỗ lực, chính phủ cũng đang cố gằng tinh giảm số lượng lao động trong khu vực công khoảng 3% trong vòng 3 năm. Thật ra, còn nhiều việc phải làm để tạo nên hệ thống hành chính công ở Lafrasia. 3. CÁC KHU VỰC KINH TẾ: NÔ NG NGHIỆP VÀ CÔN G NGHIỆP Tại Lafrasia, 46% GDP được tạo ra từ nông lâm ngư nghiệp; 26% từ công nghiệp (bao gồm cả khai khoáng) và 18% từ khu vực dịch dịch vụ. Sản phẩm xuất khẩu có nguồn gốc chủ yếu từ ca cao, đường và gỗ nhiệt đới. Cơ cấu tổng quát của xuất nhập khảu được trình bày chi tiết ở bảng 3-1. Bảng 3-1. Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, 1988-89 (triệu peso) Khoản mục 1988 1989 Xuất khẩu 30,397 39,516 Hàng hóa 28,386 37,429 Ca cao 13,533 18,796 Đường 4,040 4,589 Dược phẩm 4,792 5,860 Gỗ 2,859 3,386 Khác 3,163 4,798 Dịch vụ 2,010 2,087 Nhập khẩu 38,135 46,906 Hàng hóa 31,395 38,441 Ngũ cốc 9,295 10,380 Hàng tiêu dùng 9,649 13,084 Hàng hóa vốn 10,216 12,195 Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 12 Khác 2,235 2,782 Dịch vụ 6,740 8,465 Chênh lệch các cân thương mại -7,738 -7,390 Tỷ trọng % chênh lệch trên GDP 4.4 3.3 Nông nghiệp Kinh tế Lafrasia chủ yếu dựa vào nộng nghiệp. Nông lâm ngư nghiệp chiếm 46%GDP và sử dụng khoảng 60% lực lượng lao động. Ca cao Ca cao chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu và thuế xuất khẩu cao cao đóng góp 30% nguồn thu thuế của chính phủ. Chi phí sản xuất ca cao ở Lafrasia vào diện thấp nhất thế giới. Tuy nhiên thuế xuất khẩu đang làm giảm ưu thế này đối với các nhà sản xuất tại những khu vực đất đai không màu mỡ. Là cây trồng xuất khẩu với mức lợi nhuận cao tuy nhiên ca cao dễ bị tác động bởi tình hình thị trường thế giới và điều kiện thời tiết không thuận lợi. Do không yêu cầu về mặt địa hình nên ca cao cũng là một trong số ít cây trồng có thể phát triển với số lượng lớn tại đất cao nguyên, nơi có lượng mưa và chất đất thích hợp. Sản xuất ca cao xuất khẩu nếu so với các cây trồng khác thì không đòi hỏi đầu tư lớn về kỹ thuật, tưới tiêu hay điện khí hóa. Tuy nhiên với tình trạng xấu của đường bộ và đường sắt hiện tại thì cần có cả sự nâng cấp giao thông để vận chuyển ca cao kết hợp cải thiện hệ thống lưu trữ gần cảng. Cũng cần thiết tăng diện tích trồng trọt và cung cấp dịch vụ hỗ trợ tốt hơn nhưng do ngân sách của bộ nông nghiệp có giới hạn nên Bộ không thể mở rộng đầu tư hay cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nông dân trồng ca cao. Cây mía Cây mía là cây trồng có ưu thế tại các đồng bằng trung tâm nhưng nhu cầu về sản phẩm đang giảm và sẽ có lợi khi phát triển các cây trồng khác nhiều lợi nhuận hơn. Năm ngoái sản phẩm đường tinh luyện chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu. Để tăng trưởng thị phần của ngành mía đường trên thị trường thế giới đòi hỏi nguồn đầu tư công cho tưới tiêu, công cụ cơ khí, phương tiện cất trữ và vận tải đến các cảng biển để xuất khẩu. Các năm trước, chính phủ đã chú trọng đầu tư phát triển hệ thông tưới tiêu nhưng hiện nay hệ thống này đã xuống cấp nặng cần được sửa chữa. Với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới, Lafrasia buộc phải miễn thuế xuất khẩu và trợ cấp xuất khẩu đường để giữ ưu thế. Sản phẩm khác Dù quy mô nhỏ nhưng ngành công nghiệp gỗ cũng đóng góp 9% kim ngạch xuất khẩu. Ngành này có nhu cầu lớn về điện, nước và giao thông, các xe tải nặng chuyên chở hiện gặp khó khăn khi đi trên đường mà đặc biệt là đường chưa trải nhựa khi vận chuyển từ rừng ra đường quốc lộ dẫn đến cảng. Quốc gia hiện đang nhập một lượng lương thực đáng kể gồm ngô, gạo, dầu và thục phẩm chế biến. Bộ nông nghiệp khuyến khích nông dân chuyển đổi từ cây mía sang sản xuất ngũ cốc, đặc biệt là các giống mới mang lại hoa lợi cao, nhưng hiện đang thiếu nguồn hỗ trợ và hệ thống tín dụng nông nghiệp cần thiết cho việc thực hiện chuyển đổi. Việc thiếu chuyên gia kỹ thuật và nguồn vốn tạo ra sự khó khăn cho việc giúp đỡ người nông dân vốn đang rất muốn thử nghiệm các giống cây trồng và phương pháp trồng trọt mới. Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 13 Những chính sách ưu tiên cho nông nghiệp Cùng với việc gia tăng sản xuất lương thực, Bộ nông nghiệp nhận định khả năng đầu tư phát triển của các ngành xuất khẩu hiện tại. Ngành ca cao có tiềm năng phát triển thêm về khâu chế biến và sản xuất thành phẩm, sẽ mang lại thêm nhiều việc làm với múc lương cao hơn đồng thời tăng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên đều này đòi hỏi có sự đầu tư công cho việc bảo dưỡng và phục hồi đường bộ và đường sắt cũng như chi phí điều hành cho hỗ trợ kỹ thuật. Ngành cacao cũng đòi hỏi một dự án quy hoạch cây trồng ngay để có thể duy trì sản lượng trong tương lai. Hiện tại, chính phủ chỉ phân bổ 828 triệu