1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tất cả các hoạt động bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế quốc dân thì công tác tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Điều đó chứng tỏ rằng chỉ có tiêu thụ sản phẩm thì các hoạt động khác của doanh nghiệp mới có thể diễn ra một cách liên tục, đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện được các chỉ tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường vốn đầy tính cạnh tranh.
Hoạt động trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước mỗi doanh nghiệp đều trở thành một chủ thể kinh tế của quá trình tiêu dùng. Nếu không có quá trình lưu thông thì không có quá trình tiêu dùng và không có quá trình sản xuất. Mặt khác môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động luôn biến động không ngừng, thị trường luôn vận động theo những quy luật vốn có của nó, do vậy doanh nghiệp phải nắm bắt xu thế vận động của thị trường, đưa ra các chiến lược, quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp với sự thay đổi của thị trường nói riêng và môi trường kinh doanh nói chung. Thì doanh nghiệp mới có cơ hội thành công trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển bền vững nếu họ bám sát và thích ứng với mọi sự thay đổi của thị trường và có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình kể cả khi sản phẩm đó đang được người tiêu dùng sử dụng. Vì thế chiến lược tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận hợp thành vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu cơ bản của sản xuất kinh doanh là: Sản xuất ra sản phẩm gì? Sản xuất như thế nào? Bán cho ai? Khi nào? Để một mặt tăng cường được thế lực của doanh nghiệp trên thị trường, mặt khác có thể giúp cho doanh nghiệp có thể vận dụng tới mức tối đa các ưu thế về trí tuệ và nguồn lực của mình, hạn chế rủi ro nhằm đảm bảo kinh doanh có lãi trong doanh nghiệp. Điều này sẽ đảm bảo cho sự lớn mạnh của doanh nghệp.
Chình vì vậy công tác chiến lược tiêu thụ sản phẩm được xác định đúng đắn sẽ là tiền đề giúp cho doanh nghiệp có những chính sách, cách ứng xử phù hợp và nhạy bén. Nhằm giành được ưu thế so với đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần của mình. Chính vì lẽ đó trong thời gian thực tập tại đây tôi dã chọn đề tài “Phân tích kết quả tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ phần Constrexim Bình Định” là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống những lý luận liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
- Phân tích đánh giá thực trạng tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty cổ phần Constrexim Bình Định.
- Đề xuất những biện pháp nâng cao tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của Công ty cổ phần Cônstrexim Bình Định từ năn 2006 – 2008 có chiều hướng phát triển như thế nào, có thuận lợi và khó khăn ra sao dựa trên bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Mặt khác do thời gian thực tập có hạn và sự hạn chế của tôi về tình hình thực tế kinh doanh ngoài thị trường của công ty như thế nào. Chính vì vậy, bài viết của tôi không đi sâu vào phân tích chi tiết, không phân tích tất cả các nhân tố mà chỉ đánh giá một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty dựa vào những số liệu thu thập được từ nhà máy và những thông tin liên quan đến lĩnh vực xi măng. Từ đó, đưa ra những biện pháp nhằm cải thiện tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty.
Số liệu phân tích được giới hạn trong 3 năm từ 2006 đến 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liêu
Các loại dữ liệu bao gồm các báo cáo tài chính ( bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng cân đối kế toán) để phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm. Dữ liệu chủ yếu được thu thập từ phòng kinh doanh và phòng tài chính kế toán.
Các dữ liệu khác bao gồm: báo, tạp chí, Internet và các thông tin liên quan đến lĩnh vực xi măng
Phương pháp xử lý số liệu: từ số liệu thu thập được, dùng phương pháp so sánh để đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty qua từng năm, dùng phương pháp diễn dịch để đưa ra nhận xét, dùng đồ thị, biểu đồ để xử lý số liệu .
5. Kết cấu đề tài
Chuyên đề được trình bày gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Chương 2: Thực trạng tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ phần Constrexim Bình Định.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao mức tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ phần Constrexim Bình Định.
69 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3600 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích kết quả tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ phần Constrexim Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa sản phẩm xi măng mác PCB30 là cao hơn 0.016 so với tiêu chuẩn chung của bộ, ngành xi măng để sản xuất ra một tấn xi măng. Bên cạnh đó tỷ lệ Nguyên vật liệu Clinker trong 1 tấn xi măng PCB 30 là thấp hơn nhiều so với tỷ lệ theo quy định chung. Còn đối với sản phẩm xi măng PCB40 vẫn đảm bảo theo như định mức tiêu hao của ngành. Mà định mức tiêu hao nguyên vật liệu cao sẽ tác động làm tăng giá thành sản xuất của sản phẩm.
Một yếu tố khác cũng tác động làm tăng giá thành sản xuất chính là giá mua của các nguyên vật liệu đầu vào. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng vì thực tế tại công ty nguồn nguyên vật liệu chính đều được mua từ bên ngoài như: Clinker được nhập về từ các nhà máy xi măng trung ương (Hoàng Mai, Bỉm Sơn, Hoàng Thạch) và các đơn vị lẻ; thạch cao nhập về từ Đông Hà (Quảng Bình), Lào; phụ gia được mua ở Phú Yên và Gia Lai; bao bì xi măng cao cấp được mua ở Quảng Bình và thành phố Hồ Chí Minh . Nhìn chung trong 3 năm vừa qua các nhà máy sản xuất xi măng cạnh tranh thu mua về giá nguyên vật liệu và ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu và giá than dẫn đến giá nguyên vật liệu tăng cao gây khó khăn cho công ty trong việc thu mua nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ cho sản xuất. Có thể nhận thấy giá thu mua của Ckinker so với các nguyên vật liệu khác tăng khá nhanh đăc biệt là trong năm 2008. Nguyên nhân là do đây là loại nguyên vật liêu chính mà các nhà máy dùng để nghiền xi măng và do giá cước vận chuyển từ miền Bắc vào miền Trung cao. Còn giá thạch cao có tăng nhưng chiếm tỉ lệ thấp trong sản phẩm hoàn thành và giá mua các loại đá phụ gia lại không tăng nên cũng phần nào không gây áp lực làm tăng chi phí sản xuất.
Bảng 2.10: Giá mua của các loại nguyên vật liệu đầu vào
Đơn vi: 1.000 đồng / tấn
Loại vật liệu
2006
2007
2008
Clinker
520
720
950
Thạch cao
450
520
640
Phụ gia
120
120
120
Bên cạnh đó, các yếu tố như giá nhiên liệu phục vụ sản xuất như than , điện,... và tiền công cũng gia tăng góp phần làm nâng cao giá thành sản xuất trong 3 năm qua cũng như chi phí thực hiện gia công sản phẩm.
Bảng 2.10: Giá thành sản xuất cho một tấn xi măng rời
Đơn vị: 1.000 đồng/ tấn
Xi măng
2006
2007
2008
PCB 30
750
850
950
PCB 40
790
890
1040
Gia công
165
170
180
Khi nhận gia công cho các thương hiệu mạnh, công ty cũng nâng cao được chất lượng sản phẩm của mình. Cụ thể, sau một thời gian thực hiện đơn hàng cho nhà máy xi măng Hoàng Thạch thì sản phẩm do công ty sản xuất đến nay đã có chất lượng tương đương như sản phẩm xi măng mang thương hiệu HoàngThạch. Đây là một lợi thế giúp nâng cao thương hiệu xi măng Constrexim Bình Định trên thị trường.
Giá bán: Mặc dù trên thị trường hiện nay, cạnh tranh bằng giá cả ngày càng nhường chỗ cho cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, nhưng giá cả vẫn luôn có vai trò quan trọng. Trong một nền kinh tế, giá cả thường là tiêu chuẩn xác định lợi ích kinh tế giữa người mua và người bán. Tuy nhiên người mua sẽ chỉ bỏ tiền ra mua hàng hoá khi hàng hoá đó là thứ họ đang cần và phù hợp túi tiền của họ.
