Cải cách hành chính trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những thành công đáng ghi nhận, tuy nhiên hoạt động của Nhà nước và nền hành chính quốc gia vẫn còn nhiều điểm bất cập. Nếu duy trì quá lâu tình trạng này sẽ tạo ra tác động kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước yêu cầu phát triển sâu hơn nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yêu cầu hội nhập mạnh mẽ và toàn diện, công cuộc cải cách hành chính đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Để vượt qua những thách thức này, cải cách hành chính trong giai đoạn mới cần phải có những thay đổi hết sức sâu sắc cả về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, của bản thân hệ thống thể chế hành chính, của cơ cấu hệ thống tổ chức hành chính và đội ngũ công chức hành chính. Việc thực hiện những phương hướng mới trong cải cách hành chính như đã phân tích ở trên là hết sức cần thiết. Với những thành công đã đạt được và quyết tâm to lớn của cả hệ thống chính trị, chắc chắn cải cách hành chính trong giai đoạn tới sẽ thu được những thành công to lớn, góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh, mạnh, vững chắc nền kinh tế - xã hội của nước ta.
38 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 14621 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích mô hình quản trị công mới ở một số nước phát triển và liên hệ tình hình thực tế tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuyên. Chỉ có trên nguyên tắc này, việc cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính mới thực sự đem lại hiêu quả trong giải quyết công việc của tổ chức và công dân.
Những ưu điểm và hạn chế của quản trị công mới
Ưu điểm của quản trị công mới
Quản trị công mới là đỉnh cao của trào lưu của quản lý công ra đời xuất phát từ yêu cầu của quá trình bổi mới quản lý khu vực công, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của ý thức dân chủ. Chính vì vậy, Quản trị công mới đã đem lại những luồng gió mới cho quá trình cải cách khu vực công, tạo ra những định hướng mới cho quá trình cải cách khu vực công.
Các giá trị về hiệu quả, trách nhiệm, kết quả đầu ra và các giá trị định hướng khác giúp cho các nền công vụ nhận thức lại mình. Những hạn chế của khu vực công, tầng nấc kiểm soát quá nhiều, các văn bản, giấy tờ thủ tục trở thành gánh nặng, chi phí khu vực công tăng cao và người dân không hài lòng với chất lượng dịch vụ làm cho các nhà quản lý khu vực công phải nhận ra rằng cần có sự cải cách, đổi mới hoạt động của mình. Nhưng cải cách theo hướng nào, những giá trị nào mà nền hành chính công trong giai đoạn mới cần hướng tới. Quản trị công mới ra đời là một sự nỗ lực để tìm ra câu trả lời ấy, cải cách để phát triển.
Thật vậy, quản trị công mới chỉ ra định hướng cải cách khu vực công từ một nền hành chính công truyền thống sang một nền quản trị công mới, khi mà khu vực công ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nới riêng tỏ ra còn quá nhiều trì trệ và yếu kém. Lý thuyết quản trị công mới cho thấy rằng cần phải thay đổi nhận thức về vai trò của nhà nước và cách thức sử dụng nguồn lực của quốc gia. Nhà nước luôn là người chịu trách nhiệm cao nhất về sự tồn vong và phát triển của quốc gia, dân tộc, nhưng nhà nước không cần làm tất cả mọi việc mà có thể chuyển giao một phần công việc vho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Từ việc nhận thức lại vai trò của nhà nước, cách thức sử dụng nguồn lực cũng sẽ thay đổi. Những hiện tượng tiêu cực trong nền hành chính công truyền thống như lãng phí, vô trách nhiệm trong sử dụng tài sản công, lạm quyền, tham nhũng cũng sẽ được hạn chế do bởi giờ đây đã có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự trong một nền hành chính công mới. Tính hiệu quả và dân chủ được đề cao. Định hướng cải cách khu vực công sẽ từ chỗ thay đổi nhận thức về vai trò của nhà nước và cách sử dụng nguồn lực đến việc cải các song song môi trường hành chính bên ngoài và cải cách nội bộ bên trong của nền hành chính. Như vậy, định hướng cải cách khu vực công trong giai đoạn mới là một trong những giá trị mà Quản trị công mới có thể đem lại.