peso tức khoảng 2% ngân sách cho nông nghiệp, điều này chưa tương xứng với vai trò đóng góp chính của lĩnh vực này trong GDP, xuất khẩu và sử dụng lao động. Nguồn chi chủ yếu ở khu vực này là dành cho trợ cấp mía đường, mở rộng mạng lưới tưới tiêu, nghiên cứu nông nghiệp, dự án trồng cây ca cao và hệ thống cất trữ. Nông dân không có nguồn cung cấp hay nguồn vốn hỗ trợ nghiên cứu và phát triển nông nghiệp trong hoạt động cộng với tình trạng đường xá xấu gây trở ngại cho việc đưa giống cây trồng ra thị trường. Công nghiệp Hai tập đoàn đa quốc gia đã thành lập các nhà máy lắp ráp điện tử tại Lafrasia trong 5 năm qua. Các ngành công nghiệp khác gồm dệt may, lắp ráp ôtô, hoá chất, giầy, đồ uống đóng chai và xi măng (một doanh nghiệp nhà nước). Công nghệp xi măng đang thua lỗ, chính phủ phải trợ cấp 150 triệu peso mỗi năm. Giá xi măng sản xuất trong nước cao hơn giá thế giới nhưng việc trợ cấp cộng với thị trường được bảo hộ một phần giúp cho ngành này tồn tại. Ngành sản xuất xe đạp quy mô nhỏ và được bảo hộ cao chủ yếu phục vụ cho nhu cầu nội địa. Một nhà đầu tư nước ngoài gần đây đã xây dựng một nhà máy lắp ráp điện tử tại khu vực phi mậu dịch mới thành lập. Một số công ty nhỏ, chủ yếu là doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh, xử lý gỗ nguyên liệu để bán cho các nước công nghiệp dùng vào mục đích xây dựng. Ngành công nghiệp xuất khẩu chính là dệt may, linh kiện ôtô, hóa chất và điện tử (được lắp ráp trong nước từ các linh kiện nhập khẩu). 4. LĨNH VỰC XÃ HỘI: GIÁO DỤC VÀ SỨC KHỎE Giáo dục Giáo dục công nhận được khoảng 16% từ ngân sách hoạt động của chính quyền trung ương và một phần của các cấp địa phương. Hầu hết những khoản chi tiêu của địa phương để xây dựng trường tiểu học hoặc bổ sung thêm cho ngân sách trung ương. Khu vực tư cũng đóng góp một phần khá quan trọng trong giáo dục ở tất cả các cấp độ khác nhau. Bảng 4-1 cho ta thấy sự phân phối số lượng sinh viên/học sinh ở những cấp độ giáo dục khác nhau và giữa khu vực công và khu vực tư. So sánh 1 học sinh trong một nhóm người có cùng mức sống tại một quốc gia nào đó chi tiêu khoản 2.218USD cho bậc cao đẳng, 327USD cho bậc trung học và 243USD cho bậc tiểu học. Thị phần của trường tư ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở cấp tiểu học và trung học. Cách đây 10 năm, trường tư thu hút chỉ khoảng 17% học sinh ở cấp tiểu học và 25% cấp trung học. Bộ Giáo dục đã nhận ra sự thay đổi này đối với các trường tư và đã rất hưởng ứng; bởi vì tại các trường công, lớp học quá đông, chất lượng giáo viên kém và thiếu sách giáo khoa rất nhiều. Chi tiêu cho giáo dục Toàn bộ khoản chi tiêu cho giáo dục tại Lafrasia đuợc xem là rất thấp so với các quốc gia khác. Bảng 4-2 cho chúng ta một số số liệu cơ bản trong việc chi tiêu ngân sách trung Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 14 ương cho giáo dục tại các cấp khác nhau. Chi tiêu cho giáo dục tại chính quyền địa phương chủ yếu là cho việc xây dựng trường học, ngoại trừ trường tiểu học do không đủ kinh phí. Bảng 4-1. Giáo dục, sự phân chia học sinh, năm 1998 Chỉ tiêu Số lượng học sinh (ngàn) % Cấp cao đẳng Khu vực công Khu vực tư Cấp trung học Khu vực công Khu vực tư Cấp tiểu học Khu vực công Khu vực tư Người lớn tuổi Tổng cộng Khu vực công Khu vực tư 115 77 38 687 458 229 4.800 2.894 1.106 126 5.728 3.426 1.376 2 67 33 14 57 43 81.8 73 27 2.2 100 71 29 Bảng 4-2. Chi tiêu của một học sinh, năm 1998 Chỉ tiêu Chi tiêu của 1 học sinh (USD) % trong tổng chi phí Cấp cao đẳng Cấp trung học Cấp tiểu học Người lớn 3.287 525 143 43 27.7 26.3 45.1 0.06 Cấp cao đẳng, đại học Những học sinh tốt nghiệp cấp trung học sẽ được học tiếp lên cao đẳng, tuy nhiên có sự không cân đối ngân sách trong chi tiêu cho giáo dục tại cấp cao đẳng này. Các bài kiểm tra đầu vào có tính chọn lọc cao, chỉ những học sinh tốt nghiệp từ những trường tư và những trường công có chất lượng mới được thừa nhận. Học phí rất thấp (75 Pesos mỗi học kỳ), và những sinh viên học tại đây được nhận khoản trợ cấp sinh hoạt, chiếm phần lớn trong tổng Ngân sách trung ương cấp cho trường. Thị trường đang có nhu cầu lớn về y tá, giáo viên và những người quản lý đào tạo cho các trường công lẫn trường tư. Tuy nhiên, các trường đại học chỉ dạy nhiều về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn và thiếu trang thiết bị, dụng cụ học tập cho các ngành khoa học kỹ thuật. Giáo dục tại cấp cao đẳng đang trong tình trạng rất xấu. Tính bình quân 5 tỉnh thì mới có một trường, tuy nhiên các trường này đều trong tình trạng thiếu giáo viên, thiếu nguồn tài trợ, lớp học rất đông và trang thiết bị, dụng cụ học tập lại càng thiếu. Tuy nhiên, tại các trường kỹ thuật và trường chuyên ngành là trường tư