Trong trường hợp cùng một loại hàng hoá lại có nhiều người sản xuất, giả sử chất lượng của chúng đều như nhau thì lẽ đương nhiên là khách hàng sẽ mua loại hàng hoá của nhà sản xuất nào bán rẻ hơn. Mặt khác, hàng hoá là thứ được sản xuất ra không phải để người làm ra nó tiêu dùng mà là để bán, và muốn bán được thì giá cả phải phù hợp.
Mà yêú tố ảnh hưởng đến giá bán ra của hàng hoá chính là giá thành sản xuất ra nó. Đối với các loại xi măng do công ty sản xuất có một thực tế là:
Xi măng PCB 30 có giá thành sản xuất còn khá cao nên cần tiến hành giảm giá thành sản xuất, làm cơ sở thực hiện chiến lược giá cả.
Còn xi măng PCB 40 so với các sản phẩm cùng loại của những thương hiệu lớn thì giá cả hợp lý, chất lượng tương đương nên có thể cạnh tranh được.
Công tác tổ chức tiêu thụ:
Nếu sản phẩm có chất lượng tốt có giá cả hợp lý mà không thực hiện tốt công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm thì không mang lại hiệu quả cao cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm được. Có thể nói công tác tổ chức tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ được. Công tác này bao gồm các hoạt động liên tục, tiếp nối nhau từ khâu ký kết hợp dồng cho đến khi đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng vẫn chưa kết thúc.
Các nhân viên của công ty còn thiếu tích cực trong việc chào hàng, tìm kiếm các hợp đồng mới cho công ty. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty chủ yếu lại thông qua các hợp đồng ký kết được. Cho nên sản lượng tiêu thụ còn khá hạn chế.
Dự trữ hàng hoá, nguyên vật liệu nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty được liên tục. Dự trữ không thể ở mức quá thấp vì như vậy khi nhu cầu thị trường tăng cao thì không đủ hàng để cung cấp cho khách hàng và công ty cũng không nên dự trữ hàng hoá ở mức quá cao, do dự trữ ở mức quá cao sẽ làm công ty bị ứ đọng vốn và làm hiệu quả kinh doanh bị giảm sút. Tuy nhiên do tính chất hoạt động của từng chuyến hàng thông qua việc ký kết hợp đồng. Do vậy, công ty không có tình trạng dự trữ lâu ngày. Chính yếu tố này giúp công ty khắc phục được tình trạng ứ đọng vốn, chiếm dụng vốn mà hiện nay đối với công ty là vấn đề hết sức khó khăn. Ngoài ra vấn đề dự trữ hàng hoá sao cho không thừa không thiếu còn là một phương án giải quyết tình trạng thiếu vốn của công ty.
Mức giá hàng, điều kiện cung ứng hàng kịp thời và tình trạng của hàng khi đến địa chỉ cuối cùng đều ảnh hưởng đến mức độ thoã mãn của người tiêu dùng. Hiểu được điều này cộng thêm đặc tính dễ xảy ra hư hỏng của mặt hàng xi măng nên công ty đã chủ động lựa chọn và xây dựng mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển có uy tín. Nhờ vậy công ty luôn đảm bảo giao hàng đúng thời gian, địa điểm và tình trạng chất lượng của sản phẩm khi đến tay khách hàng. Mặt khác còn giúp công ty tiết kiện chi phí khi không phải tổ chức đội xe riêng chuyên chở vận chuyển sản phẩm.
Hoạt động quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi….là những hoạt dộng nhằm hỗ trợ hoạt động bán hàng của doanh nghiệp song có thể nói nó có tác động không hề nhỏ đến lượng sản phẩm tiêu thụ được của công ty. Thông qua các hình thức quảng cáo, tiếp thị sản phẩm của công ty mới được người tiêu dùng biết đến và góp phần xây dựng thương hiệu của công ty trên thị trường. Tuy nhiên thực hiện hoạt động này cần khá nhiều kinh phí, công ty còn quá khó khăn về vốn lại không tổ chức nguồn kinh phí riêng cho hoạt động này. Nên trong thời gian qua công ty chỉ mới dừng lại ở việc phát hành các catolô quảng cáo về công ty song lại không thường xuyên, cửa hàng kinh doanh của công ty lại khá nhỏ không bắt mắt nên chưa thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng, những năm trước đây cũng có tham gia hội chợ triển lãm, tài trợ giải bóng đá Hoàng đế Quang Trung song không được duy trì trong các năm tiếp theo. Việc cho ra đời loại bao bì mới thay đổi từ nhãn hiệu “Bình Định” sang “Constrexim Bình Định” nhưng chưa được chuẩn bị tốt về công tác quảng cáo, củng cố cho khách hàng. Kết quả là chưa được nhiều người tiêu dùng tín nhiệm và tiêu dùng. Bên cạnh đó công ty có sử dụng hình thức khuyến mãi chiết khấu giá cho khách hàng mua với số lượng hàng hoá lớn trên 50 tấn. Nói chung hoạt động này của công ty vẫn chưa mang tính thường xuyên cố định mà chỉ mang tính thời điểm; vì đây không phải là lĩnh vực kinh doanh duy nhất của công ty; lĩnh vực kinh doanh xây lắp chiếm khá nhiều vốn của công ty nên nguồn kinh phí cho các hoạt động quảng cáo còn ở mức hạn chế.
Mặc dù công ty đã có những quan tâm cần thiết đến công tác tổ chức tiêu thụ và cũng đạt được một số thành công song cũng còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục thì công tác này mới hỗ trợ tốt cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty.
2.2.4.2. Phân tích những nhân tố không thuộc về bản thân doanh nghiệp
Chính sách vĩ mô:Các chính sách của nhà nước đều có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các chủ thể trong xã hội trong đó có các chủ thể kinh kinh tế.
Khi Đảng quyết định đổi mới kinh tế thì ngành công nghiệp xi măng được chú trọng hình thành và phát triển sớm nhất. UBND tỉnh Bình Định cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành công nghiệp sản xuất xi măng cho nên đã tiến hành liên doanh với Tổng công ty xi măng Việt Nam và Tổng công ty xây dựng thuỷ điện Sông Đà lắp đặt dây chuyền công nghệ mới thay thế cho công nghệ sản xuất thủ công trước đây. Nhà máy xi măng Bình Định ra đời dưới hình thái là một doanh nghiệp nhà nước. Sản phẩm do nhà máy sản xuất ra chủ yếu là để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài tỉnh Bình Định và cung cấp cho các công trình xây dựng của tỉnh. Trước khi cổ phần hoá, tỉnh giao việc cung cấp xi măng của dự án bê tông hoá nông thôn cho công ty. Nhưng kể ngày 17/01/2006 công ty trở thành một chủ thể kinh tế độc lập chịu sự tác động của cạnh tranh trên thị trường chứ không được bao tiêu sản phẩm như trước đây. Để nhận được hợp đồng cung ứng xi măng cho các công trình xây dựng do tỉnh làm chủ đầu tư, công ty phải cạnh tranh đấu thầu với các nhà phân phối cung ứng khác.
Trong những năm qua sự suy giảm chung của nền kinh tế thế giới cũng tác động đến nền kinh tế Việt Nam làm nước ta phải đối mặt với lạm phát. Để khắc phục lạm phát, chính phủ quyết định thắt chặt tài chính. Tỷ lệ lãi suất ngân hàng không ngừng gia tăng khiến công ty gặp khó khăn trong việc vay vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất. Bên cạnh giá xăng dầu không ngừng tăng cao kéo các chi phi hoạt động của doanh nghiệp tăng lên làm giá bán xi măng cũng tăng lên. Trong khi đó giá sắt thép cũng tăng cao nên nhu cầu xây dựng giảm xuống ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ xi măng của công ty.