Không những vậy, lý thuyết quản trị công mới còn giúp các nhà quản lý nhận thức được đầy đủ hơn về sự cần thiết phải không ngừng đổi mới trong quản lý. Cải cách khu vực công không phải là làm một lần rồi xong, không bao giờ phải làm lại nữa. Cải cách khu vực công là một quá trình mà như nhiều học giả đã so sánh với công việc của người làm vườn. Họ không chờ cỏ mọc đầy vườn mới tiến hành công việc. Cải cách cần nỗ lực bền bỉ và không ngừng. Điều này có ý nghĩa quan trọng hơn là nhà quản lý luôn luôn hướng tới những giá trị cao hơn, những kết quả cao hơn chứ không chỉ bằng lòng với những kết quả đạt được. Tạo lập một tư duy mới về quản lý, về kết quả quản lý trong khu vực công thực sự là một đóng góp lớn cho quản lý hiện đại của lý thuyết quản trị công mới.
Cải các khu vực công là một quá trình bền bỉ. Quá trình đó được định hướng rõ ràng như đã trình bày, và đồng thời luôn được cân đo đong đếm một cách cẩn thận và rõ ràng do bởi trong quản trị công mới, hiệu quả của hoạt động quản lý luôn luôn được coi trọng. Đó cũng là một trong những ưu điểm nổi bật của quản trị công mới so với nền hành chính truyền thống. Khi áp dụng những yếu tố của quản trị công mới, mục tiêu phải đạt được là hiệu quả của hoạt động quản lý nên các nhà hành chính bên cạnh việc quan tâm đến chu trình, phương pháp mà còn quan tâm đến mục đích có đạt được hay không, cụ thể là hiệu quả phải được lượng hóa, đánh giá bằng các chỉ tiêu dựa trên sự so sánh kết quả/chi phí. Điều này thực sự tạo ra sự khác biệt khi trong nền hành chính truyền thống, các nhàn hành chính chủ yếu là làm nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh, làm theo những quy tắc có sẵn, đảm bảo đúng chu trình, đúng quy tắc thủ tục hành chính mà thôi. Đánh giá hiệu quả thực thi sẽ giúp nền hành chính hoạt động hiệu quả hơn, giảm thiểu sự tùy tiện, lãng phí trong sử dụng nguồn lực cũng như tâm lý không quan tâm đến kết quả đầu ra của cán bộ, công chức nhà nước. Khi ban hành một chính sách, họ sẽ phải áp dụng một cách khoa học và cẩn trọng những phương pháp phân tích để lượng hóa tính khả thi và hiệu quả của chính sách ấy. Những nguồn lực nào cần được huy động để thực thi chính sách, kết quả đầu ra là gì, làm sao để đạt được kết quả với một chi phí thấp nhất, mức độ hài lòng của người dân với chính sáchnhững yếu tố ấy đều được tính toán và kiểm soát. Tất nhiên, do bởi tính đa dạng của hoạt động hành chính và mức đô ảnh hưởng của các quyết định hành chính nên việc đánh giá hiệu quả thực tế không đơn giản chỉ là lượng hóa kết quả/chi phí. Nhưng để đánh giá kiểm soát hiệu quả hoạt động công vụ, việc có được những tiêu chí cụ thể để đánh giá luôn luôn là điều cần thiết và Quản trị công mới bắt buộc nền hành chính phải thiết lập được điều đó.
Quản trị công mới chỉ ra xu hướng cải cách mới cho nền hành chính nhà nước: phi tập trung hóa, tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước nhưng vẫn phải đảm bảo vai trò trung tâm cuat chính phủ và tính trách nhiệm cao nhất của nhà nước. Thực tế hiện nay cho thấy, quá trình phi tập trung hóa nền hành chính nhà nước đang được thực hiện. Hành chính trung ương chia bớt thẩm quyền cho hành chính địa phương chủ động quản lý các nguồn lực trong phạm vi thẩm quyền của mình, để những quyết sách gần dân, phù hợp với thực tiễn địa phương hơn. Các cơ quan nhà nước trung ương vì vậy mà cũng được hưởng lợi do bởi có thể tập trung cao hơn vào việc hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô. Không những có lợi từ việc chuyển giao bớt thẩm quyền cho hành chính địa phương nền hành chính nhà nước nói chung còn được hưởng lợi từ quá trình tư nhân hóa một phần các hoạt động của mình. Quá trình tư nhân hóa ở đây không chỉ đơn thuần là bán đi các tài sản của nhà nước, chuyển sở hữu công thành sở hữu tu mà còn bao hàm rất nhiều hinh thức như đấu thầu, làm hợp đồng phụ, cho thuê hay cổ phần hóa các doanh nghiệp và tập đoàn hoác các công ty để nâng cao tính cạnh tranh. Thực chất của quá trình tư nhân hóa là nhà nước chuyển giao những phần việc mà các tổ chức, cá nhận ngoài nhà nước có thể đảm nhiệm được, qua đó, thu hút được đông đảo các thành phần xã hội tham gia vào hoạt động của nền hành chính công. Điều này đưa đến thu nhỏ bộ máy, từ đó giảm bao cấp, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước khi không phải trả lương cho một bộ máy nhà nước quá cồng kềnh như trước đây nữa. Như vậy, một trong những giá trị mà quản trị công mới đem lại cho nền hành chính trong giai đoạn tới đó là chỉ ra rõ cần phải tiếp tục đẩy nhanh quá trình phi tập trung hóa và tư nhân hóa trong công cuộc cải cách nên hành chính nhà nước.