nhân và có mức học phí cao. Bởi vì Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 15 hầu hết những sinh viên tại trường đại học công được tuyển vào những ngành khoa học xã hội hơn là những ngành về khoa học, kỹ thuật, quản lý; những học viện có ưu thế hơn trong việc đào tạo những kỹ năng chuyên ngành cho cả khu vực công và tư. Tại 5 trường đại học công lập, lương cho các giáo sư bị cắt giảm và việc tăng số lượng quản lý làm giảm đi nguồn tiền dành để sửa chữa, bảo trì những trang thiết bị, dụng cụ học tập. Cấp trung học Cấp trung học (từ lớp 8 -> 12) chỉ được xây dựng tại thành phố và những tỉnh lớn. Miễn phí phần học phí, và học sinh có cơ hội tiếp cận việc học tập tốt nhưng sẽ không đủ chỗ cho tất cả những học sinh muốn tham dự. Một vài nơi, việc thu nhận học sinh có sự cạnh tranh nhau, những học sinh có gia đình giàu có thường được ưu tiên hơn. Có một số trường trung học được thành lập bởi những tổ chức tôn giáo và những tổ chức phi chính phủ (NGOs) dành cho những học sinh ở tỉnh xa và không có điều kiện vào trường công. Một nhóm gia đình và cộng đồng đã đóng góp để mua những trang thiết bị và dụng cụ học tập. Nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn có thể không thể tiếp tục học nếu không có tiền mua sách vở và dụng cụ học tập. Số liệu về giáo dục bậc trung học được tổng kết tại bảng 4-3. Bảng 4-3. Bậc trung học, 1988 Tiêu chí Tỷ lệ/Số tiền Tỷ lệ nhóm tuổi được trúng tuyển Trường công Trường tư Chi tiêu cho sách, dụng cụ học tập Tỷ lệ chi phí hoạt động chính phủ bỏ ra cho giáo dục Nhân sự Trợ cấp Chi phí cho một học sinh 22% 12.5% 9.5% 3.33USD/Học sinh 54% 39% 525USD Cấp tiểu học Giáo dục tiểu học thì miễn phí, và có những trường tiểu học miễn phí hoàn toàn nhưng chỉ tập trung ở một số địa phương. Thực tế, những đứa trẻ đi học lúc 6 tuổi nhưng chỉ 40% hoàn thành được chương trình 8 năm. Nhiều học sinh phải ở lại lớp hoặc có điểm số rất thấp khi hoàn thành khóa học. Có nhiều giáo viên thiếu kinh nghiệm, không được đào tạo bài bản hoặc được đào tạo trong thời gian quá ngắn. Bên cạnh đó, việc thiếu dụng cụ học và thiếu sách giáo khoa cũng là một trở ngại lớn. Trường tiểu học, nhìn chung rất đông học sinh, xây dựng thành những phòng học lớn và được duy trì bởi chính quyền địa phương và đuợc sự hỗ trợ của những tổ chức công cộng và gia đình học sinh. Trong khi NGOs và một nhóm phụ huynh học sinh ra sức lấp đầy những kẻ hở trong giáo dục đã tạo ra những áp lực lên những gia đình nghèo và rất có thể những đứa trẻ nghèo sẽ không thể đi học được. Với sự cạnh tranh gay gắt để có thể lên được bậc trung học cơ sở, học sinh giỏi thì vượt qua các kỳ thi một cách dễ dàng. Trong khi đó, có một số trường sẽ nhận những học sinh dựa vào tình hình tài chính mạnh của gia đình, kể cả khi học sinh đó bị rớt trong những kỳ thi. Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 16 Người lớn Có một nhu cầu rất lớn cho việc học tập của những người lớn nhằm để họ biết đọc, chăm sóc sức khỏe và những kỹ thuật về nông nghiệp. Khoảng 27% những ngừơi lớn tuổi bị thất học. Giáo dục cơ bản ở những người lớn tuổi là trách nhiệm của chính quyền Trung ương, nhưng kinh phí cho những chương trình này thường không tương xứng. NGOs đã lắp đầy những lỗ hỏng tại một số khu vực, nhưng phần lớn dân cư lớn tuổi thất học vẫn không thể tiếp thu được. Chăm sóc sức khỏe Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, những dịch vụ quan trọng bao gồm việc cung cấp đến những vùng quê xa xôi hẻo lánh nhất cho tới những khu vực thích hợp đều được chăm sóc từ bước cơ bản (dinh dưỡng, miễn dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và những chương trình tương tự) đến bước 2, bước 3, bao gồm cả việc điều trị tại bệnh viện và chăm sóc sức khỏe dài hạn. Việc tìm ra làm thế nào quản lý việc khôi phục lại chi phí trong khi những bệnh nhân quá nghèo. Hiện tại, những dịch vụ chăm sóc bổ trợ mang lại lợi nhuận cao hơn hoặc bằng với chi phí chăm sóc sức khỏe cơ bản cho người nghèo. Tại những thành phố lớn có những bệnh viện có những trang thiết bị hiện đại với sức chứa có giới hạn; những bệnh việc được nhà nước trợ cấp thì số giường bệnh cũng có hạn. Một vài bệnh viện thực hành cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, bao gồm việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ trẻ em tại những vùng nông thôn và dân nghèo thành thị, nhưng hầu hết chỉ cung cấp những loại thuốc thiết yếu (vắc xin, và những vật dụng sơ cấp cứu) và rất thiếu nhân viên y tế. Sự phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe Giống như giáo dục, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng tồn tại song song hai hệ thống công cộng và tư nhân. Khu vực tư nhân được chia thành hai