Đối thủ cạnh tranh:
Thị trường đã quá quen thuộc với những thương hiệu xi măng uy tín, cụ thể: sản phẩm PCB 40 nhãn hiệu “Sư Tử” của công ty xi măng Hoàng Thạch cũng như nhãn hiệu “Con Rồng” của Công ty xi măng Hà Tiên 1; Sản phẩm PCB 30 và PCB 40 nhãn hiệu “Chim Việt” do Công ty cổ phần xi măng Hoàng Mai hay sản phẩm của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn với nhãn hiệu “Con Voi”, xi măng của các đơn vị liên doanh với nước ngoài …. Bên cạnh đó, ngày càng nhiều chủng loại xi măng khác xuất hiện trên thị trường như: Công ty xi măng Holcim có 8 loại sản phẩm nhưng chia ra làm hai nhóm chính: sản phẩm xi măng đa dụng và sản phẩm xi măng chuyên dụng; sản phẩm xi măng nhãn hiệu “Ba ngọn núi” của công ty xi măng Nghi Sơn; ....
Qua đây, ta thấy được bức tranh toàn cảnh về sức cạnh tranh trong tiêu thụ xi măng. Đặc biệt ngành xi măng Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển mạnh mẽ về công tác đầu tư như nhiều trạm nghiền mới ra đời, xây dựng thêm nhiều dây chuyền mới của các ngành, địa phương, của các công ty trong Tổng công ty xi măng Việt Nam và Liên Doanh… đã tiếp thêm lượng hàng hoá cho thị trường. Chính vì vậy nghiên cứu đối thủ cạnh tranh đối với công ty cổ phần Constrexim Bình Định là vô cùng quan trọng quyết định sự sống còn cho nhà máy sản xuất xi măng của công ty.
Trong thời gian qua, công ty đã cử nhân viên tiến hành thu thập thông tin của các đối thủ cạnh tranh đặc biệt là các đối thủ đã có xi măng tiêu thụ tại thị trường Miền Trung qua báo, tạp chí, internet; qua khách hàng, các đại lý,… bên cạnh đó còn thông qua các đơn đặt hàng gia công của các đối thủ với công ty. Từ đó cho biết phần nào vị trí của công ty trong ngành cũng như trong thị trường.
Nếu so với các đối thủ cạnh tranh (Nhà máy xi măng Hà Tiên với công suất sản xuất là 1,5 triệu tấn/ năm; Nhà máy xi măng Hoàng Thạch có hai dây chuyền với công suất thiết kế là 2,3 triệu tấn/ năm; dây chuyền công nghệ của Công ty cổ phần xi măng Hoàng Mai sản xuất 1,4 triệu tấn/ năm, của Xi măng Bút Sơn là 3,8 triệu tấn/ năm…) thì công nghệ sản xuất của công ty quá lạc hậu công suất thấp, số lượng sản xuất xi măng hàng năm rất ít chỉ cung cấp cho các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Địa bàn hoạt động hạn hẹp, lại không được quảng cáo tiếp thị nên thương hiệu của sản phẩm cũng như uy tín của công ty không thể so sánh với các công ty có sản phẩm được tiêu thụ trên cả nước. Trong khi đó, sản phẩm của công ty có giá bán thấp hơn các loại xi măng như Hoàng Thạch, Hà Tiên, Hoàng Mai khoảng 30.000 đến 50.000 đồng mà chất lượng gần như tương đương. Trong thời gian tới công ty sẽ gặp khó khăn khi các đối thủ mới có tiềm lực gia nhập thị trường sẽ tìm cách chiếm thị phần bằng cách bù lỗ và bán phá giá.
Tâm lý người tiêu dùng:
Việc tiêu thụ sản phẩm còn chịu sự tác động từ thu nhập, tâm lý… của người tiêu dùng. Chính vì vậy, mặc dù sản phẩm xi măng của công ty đã xuất hiện trên thị trường hơn 15 năm qua nhưng người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh vẫn coi đây là loại xi măng địa phương có chất luợng thấp. Có thể trước đây chất lượng xi măng của công ty còn kém so với các chủng loại xi măng cùng loại trên thị trường. Nhưng trong những năm qua công ty đã không ngừng nỗ lực để nâng cao chất lượng sản phẩm. Song tâm lý của người dân vẫn thích chọn lựa những thương hiệu uy tín (Hoàng Thạch, Hà Tiên, Bỉm Sơn…) để đảm bảo chất lượng công trình xây dựng.
Trong khi đó thu nhập của người dân dần tăng lên nên chuyển sang ưa chuộng các vật liệu xây dựng khác như: gạch hoa, đá … Dẫn đến thị trường tiêu thụ xi măng của công ty càng bị thu hẹp
Chưong Ba:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ
SẢN PHẨM XI MĂNG Ở CÔNG TY CỔ PHẦN CONSTREXIM
BÌNH ĐỊNH
3.1. Đánh giá thực trạng tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty
Công ty cổ phần Constrexim Bình Định là đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực như: xây lắp và sản xuất vật liệu xây dựng, các mặt hàng sản xuất của công ty vốn đa dạng: vôi, đá, bê tông thương phẩm và xi măng…Nhưng trong số đó, xi măng là loại sản phẩm ra đời và tồn tại cùng với những giai đoạn phát triển của công ty. Trải qua những khó khăn và thách thức của thị trường, xi măng không còn là sản phẩm chủ lực nhưng nó vẫn là một sản phẩm truyền thống không thể thiếu của công ty. Cho nên, để vực dậy chỗ đứng của sản phẩm xi măng trong cơ cấu các loại mặt hàng sản xuất của công ty, cũng như tìm kiếm chỗ đứng của thương hiệu xi măng Constrexim Bình Định trên thị trường tôi đã tiến hành phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm xi măng tai công ty. Qua quá trình phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng theo số lượng, doanh thu; phân tích tình hình thực hiện kế hoạch mặt hàng và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty, tôi đã rút ra một số kết luận như sau:
3.1.1. Những thành công
Mặc dù tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty nhìn chung có xu hướng giảm đi, toàn ngành xi măng trong ba năm qua đặc biệt năm 2008 phải đối mặt với những bất lợi của thị trường tiêu thụ nhưng doanh thu thu về vẫn đảm bảo có lợi nhuận cho công ty. Sản lượng tiêu thụ của hai loại sản phẩm năm 2008 chỉ chưa tới 10 ngàn tấn/ năm nhưng lợi nhuận đem lại từ hai loại sản phẩm này vẫn gần 800 triệu đồng.
Về mặt chất lượng sản phẩm cũng đã được nâng lên rõ rệt so với những năm trước đây. Nếu những năm trước đây, sản phẩm chỉ có chất lượng trung bình khá so với các loại xi măng của các doanh nghiệp trong cùng ngành Thì từ sau hai năm trở lại đây, xi măng của công ty đã có những thay đổi đáng kể về chất lượng đặc biệt là chất lượng xi măng PCB 40. Cán bộ nhân viên kỹ thuật của công ty, đã nghiên cứu thay đổi tỷ lệ các loại nguyên vật liệu để nghiền ra xi măng PCB 40 có chất lượng giống như xi măng Hoàng Thạch và cũng tính toán hợp lý giá thành sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Để đến giữa năm 2008, chất lượng xi măng PCB 40 của công ty đã được nâng cao. Và trong thời gian tới công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu để cải tiến loại xi măng PCB 30.
Về công tác dự trữ hàng tồn kho được công ty thực hiện rất tốt. Ở công ty hầu như không có tình trạng tồn kho lâu ngày đối với sản phẩm xi măng. Điều này tránh không gây ứ động vốn cho công ty và cũng phần nào giải quyết việc thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh khi mà lĩnh vực xây lắp đã chiếm dụng khá nhiều vốn của công ty.
Bên cạnh đó công tác vận chuyển xi măng của công ty luôn được khách hàng đánh giá cao. Vì thời gian giao hàng nhanh chóng, kịp thời; hạn chế tình trạng hư hao trong quá trình vận chuyển; làm đúng các thủ tục kiểm kê giao nhận hàng hoá…. Cho nên công tác này đã làm tốt nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Mặt khác, công ty luôn duy trì được trạng thái ổn định của hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm qua một phần là do có những biện pháp kịp thời nhận gia công cho các nhà máy khác. Tình hình gia công cũng phải gánh chịu những bất lợi của thị trường gây nên. Nhưng với cố gắng và quyết tâm của ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên, mọi khó khăn cũng đã được giải quyết, tuy mất đi những hợp đồng cũ song công ty lại có được những đối tác mới có tiềm lực hơn và cũng rút ra một số kinh nghiệm cho hoạt động này trong những năm sắp tới.
