LỜI MỞ ĐẦU
Vào thế kỷ XXI, nông nghiệp vẫn tiếp tục là công cụ chính cho sự phát triển bền vững và giảm nghèo, ¾ số người nghèo tại các nước đang phát triển sống ở khu vực nông thôn- 2,1 tỷ người sống dưới mức 2$/ngày và 880 triệu người sống dưới mức 1$/ngày. Sinh kế của họ hầu như phụ thuộc vào nông nghiệp. Dù họ ở đâu và làm gì thì phát triển nông nghiệp vẫn là việc cấp bách để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỉ về giảm một nửa số dân đang phải chịu cảnh nghèo đói vào năm 2015 và tiếp tục giảm nghèo trên diện rộng.
Việt Nam là một trong những nước có xuất phát điểm kinh tế thấp. Nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, ngành nông nghiệp Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Hàng loạt các chính sách phát triển của nông nghiệp – nông thôn ra đời nhằm hỗ trợ, khuyến khích sự tăng trưởng đó. Và tuy nền nông nghiệp rất rộng lớn, đa dạng và thay đổi nhanh chóng nhưng với các chính sách đúng đắn và đầu tư hỗ trợ cấp địa phương, quốc gia và rộng hơn nữa là toàn cầu, nông nghiệp vẫn tạo ra các cơ hội mới cho hàng trăm triệu người nghèo nông thôn thoát nghèo.
Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận và xem xét lại một cách nghiêm túc vấn đề phát triển nông nghiệp và coi đó như một vấn đề trung tâm của mục tiêu phát triển quốc gia.
Với những lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Phân tích chính sách của ngành nông nghiệp tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam kể từ thời kỳ đổi mới kinh tế đến nay”. Với sự giúp đỡ của GS. TS. Phan Thị Nhiệm, tôi đã nỗ lực để hoàn thành bài viết. Mặc dù vậy, việc mắc phải những sai sót là điều không thể tránh khỏi, vì vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía cô giáo bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4894 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chính sách của ngành nông nghiệp tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam kể từ thời kỳ đổi mới kinh tế đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cuối những năm 60 Hàn Quốc quyết định chuyển sang áp dụng chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Chiến lược này đã làm giảm thu nhập của các hộ nông dân và gây ra làn sóng phản đối mạnh mẽ. Để trấn an tinh thần trong cả nước, chính quyền Hàn Quốc đã đề ra chương trình phát triển nông thôn với các chính sách để tăng số tiền cho nông dân vay, mua ngũ cốc của nông dân với giá cao và bán lại với giá thấp, thay giống lúa cũ bằng giống lúa mới năng suất cao, khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các hợp tác xã sản xuất và các đội lao động để sửa chữa cầu cống, đường xá và nâng cấp nhà ở. Thời gian đầu, chương trình này đã đem lại một kết quả tích cực. Tuy nhiên sau đó lại bộc lộ những khuyết tật đáng kể. Chính sách trợ giá quá mức cho nông sản đặc biệt là việc thu mua lúa gạo của nông dân đắt gấp đôi giá thị trường thế giới, đã làm cho Ngân sách Nhà Nước thiếu hụt ngày càng lớn. Việc thay thế giống lúa mới tuy đạt được sản lượng cao hơn nhưng nông dân lại phải vay nợ để mua phân bón hóa học và thuốc trừ sâu. Còn việc thành lập các hợp tác xã và các hộ lao động phần nhiều không dựa vào cơ sở tự nguyện của người dân mà do sự thúc ép của chính quyền các cấp để chạy theo các chỉ tiêu của chương trình xây dựng “cộng đồng mới” ở nông thôn. Như vậy, Nhà nước Hàn Quốc từ chỗ là một nhân tố góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân trong một thời gian đã biến thành” vật hy sinh” của chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu. Tất cả các nhân tố nói trên đã làm sản xuất Nhà Nước sa sút và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Sự chênh lệch về mức thu nhập bình quân/ hộ gia đình, chất lượng hộ gia đình, phúc lợi xã hội và các dịch vụ công cộng khác… thúc đẩy phần lớn lực lượng lao động trẻ rời nông thôn đổ xô ra thành thị. Sự bất mãn của nông dân tăng lên dẫn đến cuộc biểu tình lớn biến thành náo loạn trước trụ sở Quốc hội Hàn Quốc ở Seoul 1988.
Để làm dịu bớt tình hình, các chính quyền tiếp theo ở Seoul phải điều chỉnh chiến lược kinh tế xã hội theo hướng coi trọng tầm quan trọng của phát triển nông thôn. Kế hoạch “ mười năm cải tiến cơ cấu nông thôn” đã được đưa ra nhằm cụ thể hóa “ Kế hoạch tổng thể về phát triển toàn diện nông thôn”.
Kế hoạch bao gồm bốn điều lớn:
Thứ nhất: Cải thiện cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hóa và công nghiệp hóa nông thôn. Coi trọng áp dụng công nghệ sinh học (kỹ thuật gien) trong các ngành trồng trọt và chăn nuôi, mở rộng khả năng chế biến, tiếp thị nhằm biến nông nghiệp Hàn Quốc thành ngành phát triển toàn diện, có chức năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Thứ hai: Thông qua các chính sách ưu tiên về đào tạo, tuyển dụng và biện pháp khác để thu hút thêm lao động trẻ vào sản xuất nông nghiệp, giữ một tỷ lệ thích đáng thanh niên ở lại nông thôn.
Thứ ba: nới lỏng những hạn chế pháp lý đối với quyền sở hữu ruộng đất tối đa để mở rộng các quy mô trang trại cùng với quá trình thúc đẩy cơ giới hóa các hoạt động canh tác.
Thứ tư: nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư nông thôn lên ngang với mức bình quân của một hộ làm công ăn lương ở thành phố. Đồng thời cải thiện chất lượng các dịch vụ…
Để thực hiện kế hoạch trên, chính phủ Hàn Quốc đã chi ra trên 42 tỷ won tương đương với 52,5 tỷ USD trong giai đoạn 1992-1998.
Tóm lại, mặc dù đã trở thành một nước công nghiệp mới, Hàn Quốc vẫn coi trọng phát triển nông nghiệp nông thôn để đảm bảo cân đối hợp lý trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
c, Đài loan:
Trong số các nước Nics , Đài Loan được đánh giá là nước có mô hình thành công nhất về việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp/ đô thị với nông nghiệp/ nông thôn. Đài Loan không có các điều kiện tự nhiên thuận lợi, sau cuộc chiến tranh Trung- Nhật 1985 Đài Loan trở thành thuộc địa của Nhật và sau này khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản rời khỏi Đài Loan, chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng lên nắm quyền cai trị ở đây. Với viện trợ kinh tế, tài chính và bảo hộ quân sự ở Mỹ, chính quyền Đài Loan đã cố gắng tìm ra các chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp. Kết quả chỉ trong vòng hơn 3 thập kỷ, Đài Loan từ một nước nông nghiệp kém phát triển , nơi ngự trị của giai cấp địa chủ phát canh thu tô , đã trở thành một trong 4 con rồng châu Á.
Từ 1952-1990 sản lượng nông nghiệp tăng 4,5 lần, sản lượng công nghiệp tăng 50 lần. Tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 56% tổng lao động xã hội 1952 giảm xuống còn 12,95% năm 1990 nhưng tổng sản lượng nông nghiệp lại tăng từ trên 700 triệu $ lên 12 tỷ $ riêng nông sản xuất khẩu đã tăng từ 114 triệu $ lên trên 4tỷ $.