Một ưu điểm tiếp theo của quản trị công mới đó là lý thuyết này đã chỉ ra rằng cần phải đơn giản hóa hệ thống thủ tục trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Như chúng ta đã biết, quá trình áp dụng triệt để hệ thống hành chính quan liêu đã dẫn đến hình thành hệ thống các quy chế, thủ thục hành chính phức tạp. Thủ tục phức tạp sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả, mà một trong số đó là sự trì trệ trong giải quyết các công việc cho công dân. Thủ tục phức tạp làm phát sinh nhiều tiêu cực, sự nhũng nhiễu, lạm quyền của cán bộ công chức nhà nước. Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính luôn là trọng tâm trong nội dung cải cách hành chính ở nước ta nói riêng và các nước đang phát triển nói chung. Phi quy chế hóa, giảm thiểu thủ tục, giấy tờ trong giải quyết công việc cho công dân tổ chức sẽ đưa nền hành chính đến gần dân hơn và như vậy sẽ góp phần khắc phục tính quan liêu của hành chính truyền thống.
Quản trị công mới còn đem đến một tư duy mới về xây dựng thể chế. Điều này thường ít được đề cập đến trong các nghiên cứu về quản trị công mới. Đó chính là vấn đề khái quát hóa các thể chế từ những thành công của địa phương, của khu vực tư để nâng lên tầm thể chế quốc gia. Đây chính là một vấn đề lớn của các quốc gia đang phát triển nơi mà sự phát triển của mỗi địa phương có thể gợi mở ra nhiều điều về xây dựng thể chế chung cho quá trình phát triển. Nói tóm lại, lý thuyết quản trị công mới có rất nhiều ưu điểm khi nó đã chỉ ra được định hướng và những nội dung cốt tử mà khu vực công của nền hành chính truyền thống cần có sự đổi mới. Lý thuyết này đã hướng đến giải quyết những hạn chế của mô hình hành chính quan liêu: Cơ cấu cồng kềnh, quá nhiều cấp trung gian; chuyên môn hóa quá sâu dẫn đến khó thích nghi; lạm dụng về mặt hành chính, tranh cấp giấy tờ, thủ tục hành chính; máy móc, cứng nhắc, không linh hoạtCác nhà nghiên cứu về quản trị công mới đã nhìn ra được những hạn chế lớn của mô hình hành chính quan liêu và phủ nhận những giá trị mà mô hình này có thể đem lại. Chính vì vậy, quản trị công mới đã chỉ ra những hướng cải cách quan trọng về cơ cấu bộ máy, quản lý nhân sự, cải cách thủ tục, giấy tờ hành chính, chi tiêu, mua sắm công, quản lý chất lượng, tiêu chuẩn thực thi công vụ. Giai đoạn đầu của quản trị công mới nhấn mạnh đến vấn đề kế hoạch, chi tiêu công khi quản lý nhân sự mà chi phí cho hành chính công quá lớn nhưng đem lại những kết quả tiêu cực, không đáp ứng được kỳ vọng của công dân và tổ chức. Giai đoạn tiếp theo quản trị công mới nhấn mạnh đến vấn đề cạnh tranh trong khu vực công, tạo ra động lực làm việc mạnh mẽ hơn cho nền công vụ, cải cách quản lý thực thi, tiêu chuẩn thực thi công vụ, quản lý chất lượng. Các nhà quản lý, các cơ quan hành chính gắn chặt trách nhiệm của mình hơn với kết quả cuối cùng của quá trình quản lý, cam kết về chất lượng quản lý, chất lượng phục vụ. Cơ cấu tổ chức cần được đổi mới theo hướng xác định rõ trách nhiệm và tạo ra một bộ máy năng động hơn và có trách nhiệm hơn với kết quả hoạt động của chính quyền.