lĩnh vực: Khu vực thương mại với những chuyên gia và những bác sĩ đa khoa có tay nghề cao, điều này đã mang đến những thuận lợi, phí cho việc cung cấp những dịch vụ cho bệnh nhân. Một quỹ được thành lập bởi NGOs nhằm tập trung ngăn chặn những căn bệnh và bảo vệ sức khỏe (dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, sức khỏe sinh sản và miễn dịch) sẽ rất có giá trị đối với những người dân tại khu vực nông thôn. Khu vực công cung cấp hầu hết những dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại những trung tâm và những bệnh viện (Có hai bệnh viện tư, một ở tại Thủ đô của Lafrasia và một ở tại Bahia Linda). Nhiều cư dân tại nông thôn sống xa những trung tâm chăm sóc sức khỏe và họ phải dùng những phương pháp cổ truyền để chữa bệnh hoặc phải đi một quảng đường thật xa mới có thể chữa trị được. Kết quả là những ngừơi này nhận được rất ít các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và thường là trong tình trạng cấp cứu. Vấn đề sức khỏe Dấu hiệu của vấn đề sức khoẻ phổ biến và nổi bật rất dễ dàng nhận thấy ở Lafrasia (điều này thể hiện ở bảng 1-1). Tỉ lệ tử vong trẻ là 8% cao hơn so với hầu hết các nước có mức thu nhập bằng với Lafrasia. Khoảng 10% dân số trẻ bị nhiễm HIV. Những căn bệnh khác không được kiểm soát bởi vì thiếu các phương tiện phòng ngừa, phương pháp vệ sinh, nước sạch, và thuốc men. Chưa đến 60% người trẻ nhận được sự tiêm ngừa bệnh. Sự suy dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ nữ, phụ nữ có thai, và người già, đang phổ biến ở những khu nhà ổ chuột và một số vùng quê nghèo. Thành phần của chi tiêu. Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 17 Bảng 4-4 cung cấp những dữ liệu tương đối trong sự chỉ định chi tiêu cho việc chăm sóc sức khoẻ. Chi tiêu cho bệnh viện chiếm gần 55% ngân sách sức khoẻ công. Sự can thiệp mang lại kết quả như sự tiêm ngừa trước khi sinh, sự tiêm ngừa bệnh tật đang được xem xét. M ặc dù có sự tồn tại song song của mảng dịch vụ tư và công, nhưng những dịch vụ này vẫn giữ nguyên trong khi đó dịch vụ tư phát triển để đáp lại sự suy giảm về chất lượng của những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ công. Vì vậy, hệ thống đã thay đổi quá nhiều phương tiện khác nhau từ dịch vụ phòng ngừa và những dịch vụ chữa trị cho những người có thu nhập thấp và thu nhập cao để phục vụ cho cả người nghèo lẫn người giàu hiệu quả. Trong lĩnh vực chi tiêu đầu tư, lĩnh vực giáo dục sức khoẻ và giáo dục bậc cao đang chịu áp lực phải xây dựng lại những phương tiện thuận lợi thay vì sữa chữa và trang bị kiến thức sử dụng các phương tiện tồn tại tốt hơn. Bảng 4-4. Sự phân chia chi tiêu cho việc chăm sóc sức khỏe. Khoản mục Lafrasia Các nước có thu nhập tương đương Chi tiêu tính trên đầu người (USD) Chi tiêu đầu tư 3.07 1.88 Nhân sự 7.88 14.54 Phương tiện chữa bệnh 1.69 3.62 Khác 1.12 1.15 Tỉ lệ phần trăm (%) Chi tiêu khám chữa bệnh 54 33 Chi tiêu cho phòng ngừa 37 59 Khác 9 8 5. CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC SỞ HỮU NHÀ NƯỚC Có nhiều doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước ở Lafrasia. Ba lĩnh vực nhận được sự trợ cấp lớn nhất là: điện, nước và xi măng Ngành điện. Ngành điện của nhà nước nhận được sự trợ cấp đáng kể từ ngân sách của trung ương, chính yếu là chi tiêu đầu tư. Bởi vì những điều chỉnh về thuế xuất nhập khẩu đi chậm phía sau lạm phát, ngành điện đã ghi nhận lại sự thiếu hụt điện trong 3 năm qua. Có sự cản trở về chính trị đối với sự tiêu thụ điện quá mức và các nhà quản lý của ngành điện tin rằng sự tiêu thụ điện quá mức cần được giảm và tránh những cấu trúc với dung tích cao. Gần đây 35% những dụng cụ gia đình đã dùng đến điện năng. M ục đích chính của chính quyền là giảm sự gia tăng tốc độ tiêu thụ điện của những dụng cụ gia đình. Ngành nước Ủy ban về vấn đề nước của Lafrasia (LWC) chịu trách nhiệm quản lý nguồn nước, cấu trúc hệ thống, quản lý việc chế hóa, và những phương tiện chứa nước. Sự dẫn nước vào ruộng cho sự phát triển của cây mía và một số vụ mùa khác được cung cấp trong 2 tỉnh bởi LWC. Những thành phố và những ngôi làng lớn mua nước đã được xử lý từ LWC để phân phối tới người dân, duy trì hệ thống phân phối, và thu gom sự chi trả từ người sử dụng. Nước giếng và sông ngòi cung cấp cho hầu hết những ngôi làng nhỏ, và nó liên kết với nước được xử lý được sử dụng trong những ngôi làng nhỏ và những vùng nghèo Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 18 trong thành phố. Chính quyền trung ương chỉ trợ cấp giảm đi đối với sự vận hành hàng loạt, ngoại trừ trợ cấp không đủ cho việc duy trì và sữa chữa. Nguồn nước không đáp ứng 30% số lượng nước hiện tại. Chính quyền địa phương đã gây nên sự thiếu hụt, không đáp ứng đựợc nhu