Để đạt được các thành tựu trên, Đài Loan đã sử dụng các giải pháp và biện pháp sau:
- Một là: đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện cho việc hình thành các trang trại với quy mô nhỏ bằng cách : giảm tô cho tá điền từ 50% xuống còn 37,5 % thu hoạch chủ yếu, bán chịu cho nông dân ruộng đất công cộng, trưng mua số ruộng đất của địa chủ vượt quá giới hạn quy định ( 3ha đối với ruộng nước, 6 ha đối với ruộng cạn) để bán lại cho nông dân theo phương thức trả dân.
- Hai là: đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn. Việc đem lại ruộng đất cho người làm ruộng đã làm cho nông dân “ biến cát thành vàng” tạo điều kiện cho việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (giai đoạn 1953-1962) đồng thời cho phép người nông dân có thể bỏ một phần tích lũy để thực hiện một nền nông nghiệp đa canh.
- Ba là: đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nông thôn. Trong nhiều thập kỷ, Đài Loan rất coi trọng phát triển rộng rãi mạng lưới giao thông vận tải – cả đường bộ, đường sắt đến khắp các vùng nông thôn, tạo điều kiện cải thiện hoạt động sản xuất, sinh hoạt ở nông thôn, đồng thời cho phép mở mang các cơ sở công nghiệp ngay tại xóm. Từ những năm 1970, chế độ giáo dục bắt buộc đã được kéo dài từ sáu thành chin năm. Trình độ học vấn của dân cư nông thôn và đô thị được nâng cao đáng kể.
- Bốn là: chú ý phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước, không tập trung quá mức vào những khu vực công nghiệp và đô thị khổng lồ.
Hầu hết các cơ sở công nghiệp nhỏ vẫn được đặt tại các thôn xóm. Cách làm đó vừa không đòi hỏi bỏ vốn đầu tư lớn để xây dựng các cơ sở công nghiệp tại thành phố, vừa làm cho các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ có thể thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường trong và ngoài nước. Nhiều cơ sở cỡ trung bình và lớn cũng được rải đều ra các thành phố nhỏ và trung bình. Chiến lược này đã góp phần làm giảm sự chênh lệch về thu nhập trung bình giữa 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất từ 15/1 trong những năm 1950 xuống còn 4/1 đầu những năm 1990.
Năm là: Lựa chọn phương thức sử dụng đất phù hợp với các loại hình hợp tác tự nguyện để đẩy mạnh công việc khuyến nông.
Công nghiệp hóa đặt ra yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất của các trang trại gia đình nhằm ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Nhưng đối với người dân Đài Loan, ruộng đất vẫn được coi là cơ sở quan trọng để đánh giá vị trí mọi gia đình trong xã hội. Do đó, mặc dù nhiều người đã chuyển sang làm những nghề phi nông nghiệp, có thu nhập cao hơn nghề nông nhưng họ vẫn muốn giữ ruộng đất để truyền lại cho con cháu. Thong tình hình ấy, người Đài Loan đã tìm ra giải pháp tích tụ ruộng đất để truyền lại ruộng đất bằng cách chuyển quyền sử dụng đất cho người khác, nhưng chủ ruộng đất vẫn giữ quyền sở hữu. Người ta gọi đó là phương thức sản xuất ủy thác. Người dân này nhận ruộng đất ủy thác của người khác để mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập. Đến nay có khoảng ¾ số trang trại đã áp dụng phương thức này.
Chương II
Một số chính sách kinh tế tác động đến phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn
Một số chính sách
Chính sách sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai luôn là tài sản chủ yếu của nông dân, đặc biệt là người nghèo ở nông thôn, nó là cơ sở cho các hoạt động kinh tế xã hội và sự vận hành của thị trường. Các thể chế liên quan đến đất đai, chính sách đất đai luôn chịu tác động của sự không hoàn hảo của thị trường
Nói đến chính sách đất đai trong nông nghiệp trước hết là nói đến quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai cảu người nông dân, đó là yếu tố quan trọng trong các chính sách đất đai và quyết định đến cai trò của các chính sách này:
Thứ nhất, việc đảm bảo quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai sẽ tăng cường khuyến khích các hộ gia đình và cá nhân đầu tư cũng như thường xuyên tạo cho họ khả năng tiếp cận tốt hơn với tín dụng.
Thứ hai, sự phân phối đất canh tác trên thực tế có tác động tới sản lượng, điều đó có nghĩa sự bất bình đẳng cao trong phân phối đất đai làm giảm năng suất nên là quyền về đất đai được xác định rõ ràng và được đảm bảo là điều kiện then chốt đối với các hộ gia đình, đối với sự phát triển sản xuất nông nghiệp và sự vận hành các yếu tố thị trường.
Cải cách ruộng đất thường được coi là điều kiện cần đầu tiên để phát triển nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Cải cách ruộng đất thường là việc chia lại quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai từ tay địa chủ cho nông dân, bằng các hình thức: trưng thu hoặc mua đất đai của địa chủ chia cho nông dân, chuyển nhượng đất đai từ những trang trại lớn sang trang trại nhỏ, hoặc là phân chia trang trại lớn thành các trang trại nhỏ.
Cùng với cải cách ruộng đất, việc xác định hình thức sở hữu sử dụng đất đai là cơ sở hình thành phương thức sản xuất và phân phối sản phẩm nông nghiệp, có ba loại hình thức sở hữu và sử dụng đất nông nghiệp.
Thứ nhất: Hình thức trang trại gia đình, hộ gia đình, các gia đình sở hữu nhưng mảnh đất nhỏ , lao động trong gia đình là chủ yếu, họ có trách nhiệm với kết quả sản xuất nên hiệu quả sử dụng cao, nhưng lại bị hạn chế bởi khả năng áp dụng kỹ thuật mới, máy móc cơ khí.
Thứ hai: Là các trang trại lớn thuộc sở hữu của điền chủ tổ chức với quy mô lớn, thuê lao động quản lý, những người lao động thường là những người làm công ăn lương ít phụ thuộc vào kết quả thu hoạch. Hiệu quả phụ thuộc vào quản lý và giám sát lao động.
Thứ ba: Hình thức tập thể hóa, sở hữu đất đai thuộc nhà nước, mọi người nông dân cùng sử dụng , tổ chức, phân phối dựa vào kết quả của tập thể và sự đóng góp lao động của nông dân, hạn chế của hình thức này là trách nhiệm đối với việc sử dụng đất đai sẽ không rõ ràng dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp
Chính sách hỗ trợ giá trong nước
Có rất nhiều biện pháp để hỗ trợ trong nước nhưng biện pháp thường được áp dụng là hỗ trợ giá dưới hình thức sau:
Thứ nhất: Xử lý mối quan hệ giữa giá đầu vào và giá tiêu thụ nông sản
Khi người nông dân đã có sản phẩm trao đổi trên thị trường thì họ sẽ quan tâm đến lợi nhuận và lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc vào giá bán của sản phẩm và gia mua các yêu tố đầu vào, trong đó phân bón hóa học chiếm tỷ lệ lớn. Mối quan hệ này được biểu hiện thông qua “ hệ số trao đổi sản phẩm ”
In =P1/ P0 (%)
In: Hệ số trao đổi sản phẩm, phản ánh % chi phí đầu vào cho một đơn vị sản phẩm đầu ra.
P1: Giá bình quân các yếu tố đầu vào.