3.1.2. Nhưng bất cập còn tồn tại
Tuy có được những thành công song tình hình tiêu thụ của nhà máy trong những năm qua đang có xu hướng sụt giảm là điều có thể khẳng định. Với những bất cập còn tồn tại sau:
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của xi măng Constrexim Bình Định quá yếu so với các loại xi măng như Hoàng Thạch, Hoàng Mai, Hà Tiên…. Trong những năm qua sản lượng tiêu thụ của cả hai loại xi măng do công ty sản xuất không ngừng giảm đi, đáng kể nhất là trong năm 2008 sản lượng tiêu thụ thực tế của công ty chỉ gần bằng 1/7 so với lượng tiêu thụ của các loại xi măng Hoàng Thạch và Hoàng Mai do công ty gia công để cung cấp cho thị trường miền Trung. Những nhân tố tác động làm giảm năng lực cạnh tranh của xi măng Constrexim Bình Định trên thị trường, bao gồm:
So với các doanh nghiệp khác trong ngành xi măng thì công nghệ sản xuất của công ty là quá lạc hậu và chưa được chú trọng đầu tư đổi mới trong những năm qua. Cho nên sản lượng sản xuất hàng năm thấp chưa sử dụng hết tối đa công suất của dây chuyền nên giá thành sản xuất vẫn còn khá cao.
Tình hình giá nguyên liệu Clinker, nhiên liệu tăng giá cao ảnh hưởng rất lớn đến chi phí giá thành và hoạt động tiêu thụ xi măng của công ty. Chủ yếu là do Công ty chưa có mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp để kiểm soát đầu vào và sự cạnh tranh mua nguyên vật liệu của các nhà máy sản xuất xi măng đã đẩy giá lên cao. Giá mua đầu vào cao bên cạnh đó công ty còn phải chịu thêm áp lực từ việc tăng cao của giá cước vận chuyển nguyên vật liệu về nhập kho.
Ngoài ra tâm lý tiêu dùng của khách hàng thường quan tâm đến những sản phẩm xi măng vốn đã có uy tín cao như Hoàng Thạch mà không mấy quan tâm đến những sản phẩm địa phương. Trong khi đó, giá phôi thép thế giới tăng mạnh làm ảnh hưởng đến giá cả sắt thép trong nước nên nhu cầu xây dựng của người dân cũng giảm xuống. Nhu cầu của thị trường tiêu thụ xi măng giảm sút làm cho sự cạnh tranh càng diễn ra gay gắt hơn nên các công ty lớn không ngừng đưa ra các chính sách mới nhằm duy trì thị phần tiêu thụ của mình. Trong cuộc chạy đua với các công ty lớn giàu tiền lực kinh tế thì các doanh nghiệp địa phương, vừa và nhỏ luôn luôn yếu thế.
Về nhân sự chưa có sự phối hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ với các bộ phận trực tiếp sản xuất ra sản phẩm; đội ngũ nhân viên bán hàng còn mỏng nên công tác tiếp cận và mở rộng thị trường còn chậm, chưa bám sát thị trường để nắm bắt nhu cầu của các khách hàng và thông tin về đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, hiện tại công ty chưa có bộ phận nghiên cứư marketing nên công tác quảng cáo, tiếp thị chưa được thực hiện thường xuyên và cũng không được đồng bộ trong các khu vực tiêu thụ. Trước đây khi còn là một doanh nghiệp nhà nước các hoạt động xúc tiến bán hàng cũng như tổ chức nhân lực cho hoạt động này chưa được chú trọng đến vì không phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh. Khi không còn sự bảo trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước, công ty phải tự mình nghiên cứu thị trường, tìm đầu ra cho sản phẩm; tự huy động vốn để phục vụ sản xuất và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng vì nguồn vốn huy động ban đầu còn khá khiêm tốn và phải đầu tư cho nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau nên công ty chưa thể xây dựng riêng cho mình một đội ngũ nhân viên marketing riêng biệt cũng như chưa có nguồn kinh phí cho các hoạt động xúc tiến bán hàng. Ngoài ra, công ty cũng còn chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động này trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, việc nắm bắt các loại xi măng khác trên thị trường để đưa ra giá bán và chính sách đôi lúc còn chưa kịp thời nên hiệu quả hoạt động tiêu thụ có phần bị ảnh hưởng. So với các đối thủ khác thì chính sách giá cả của công ty còn chưa linh hoạt mà chỉ mới dừng lại ở hình thức khuyến mãi giảm giá cho khách mua hàng với số lượng lớn.
Thứ tư, đội ngũ nhân viên kỹ thuật hình thành sớm cũng như hệ thống quản lý chất lượng được công ty áp dụng từ rất lâu nhưng chỉ trong những năm gần đây chất lượng sản phẩm của công ty mới đang có những bước cải tiến đáng kể. Song việc nâng cao chất lượng sản phẩm chưa được thực hiện triệt để mà chỉ mới làm được đối với xi măng PCB 40. Còn đối với xi măng PCB 30 thì chất lượng vẫn còn một khoảng cách so với các đối thủ cạnh tranh mà cụ thể nhất là công ty cổ phần xi măng Hoàng Mai.
3.2. Định hướng phát triển của Công ty cổ phần Constrexim Bình Định
Căn cứ vào nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất của Công ty, Đại hội đồng cổ đông đã thống nhất một số định hướng cơ bản phát triển Công ty trong những năm sắp đến như sau:
Thứ nhất, định hướng phát triển sản xuất kinh doanh và đổi mới bộ máy tổ chức hoạt động Công ty theo mô hình mới.
Đại hội đồng cổ đông xác định sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng là lĩnh vực hoạt động truyền thống của Công ty. Tuy nhiên, trong những năm gần đây sản phẩm xi măng mang thương hiệu Constrexim Bình Định bị cạnh tranh khốc liệt thị phần ngày càng bị thu hẹp. Nguyên nhân, sản phẩm xi măng chỉ mang tính địa phương, trước cổ phần hoá, sản phẩm của nhà máy chủ yếu cung cấp cho các công trình do Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định làm chủ đầu tư. Sau cổ phần hoá, Công ty phải tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, trong khi khả năng cạnh tranh kém, nguồn nguyên liệu chủ yếu là clinker lại do chính các đối thủ cạnh tranh cung cấp. Do vậy, trong thời gian sắp đến, Công ty chủ trương thực hiện gia công cho các đối tác có thị phần tiêu thụ lớn như xi măng Hà Tiên 1, xi măng Hoàng Thạch… để đảm bảo ổn định sản xuất và cố gắng duy trì, mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm xi măng của công ty.
Bên cạnh đó công ty đề ra kế hoạch sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm xi măng trong những năm tiếp theo là 180.000 tấn/ năm.
Định hướng phát triển đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, Công ty tập trung nghiên cứu các dự án sản xuất vật liệu xây dựng mới như đầu tư mở rộng lĩnh vực sản xuất bê tông tươi. Trên cơ sở hiệu quả do dự án bê tông tươi triển khai và đi vào hoạt động từ năm 2003, và dự báo nhu cầu thị trường sản phẩm bê tông tại thành phố Qui Nhơn và khu kinh tế Nhơn Hội, thì dự án đầu tư mở rộng lĩnh vực sản xuất bê tông tươi là hướng đi đúng.
Sau khi tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai chính thức là cổ đông chiến lược, Công ty tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực xây lắp, đưa lĩnh vực này trở thành hoạt động sản xuất kinh doanh chính của Công ty, đảm bảo mức độ tăng trưởng từ 15% đến 20%/năm bằng việc tổ chức tốt công tác thi công các dự án thuỷ điện và bất động sản của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, xây dựng uy tín thương hiệu Bình Định Constrexim, từ đó gia tăng việc tích luỹ vốn để tìm cơ hội đầu tư vào các lĩnh vực khác.