Những hạn chế của quản trị công mới
Lý thuyết quản trị công mới của những ưu điểm quan trọng trong đinh hướng đổi mới khu vực công nhưng cùng với tiến trình phát triển của quản trị hiện đại, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế của quản trị công mới. Sự phê phán quản trị công mới tập trung nhiều vào vấn đề áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vực công. Quan điểm này cho rằng các nhà nghiên cứu quản trị công mới đã không chú ý đúng mức đến sự khác biệt giữa khu vực công và khu vực tư, quá nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân mà quên đi trách nhiệm tập thể của cơ quan quản lý. Sự nhấn mạnh thái quá vào việc áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vưc công có thể dẫn đến những xung đột trong khu vực công. Các nhà quản trị công mới khởi đầu đề cập đến vấn đề lựa chọn kỹ thuật quản lý khu vực tư để áp dụng cho khu vực công và hoàn toàn không quên bản chất quản lý của khu vực công và khu vực tư. Tuy nhiên ở giai đoạn sau khi sự lên ngôi của quản trị công mới được khẳng định, nhiều nhà quản trị công mới đã đánh giá quá cao các kỹ thuật quản lý của khu vực tư và cho rằng những gì hiệu quả của khu vực tư đều có thể áp dụng cho khu vực công.
Một hạn chế nữa của quản trị công mới được chỉ ra là xem công dân là khách hàng của nền công vụ mà chưa chú ý đúng mức đến vai trò công dân của họ, vai trò của một công dân trong một nhà nước dân chủ. Thực tế quan hệ giữa chính phủ và người dân không hoàn toàn đồng nhất với quan hệ người cung cấp dịch vụ và khách hàng. Mối quan hệ giữa chính phủ và công dân phức tạp hơn và vai trò của công dân thực tế thể hiện ở 4 phạm trù: công dân, khách hàng, người sử dụng dịch vụ và dân chúng. Vì vậy, việc chỉ nhấn mạnh vào quan hệ khách hàng thì chưa thể hiện hết vai trò của công dân. Công dân không chỉ là khách hàng có quyền đòi hỏi về chất lượng dịch vụ mà với vai trò công dân, công dân thực hiện những quyền và nghĩa vụ khác đối với nền công vụ.
Những thành tựu của quản trị công mới ở các nước phát triển
Anh- New Zealand
Dựa vào những tiến bộ trong quản lý công ở các nước phát triển trong suốt hơn hai thập kỷ qua, có thể nói quản trị công mới đã trở thành một giải pháp để đối phó với các vấn đề của khu vực công. Quản trị công ở nước Anh và New Zealand sẽ được xem xét như hai ví dụ điển hình để hiểu các vấn đề lý thuyết của quản trị công mới được thực hiện trên thực tế như thế nào. Hai quốc gia này thực hiện quản trị công mới theo mô hình “hướng tới kết quả”.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi xung quanh việc thực hiện quản trị công mới và tác động của nó đến chất lượng của các dịch vụ công nhưng không thể phủ nhận rằng các cải cách đã “cải thiện đáng kể hiệu quả và chất lượng của các dịch vụ công” (Schick, A. (1996): p.86). Kể từ khi thực hiện cải cách, nước Anh và New Zealand đã tập trung vào bốn mặt chính của quản trị công mới bao gồm:
Tư nhân hóa: chuyển quyền sở hữu từ các doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân. Tại nước Anh, trong khoảng thời gian 1979 – 1997, nhiều ngành công nghiệp quan trọng thuộc sở hữu công như dầu khí, viễn thông, ga, nước, điện, than và các ngành dịch vụ như vận tải đường bộ, xe buýt, đường sắt, sân bay và thép đã được như nhân hóa hết. Một quá trình tương tự đã diễn ra trong khoảng thời gian từ 1981 đến 1994 ở New Zealand và số lượng nhân viên khu vực công đã giảm 26,4% (Minogue, M. (1998), p.12-30).
Phân bổ và cung cấp dịch vụ công thông qua hợp đồng và quản lý chất lượng: tập trung vào việc đánh giá chi phí, hiệu quả của các tổ chức công và thực hiện theo nguyên tắc thị trường. Các công ty tư nhân sẽ được giao một số dịch vụ công nếu họ có hồ sơ dự thầu và năng lực tốt hơn so với các tổ chức công đang chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ đó. Tại nước Anh, một số dịch vụ như thu gom rác thải, làm sạch đường phố và trường học, dịch vụ nhân sự, quản lý giải trí và quản lý nhà ở đã được giao khoán. Phương thức hợp đồng cũng trở nên phổ biến tại New Zealand. Phương thức ký kết hợp đồng thiết lập mối quan hệ người bán – người mua giữa chính phủ và các nhà cung cấp. “Chủ nghĩa hợp đồng mới” không những cần dựa trên nền tảng một thị trường mạnh mà còn dựa trên các chế tài mạnh để kiểm soát việc thực hiện hợp đồng (Schick, A. (1998): p. 127).