P0: Giá bình quân tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
Về lý thuyết người nông sân sử dụng phân bón hóa học cho đến khi sản phẩm cận biên bằng chi phí cận biên ( MP = MC )
Do vậy tăng lợi nhuận từ sản xuất lúa cần tăng giá lúa hoặc giảm giá phân bón, hoặc cả hai. Mối quan hệ giữa giá lúa và giá phân bón được biểu diễn qua đồ thị: P2
0
P1
Q111 111111
Q222
MC1C
Q
p
MC2C
Q322
Q422
Nếu giá lúa là P1 và chi phí cho phân bón là MC1 thì mức sản lượng là q1
TH1: Nếu giá phân bón giảm từ ( MC1 – MC2 ) và giá lúa không đổi thì sản lượng tăng từ ( q1 – q2 )
TH2: Nếu giá lúa tăng từ ( P1 – P2 ), giá phân bón không đổi, thì sản lượng sẽ tăng từ ( q1 – q3 )
TH3: Nếu giảm giá phân bón và tăng giá lúa thì sản lượng tăng từ ( q1- q4)
Vì vậy: Trong chính sách giá nông sản của nhà nước cần chú ý tác động giữa giá tiêu thu nông sản và các đầu vào, đảm bảo lợi nhuận cho nông dân.
Thứ hai: Trợ giá nông sản
Vấn đề trợ giá được xem xét cả dưới góc độ người sản xuất và người tiêu dùng.
Đối với người sản xuất: Nguồn thu của nông dân chủ yếu là lương thực thực phẩm, nếu giá nông sản thấp làm cho mức sản lượng giảm, thu nhập của nông dân giảm sẽ dẫn đến tình trạng di dân vào thành phố tìm việc.
Đối với người tiêu dùng: ở khu vực thành thị nếu giá nông sản tăng , cuộc sống cảu đại đa số các gia đình sẽ bị tác động mạnh vì thường người tiêu dùng phải chi đến 50% thu nhập cho hàng hòa lương thực thực phẩm.
Vấn đề này được mô tả qua đồ thị:
S
P1111
P2111
D
Q2
Q1
Q3
TH1: Nông dân được trợ giá, nhà nước mua lương thực với giá P2, điều này sẽ khuyến khích nông dân tăng sản lượng từ ( q1 – q2 ), trong khi đó nhu cầu tiêu dùng lại ở mức q3 nên phân dôi ra sẽ dành cho dự trữ, xuất khẩu.
TH2: Người tiêu dùng được trợ giá, nhà nước thu mua với giá P1 và bán ra thị trường cùng với giá P1. Nhu cầu tăng từ (q3 – q4) trong khi khả năng sản xuất là q1, dẫn đến nhập khẩu lương thực.
Thông thường Chính phủ lựa chọn giải pháp trung gian, trợ giá chi phí lưu thông vận chuyển từ nông thôn ra thị trường bán lẻ thành thị.
Chính sách bảo hộ nông nghiệp.
Khái niệm: Bảo hộ nông nghiệp là biện pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản và đối phó với những hàng nhập khẩu . Bảo hộ nông nghiệp được thực hiện qua nhưng hình thức sau:
Bảo hộ bằng thuế quan
Theo quan điểm của tôt chức thương mại thế giới ( WTO )
Thuế quan được thừa nhận là công cụ hợp pháp bảo hộ sản xuất trong nước và có ưu điểm rõ ràng, ổn định, dễ đàm phán. Hạn chế của thuế quan là không tạo được rào cản nhanh như phi thuế quan.
Bảo hộ bằng biện pháp phi thuế quan
Có thể chia thành các nhóm sau
Hạn chế định lượng, bao gồm: cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép
Quản lý giá: là công cụ gián tiếp bảo hộ sản xuất trong nước. Mục tiêu là để tránh gian lận thương mại.
Chế độ thương mại: biện pháp này liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hàng rào kỹ thuật như là kiểm dịch động thực vật, nhãn mác hàng hóa.
Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời như hạn chế nhập khẩu tạm thời, chống bán phá giá…
Ưu điểm của biện pháp này là:
- Hình thức phong phú do đó có nhiều cơ hội lựa chọn hơn
- Có thể thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu với hiệu quả cao.
Bên cạnh đó biện pháp này cũng tồn tại những hạn chế:
- Gây khó khăn, tốn kém trong quản lý
- Áp dụng biện pháp phi thuế quan đôi khi gây ra hậu quả xấu đối với nền kinh tế.
- Nhà nước sẽ không hoặc ít thu được lợi ích tài chính.
2. Tác động của các chính sách đối với Việt Nam
Với khoảng 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những vấn đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Để đạt được các mục tiêu khuôn khổ chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn, Chính phủ Việt Nam sử dụng một loạt chính sách nông nghiệp bao gồm chính sách giá, chính sách đất đai, chính sách tín dụng nông thôn và chính sách đầu tư. Chính sách nông nghiệp của Chính phủ luôn được xem là một công cụ để sửa chữa các thất bại của thị trường và đảm bảo một môi trường phản ánh chi phí xã hội thực tế của các yếu tố đầu vào và đầu ra. Tuy nhiên, những can thiệp của Chính phủ như chính sách kinh tế vĩ mô hoặc những chính sách ngành hàng cụ thể trong một số trường hợp đã gây ra một sự méo mó trong phân phối các nguồn lực của xã hội.
2.1. Chính sách đổi mới nông nghiệp, nông thôn
Đổi mới kinh tế trong khu vực nông nghiệp nông thôn ở nước ta được khởi đầu từ khi ban hành chỉ thị 100-CT/TW(1/1981) của ban bí thư trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm. Việc thực hiện khoán sản phẩm đã cho phép người lao động được chủ động một số khâu canh tác trên ruộng khoán. Chính sách này đã tạo ra động lực khuyến khích lợi ích vật chất đối với người nhận khoán. Kết quả sản xuất nông nghiệp tăng rõ rệt,tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp bình quân 5 năm (1981-1985) là 5,1% cao hơn so với 5 năm ( 1976-180) là 1,9%.
Tuy nhiên, chỉ trị 100 CT/TW mới chỉ là cải tiến hình thức khoán,chưa tạo ra mô hình mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp. Nghị quyết 10 của bộ chính trị (4/1988)đã dẫn đến sự thay đổi sâu sắc trong nông nghiệp. Nghị quyết khẳng định ”hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn” cũng có nghĩa là hộ gia đình được quyền tự chủ kinh doanh toàn diện. Điều này đã có tác động mạnh đến kết quả sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng cao hơn. Tăng trưởng bình quân trong nông nghiệp giai đoạn 1989-1992 là 5%/năm cao hơn so với giai đoạn 1986-1988 là 3,1%.
Để đạt được các mục tiêu khuôn khổ chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn, Chính Phủ Việt Nam đã sử dụng một loạt chính sách nông nghiệp bao gồm chính sách giá,chính sách đất đai, chính sách tín dụng nông thôn và chính sách đầu tư. Chính sách nông nghiệp của Chính phủ luôn được xem là một công cụ để sữa chữa các thất bại của thị trường và đảm bảo một môi trường phản ánh chi phí xã hội thực tế của các yếu tố đầu vào và đầu ra. Tuy nhiên, những can thiệp của Chính phủ như chính sách kinh tế vĩ mô hoặc những chính sách nghành hàng cụ thể trong một số trường hợp đã gây ra một sư méo mó trong phân phối các nguồn lực của xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua (1986-2008)đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản lượng các loại nông sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực đều tăng với tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu tiên sản lượng lương thực vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1.4 triệu tấn gạo, đạt kim nghạch 310 triệu USD. Đến năm 2007 vừa qua sản lượng lương thực đã đạt đến con số kỷ lục 39 triệu tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim nghạch 1,7 tỷ USD. GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%. Thu nhập và đời sống nông dân ngày càng cải thiện hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5% năm; bộ mặt nông thôn thay đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hóa, khoa học, kĩ thuật của nhiều nông dân đều được nâng cao lên hơn trước.