Tiến hành nghiên cứu và lập dự án khả thi kinh doanh bất động sản tại thành phố Qui Nhơn. Với thế mạnh về mặt bằng sẵn có và sự tham gia của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực bất động sản, cùng với sự phát triển của khu kinh tế Nhơn Hội, Công ty sẽ thực hiện dự án cao ốc văn phòng trong những năm tới.
Thực hiện việc đầu tư và nâng cao trình độ quản lý trên mọi mặt bằng công tác đào tạo, thu hút nhân lực có chất lượng, xây dựng công ty có trình độ quản lý chuyên nghiệp và hiệu quả sẵn sàng đáp ứng nhu cầu phát triển cũng như mở rộng lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty.
Thứ hai, định hướng đổi mới tình hình tài chính Công ty. Để phù hợp với định hướng phát triển sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính cần được đổi mới, trong đó, đặc biệt là đổi mới cơ cấu vốn. Đây là vấn đề có tính sống còn của Công ty, bởi cơ cấu vốn có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Định hướng đổi mới tình hình tài chính, trong những năm sắp tới cần tập trung vào một số nội dung quan trọng sau:
- Cơ cấu lại tài sản, nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán, thực hiện tốt cam kết với các nhà tài trợ và chi trả trả cổ tức cho cổ đông
- Chuẩn bị các thủ tục cần thiết gửi Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đăng ký Công ty đại chúng.
- Đảm bảo tỷ lệ nợ trên tổng nguồn vốn ở mức an toàn, đặc biệt là nợ vay ngắn hạn, tránh nguy cơ mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
- Gia tăng qui mô vốn cổ phần và nợ dài hạn bằng cách tăng cường huy động vốn cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu và đa dạng hóa các kênh huy động nợ dài hạn
- Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bộ phận tài chính để tham mưu cho giám đốc Công ty về chiến lược huy động vốn.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao mức tiêu thụ sản phẩm của công ty
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày cang gay gắt và đầy rủi ro như hiện nay làm thế nào để phát huy lợi thế của mình và đáp ứng nhu cầu khách hàng ngày càng tốt hơn, linh hoạt hơn, Công ty cổ phần Constrexim Bình Định luôn mong muốn làm thế nào để thoã mãn nhu cầu khách hàng tốt nhất, đem đến cho quy khách sự hài lòng khi tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty.
Qua thời gian thực tập tại công ty cổ phần Constrexim Bình Định và dựa trên việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ sảm phẩm của công ty, tôi xin đề ra một số giải pháp như sau:
3.3.1. Thiết lập phòng tiêu thụ sản phẩm và hỗ trợ bán hàng
Căn cứ thực hiện:
Hiện tại công ty không tổ chức phòng marketing nên công tác quảng cáo, tiếp thị cũng như các hoạt động hỗ trợ khác thực hiện sơ sài và không thường xuyên; dẫn đến sản phẩm của công ty không được người tiêu dùng biết đến. Ngoài ra tình hình tài chính của công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn nên chưa tổ chức được nguồn kinh phí riêng dành cho hoạt động này.
Còn phòng kinh doanh của công ty chỉ mới chú ý đến công tác tiêu thụ sản phẩm chứ chưa có sự quan tâm đúng mức đến các hoạt động hỗ trợ bán hàng. Đội ngũ nhân viên trẻ trong phòng kinh doanh của công ty còn khá ít và còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực tiếp thị chào hàng; còn số cán bộ lâu năm có kinh nghiệm thực tế song lại thiếu kiến thức chuyên ngành. Nên giữa hai lực lượng này vẫn chưa có sự phối hợp cần thiết.
Cách thức thực hiện:
Để mở rộng thị trường tiêu thụ công ty nên tổ chức phòng kinh doanh thành phòng tiêu thụ và hỗ trợ bán hàng bán hàng để thu thập tông tin chính xác về thị trường, đối thủ cạnh tranh, thực hiện công tác bán hàng cũng như các dịch vụ hậu mãi sau khi bán hàng nhằm đẩy mạnh khối lượng tiêu thụ và tốc độ tiêu thụ sản phẩm xi măng.
+ Về nhân sự:
- Phải tuyển dụng thêm nhân sự từ các trường đại học hoặc cao đẳng có trình độ chuyên môn đúng công việc của phòng để bổ sung cho lực lượng nhân viên của phòng tiêu thụ và hỗ trợ bán hàng.
- Công ty nên thực hiện đào tạo, huấn luyện huấn luyện cho nhân viên của mình đặc biệt là nhân viên phụ trách công tác tiếp thị và bán hàng hiểu rõ hơn về: lịch sử hình thành của công ty; đặc tính sản phẩm xi măng của công ty; mục tiêu và phương hướng kinh doanh của công ty; tâm lý và đặc tính của khách hàng mục tiêu và đối thủ cạnh tranh; nguyên tắc bán hàng, kỹ năng bán hàng, kinh nghiện trong giao tiếp, tạo quan hệ; tiến trình thực hiện thực tế và trách nhiệm của họ đối với công ty. Bên cạnh việc đào tạo nếu có điều kiện công ty cũng nên cho nhân viên đi tham quan các nhà máy xi măng khác để có thể học hỏi kinh nghiệm của họ
+ Về chiến lược chiêu thị:
- Công ty nên lập trang web riêng của công ty để giới thiệu sản phẩm của mình cho người tiêu dùng biết đến.
- Trên vỏ bao bì công ty nên ghi địa chỉ trang web, địa chỉ email, số điện thoại để khách hàng dễ dàng liên lạc với công ty khi cần hàng.
- Thực hiện chăm sóc khách hàng thường xuyên bằng cách điện thoại của đội ngũ tiếp thị; tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm để mời các đại lý, các công ty xây dựng có quan hệ làm ăn với công ty đến dự.
- So với các loại sản phẩm xi măng khác thì sản phẩm xi măng của công ty cổ phần Constrexim Bình Định không mấy người biết đến. Do đó, công ty nên thực hiện việc tặng Băng gol, bảng hiệu giới thiệu sản phẩm của công ty cho các đại lý hoặc cửa hàng hợp tác lâu năm với công ty.
- Đưa ra các diều kiện ưa đãi cho những đại lý nào tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm xi măng, thời hạn thanh toán tiền hàng nhanh cho công ty nhưng tuỳ theo tình hình tiêu thụ của công ty mà điều chỉnh mức sản lượng được hưởng khuyến mãi lại.
- Hỗ trợ về kỹ thuật cho khách hàng ngoài ra nhà máy cũng nên tiến hành đào tạo kỹ thuật cho khách hàng khi khách hàng cần.
- Thưởng cho khách hàng thanh toán hoá đơn sớm bằng cách chiết khấu tiền mặt; đối với khách hàng mua với khối lượng lớn, tiêu thụ đạt hoặc vượt chỉ tiêu do nhà máy quy định thì công ty thưởng cho khách hàng bằng hình thức chiết khấu theo số lượng; trợ giá vận chuyển cho khách hàng lâu năm.
- Đối với từng khu vực khác nhau công ty nên thực hiện chính sách giá bán khác nhau để chiếm lĩnh thị trường nhưng vẫn đảm bảo lợi nhuận, đồng thời phải thường xuyên tìm hiểu những phản ứng của khách hàng cũng như của đối thủ cạnh tranh như thế nào về giá bán sản phẩm của công ty để có biện pháp điều chỉnh giá bán kịp thời nhằm giành thắng lợi trong kinh doanh.
Lợi ích và hiệu quả mang lại:
+ Việc tổ chức phòng tiêu thụ và hỗ trợ bán hàng giúp công ty tiết kiện chi phí, nhân lực nếu phải tổ chức riêng thành hai phòng kinh doanh và phòng marketing. Nhờ vậy sự phối hợp giữa hai mảng này cũng tốt hơn so với khi tách riêng. Cụ thể:
Hiện tại phòng kinh doanh của công ty là 11 người và tiền lương trung bình của các nhân viên của phòng là 1,9 triệu đồng/ tháng.