Tái cơ cấu các dịch vụ công tạo ra nhiều cơ quan hoạt động độc lập và các cơ quan hành pháp. Tại Anh Quốc, các cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm thực hiện chính sách công ở những lĩnh vực được giao. Các Giám đốc điều hành chịu trách nhiệm quản lý các cơ quan này. Tại New Zealand, Quốc hội kiểm soát hệ thống tài chính công và quá trình xây dựng pháp luật. Nội các đưa ra các quyết định về chính sách của Chính phủ, các Bộ trưởng và các cơ quan dưới quyền thực hiện các quyết định đó. Chính phủ quyết định các mục tiêu mà họ muốn đạt được trong khi các Bộ trưởng phải đảm bảo đạt được kết quả để đáp ứng được các mục tiêu mong muốn. Giám đốc điều hành các cơ quan hành pháp và tất cả các nhà cung cấp làm nhiệm vụ phân bổ đầu vào để tạo ra kết quả đầu ra mong muốn (Schick, A. (1996): p.2).
Hệ thống quản lý kết quả đưa ra những phương pháp hiệu quả hơn để đánh giá và giám sát hoạt động của các tổ chức công. Việc đánh giá kết quả dựa trên các tiêu chí cụ thể để đánh giá việc thực thi công vụ. Mục tiêu của việc này là tạo ra cơ chế thưởng phạt chính xác, công bằng cho công chức nhằm nâng cao kết quả làm việc của họ.
Các nguyên tắc cơ bản của hệ thống quản lý công ở New Zealand bao gồm:
Đặt các mục tiêu rõ ràng: việc đầu tiên của một quá trình quản lý là phải đặt ra các mục tiêu rõ ràng để các nhà quản lý biết họ phải chịu trách nhiệm đạt được những gì. Mỗi một mục tiêu phải cụ thể, rõ ràng và tuyệt đối không mâu thuẫn với các mục tiêu khác.
Tự do trong quản lý: khi có mục tiêu rõ ràng, các nhà quản lý phải được trao quyền tự do quản lý, họ có quyền tự do sử dụng các nguồn lực để đạt được hiệu quả cao nhất.
Trách nhiệm giải trình: các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm giải trình về tất cả các quyết định họ đưa ra và chịu trách nhiệm cả cho những người mà trên danh nghĩa thay họ thực hiện công việc. Cùng với việc trao quyền tự do quản lý cần tạo ra động lực và sự trừng phạt để các nhà quản lý phải đảm bảo thực hiện mục tiêu chung thay vì chạy theo mục đích riêng của họ.
Đánh giá hiệu quả công việc: Hiệu quả làm việc của các nhà quản lý cần phải được đánh giá thông qua các công cụ đánh giá để biết công chức đã làm thế nào để đạt được mục tiêu mong muốn và liệu có bất kỳ kết quả xấu nào do việc quản lý kém gây ra?
Thông tin đầy đủ và thông suốt – Để có thể đánh giá việc thực thi công vụ thì thông tin liên quan đến việc thực thi công vụ của các nhà quản lý cần phải đầy đủ và chính xác. Giống như việc các nhà quản lý có thể tự do sử dụng tài chính trước khi ra quyết định làm thế nào để sử dụng nguồn lực hiệu quả nhất họ cần có các thông tin liên quan đầy đủ và chính xác do hệ thống kế toán cung cấp (Cook, A.L. (2004): p.4)
Việc áp dụng quản trị công mới đã mang lại những thành công nhất định cho New Zealand và Anh Quốc. Quản trị công mới giúp chính phủ trở nên nhỏ gọn hơn, phân cấp nhiều hơn và ít sự can thiệp hơn khiến khu vực công làm việc hiệu quả hơn; các cơ quan cung cấp dịch vụ công được tin tưởng hơn và có trách nhiệm đối với công dân hơn. Quản trị công mới cũng tạo ra nhiều lựa chọn hơn do có sự cạnh tranh hơn giữa các nhà cung cấp tư và công trong việc cung ứng các dịch vụ công. Các tổ chức công hoạt động như doanh nghiệp, họ có khả năng và sẵn sàng làm việc với các doanh nghiệp tạo hiệu suất kinh tế cao hơn (Jones, L.R. and Kettl, D.F. (2003): p.2).
Cộng hòa liên bang Đức
Cải cách hành chính thường xuyên nằm trong chương trình chính trị của nước Đức với nhiều nội dung giải quyết như lập chương trình chính trị, lập ngân sách chương trình, cải cách công vụ, việc tham gia của công dân, công nghệ thông tin, giảm bớt các quy định và tư nhân hóa.