2.2. Chính sách ruộng đất
Chính sách ruộng đất của Việt Nam được mở đầu bằng Luật cải cách ruộng đất. Mục tiêu của cải cách ruộng đất là thực hiện “người cày có ruộng”. Cải cách ruộng đất đã đem lại thành quả quan trọng là giải phóng người nông dân thoát khỏi sự kìm kẹp của phương thức sản xuất phong kiến, đưa nông dân từ thân phận nô lệ lên vị trí người nông dân làm chủ ở nông thôn.
Cải cách ruộng đất thường được coi là điều kiện cần đầu tiên để phát triển nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Cải cách ruộng đất thường là việc chia lại quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất từ tay địa chủ cho nông dân. Cải cách ruộng đất có thể thực hiện bằng nhiều hình thức: trưng thu hoặc trưng mua đất đai của địa chủ chia cho nông dân, chuyển nhượng đất từ những trang trại lớn sang trang trại nhỏ hoặc phân chia những trang trại lớn thành những trang trại nhỏ.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã có những bước đi cơ bản trong việc cung cấp quyền sử dụng đất cho nông hộ. Trước đây, dưới hệ thống quản lý của hợp tác xã, đất được hợp tác xã phân bổ cho các nông hộ. Hầu hết các vật tư do hợp tác xã cung cấp và nông hộ nộp sản phẩm theo định mức cho hợp tác xã.
Cùng với sự thay đổi của chính sách theo hướng thị trường, Luật đất đai năm 1988 được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tích cực đến động lực người dân. Luật đất đai đã khẳng định: đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân, do Nhà Nước quản lý, là cơ sở pháp lý cho việc quản lý đánh thuế sử dụng đất. Nhà Nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Luật cũng quy định về các quyền của người sử dụng đất khi được Nhà Nước giao đất. Đối với đất đai nông nghiệp, Luật đất đai quy định rõ mức đất trồng cây hàng năm cho mỗi hộ (khoảng 2ha); đất trồng cây lâu năm không quá 10ha/hộ ( các tỉnh đồng bằng) và không quá 30ha/hộ ( các tỉnh trung du, miền núi ). Luật đất đai năm 1988 cho phép quyền sử dụng cá nhân đối với đất trồng trọt từ 10 đến 15 năm. Luật này cũng cho phép các nông hộ tự quyết định trồng loại cây gì và lượng sản phẩm dư ngoài định mức được phép bán trên thị trường. Phản ứng tích cực của nông dân đã được phản ánh thông qua sản lượng thóc tăng một cách đáng kinh ngạc, từ 16 triệu tấn năm 1986 lên đến 17 triệu tấn năm 1988 và 21,9 triệu năm 1993.
Luật đất đai năm 1993 là một bước tiếp theo trong việc tạo ra quyền sử dụng đất tự do hơn đối với nông dân. Thời gian sử dụng đất đã tăng lên 20 năm đối với cây hàng năm, và 50 năm đối với cây lâu năm. Chính sách này cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bao gồm “trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp”. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã thực hiện các quy định khác nữa để đẩy nhanh tiến độ phân bổ quyền sử dụng đất. Đến đầu năm 1998, khoảng 86%, tổng diện tích đất nông nghiệp đã được phân bổ. Khoảng 7,8 triệu nông hộ trong tổng số 9,6 triệu đã được quyền sử dụng đất. Các nông hộ đã nhận được khoảng 86% đất nông nghiệp đã được phân bổ, phần còn lại được cho các doanh nghiệp và các xã.
Bảng 2: Tiến độ phân bổ đất, tháng 1/1998
Tổng số
Phân bổ
Phần trăm phân bổ
Đất nông nghiệp (triệu ha)
8.0
8.0
100
Hộ gia đình (triệu ha)
6.9
86
Doanh nghiệp
0.7
Liên doanh
(3569 ha)
Uỷ ban xã
0.3
Thành phần khác
0.075
Đất lâm nghiệp (triệu ha)
10.8
6.6
61
Doanh nghiệp (327)
4.4
41
Lâm trường (1677)
0.5
5
Hộ gia đình (334446)
1.1
10
Thành phần khác
0.6
5
Chưa phân bổ
4.2
39
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT 1998
Luật đất đai đã tạo môi trường thông thoáng và công bằng hơn đối với người sử dụng. Đồng thời cũng khẳng định được vai trò của Nhà Nước là người bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Điều này làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư để đạt hiệu quả cao trong sử dụng đất đai. Kết quả của việc thực hiện chính sách ruộng đất đã tạo ra bước chuyển đáng kể trong nông nghiệp và nông thôn. Sản lượng nông nghiệp tăng trưởng tương đối ổn định trong suốt giai đoạn 1995-2003 (bình quân khoảng 4.2%/năm), nghèo đói ở khu vực nông thôn cũng giảm dần. Tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ 25,1% (1993) xuống còn 13,6% (2005). Tốc độ tăng trưởng nông lâm ngư nghiệp giai đoạn 1991-1995 là 2,4%; giai đoạn 1996-2000 là 4.3% và giai đoạn 2001-2005 là 3,8%
2.3. Chính sách thuế sử dụng đất
Chính sách thuế sử dụng đất được ban hành thay chính sách thuế nông nghiệp . Mức thuế phải nộp căn cứ vào diện tích đất sử dụng, hạng (loại) đất và mức tính thuế (kg thóc/ha/năm).
Cải cách chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp ỏ nước ta một mặt có xu hướng giảm mức huy động trực tiếp từ nông dân cho Ngân sách Nhà nước đi. Mặt khác, đảm báo công bằng giữa các tổ chúc, cá nhân nhận đất phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp.
2.4. Chính sách đầu tư
Chính sách đầu tư của Chính phủ Việt Nam nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, hệ thống nghiên cứu và khuyến nông để hỗ trợ các mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thường bao gồm: vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi và vốn do dân tự đầu tư. Hiện nay, đầu tư của Chính phủ là nguồn quan trọng nhất trong tổng đầu tư vào ngành nông nghiệp. Ngoài ra những năm qua Chính Phủ đã chủ trương khuyến khích đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào ngành nông nghiệp, lâm nghiệp.
Trong 5 năm 1996-2000, ngành nông lâm ngư nghiệp là nghành có tỷ trọng đầu tư từ Ngân sách Nhà nước chiếm 23,5%/ tổng vốn Ngân sách và đứng thứ 2 sau thông tin liên lạc (30.7%).
Theo ước tính của Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn thì GDP tăng từ sản xuất nông nghiệp làm tăng thu nhập của người nghèo từ 2- 4 lần so với GDP tăng từ các hoạt động phi nông nghiệp. Trong thế kỷ 21, nông nghiệp vẫn tiếp tục là công cụ chính cho sự phát triển bền vững và giảm nghèo.
Theo các số liệu chưa đầy đủ thì trong 5 năm (2003-2007), Việt Nam đầu tư cho phát triển nông nghiệp đạt 113 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư nông nghiệp và đáp ứng 17% của khu vực nông nghiệp. Bảo hộ nông nghiệp ở mức 4% (260 triệu USD). Đầu tư cho khuyến nông là 0,13 GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp, nông thôn chiếm 3% tổng nguồn FDI.