Nếu tổ chức thêm phòng Marketing thì công ty phải tuyển thêm ít nhất 3 người nữa, bổ sung cho lực lượng của phòng kinh doanh thêm 2 người nữa. Giả sử, công ty trả cho nhân viên mới là 1,5 triệu đồng/ tháng thì hàng tháng tiền lương phải trả cho nhân viên cả hai phòng (TK 334) là: (1,9 x 11) +(1,5 x 5) = 28,4 triệu đồng/ tháng.
Còn khi công ty tổ chức thành 1 phòng và bổ sung thêm 2 nhân viên có chuyên môn marketing và quản trị kinh doanh thì tiết kiệm được chi phí tiền lương cho công ty là: 1,5 x 3 = 4,5 triệu đồng/ tháng.
+ Thông qua phòng tiêu thụ và hỗ trợ bán hàng công ty sẽ bám sát hơn nhu cầu của khách hàng trên thị trường đối với sản phẩm của công ty từ đó có những chiến lược kinh doanh phù hợp với sự thay đổi của thị trường. Nhờ vậy sản lượng và doanh thu tiêu thụ được nâng lên.
+ Bên cạnh đó, các nhân viên của phòng còn kiêm luôn công tác giám sát và thu hồi nợ của khách hàng (theo dõi chi tiết cho từng khách hàng của công ty trên TK 131). Điều này sẽ hạn chế nợ tồn của khách hàng giúp công ty thu hồi vốn để tái sản xuất một cách nhanh chóng, hỗ trợ cho công việc cho các phòng ban khác đặc biệt là phòng tài chính kế toán của công ty.
3.3.2. Biện pháp liên kết với các lĩnh vực kinh doanh khác trong công ty để đấy mạnh tiêu thụ sản phẩm
Căn cứ thực hiện:
Hiện tại, sản phẩm bê tông thương phẩm của công ty đang được thị trường ưa chuộng, và theo dự báo thì trong những năm tới nhu cầu bê tông thương phẩm của thành phố Quy Nhơn cũng như khu kinh tế Nhơn Hội là rất lớn. Bên cạnh đó lĩnh vực kinh doanh xây lắp của công ty ngày càng phát triển. Trong những năm qua, các đội xây lắp của công ty đã và đang nhận thi công cho những công trình xây dựng lớn, nhỏ khác nhau ở trong và ngoài tỉnh. Điều này đã góp phần đẩy mạnh uy tín của công ty trong lĩnh vực xây dựng và tạo tiền đề cho sự phát triển của các đội xây dựng trong những năm tiếp theo. Cả hai lĩnh vực kinh doanh mới mẻ trên của công ty đều có liên quan mật thiết tới ngành nghề sản xuất xi măng của công ty. Cho nên sự phối kết hợp giữa các ngành nghề kinh doanh sẽ giúp công ty có được lợi thế kinh doanh riêng so với các đối thủ cạnh tranh trong từng lĩnh vực kinh doanh riêng biệt.
Cách thức thực hiện:
+ Khi ký kết hợp đồng thi công các công trình cho đối tác công ty phải tiến hành đàm phán để đối tác chấp nhận sử dụng sản phẩm xi măng của mình vào quá trình xây dựng. Và phải ghi rõ các điều khoản này trong hợp đồng để đảm bảo quyền lợi của công ty khi xảy ra sự cố như khách hàng đòi thay thế bằng một loại xi măng của doanh nghiệp khác. Ngoài ra công ty phải hợp đồng tổ chức với các đơn vị vận chuyển để có thể chuyển xi măng đến các công trình một cách nhanh chóng để không làm gián đoạn thời gian thi công đã ký kết.
Đối với những công trình có vị trí gần với nhà máy sản xuất xi măng có thể cho tiến hành trộn bê tông tại nhà máy rồi dùng xe chuyên dụng(xe trộn) chở đến để tiết kiệm thời gian, nhân công và đảm bảo sự ổn định cho bê tông tăng cường chất lượng của các công trình .
+ Cũng tương tự như vậy Xí nghiệp bê tông thương phẩm cần thuyết phục khách hàng cho mình sử dụng xi măng của công ty để sản xuất sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng theo đúng yêu cầu của khách. Còn đối với những đơn đặt hàng không yêu cầu cụ thể phải dùng loại xi măng nào thì xí nghiệp tiến hành dùng xi măng do công ty sản xuất.
Đối với doanh thu từ hoạt động này, ta mở tài khoản theo dõi chi tiết cho từng khách hàng là các đơn vị kinh doanh khác trong cùng công ty.
5122 – Doanh thu bán các thành phẩm
51221 – Doanh thu bán xi măng cho xí ngiệp bê tông.
51222 – Doanh thu bán xi măng cho các đội xây lắp.
Lợi ích và hiệu quả mang lại:
Với việc phối hợp giữa các lĩnh vực kinh doanh với nhau, công ty vừa nâng cao lượng xi măng tiêu thụ của mình, vừa tăng cường uy tín xây dựng cho công ty với thời gian và chất lượng công trình đảm bảo và cũng đảm bảo sự ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất bê tông. Và nhờ vậy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn công ty được nâng cao.
Thông qua đó, công ty cũng gián tiếp làm công tác quảng cáo sản phẩm của công ty đến người tiêu dùng, nhờ vậy tiết kiện được một khoản chi phí cho hoạt động quảng cáo cũng như tiết kiện nhân lực.
3.3.3. Biện pháp củng cố và mở rộng mối quan hệ với các đơn vị xây dựng trên địa bàn
Căn cứ thực hiện:
Việt Nam với hơn 82 triệu dân, là một quốc gia dang phát triển do đó tiềm năng nhu cầu thị trường là rất lớn. Nền kinh tế Việt Nam lại đang phát triển với tốc độ cao trên 8%/ năm, điều đó chứng tỏ nhu cầu xây dựng(của người dân và nhà nước) ngày càng tăng.
Tỉnh Bình Định đang tiến hành xây dựng các khu và cụm công nghiệp mới như khu công nghiệp Nhơn Hội của thành phố Quy Nhơn, khu công nghiệp Nhơn Hoà ở An Nhơn… tập trung tạo điều kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. Các công trình nhựa hoá và bê tông hoá đang được thực hiện nhiều nơi ở các huyện của tỉnh Bình Định.
Trên địa bàn tỉnh ngày càng có nhiều các công ty nhà nước cũng như các công ty tư nhân kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng và xây lắp. Và số lượng tiêu thụ xi măng của các đơn vị xây dựng là rất lớn.
Cách thức thực hiện:
+ Đối với các đơn vị xây dựng đã và đang sử dụng sản phẩm xi măng của công ty thì phải không ngừng quan tâm và củng cố mối quan hệ giữa mình với khách hàng. Chẳng hạn công ty nên có những chương trình ưa đãi như giảm giá cho số lượng đặt hàng lớn hay với khách hàng lâu năm; tổ chức vận chuyển đến tận địa điểm theo yêu cầu của khách hàng; nhân viên phải luôn gọi điện hỏi thăm và giải quyết cá thắc mắc của khách hàng. Ngoài ra nên mời họ đến các hội nghị khách hàng hàng năm.
+ Đối với các đơn vị xây dựng chưa lần nào sử dụng sản phẩm của công ty thì nên cử nhân viên trực tiếp đến chào hàng, thường xuyên gửi catolô giới thiệu về sản phẩm đến tận tay khách hàng hay là thông qua đường bưa điện.
+ Đối với những đơn vị xây dựng trước đây đã từng sử dụng sản phẩm nhưng chưa hài lòng về sản phẩm của công ty thì khi cử nhân viên đến chào hàng trực tiếp phải giải thích cho khách hàng về các cải tiến của sản phẩm so với trước đây. Nếu khách hàng vẫn chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng sản phẩm của công ty thì cho khách hàng tiến hành thử nghiệm sản phẩm và so sánh với các loại xi măng khác.
Dù là khách hàng đã đang hoặc chưa bao giờ sử dụng sản phẩm của công ty thì đều phải dùng chính sách giá cả hợp lý và chất lượng sản phẩm để thu hút họ.
Lợi ích và hiệu quả mang lại:
Công ty sẽ chủ động hơn trong việc tìm kiếm khách hàng nhờ vậy kết quả tiêu thụ xi măng sẽ được nâng lên. Đồng thời cũng tạo được mối quan hệ lâu dài với các khách hàng lớn của công ty.