Theo Jann (1977), sự phát triển của mô hình định hướng mới (NSM) tại Đức cho thấy một số đặc điểm khác thường: phong trào này bắt nguồn từ “ dưới”- từ địa phương chứ không phải từ Chính phủ trung ương; nó được các nhà thực tiễn chứ không phải các học giả và nhóm chuyên gia tư vấn theo đuổi; nó không nằm trong chiến lược chính trị đơn giản nhằm “ đẩy lùi nhà nước” mà nhằm hợp pháp hóa hoạt động của nhà nước; nó không chỉ quan tâm đến tính hiệu quả mà còn sự dân chủ và trách nhiệm giải trình; nó có chiều hướng bài trừ hệ tư tưởng mạnh và ngay từ đầu nhằm đúng sự ủng hộ của 2 phái, ít nhất là tại các cấp địa phương của nền hành chính công. Trong khi ở cấp trung ương, Đảng Dân chủ Xã hội và Đảng Xanh có các báo cáo nghiên cứu và bản ghi nhớ về chủ đề này đồng thời tổ chức các cuộc chất vấn. Tại các cấp địa phương, hầu như chính quyền bang đã bắt đầu các cuộc cải cách của riêng họ có sự tham khảo đến NSM. Hơn nữa các công ty tư vấn tư nhân đã nhanh chóng bắt đầu soạn thảo và phổ biến rộng rãi thông điệp mới này đến các chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước khác.
Hiện đại hóa nền hành chính công Đức bao gồm ba mặt: giảm bớt vai trò của nhà nước; giảm chi phí nhân sự và cải cách cơ cấu. Trên thực tế, việc giảm bớt vai trò của nhà nước (hoặc “ làm gọn nhẹ nhà nước” ) dẫn đến việc mở rộng chiều hướng tiến tới tư nhân hóa và việc giảm bớt các quy chế trong thập niên tám mươi. Việc giảm bớt chi phí của nền công vụ được thực hiện bằng việc áp dụng các biện pháp kinh tế truyền thống như giảm bớt số lượng nhân viên, giảm chất lượng dịch vụ hoặc mở rộng tuần làm việc. Các cuộc cải cách cơ cấu chủ yếu nhằm vào ban lãnh đạo quản lý của các chính quyền địa phương.
Về tổ chức cho khu vực công xem xét đến thực thực trạng hành chính công chứ không phải mô hình mong muốn của nó. Tuy có thành công khác thường như vậy, cách thức tiếp cận này cũng chịu sự chỉ trích gay gắt. Các chỉ trích chỉ xoáy vào việc các cách thức này chỉ chú ý tới khái niệm và các phương hướng tầm nhìn, vào sự mật thiết của nó với các nhà tư vấn thương mại, sự phấn khích cải cách mang tính chất ngây thơ và sự sao lãng đến các tiền đề văn hóa của hành chính công. Tuy vậy, người ta vẫn tin tưởng rằng NSM giải quyết đúng các vấn đề đặt ra. Những bổ sung cần thiết là một sự hiểu biết mới về vai trò của hành chính công trong một nhà nước dân chủ và một học thuyết.
Nhật Bản
Quản trị công mới được Nhật Bản áp dụng từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX với trọng tâm là thay đổi thể chế hành chính theo hướng làm trong sạch và lành mạnh hóa nền hành chính quốc gia để chính phủ gần dân hơn, ngày càng thấu hiểu những tâm tư và nguyện vọng chính đáng của dân. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản kiên quyết giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết; Giảm sự can thiệp trực tiếp và có tính mệnh lệnh của nhà nước trong các giao dịch dân sự, tạo cơ hội mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanhNét mới trong cải cách hành chính ở Nhật Bản là đã thiết lập được cơ chế phi tập trung. Từ khi Luật Khung về phi tập trung hóa được thông qua, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành phân quyền mạnh hơn cho địa phương và cải tổ bộ máy chính phủ. Hiện nay, chính quyền địa phương có vai trò rộng lớn hơn trong việc thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn hành chính của mình. Chính phủ trung ương tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Đồng thời, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng hai bộ luật rất quan trọng liên quan đến công chức là Luật Công chức và Luật đạo đức Công chức. Theo đó, phẩm chất đạo đức và ý thức công dân của công chức, cũng như việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên mô cho công chức, chú trọng năng lực và kết quả công tác của công chức là những vấn đề mà Chính phủ Nhật Bản hết sức quan tâm.