2.5. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn
Trước đổi mới,công nghiệp trên địa bàn nông thôn gồm: công nghiệp Trung ương (thường là công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nguyên liệu); các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề tiểu thủ công nằm trong hợp tác là nông nghiệp. Nhờ có thị trường Liên Xô và Đông Âu mà các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp đã có thời kì phát triển mạnh. Thị trường Liên Xô và Đông Âu giảm sút kéo theo sự suy sụp nhanh của công nghiệp nông thôn nước ta, nhiều làng nghề nỏi tiếng bị suy giảmhoặc không còn nữa.
Nghị quyết 10/NQ-TW của Bộ chính trị (4/1988) và tiếp đến NQ 05/NQ-HNTW (6/1993) đã chủ trương:
-Phát triển đa dạng hóa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu.
-Khôi phục và phát triển các làng nghề
Hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp trên địa bàn nông thôn khá đa dạng gồm: hộ gia đình, hợp tác cổ phần, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn.công ty cổ phần… với 3 nhóm ngành nghề chính là: chế biến nông, lâm, thủy sản; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Hiện nay công nghiệp nông thôn tuy phát triển chưa đều, tăng trưởng chưa ổn định nhưng đã hình thành một số mô hình mới- Mô hình chế biến gắn với vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn.
2.6. Chính sách giá
Trong nền kinh tế thị trường, giá được coi như một tín hiệu hiệu quả nhất để phân phối các nguồn lực của xã hội. Điều này đúng trong một thế giới cạnh tranh hoàn hảo, giá được coi như một nhân tố hàng đầu phản ánh chi phí cơ hội thực tế của hàng hoá và dịch vụ. Vì thế, thông qua tín hiệu giá, những nguồn lực khan hiếm của xã hội sẽ chảy vào những ngành dịch vụ hay sản xuất mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho xã hội. Tuy nhiên, kịch bản này không phải luôn luôn đúng trên thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Lý do ở chỗ các thất bại của thị trường không đảm bảo nền kinh tế sẽ đạt được cả hai mục tiêu hiệu quả và công bằng. Vì thế, can thiệp giá của Chính phủ được dùng để thực hiện các mục tiêu chính sau: (i) tăng sản lượng nông nghiệp; (ii) ổn định giá nông sản; (iii) đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; (iv) cung cấp lương thực và nguyên liệu thô giá rẻ cho ngành công nghiệp.
Về chính sách giá, phương hướng của Chính phủ Việt Nam là cố gắng tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp, tập trung theo hướng thay đổi giá tương đối của nông lâm sản thông qua điều chỉnh giá thương mại trong nước và giá xuất nhập khẩu theo hướng duy trì mức giá có lợi cho sản xuất lương thực và cây trồng. Theo khung này, kể từ khi bắt đầu cải cách năm 1988, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những bước tiến bộ quan trọng theo hướng cơ chế thị trường và mở cửa ra thị trường thế giới. Giá nông sản tăng dần đến mức giá trên thị trường thế giới, đồng thời giá nguyên liệu đầu vào cũng theo sát mức giá thế giới. Những mục tiêu khác của chính sách giá Chính phủ là đảm bảo giá công bằng cho người tiêu dùng và giảm tác động của các cú sốc giá trên thị trường thế giới, đặc biệt là đối với những mặt hàng nhạy cảm như cây lương thực. Chính vì thế, Chính phủ vẫn áp dụng một số biện pháp kiểm soát giá thông qua hệ thống hạn ngạnh và kiểm soát đầu mối xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu và xuất khẩu
Nhìn chung, mức đánh thuế vào mặt hàng xuất khẩu là khá thấp nhưng thuế đánh vào hàng chế biến lại quá cao. Đối với hàng xuất khẩu như gạo, cà phê, chè, tiêu, cao su tự nhiên không chịu thuế xuất khẩu. Đối với các hàng chế biến, các sản phẩm nhập khẩu chịu mức thuế cao như gạo đã xay sát có thuế suất 15%, cà phê rang 75%, chè 75%, rau quả 45%. Có thể nhận thấy rằng thuế suất nhập khẩu cao đánh vào hàng chế biến là để bảo hộ ngành chế biến thực phẩm. Vì thế, Việt Nam là thành viên của AFTA và việc cắt giảm thuế theo CEPT đã rất gần, như vậy ngành chế biến nông sản sẽ gặp thách thức lớn do áp lực cạnh tranh từ các nước ASEAN. Theo CEPT, thuế suất nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng giảm xuống còn từ 0-5% vào năm 2006.
Đối với một số nông sản, gần đây Chính phủ Việt Nam đã tăng thuế suất để bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế suất nhập khẩu thịt năm 1992 là 10% đã tăng lên 30% năm 1999. Đối với mặt hàng đường, để đảm bảo mục tiêu trong chương trình đường quốc gia là tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèovà quan trọng hơn là bảo hộ ngành đường trong nước, thuế nhập khẩu đã tăng từ 10% năm 1992 lên 45% năm 1999.
Trừ máy nông nghiệp, mức thuế đánh vào vật tư nông nghiệp nhập khẩu đều bằng 0%. Chính sách này nhằm hỗ trợ cho người nông dân. Thuế nhập khẩu ở mức 75% đối với máy móc như gặt, đập và thuế đối với phân bón là 0%.
Thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng.
Danh mục
Mức thuế (%)
Thuế xuất khẩu
1. Gạo
0
2. Ngô
0
3. Cao su tự nhiên
0
4. Cà phê
0
5. Chè
0
6. Hồ tiêu
0
7. Gỗ
20
Thuế nhập khẩu
1. Gạo qua chế biến
15
2. Lúa mì
30
3. Cà phê rang
75
4. Chè
75
5. Đường
45
6. Thịt
30
7. Rau quả
45
8. Muối
22,5
9. Bông
0
10. Phân bón
0
11. Máy móc nông nghiệp
7,5
Ghi chú: Chính phủ đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu gỗ tròn, thuế xuất ở đây áp dụng đối với gỗ làm hàng thủ công mỹ nghệ.
Nguồn: Thuế xuất nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng, Tổng cục Hải quan, 1999.
Hàng rào phi thuế quan
Bên cạnh thuế xuất nhập khẩu thì hàng rào phi thuế quan cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá cả trong thị trường nội địa. Kinh nghiệm cho thấy đa số các nước đang phát triển thường sử dụng hàng rào phi thuế quan can thiệp mạnh vào hoạt động xuất nhập khẩu. Các biện pháp thường là hạn ngạch quota, Quản lý đầu mối xuất khẩu, giấy phép thương mại, trợ giá.. Các can thiệp này trong một số trường hợp đã tạo ra một loại thuế vô hình đối với các nông sản xuất khẩu, và dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp.
Hội nhập AFTA và việc gia nhập WTO sẽ dẫn đến việc Việt Nam xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan. Theo hiệp định AFTA, các hạn chế định lượng đối với tất cả các sản phẩm trong Danh mục cắt giảm ngay đều phải xoá bỏ ngay sau khi hết thời hạn hoãn áp dụng cho các mặt hàng này. Các hàng rào phi thuế quan khác, bao gồm phụ phí hải quan, và các hạn chế kỹ thuật cần được xoá bỏ dần dần trong thời hạn 5 năm sau thời gian hoãn áp dụng cho các mặt hàng này
Kể từ năm 1989, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện những bước đi quan trọng nhằm tiến tới tự do hoá cơ chế thương mại. Sự độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước trong hoạt động xuất nhập khẩu đã chấm dứt và kết quả là các doanh nghiệp địa phương và gần đây là các công ty tư nhân có thể tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu. Ví dụ các quy định về số đầu mối xuất khẩu các nông sản xuất khẩu chính như cà phê và cao su không còn nữa. Đối với cà phê, quy định này được bỏ từ năm 1998. Tuy nhiên, để được phép xuất khẩu cà phê, các công ty cần có giấy phép của Phòng Thương mại và Công nghiệp. Đối với cao su, hạn chế số lượng đầu mối xuất khẩu chỉ áp dụng với các công ty xuất khẩu sang Trung Quốc. Tuy nhiên, quy định này cũng được bỏ vào năm 1998.