3.3.4. Hạ thấp giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm
Căn cứ thực hiện:
Giá thành sản phẩm và chất lượng sản phẩm có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động quản lý. Nó cung cấp cho các nhà quản lý những thông tin cần thiết để đề ra các quyết định kinh doanh, nhất là các quyết định có liên quan đến lựa chọn mặt hàng kinh doanh; xác định giá bán; số lượng sản xuất; thị trường tiêu thu… Những vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn trong một thị trường cạnh tranh. Và hạ giá thành cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm là những mục tiêu chiến lược mà công ty hướng đến để đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Nó giúp cho công ty tăng được lợi thế cạnh tranh, giảm áp lực giá bán, nâng cao sản lượng tiêu thụ và đem lại kết quả kinh doanh cao cho công ty.
Cách thức thực hiện:
+ Để hạ thấp giá thành sản phẩm thì:
- Giảm định mức tiêu hao của các loại nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm.
Ta có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của 1 tấn xi măng PCB 30 năm 2008 là:
CP NVLTT = (0,72 x 950) + (0,258 x 120) +( 0,04 x 640) = 740,56 (ngàn đồng/ tấn)
Chi phí NVL trực tiếp sản xuất 5504 t ấn xi măng PCB 30 trong năm 2008
Nợ TK 6211 :4.076.042.240
Có TK 15211(Clinker) : 3.764.736.000
Có TK 15212(T.Cao) : 140.902.400
Có TK 15213( Phụ Gia): 170.403.840
Kết chuyển sang giá thành sản xuất xi măng PCB 30 năm 2008
Nợ TK 1541 : 4.076.042.240
Có TK 6211 : 4.076.042.240
Giả sử, định mức tiêu hao nguyên vật liệu trong 1 tấn xi măng giảm đi theo tỉ lệ tương ứng như: Clinker từ mức 0.72 giảm xuống còn 0.71, phụ gia giảm từ 0.258 xuống 0.253 và thạch cao chỉ còn 0.039 so với 0.04 như ban đầu. Thì:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của xi măng PCB 30 năm 2008 sẽ như sau:
CP NVLTT = (0,71 x 950) + ( 0,253 x 120) + ( 0,039 x 640) = 729,82 (ngàn đồng/ tấn)
Chi phí NVL trực tiếp sản xuất 5504 t ấn xi măng PCB 30 trong năm 2008
Nợ TK 6211 :4.016.929.280
Có TK 15211(Clinker) : 3.712.448.000
Có TK 15212(T.Cao) : 137.379.840
Có TK 15213( Phụ Gia): 167.101.440
Kết chuyển sang giá thành sản xuất xi măng PCB 30 năm 2008
Nợ TK 1541 : 4.016.929.280
Có TK 6211 : 4.016.929.280
Vậy chi phí nguyên vật liệu tiết kiệm được của sản phẩm PCB 30 là 10,74 ngàn đồng/ tấn và giá thành sản xuất năm 2008 giảm đi 59.112,96 ngàn đồng.
- Tạo mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào có uy tín với giá rẻ nhằm đảm bảo nguồn nguyên vật liệu được ổn định và kiểm soát được chất lượng của chúng. Điều này cũng góp phần hạ thấp chi phí nguyên vật liêu nhằm giảm giá thành sản xuất.
- Hạn chế việc hư hỏng nguyên vật liệu trong quá trình vận chuyển hay những bất lợi về thời tiết làm ảnh hưởng đến chất lượng nguyên vật liêu như: mưa gió, bão…
- Tiết kiện các chi phí khác như chi phí nhân công, chi phí điện nước….
+ Để nâng cao chất lượng sản phẩm:
- Một sản phẩm tốt hay xấu bị ảnh hưởng rất nhiều vào trình độ tay nghề của công nhân và cách bố trí sắp xếp lực lượng lao động sao cho hợp lý và phù hợp với sở thích của người công nhân. Do đó, công ty phải thường xuyên tổ chức thực hiện công tác đào tạo và đào tạo lại cho người lao động và cả cán bộ quản lý về chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, tay nghề, trình độ quản lý…. nhằm làm cho chất lượng sản phẩm ngày một cao hơn để thoã màn nhu cầu khách hàng ngày càng tốt hơn.
- Kiểm soát được chất lượng nguyên vật liệu đầu vào để chất lượng sản phẩm được duy trì và ổn định.
- Nên tiếp tục duy trì thực hiện quản lý hệ thồng chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2001 phù hợp với Trung Tâm Chứng Nhận Phù Hợp Tiêu Chuẩn (QUACERT) và tổ chức chứng nhận QMS (Úc) để sản phẩm có chất lượng ổn định hơn.
- Công ty nên xây dựng phòng thí nghiệm cải tiến sản xuất theo quy trình công nghệ mới để kiểm soát kịp thời, chính xác đầu vào lẫn đầu ra.
- Huy động nguồn vốn để đầu tư nghiên cứu và cải tiến công nghệ sản xuất sạch và phù hợp hơn để bảo vệ môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế. Từ đó cũng góp phần nâng cao chất lượng và hạ thấp giá thành sản xuất.
Lợi ích và hiệu quả mang lai:
Hai thấp giá thành sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo tiền đề cho công ty hạ thấp giá bán cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường. Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm được cải thiện cũng góp phần nâng cao thương hiệu xi măng Constrexim Bình Định trên thị trường tiêu thụ. Từ đó, tình hình tiêu thụ sản phẩm xi măng sẽ có những thay đổi khả quan hơn.
3.3.5. Duy trì và tìm thêm các hợp đồng gia công mới cho công ty
Căn cứ thực hiện:
Thực tế cho thấy trong những năm qua số lượng gia công luôn chiếm tỉ lệ cao trong trong tổng sản phẩm sản xuất hàng năm của công ty. Mà lợi ích mang lại cho công ty bao gồm: lợi nhuận cao, cung cấp công ăn việc làm và duy trì tiền lương cho người lao động trực tiếp cũng như gián tiếp, chi trả các chi phí khác cho hoạt động của nhà máy sản xuất xi măng, bên cạnh đó còn cải tiến được chất lượng sản phẩm.Trong khi đó, sản phẩm của nhà máy không mấy được người tiêu dùng ưa chuộng nên tình hình tiêu thụ đang ngày càng khó khăn hơn.
Mặt khác, các công ty xi măng ở miền Bắc cũng như miền Nam đều bắt đầu chuyển đổi từ hình thức tổ chức tiêu thụ xi măng thông qua hệ thống cửa hàng, các đại lý hưởng hoa hồng của các chi nhánh sang hình thức tổ chức tiêu thụ thông qua hệ thống các nhà phân phối (đại lý bao tiêu từ sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm) nhằm giảm số lượng CBCNV dư thừa, giảm thiểu chi phí bán hàng và các chi phí khác như tồn kho, hàng trên đường… như trước đây nhằm giảm chi phí cho sản phẩm nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường.
Cách thức thực hiện:
Hiện tại công ty đang có các hợp đồng làm nhà phân phối với Công ty cổ phần xi măng Hoàng Mai và Nhà máy xi măng Hoàng Thạch. Nên biện pháp đặt ra là công ty vẫn nên duy trì và củng cố hơn nữa quan hệ với các nhà máy cũ đặc biệt là với Nhà máy xi măng Hoàng Thạch vì thị trường miền Trung tiêu thụ loại xi măng này mạnh nhất so với các loại xi măng khác.
Ngoài ra, công ty cũng nên chủ động tìm kiếm các nhà máy vừa hoặc có ý định chuyển đổi hình thức tiêu thụ và muốn mở rộng hoạt động tiêu thụ tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Lợi ích và hiệu quả mang lại:
Việc này góp phần ổn định hoạt động sản xuất của nhà máy sản xuất xi măng của công ty. Cũng như mang lại lợi nhuận cho công ty và thu nhập cho người lao động.