cầu của cộng đồng. Nước đã được xử lý để sử dụng khoảng 12 pesos 1 tháng cho trung bình 1 cá nhân trong hộ gia đình. Hệ thống nước thành thị thì quá cũ, nước rỉ ra đang gia tăng, và áp lực nước chậm trong nhiều phần của hệ thống. Hệ thống tưới nước cũng chịu đựng từ sự thiếu nguồn cung cấp nước. Ngành công nghiệp xi măng Chính quyền đảm trách ngành công nghiệp từ nhiều cty tư nhân quy mô nhỏ và chưa phát triển cách đây khoảng 10 năm. Xi măng là thành phần thiết yếu trong sự phát triển cơ sở hạ tầng, vì thế chính quyền đã đảm trách việc cung cấp xi măng tới SOEs và những người sử dụng tư với mức giá trợ cấp. Không giống như điện và nước, ngành công nghiệp này không đạt hữu dụng mà nó có thể đòi hỏi sự trợ cấp của chính quyền. Ngành công nghiệp xi măng thuê gần 8000 công nhân ở trong, gần và những vùng lân cận khác. Ngành công nghiệp chịu sự giám sát của bộ thương mại, mà nó kiểm soát giá và trợ cấp từ ngân sách chính quyền trung ương. Ngành công nghiệp xi măng bây giờ đã tiêu tốn khoảng 30 triệu pesos 1 năm. Những bảng sao kê tài chính đã tiết lộ rằng sự thiếu hụt bắt nguồn từ giá của xi măng thấp một cách giả tạo và sự quản lý không hiệu quả mà nó đã cho phép lượng công nhân đầu ra cao hơn ở ngành sản xuất xi măng tư nhân trong những vùng lân cận. Các nhà thầu tư nhân và chính quyền tỉnh đang phản đối một cách mạnh mẽ việc trợ cấp giá đối với xi măng. Vận tải ngoại thương Dịch vụ hàng không công cộng đang hoạt động rất tốt, nhưng nó vẫn không có thặng dư. Lợi nhuận đang được tái đầu tư để mở rộng & cải tiến sân bay quốc tế ở thủ đô của Lafrasia và sân bay nội địa tại Bahia Linda. Sân bay ở thủ đô thì khá tốt, khách du lịch là lượng khách hàng tương đối ổn định cho doanh nghiệp thương mại. Phí hạ cánh, phí đậu xe, phí cấp phép cho tài xế đã hợp thành nguồn thu chính cho 2 sân bay, mặc dù phí cho mỗi lần hạ cánh là 25$. Có một vài áp lực về chính trị trong việc phát triển sân bay địa phương để du lịch trong số các thành phố nhỏ. Các phương tiện đang vận hành hết công suất, tuy nhiên chúng cần được xem xét sửa chữa cũng như mở rộng. Vận tải nội địa Phí xe buýt cực kỳ thấp, khoảng 2 pesos và 15 pesos cho chuyến đi dài 100 miles giữa các thành phố và tỉnh. Những xe buýt thì cũ và được bảo trì một cách không đầy đủ Đường ray xe lửa đã kết nối thủ đô với bờ biển và những vùng lân cận của Andaria, đã đưa ra những dịch vụ hành khách và vận chuyển hàng hóa. Phí xe lửa được ước tính sẽ phục hồi lại hầu hết chi phí, mặc dù đa số những khách có thu nhập thấp chọn xe buýt bởi vì nó được trợ cấp rất lớn. Bởi vì cước phí vận chuyển có giới hạn, nên trợ cấp đường sắt tương đối bình thường, nhưng hầu hết các kho thì đã cũ và cần được thay thế. Doanh nghiệp công cộng khác Dịch vụ bưu điện đang có sự thiếu hụt nhất, do dịch vụ bưu điện miễn phí cung cấp cho chính quyền trung ương. Hệ thống điện thoại trả phí khá cao và tiêu hao hết ngân sách của khu vực công. Phần lớn chi phí chỉ dùng cho đầu tư vốn, nó không bù đắp đươc sự thiếu hụt trong ngân sách. Mặc dù trợ cấp thấp, nhưng dịch vụ điện thoại vẫn nhận lời chỉ trích bởi vì giá khá cao, dịch vụ thì không tốt, và chỉ có 18% dân số có điện thoại trong nhà của họ. Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 19 PHẦN 2 Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 20 Câu 1. Thông qua quy mô của khu vực công, đánh giá xem khu vực công chiếm bao nhiêu % trong toàn xã hội Chi tiêu khu vực công gồm 2 phần là chi đầu tư và chi thường xuyên. Chi tiêu thường xuyên tính chung cho chính quyền trung ương và địa phương chiếm khoảng 19% GDP. Cụ thể tồng chi thường xuyên của chính phù trong khu vực công năm 1988-1989 là 42.767 triệu pesos, trong đó chi cho khu vực xã hội chiềm tỷ lệ cao nhất 29.7%, theo sau là chi cho khu vực kinh tế (27.5%). Sự phân bổ chi tiêu công của chính phủ cho các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, xã hội cũng không chênh lệch nhau đáng kể, thể hiện định hướng phát triển đồng đều cân bằng trong tổng quan chung nền kinh tế. Trong lĩnh vực xã hội chi cho giáo dục chiếm tỷ trọng cao nhất, trong lĩnh vực kinh tế chi có phát triển ngành điện chiếm tỷ trọng cao nhất. Điều này thể hiện một xu thế tất yếu trong sự nghiệp phát triển con người và điều kiện hạ tầng cơ sở để phát triển kinh tế. Tuy nhiên với thực tế số lượng lao động trong khu vực công ước tính khoảng 1.8 triệu người chiếm 11% số người trong độ tuổi lao động (cao hơn 3% so với các nước trung bình cùng trình độ phát triển), thì việc chi quản lý cho khu vực công đang gặp vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết, trong đó việc tinh giảm biên chế cần thực hiện sớm để giảm bớt áp lực lên quỹ lương khu vực công. Điều này cũng được