Năm 1999, Chính phủ thực hiện các quy định tự do hoá quyền xuất nhập khẩu trực tiếp đối với tất cả các mặt hàng nêu trong giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp mà không cần giấy phép xuất khẩu. Nói chung, cho đến nay, hầu hết các nông sản đều có thể buôn bán không chịu hàng rào phi thuế. Tuy nhiên, hiện vẫn còn hàng rào phi thuế đối với các mặt hàng gạo, đường và phân bón.
Gạo là một trong những cây lương thực quan trọng nhất của Việt Nam. Trong 10 năm qua, Việt Nam đã tăng xuất khẩu gạo lên đáng kể và trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới. Năm 1990 Việt Nam xuất khẩu 1,7 triệu tấn và tăng lên đến 2,98 triệu tấn năm 1993 và 4,5 triệu tấn năm 1999.
Trước đây, để đảm bảo an ninh lương thực, Chính phủ can thiệp sâu vào các hoạt động xuất khẩu gạo, đặc biệt là độc quyền xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp quốc doanh (Vinafood II ở miền Nam và Vinafood I ở miền Bắc) và hạn ngạch xuất khẩu. Điều đó đã dẫn tới tính không hiệu quả của các doanh nghiệp quốc doanh: không có khả năng đạt được giá trị xuất khẩu cao nhất, chi phí Marketing cao, tình trạng tham nhũng. Tất cả những điều đó đã hạ giá gạo trong nước xuống thấp hơn giá quốc tế 25-30%. Hậu quả là, can thiệp của Chính phủ có tác động bất lợi tới lợi ích của khu vực nông thôn.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp tự do hoá hoạt động xuất khẩu gạo. Năm 1997, số công ty xuất khẩu gạo là 23, tăng lên 33 vào năm 1998 và sau đó lên tới 47 năm 1999. Ngoài kiểm soát đầu mối xuất khẩu, Chính phủ còn sử dụng hạn ngạch xuất khẩu gạo để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Việc định hạn ngạch xuất khẩu gạo đã được điều tiết linh hoạt hơn và hạn ngạch đã tăng lên hàng năm. Năm 1997, hạn ngạch xuất khẩu là 3,5 triệu tấn, năm 1998 là 4 triệu tấn và 1999 là 5,2 triệu tấn.
Chương trình quốc gia mía đường năm 1994 nhằm đạt mục tiêu tự túc đường dẫn đến sự thành lập 42 nhà máy tinh luyện đường. Tuy nhiên, xu hướng giảm giá mạnh trên thị trường đường thế giới trong những năm gần đây đã làm gia tăng sự can thiệp của Chính phủ nhằm bảo hộ ngành chế biến trong nước. Nhập khẩu đường được kiểm soát thông qua hệ thống hạn ngạch và quyền nhập khẩu thuộc về một số doanh nghiệp được lựa chọn.
So sánh giá
Trước cải cách, Chính phủ can thiệp sâu vào thị trường nông nghiệp nhằm cung cấp nguyên liệu đầu vào rẻ cho quá trình công hiệp hoá. Điều này tất yếu dẫn đến hệ thống hai giá vì giá trên thị trường tự do cao hơn nhiều so với giá thu mua của nông dân, và cánh kéo giá có xu hướng có lợi cho ngành công nghiệp và có hại cho ngành nông nghiệp. Hậu quả của chính sách thiên vị này là ngành nông nghiệp bị vắt kiệt các nguồn lực chảy theo các kênh từ khu vực nông thôn và khu vực thành thị, gây ra những tác động có hại tới sự phát triển nông nghiệp. Do nông nghiệp đóng góp tới 30% GDP và thu hút 70% lao động, rõ ràng là sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế trong thời gian dài phụ thuộc lớn vào sự phát triển của khu vực nông nghiệp.
Kể từ khi đổi mới năm 1986, và đặc biệt là năm 1988 trong ngành nông nghiệp, sự thay đổi về giá đã có lợi cho nông nghiệp. Biểu đồ 1 cho thấy trong thời kỳ 1990-1999, giá nông sản tăng nhanh hơn mức giá chung. Trong khi tỷ lệ tăng giá lương thực thấp hơn giá chung. Trong thời kỳ 1990-1999, tỷ lệ tăng giá chung là 317,7%; thực phẩm là 376%; lương thực là 268,8 %; các hàng hoá và dịch vụ khác là 272,6%. Điều đó có nghĩa là khả năng cạnh tranh của người sản xuất gạo đã giảm so với các sản phẩm khác, đặc biệt là sản xuất thực phẩm.
Đối với cánh kéo giá giữa nông nghiệp và công nghiệp (tỷ lệ giá ure/gạo), trong những năm 1980, do có sự can thiệp của Chính phủ, cánh kéo giá được duy trì rất cao so với giá thị trường tự do. Ví dụ năm 1982, tỷ lệ giá ure/gạo bằng 3 và năm 1985 bằng 2,24.
Kể từ cải cách năm 1988, với sự chuyển đổi từ hệ thống hai giá sang hệ thống giá cả do thị trường quyết định, cánh kéo giá đã phản ánh rõ hơn chi phí cơ hội thực tế của nền kinh tế. Ví dụ năm 1990, tỷ lệ giá ure/gạo là 1,51 so với hai năm 1987. Kết quả là đã tăng đáng kể động lực cho nông dân, dẫn tới tăng mạnh mẽ về sản lượng nông nghiệp, và Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Trong những năm gần đây, mặc dù Chính phủ vẫn kiểm soát nhập khẩu ure thông qua hạn ngạch nhưng đã có những quy định linh hoạt khiến xu hướng giá ure trong nước sát với giá quốc tế. Thêm vào đó, những bước tiến hơn nữa về tự do hoá thương mại trong xuất khẩu gạo đã cải thiện cánh kéo giá có lợi hơn cho nông dân. Năm 1996 tỷ lệ giá ure/gạo là 1,02, năm 1999 giảm xuống còn 0,5.
Về giá trong nước và thế giới, có thể nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách tự do hoá thương mại. Xu hướng này đã cải thiện đáng kể khoảng cách giữa giá trong nước và giá thế giới, và giữa giá xuất khẩu và giá thế giới.
Trong trường hợp gạo, các can thiệp như hạn ngạch xuất khẩu và kiểm soát đầu mối xuất khẩu dẫn đến giá trong nước và giá xuất khẩu thấp hơn nhiều so với giá thế giới. Ví dụ năm 1995, giá gạo là 250USD/tấn và giá xuất khẩu là 280USD/tấn trong khi giá gạo xuất khẩu của Thái Lan là 300USD/tấn. Sự thay đổi về chính sách của Chính phủ năm 1998 như cho phép thêm nhiều công ty, kể cả công ty tư nhân tham gia xuất khẩu gạo và tăng hạn ngạch xuất khẩu gạo đã tăng giá trong nước và giá xuất khẩu. Năm 1999, giá gạo trong nước là 226USD/tấn, gạo xuất khẩu là 228USD/tấn trong khi giá gạo Thái xuất khẩu là 239USD/tấn.