Ngoài ra, thông qua đây ta vừa có thể tìm hiểu đối thủ của mình, vừa song song giới thiệu sản phẩm của mình bên cạnh các loại sản phẩm khác được sản xuất tại nhà máy. Điều này làm cho người tiêu dùng có cái nhìn tốt hơn, tin tưởng hơn vào sản phẩm của công ty sản xuất
3.4. Một số kiến nghị
Về phía nhà nước:
Hiện nay sự suy giảm của nền kinh tế thế giới đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta cần có những chính sách và bước đi đúng đắn để đưa nền kinh tế vực dậy, giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh nói chung và Công ty cổ phần Constrexim Bình Định vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất; như: bình ổn tỷ lệ lãi suất ngân hàng; giảm thuế, hoãn thuế;…..
Về phía công ty:
Về bảo vệ môi trường: như đã biết sức khỏe con người là vốn quý nhất, giữ gìn sức khoẻ không còn gì bằng sống và làm việc trong môi trường trong sạch và để có sự phát triển bền vững cần phải có cuộc sống bền vững, cần phải có cuộc sống hoà hợp với cộng đồng xung quanh, bảo vệ môi trường nhà mấy đồng thời bảo vệ môi trường xung quanh, nghĩa là phải xử lý triệt để chất thải ra môi trường xung quanh bên ngoài. Do đó để bảo vệ môi trường nhà máy sản xuất xi măng cũng như của xã hội thì Công ty cổ phần Constrexim Bình Định cần đẩy mạnh việc hình thành và thực hiện hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000.
Về hỗ trợ người lao động: hàng tuần công ty nên tổ chức cuộc họp các trưởng phòng và các quản đốc phân xưởng để lấy ý kiến phản hồi của người lao động tại các nơi mà các trưởng phòng và các quản đốc quản lý về các nhân tố ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội, sự thoã nãm và động lực của người lao động về mức thu nhập hàng tháng, chế độ bảo hiểm, chế độ bồi dưỡng ăn ca trưa và bồi dưỡng độc hại, các vấn đề an toàn vệ sinh lao động, việc phát triển nâng cao tay nghề nghiệp vụ.
Trong lao động sản xuất: nếu có tăng ca thì công ty nên trả cho người lao động mức tiền lương đúng theo Bộ Luật Lao Động. Ngoài ra, công ty cũng nên đẩy mạnh hơn nữa việc động viên tinh thần, tổ chức cho người lao động tham gia các hoạt động như: sinh hoạt, vui chơi giải trí, thể dục thể thao… nhân dịp các ngày lễ.
Ngoài ra, công ty nên thực hiện chính sách cho vay không lãi đối với các cán bộ công nhân viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn bằng cách trả chậm trong 4 năm hoặc bằng hình thức trừ dần vào lương. Đối với những trường hợp cần mua vật dụng gia đình, vốn phát triển sản xuất nhỏ công ty nên thực hiện bảo lãnh ngân hàng để người lao động trong công ty có điều kiện vay vốn hình thức trả góp hàng tháng.
Đối với nhân viên mới tuyển dụng công ty nên bố trí nhân viên cũ hoặc tổ trưởng nơi làm việc kèm cặp và hướng dẫn để nhân viên mới nắm rõ môi trường làm việc thực tế tại công ty và ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn.
Về y tế: ngoài việc thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ mua bảo hiểm y tế 100% cho cán bộ công nhân viên,hàng tháng công ty nên tổ chức việc khám sức khoẻ định kỳ cho cán bộ công nhân viên để công ty có kế hoạch bồi bưỡng hoặc cho nghỉ dưỡng sức để phục hồi sức khoẻ.
Về công tác phòng cháy chữa cháy: đội phòng cháy chữa cháy chuyên nghiệp của tỉnh phải phối hợp cùng công ty tổ chức đào tạo và tập huấn các phương án chữa cháy cho những người lao động trong phân xưởng sản xuất và phân xưởng cơ điện khi có sự cố xảy ra.
Keát luaän
Trên con đường hội nhập kinh tế trong thời gian qua của nền kinh tế việt nam cùng với nền kinh tế thế giới và khu vực có không ít khó khăn và thách thức nhưng lĩnh vực sản xuất xi măng vẫn đảm bảo được doanh thu và đem lại lợi nhuận cho công ty. Qua đó có thể thấy rằng trong thời gian qua Công ty cổ phần Constrexim Bình Định đã từng bước tăng trưởng và phát triển, từng bước tạo vị thế vững chắc cho mình. Tuy nhiên trong thời gian qua công ty cũng còn nhiều hạn chế về sản lượng tiêu thụ xi măng, thị trường chưa vững chắc và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các đối thủ nhưng trong quá trình hoạt động kinh doanh công ty góp phần thúc đẩy nền kinh tế Bình Định phát triển, đem lại nguồn thu ngân sách cho tỉnh.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu trong thời gian thực tập tại công ty về quá trình hình thành và phát triển của công ty, cơ cấu bộ máy tổ chức, dây chuyền công nghệ sản xuất, những khó khăn và thuận lợi, nguy cơ, thách thức và kết quả tiêu thụ đạt được của công ty từ năm 2006 đến năm 2008. Bên cạnh đó còn đi sâu vào phân tích các nhân tố bên trong cũng như bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm xi măng của công ty. Trên cơ sở đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng tích cực cũng như các mặt còn hạn chế, em đã đưa ra một số giải pháp để thực hiện nhằm cùng với công ty nâng cao mức tiêu thụ sản phẩm xi măng.
Cụ thể, để khắc phục những hạn chế đang gặp phải trong quá trình tiêu thụ và ngày càng nâng cao hơn hiệu quả hoạt động tiêu thụ của công ty trong những năm tiếp theo thì nhà máy nên duy trì, củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ bằng cách tổ chức bộ phận tiêu thụ và hỗ trợ bán hàng để đẩy mạnh công tác bán hàng, công tác quảng cáo, lập web riêng cho công ty để quảng cáo cho sản phẩm xi măng. Ngoài ra, để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì công ty nên xác lập mối quan hệ lâu dài với các nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được ổn định, huy động nguồn vốn nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, công ty nên giữ vững và mở rộng các mối quan hệ với những khách hàng lớn như các công ty xây dựng; cũng như tăng cường sự phối hợp giữa các lĩnh vực kinh doanh nhằm hỗ trợ lẫn nhau để nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm xi măng. Để các giải pháp thuộc về quyết định của công ty được tiến hành thuận lợi cũng cần có sự ủng hộ từ UBND tỉnh Bình Định và Nhà nước như: bình ổn lạm phát, giảm thuế… tạo tiền đề cho các doanh nghiệp cũng như Công ty cổ phần Constrexim Bình Định ổn định sản xuất
Thực hiện đồng bộ các giải pháp đề xuất sẽ góp phần cải thiện tình hình tiêu thụ xi măng của công ty cổ phần Constrexim Bình Đinh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tạo vị thế vững chắc cho công ty trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Mai Hương và các anh chị trong công ty đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này.
Quy nhơn, ngày 01 tháng 06 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Trương Nguyễn Phương Thảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trương Đình Chiến và PGS – TS Tăng Văn Bền (1997), Marketing dưới góc độ quản trị doanh nghiệp, NXB Thống Kê, Hà Nội.
[2]. PGS – TS Phạm Văn Dược (2008), Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống Kê, Hà Nội.
[3]. GS – TS Trần Minh Đạo (2006), Giáo trình Marketing căn bản, NXB Đại học kinh tế quốc, Hà Nội.
[4]. PGS – TS Phạm Thị Gái (2004), Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống Kê, Hà Nội.
[5]. Philip Kotler, Marketing Essentials (Marketing căn bản), NXB Thống Kê (Bản dịch của Phan Thăng, Vũ Thị Hương và Giang Văn Chiến).
[6]. TS Phan Thăng, Marketing căn bản, NXB Thống Kê.
[7]. Tài Liệu của phòng kinh doanh và phòng kế toán tài chính của công ty cổ phần constrexim Bình Định.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích kết quả tiêu thụ sản phẩm xi măng ở Công ty cổ phần Constrexim Bình Định.doc