các tổ chức hỗ trợ đa phương và viện trợ khuyến cáo. Chi đầu tư khu vực công chiếm khoảng 7%GDP và 60% tổng đầu tư (công và tư) cả nước. Trong đó đầu tư cho khu vực kinh tế chiếm tỷ tọng cao nhất 65.7% và thủy điện nhận được tỷ lệ đầu tư rất lớn (43%) bởi cam kết sẽ cung cấp điện đến mỗi hộ gia đình. Trong khi đó đầu tư cho tu bổ hệ thống đường xá chiếm tỷ trọng nhỏ (1%), chi phát triển hệ thống đường sắt chiếm tỷ lệ khoảng 2%. Cụ thể ngân sách được chủ yếu các công trình xây dựng chủ đạo và việc tu bổ cải tạo hệ thống đường xá không chủ yếu thì phải sử dụng vượt ngân sách. Bên cạnh đó có nhiều dự án còn dang dở, cho nên mức độ tu bổ và bảo dưỡng hệ thống đường xá cũng hạn. Nhìn chung chính phủ đang tập trung nguồn lực quá lớn vào thủy điện mà không quan trọng hóa hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vốn rất cần thiết để phát triển kinh tế. Thu ngân sách Trong cơ cấu thu ngân sách, tương tự như các quốc gia khác, nguồn thu từ thuế chiếm tỵ trọng cao nhất 55.3% trong đó thu từ hoạt động xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất. Với điều kiện khí hậu tự nhiên thổ nhưỡng thích hợp cho ca cao phát triển, ca cao chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu và thuế xuất khẩu cao cao đóng góp 30% nguồn thu thuế của chính phủ trong khi đó chi phí sản xuất ca cao ở Lafrasia vào diện thấp nhất thế giới việc trồng cây ca cao không đòi hỏi đầu tư lớn về kỹ thuật, tưới tiêu hay điện khí hóa. Tuy nhiên với tình trạng xấu của đường bộ và đường sắt hiện tại thì cần có sự nâng cấp hệ giao thông để có thể phát triển hơn nữa sản phẩm kinh tế này. Một cây nông nghiệp thứ 2 mang lại nguồn thu ngân sách lớn là cây mía (sản phẩm đường tinh luyện chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu). Tuy nhiên để tăng trưởng thị phần của ngành mía đường trên thị trường thế giới đòi hỏi nguồn đầu tư công cho tưới tiêu, công cụ cơ khí, phương tiện cất trữ và vận tải đến các cảng biển để xuất khẩu. Trong khi đó hệ thống thủy lợi, đường xá chưa được đầu tư đúng mức để phát huy tối đa nguồn lực kinh tế này. Câu 2. Hãy chỉ ra phương pháp đánh giá mà trong "case study" đã sử dụng? Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 21 ­ Trình tự phân tích của tình huống trên về quốc gia Lafrasia là đi từ giới thiệu tổng quan, nêu khái quát hình hình kinh tế xã hội đến việc đánh giá nêu thực trạng trong khu vực công, sau đó mới phân tích chi tiết các khu vực kinh tế, xã hội, doanh nghiệp nhà nứơc. ­ Phương pháp đánh giá trong tình huống này là phân tích thực trạng kèm theo số liệu thực tế. ­ Hình thức trình bày và phân tích số liệu: phân tích cơ cấu, so sánh (so sánh với quốc gia khác). Câu 3. Quốc gia trong “case study” giống Việt Nam ở những điểm sau: 1. Về lịch sử và địa lý. Là một quốc gia nhiệt đới với sự đan xen của rừng và nông trang cộng với 1 phần diện tích là núi, biển đã thu hút một lượng khách du lịch. Nguồn năng lượng là thủy điện, than đá. Dân số: Chủ yếu sinh sống ở các thành phố lớn và vùng đồng bằng, Các tỉnh miền núi có mật độ dân số thưa thớt nhất. Tỷ lệ di cư đến thành phố đang tăng dần, nơi mà họ sống trong những căn nhà lụp xụp tồi tàn và kiếm sống bằng những việc làm thời vụ, bấp bênh, không đòi hỏi kỹ năng Chỉ số xã hội: Quốc gia có mức thu nhập trung bình; một số chỉ tiêu xã hội thể hiện sự không đáp ứng những nhu cầu tối tiểu về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, và những dịch vụ khác( tỉ lệ tử vong trẻ cao, tỉ lệ phụ nữ chết khi sinh cao,...) An ninh quốc phòng: Chính phủ là dân chủ và đa đảng, một số những đảng thiểu số dường như không chống lại những nỗ lực đảo chính. Nhưng chính phủ vẫn muốn duy trì một lực lượng quân đội mạnh để bảo vệ đất nước và chống lai một số vụ xung đột có nguyên nhân từ tôn giáo và sắc tộc. Kinh tế vĩ mô: Lạm phát vẫn tiếp diễn, tỷ giá hối đoái giảm liên tục, thu nhập bình quân đầu người thấp; tỷ lệ sinh đẻ cao - đặc biệt là vùng nông thôn, thu nhập bình quân đầu người thực tế chỉ tăng trưởng với tốc độ thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao. 2. Về phân cấp hành chính. Chia thành 2 cấp:chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Chính quyền trung ương: Chính quyền trung ương chịu trách nhiệm trong việc giải quyết các vấn đề thuộc những lĩnh vực thiết yếu và quan trọng Chính quyền địa phương:Các tỉnh không có quyền lực độc lập, họ đóng vai trò là cấp hành chính của chính quyền trung ương. Địa phương nhận nguồn vốn chủ yếu từ chính quyền trung ương, phần vốn bổ sung còn lại từ các khoản thuế địa phương được phép thu và các khoản phí, lệ phí 3. Về cơ cấu chi tiêu công. Chi tiêu điều hành:Chi chủ yếu vào khu vực xã hội ( giáo dục, sức khỏe, văn hóa, dịch