2.7. Tín dụng nông thôn và các dịch vụ tài chính
Cùng với quá trình chuyển đổi snag nền kinh tế theo hướng thị trường, Việt Nam đã thực hiện những cuộc cải cách căn bản trong hệ thống tài chính và ngân hàng. Hệ thống tài chính một cấp trước đây đã trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp với sự thành lập của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh. Gần đây, hệ thống tài chính nông thôn chính thức hỗ trợ cho nông thôn Việt Nam bao gồm Ngân hàng cho người nghèo Việt Nam (VBP), Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (VBARD), và Quỹ tín dụng Nhân dân (PCF). Mục tiêu của hệ thống này là:
(i) Đảm bảo đầu vào cho quá trình sản xuất nông nghiệp:
(ii) Tăng cường công nghệ sau thu hoạch, xuất khẩu nông nghiệp;
(iii) Đa dạng hoá nông nghiệp;
(iv) Phát triển hạ tầng cơ sở nông thôn;
(v) Những mục tiêu khác có liên quan đến người nghèo, giảm tác động của thiên tai...
VBARD có hơn 2600 chi nhánh trên khắp đất nước. Tuy nhiên, hoạt động củaVBARD có liên quan chặt chẽ tới hệ thống thông tin liên lạc và thường đặt trụ sở ở các trung tâm. Điều này có ý nghĩa là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, nông dân rất khó có thể tiếp cận đượcvới hệ thống tín dụng chính thứcvới lãi suất cao. Nhìn chung, theo dự toán, chỉ khoảng 1/3 số nông dân trong nước có thể tiếp cận được với vốn của các tổ chức tài chính Chính phủ. Hơn nữa, cả VBARD và PCF đều có xu hướng thiên về cung cấp tín dụng của nông hộ giàu có.
Trong năm 1996, Chính phủ đã thành lập Ngân hàng người nghèo (VBP). Với mục tiêu cung cấp vốn vay lãi suất ưu đãi cho những nông hộ nghèo và giúp đỡ cho các hoạt động xoá đói giảm nghèo. Hoạt động của Ngân hàng người nghèo không phải để kiếm lợi nhuận mà để giúp người nghèo vay vốn với những điều kiện ưu đãi như: không cần vật thế chấp và với lãi suất thấp.
Bảng 3: Vốn vay của VBARD (triệu đồng)
1994
1997
Tỉ lệ tăng
1994-1997 (%)
Tổng
10752
20559
91
Nông nghiệp
8064
13980
73
Sản xuất nông nghiệp
Ngắn hạn
5161
6931
34
Dài hạn
1291
2435
89
Kinh doanh nông nghiệp
Ngắn hạn
1290
3414
165
Dài hạn
322
1199
272
Nguồn: MARD. 1998.
Vốn vay VBARD cho ngành nông nghiệp đã tăng nhanh chóng, khoảng 73% trong giai đoạn từ 1994 đến 1997. Cũng trong giai đoạn này, tỉ lệ tăng trưởng vốn vay cho sản xuất nông nghiệp là 34% vốn ngắn là 89% vốn vay dài hạn. Nhu cầu vốn của kinh doanh nông nghiệp cũng tăng nhanh. Kết quả là vốn kinh doanh nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao, 165% đối với vay ngắn hạn và 272% đối với vay dài hạn trong thời gian từ 1994 - 1997. Có thể nhận thấy rằng dư nợ dài hạn của VBARD cho thấy nhu cầu cao đối với loại vốn này.
Chương III.
Một số định hướng, kiến nghị cho chính sách nông nghiệp trong
thời gian tới
Mục tiêu cụ thể
Trong quá trình đổi mới trước đây (trước năm 2000), các chính sách chủ yếu nhằm tháo bỏ các ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung như: chính sách đất đai, tự do hóa thương mại, chuyển từ quản lý sản xuất tập thể sang sản xuất hộ gia đình… mở ra nhiều cơ hội lựa chọn và trao quyền cho nông dân. Những thách thức của tình hình mới đang yêu cầu Nhà nước ta chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Chiến lược phát triển của giai đoạn mới cần chuyển sang xây dựng các chính sách và thể chế để tạo điều kiện cho người sản xuất, kinh doang ra quyết định một cách có hiệu quả, tăng cường năng lực và điều kiện để họ thực hiện quyết định của mình.
Điều đó được thể hiện rõ qua các mục tiêu cụ thể sau:
Tiếp tục khẳng định rõ vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Do không thể tích lũy tái sản xuất mở rộng nhờ tích tụ tài nguyên, lại chỉ dựa trên kỹ thuật sản xuất thô sơ, nông dân cần có sự tiếp sức từ bên ngoài để tạo cú hích khẳng định làm ra giá trị gia tăng. Tùy hoàn cảnh từng nước, mà quy mô nguồn kinh phí có thể rất to lớn.
Nâng cao mức thu nhập trung bình và khả năng tích lũy của hộ nông dân.
Tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa Nhà nước và nông dân.
Phải tìm ra và khơi dậy những động lực, những nguyện vọng và lợi ích chính đáng, thiết than của nông dân để khai thác được nội lực khổng lồ trong dân.
Phải mở được đúng “cánh cửa quan hệ sản xuất” thích hợp, giao vai trò lịch sử cho chủ thể mới ở nông thôn – phát triển hợp tác hóa, phát triển nông trại, phát triển doanh nghiệp tư nhân.
Qua đúc kết kinh nghiệm trong nửa sau của thế kỷ 20 và tham khảo kinh nghiệm một số nước trong khu vực và thế giới, chúng ta có thể khẳng định con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam từ thế kỷ 20 bước vào thế kỷ 21 là: nông nghiệp sản xuất hàng hoá trên cơ sở CNH-HĐH với mức độ phù hợp yêu cầu của nông nghiệp bền vững.
2. Những ngành sản xuất hàng hoá quan trọng của nông nghiệp 10 năm tới:
Ngày 15/06/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quuyết về một số chủ trương chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Theo đó, trong 10 năm tới, những ngành sản xuất hàng hoá quan trọng của nông nghiệp nước ta cần phát triển theo định hướng sau.
Về sản xuất lương thực: lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh. Mức sản lúa ổn định khoảng 33 triệu tấn/năm, trong đó lúa gạo để ăn và dự trữ khoảng 25 triệu tấn/năm. Giữ ổn định khoảng 4 triệu ha đất có điều kiện tưới tiêu chủ động để sản xuất lúa. Cây màu lương thực chủ yếu là ngô, cần phát triển đạt mức 5-6 triệu tấn/năm đủ nguyên liệu để làm thức ăn chăn nuôi.
Về cây công nghiệp ngắn ngày : Không xây dựng thêm các nhà máy đường mới, phát triển mạnh các loại cây có dầu như lạc (đậu phụng), đậu tương (đậu nành), vừng (mè), hướng dương…để cung cấp dầu ăn, các loại cây có sợi như bông, dâu tằm gắn với ngành ươm tơ, dệt lụa phát triển thuốc lá nguyên liệu để giảm lượng thuốc lá nhập khẩu.