Hoa kỳ
Nền công vụ và chế độ công chức của Mỹ đi theo một quá trình phức tạp từ “chế độ thải loại” tới “chế độ công tích”. Sở dĩ như vậy là do Hiến Pháp nước này quy định chế độ Tổng thống với việc Tổng thống bổ nhiệm các quan chức cấp cao theo kiến nghị, hoặc được sự đồng ý của Thượng nghị viện, bổ nhiệm các quan chức trung cấp và sơ cấp theo sự ủy quyền của Nghị viện.
Với cơ sở pháp lý như vậy, thông thường thì sau khi đắc cử, Tổng thống bổ nhiệm những người đã có nhiều công lao trong cuộc tranh cử của đảng mình và những người thân tín vào thành phần chủ chốt trong chính phủ. Điều đó góp phần dẫn tới “chế độ thải loại”, một chế độ về sau mang lại hiệu quả thấp trong quản lý hành chính nhà nước và những hủ bại của giới quan chức như tệ hối lộ và tham nhũng. Điều đó đã vấp phải sự phê phán kịch liệt về mọi mặt từ phía nhân dân Mỹ và nhất là từ phía đảng đối lập. Bản thân sự phân chia quyền lợi không đồng đều trong nội bộ đảng cầm quyền cũng mang lại những ly gián và công kích lẫn nhau giữa các quan chức và giữa các bộ, ngành hay địa phương. Vì vậy, chế độ thải loại dần bị thay bằng một chế độ công vụ thích ứng hơn.
Từ khi Mỹ thực hiện “Luật chế độ công chức” công khai thi tuyển thì số lượng công chức của chính phủ tăng lên rất nhiều. Kể từ năm 1978, cải cách công vụ của Mỹ tập trung vào các nội dung cơ bản là : thực hiện chế độ tiền lương theo công tích, căn cứ vào thành tích công tác để trả lương cho công chức; cải các chế độ sát hạch, đánh giá công chức, lấy đó làm căn cứ để khen thưởng, đề bạt, bồi dưỡng; thiết lập chức vụ hành chính cao cấp với các tiêu chuẩn và điều kiện được quy định rõ ràng; thành lập cơ quan quản lý công chức là cơ quan độc lập, chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng thống.
Nước Mỹ cũng rất tích cực trong việc cải cách bộ máy hành chính của mình, với việc thành lập ra một ủy ban chịu trách nhiệm về việc xem xét lại và hiện đại hóa bộ máy chính phủ do cựu phó tổng thống Al Gore khi ông này còn đương nhiệm, đứng đầu. Kể từ năm 1992, phong trào “sáng tạo lại chính phủ” được khởi xướng với một tác phẩm được Tổng thống Mỹ tán dương là “sách gối đầu giường” do hai học giả David osborne và Ted Gaebler viết. Phong trào này đã có những ảnh hưởng lớn lao đến quá trình cải cách nhà nước và công vụ của Mỹ với 10 nguyên tắc cải cách cho chính phủ kinh doanh là:
Lái thuyền chứ không chèo thuyền
Tăng cường quyền lực cho các cộng đồng chứ không phải chỉ đơn thuần là phân phát dịch vụ
Khuyến khích cạnh tranh hơn là độc quyền
Được hướng dẫn bởi sứ mạng chứ không phải bằng quy tắc định hướng
Xem trọng đầu ra của vốn hơn là đầu vào
Thỏa mãn các nhu cầu của người tiêu dùng chứ không phải của bộ máy quan chức
Tập trung vào việc kiếm được các nguồn lực chứ không chỉ tiêu phí các nguồn lực
Đầu tư vào việc phòng ngừa các vấn đề hơn là chữa cháy
Phân quyền
Giải quyết các vấn đề bằng cách tận dụng vị thế thị trường hơn là xây dựng nên các chương trình công cộng.
Một trong những đặc điểm cơ bản của chế độ công vụ Mỹ là ảnh hưởng của phân quyền trong nhà nước liên bang. Do Chính phủ liên bang giao rất nhiều quyền cho các bang, mỗi bang lại có luật riêng của mình, do vậy ngoài các đặc điểm chung của cả liêng bang, mỗi bang lại có nét đặc thù trong tổ chức và vận hành hệ thống công vụ và công chức. Điểm nổi bậc trong cải cách công vụ của Mỹ là chế độ “mở”. Có thể nói nước này là điển hình với việc tuyển chọn, sử dụng và trả lương công chức, kể cả công chức cấp rất cao theo cơ chế cạnh tranh trên thị trường. Mọi người có trình độ, năng lực theo yêu cầu của công việc đều có cơ hội đăng ký thi tuyển và được tuyển dụng vào các vị trí công vụ còn chưa có người giữ.