vụ xã hội khác), khu vực kinh tế ( điện, nước , vận tải, hàng không, vịễn thông, bảo quản đường xá, …), chi quốc phòng, và các dịch vụ công thông thường. Chi đầu tư: Chi chủ yếu vào khu vực xã hội ( giáo dục, sức khỏe, văn hóa, dịch vụ xã hội khác), khu vực kinh tế ( điện, nước , vận tải, hàng không, vịễn thông, bảo quản Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 22 đường xá, …), chi quốc phòng, và các dịch vụ công thông thường. Hầu hết các khoản chi của chính quyền địa phương đều dùng cho việc bảo dưỡng hơn là đầu tư mới Chi thường xuyên cho các dự án: Dành một khoản chi tiêu bắt buộc cho việc bảo dưỡng và điều hành, bao gồm nhân sự, thiết bị và các nguồn cung ứng. Quản lý ngân sách: Không có cơ chế ngân sách và kế hoạch chính xác. 4. Về các vấn đề mang tính xã hội và kinh tế nổi bật. Hạ tầng đô thị: Có một lượng lớn dân di cư đến các thành phố lớn Giao thông cộng cộng trở nên quá tải và xuống cấp; tỉ lệ tiếp cận với nguồn cung nước sạch còn thấp, hệ thống cấp nước đang trong điều kiện hư hại cần sửa chữa. Các khu ổ chuột xuất hiện tại các thành phố lớn. Một hậu quả của việc bùng nổ dân số và thiếu hụt dịch vụ bảo vệ sức khỏe, cấp nước là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm,.... Hệ thống đường giao thông: Ngân sách dùng cho các công trình xây dựng chủ đạo và nâng cấp như việc tu bổ và cải tạo hệ thống đường xá không chủ yếu thì phải sử dụng vượt ngân sách,có nhiều dự án còn dang dở. Các con đường chính cũng ở trong tình trạng xấu cần cải thiện bề mặt. Một vài cây cầu không chịu được trọng tải nặng và phải được xây dựng lại hay ít nhất gia cố lại để cho phép xe tải lưu thông Tu bổ sửa chữa: Đội ngũ nhân viên kỹ thuật không được đào tạo đầy đủ, kế họach chương trình ngân sách không nhận được số liệu dự thảo hay từ nhà quản lý DNNN, và họ cũng không đánh giá được các nhu cầu cần bảo dưỡng 5. Về nhân sự và quản lý trong khu vực hành chính và kinh tế công Lương khu vực công: Số lượng lao động trong khu vực công chiếm tỉ trọng cao trong lĩnh vực quốc phòng, giáo dục và DNNN. Lương trong khu vực này còn thấp. Kỹ năng và huấn luyện: Nhiều lao động thời vụ không có kỹ năng, họ được nhận làm việc để giảm tình trạng thất nghiệp, nhưng hầu hết có năng suất lao động thấp. Nhiều người được đào tạo tốt thì rời khỏi đất nước việc; thiếu các phương tiện làm việc cũng đã hạn chế trong công tác đào tạo nhân viên. Chế độ đãi ngộ: Tiền lương thực tế đã giảm đi nhiều so với tiền lương danh nghĩa do lạm phát, và các nhu cầu chi tiêu cao (nhà cửa, xe hơi, du lịch nước ngoài) là 1 nhân tố đẩy tiền lương lên mức mong đợi cao hơn. Những người được đào tạo và có trình độ tốt vẫn tìm cơ hội ở khu vực tư nhân vốn sẽ có thu nhập cao hơn. Nhiều nhân viên chức có trình độ thấp phải cải thiện đồng lương bằng cách làm thêm công việc khác 6. Về khu vực kinh tế nông nghiệp và công nghiệp. GDP được tạo ra chủ yếu từ nông, lâm, ngư nghiệp. Nông nghiệp: Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nông-lâm- ngư nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong GDP và lao động trong nông nghiệp cũng chiếm tỉ trọng cao.Chi tiêu cho nông nghiệp còn thấp điều này chưa tương xứng với vai trò đóng góp chính của lĩnh vực này trong GDP, xuất khẩu và sử dụng lao động. Thiếu chuyên gia kỹ thuật và nguồn vốn tạo ra sự khó khăn cho việc giúp đỡ người nông dân vốn đang rất muốn thử nghiệm các giống cây trồng và phương pháp trồng trọt mới. Công nghiệp: Ngành công nghiệp xuất khẩu chính là dệt may 7.Về lĩnh vực xã hội: giáo dục và sức khỏe. Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 23 Giáo dục: Khu vực tư cũng đóng góp một phần khá quan trọng trong giáo dục ở tất cả các cấp độ khác nhau. Thị phần của trường tư ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở cấp tiểu học và trung học. Chi tiêu cho giáo dục tại chính quyền địa phương chủ yếu là cho việc xây dựng trường học. Các trường đại học chỉ dạy nhiều về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn và thiếu trang thiết bị, dụng cụ học tập cho các ngành khoa học kỹ thuật. Cấp trung học (từ lớp 8 -> 12) chỉ được xây dựng tại thành phố và những tỉnh lớn, sẽ không đủ chỗ cho tất cả những học sinh muốn tham dự. Chăm sóc sức khỏe: Tại những thành phố lớn có những bệnh viện với những trang thiết bị hiện đại nhưng sức chứa có giới hạn. M ột vài bệnh viện chỉ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản. Việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em tại những vùng nông thôn và dân nghèo thành thị chưa được quan tâm nhưng hầu hết chỉ cung cấp những loại thuốc thiết yếu(vắc xin, và những vật dụng sơ cấp cứu) và rất thiếu nhân viên y tế. Sự phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe: Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng tồn tại song song hai hệ thống công cộng và tư nhân. Nhiều cư dân tại nông thôn sống xa những trung tâm chăm sóc sức khỏe và họ phải dùng những phương pháp cổ truyền để chữa bệnh hoặc phải đi một quảng đường thật xa mới có thể chữa trị được Vấn đề sức khỏe: Tỉ lệ tử vong trẻ, thiếu các phương tiện phòng ngừa, phương pháp vệ sinh, nước sạch, và thuốc men Sự suy dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ nữ, phụ nữ có thai, và người già, đang phổ biến ở những khu nhà ổ chuột và một số vùng quê nghèo. Ngoài những điểm giống ở trên còn có điện, nước là lĩnh vực nhận được sự trợ cấp của nhà nước. Nguồn nước không đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Hệ thống nước thành thị thì quá cũ, nước rỉ ra đang gia tăng,… Vận tải ngoại thương: Khách du lịch là lượng khách hàng tương đối ổn định cho doanh nghiệp thương mại. Các phương tiện đang vận hành hết công suất, tuy nhiên chúng cần được xem xét sửa chữa cũng như mở rộng. Vận tải nội địa: Quốc gia này cũng có hệ thống xe buýt công cộng. Phí xe buýt cực kỳ thấp bởi vì được sự hỗ trợ của nhà nước. Câu 4. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Về phân cấp hành chính thì chính quyền trung ương nên tập trung nghiên cứu và phát triển nông nghiệp nhiều hơn nữa bởi vì nước ta hiện tại là nước nông nghiệp và chi tiêu cho đầu tư vào nông nghiệp chưa được tương xứng với vai trò đóng góp chính của lĩnh vực này trong GDP, xuất khẩu và sử dụng lao động Về quản lý nguồn thu ngân sách: Quản lý nguồn lực công là một quá trình kỹ thuật cao đòi hỏi một hệ thống cơ quan được vận hành tốt và nguồn nhân lực nhiều kỹ năng. Hệ thống lập kế hoạch và ngân sách với sự kết hợp của 3 nhân tố chính: Lập kế hoạch và chi ngân sách phải được cân nhắc trên cơ sở nguồn lực hạn chế giữa các chương trình theo cách phù hợp giữa các mục tiêu toàn diện và các chính sách vĩ mô. Tổng nguồn thích hợp được xây dựng từ các nhà làm chính sách phải được đưa vào ngân sách và chi tiêu cho chương trình đã dự định. Tiền chi tiêu phải được ghi nhận do đó việc sử dụng nguồn lực công có thể được tính toán một cách minh bạch và đúng lúc. Phân tích chi tiêu công GVHD: TS. Nguyễn Hồng Thắng Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 24 Ngoài ra, cần có sự ước lượng chi phí hằng kỳ trung hoặc dài hạn trong chương trình đầu tư công, như việc ước tính rằng mỗi đồng từ nguồn vốn vận động được dùng đầu tư cho một dự án sẽ cần một chi phí ngân sách hằng năm thường xuyên là bao nhiêu (tại mức giá cố định) cho điều hành và bảo dưỡng, được tính đến khi các dự án mới bắt đầu. Về chi tiêu công: đặc biệt là chi tiêu đầu tư nhà nước cần ưu tiên đầu tư hỗ trợ cho chính quyền địa phương xây trường học và trung tâm y tế, bảo dưỡng đường xá, trồng cà phê, mở rộng đường sắt vì tình trạng xấu của đường bộ và đường sắt hiện tại thì cần có cả sự nâng cấp giao thông để vận chuyển cà phê kết hợp cải thiện hệ thống lưu trữ gần cảng. Cũng cần thiết tăng diện tích trồng trọt và cung cấp dịch vụ hỗ trợ tốt hơn cho nông nghiệp, hệ thống cấp nước và điện tới người dân để đảm bảo đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu cho người dân; bảo dưỡng các toà nhà công, mở rộng hạ tầng sân bay và cảng. Ngành cà phê có tiềm năng phát triển thêm về khâu chế biến và sản xuất thành phẩm, sẽ mang lại thêm nhiều việc làm với mức lương cao hơn đồng thời tăng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, đều này đòi hỏi có sự đầu tư công cho việc bảo dưỡng và phục hồi đường bộ và đường sắt cũng như chi phí điều hành cho hỗ trợ kỹ thuật. Ngành cà phê cũng đòi hỏi một dự án quy hoạch cây trồng ngay để có thể duy trì sản lượng trong tương lai Ngoài ra, phải dành một khoản chi tiêu bắt buộc cho việc bảo dưỡng và điều hành, bao gồm nhân sự, thiết bị và các nguồn cung ứng. Về lĩnh vực giáo dục và sức khỏe: nên xem xét phân bổ lại chi cho giáo dục giữa trung ương và địa phương, tư nhân, và giữa sinh viên và gia đình. Các trường đại học nên chú ý dạy lý thuyết kết hợp với thực tiễn và trang bị thêm nhiều hơn nữa các thiết bị, dụng cụ học tập cho các ngành khoa học kỹ thuật. Cần có những chương trình dạy học cho những người lớn mù chữ để họ biết đọc, biết viết và những khóa học về những kỹ thuật trong nông nghiệp. Cần có những lớp tập huấn cơ bản để trang bị cho người dân những kiến thức về chăm sóc sức khỏe từ bước cơ bản (dinh dưỡng, miễn dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và những chương trình tương tự) đến bước 2, bước 3, bao gồm cả việc điều trị tại bệnh viện và chăm sóc sức khỏe dài hạn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_lafrasia_nhom_09_0711.pdf
Luận văn liên quan