Những cây công nghiệp lâu năm truyền thống có giá trị kinh tế cao là: cà phê với mức 400.000 ha cà phê với hiện có, tập trung phát triển cà phê chè, sản lượng cà phê trong tương lai giữ mức khoảng 600.000 tấn/năm. Phát triển mạnh cây điều ở miền Trung, tăng diện tích lên 500.000 ha, sản lượng khoảng 100.000 tấn nhân điều/năm. Hồ tiêu là cây lâu năm có hiệu quả kinh tế cao, cần nâng diện tích lên 50.000 ha, sản lượng 100.000 tấn/năm. Tập trung thâm canh 400.000 ha cao su hiện có, mở rộng vườn cây cao su để đạt 600.000 tấn cao su mủ khô/năm. Bên cạnh đó phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ mủ cao su, gỗ cao su. Chè là cây dài ngày chủ lực ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Cần mở rộng 100.000 ha với công nghệ thâm canh để đạt sản lượng 100.000 tấn chè các loại/năm.
Về rau, hoa quả và cây cảnh, ngoài các loại rau truyền thống, phát triển các loại rau cao cấp mới như: các loại đậu rau, ngô rau, măng, nấm ăn, nấm dược liệu…là những loại rau có giá trị dinh dưỡng cao, có thị trường tiêu thụ, tiếp tục phát triển các loại cây ăn quả có khả năng xuất khẩu: vải, nhãn, dứa, thanh long…
Về lâm nghiệp: ngoài việc bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh, trồng rừng phòng hộ, cần phát triển rừng sản xuất. Cụ thể: phát triển các loại tre, trúc, keo, thông, các loại bạch đàn…làm nguyên liệu phát triển ngành giấy. Tiếp tục phát triển các ngành sản xuất ván gỗ nhân tạo gồm ván ghép thành, ván dăm, ván sợi, công nghiệp chế biến và xuất khẩu đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ…Phát triển các loại quế, hồi…,các loại cây gỗ quý hiếm như giáng hương, sao, lim, lát, pơmu, tếch…các loại cây đặc sản, cây lấy gỗ làm nguyên liệu để chế biến sản phẩm thủ công, mỹ nghệ.
Về chăn nuôi: phát triển đàn lợn phù hợp nhu cầu thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu, phát triển đàn bò thịt theo hướng bò Zêbu có năng suất cao, phấn đấu trong 10 năm tới có 200.000 con bò sữa, trong đó có 100.000 con bò cái vắt sữa với sản lượng 300.000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt.
Về thuỷ sản: Cùng với việc phát triển đánh bắt xa bờ, tập trung đầu tư phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản. Tôm là ngành chủ lực trong ngành nuôi trồng thuỷ sản gồm tôm nước lợ (tôm sú, tôm he) và tôm nước ngọt (tôm càng xanh). Diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh là 100.000 ha, sản lượng 300.000 tấn/năm. Đồng thời phát triển mạnh nuôi trồng các loại cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn và các loại đặc sản khác.
Theo định hướng trên, nền nông nghiệp Việt Nam đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, đủ nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 8-9 tỷ USD/năm. Bên cạnh đó, Chính phủ đã có chủ trương, chính sách để tăng khả năng tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản. Cụ thể, nhanh chóng ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Khoa học công nghệ phải phục vụ mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững, nâng cao năng xuất , chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng mới, quý hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh.
Trong thập kỷ tới, phải đưa trình độ khoa học công nghệ của nhiều ngành trong nông nghiệp Việt Nam đuổi kịp các nước trong khu vực, nâng mức đóng góp của khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp từ 30% hiện nay lên trên 50%. Về giống, đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học trong chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Về tưới tiêu nước và cơ giới hoá, đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tưới phun, tưới nhỏ giọt, tưới thấm… cơ giới hoá khâu làm đất trên 70% khâu gieo hạt cây ngắn ngày
3. Phát triển nông thôn phải gắn với đô thị, công nghiệp
Phát triển nông thôn phải gắn với đô thị. Chúng ta phải quy hoạch mạng lưới đô thị, đặc biệt là đô thị cấp II, thị trấn thị tứ tại các vùng nông thôn. Nó sẽ là hạt nhân, điểm tựa của các vùng nông thôn kết nối ra bên ngoài. Chính mạng lưới thị tứ, thị trấn, đô thị cấp II là hạt nhân để biến những vùng nông thôn thành những nơi cung cấp dịch vụ cuộc sống mà đô thị không thể có. Thử nhìn vào viễn cảnh trong 20 năm nữa, đất nước ta có 50% dân số sống ở đô thị, những dịch vụ cuộc sống ở nông thôn sẽ giá trị như thế nào?
Phát triển nông thôn gắn với công nghiệp. Nhà nước phải xác định trên cơ sở thế mạnh của từng vùng nông thôn từ đó ưu tiên tối đa về chính sách để các vùng đó phát triển. Ví dụ vùng nông thôn Tiên Lữ (Hưng Yên) có nhãn lồng, nhà nước chỉ ưu tiên phát triển cây nhãn bằng chính sách thuế, tín dụng, kỹ thuật… thôi. Nếu dân ở đây làm cây khác, xây dựng nhà máy chế biến khác nhà nước sẽ đánh thuế cao hơn. Từ đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh của nhãn trên thị trường, tạo ra xu thế sản xuất tập trung.
KẾT LUẬN
Việt Nam là nước sản xuất đứng thứ tư và nước xuất khẩu thứ ba trên thế giới các sản phẩm gạo và cà phê. Tuy nhiên, hoạch định các chính sách thương mại hợp lý là cần thiết trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế Việt Nam vào nều kinh tế thế giới và tính bay hơi cao của các thị trường nông nghiệp thế giới. Trong điều kiện như vậy, Chính phủ nước ta đã xác định nhiều mục tiêu khác nhau : nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và năng suất sản xuất của lĩnh vực nông nghiệp ; tiếp tục cải cách thể chế và pháp lý cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam và đáp ứng những đòi hỏi về kinh tế của thị trường thế giới. Những thành quả này phải đi kèm với việc giảm sức nặng của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong lực lượng lao động.
Chính sách trao quyền tự chủ kinh doanh (bắt đầu từ Khoán 10) đã cho phép nông dân tiếp cận với đất đai và các tài nguyên khác như rừng, biển, mặt nước... và chính sách tự do hoá thương mại và đầu tư, đặc biệt đầu tư mạnh về thuỷ lợi đã tạo cú hích ban đầu cho nền nông nghiệp hàng hoá: từ chỗ thiếu đói và khủng hoảng lương thực trong những năm cuối thập kỷi 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, chúng ta đã vươn lên đủ ăn và trở thành nước đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu gạo, đứng vào một trong những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu các nông phẩm nhiệt đới như cà phê, cao su, hạt tiêu, điều... và gần đây, xuất khẩu thuỷ sản cũng chiếm vị trí cao. Tuy nhiên, về cơ bản, sản xuất nông nghiệp nước ta còn phát triển thiếu bền vững, manh mún và tự phát, kém sức cạnh tranh và chưa đủ tầm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Yêu cầu bức thiết hiện nay là nhanh chóng chuyển từ nền nông nghiệp trình độ thấp sang trình độ cao. Điều đó đòi hỏi phải có bước đột phá về chính sách để giải quyết các mâu thuẫn và rào cản phát triển, đưa nền nông nghiệp truyền thống chuyển sang quỹ đạo hàng hoá và thị trường hiện đại; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, tạo ra nền nông nghiệp giá trị cao và chất lượng cao dựa trên việc ứng dụng phổ biến các thành tựu khoa học công nghệ và phát triển bền vững.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích chính sách của ngành nông nghiệp tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam kể từ thời kỳ đổi mới kinh tế đến nay.doc