Chế độ công vụ này có ưu điểm là nhanh chóng tuyển dụng được những người có trình độ và năng lực phù hợp cho hoạt động công vụ cụ thể, nhà nước không phải bỏ chi phí đào tạo ban đầu. Hơn nữa, do những người được tuyển này là từ các nguồn khác nhau, cho nên họ mang theo phong cách làm việc từ các thành phần kinh tế - xã hội khác vào hoạt động của bộ máy nhà nước Mỹ, làm cho nó có sức sống mới và công vụ Mỹ được xem là thực dụng nhất thế giới. Tuy vậy, chế độ này cũng có nhược điểm là thiếu tính ổn định, nhất là với một số hoạt động công vụ đặc thù. Ngoài ra, nền công vụ không liên tục nên khó vận dụng các quy trình như luân chuyển và đào tạo, bồi dưỡng công chức.
CHƯƠNG 2
LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆT NAM
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010
Nội dung
Trước năm những 1986, Việt Nam dựa vào nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước quản lý tất cả mọi hoạt động của nền kinh tế, kinh tế tư nhân về hình thức hầu như không tồn tại, bộ máy hành chính cồng kềnh, quan liêu có thể nói điều này giống với đặc điểm của mô hình hành chính công truyền thống.
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Chính phủ đã tiến hành nhiều cuộc cải cách lớn, trên nhiều lĩnh vực để làm cho hiệu lực hiệu quả quản trị nhà nước được tăng lên. Cải cách hành chính nhằm cải cách bộ máy hành chính nhà nước với mục tiêu là “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”.
Trong giai đoạn từ năm 2001-2010 chính phủ Việt Nam đã đưa ra chương trình cải cách hành chính tổng thể bao gồm cải cách một số lĩnh vực như: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Để thực hiện việc cải cách trong các lĩnh vực trên, chương trình cải cách hành chính tổng thể giai đoạn 2001-2010 được chia thành 7 chương trình bao gồm:
Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật;
Nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quantrong hệ thống hành chính nhà nước;
Tinh giản biên chế;
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức;
Cải cách tiền lương;
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công;
Hiện đại hóa nền hành chính.
Những kết quả đạt được.
Về cải cách thể chế: đã đổi mới một bước quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi trách nhiệm của Chính phủ, góp phần tích cực vào việc bổ sung hoàn thiện hệ thống thể chế, từng bước tạo môi trường hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho hoạt động kinh tế– xã hội của đất nước trong điều kiện mới.
Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước: xác định rõ hơn, điều chỉnh một bước chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước. Sắp xếp lại cho gọn hơn tổ chức bộ máy hành chính các cấp; các đầu mối của Chính phủ đã giảm từ 48 xuống còn 30 (bao gồm 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 8 cơ quan trực thuộc Chính phủ).
Về xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức: xông tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng rõ hơn về phân công, phân cấp, thẩm quyền trách nhiệm quản lý cán bộ, công chức của mỗi cấp trong hệ thống hành chính nhà nước về các mặt: tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương, nâng ngạch cho các đối tượng cán bộ, công chức.
Về cải cách tài chính công: đã đổi mới đáng kể về cơ chế phân cấp quản lý tài chính ngân sách, phân biệt 2 cấp ngân sách là ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, tăng thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh trong quyết định ngân sách và phân bổ ngân sách địa phương hàng năm. Bước đầu thực hiện nguyên tắc công khai tài chính, sử dụng ngân sách ở các cấp hành chính, các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước, thực hiện thí điểm và đang nhân rộng dần cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính và cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu.
Về hiện đại hóa nền hành chính nhà nước: đã quy định rõ hơn về nguyên tắc làm việc và quan hệ phối hợp trong vận hành bộ máy hành chính nhà nước từ Chính phủ, các Bộ đến UBND các cấp; về trách nhiệm của tập thể và cá nhân người đứng đầu các cơ quan hành chính, về chế độ giải quyết công việc
Những bất cập, hạn chế còn tồn tại
Kể từ khi cải cách hành chính được tiến hành, Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể trong quản lý hành chính thông qua việc tư nhân hóa, bãi bỏ nhiều quy định, khuyến khích đầu tư nước ngoài, giảm bao cấpTuy nhiên quản lý hành chính vẫn không phát triển kịp so với sự phát triển kinh tế – xã hội dẫn đến không giúp nền kinh tế thị trường phát triển một cách lành mạnh. Những trở ngại nghiêm trọng trong hệ thống hành chính có thể kể đến như:
Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế trong những năm qua mặc dù rất tích cực và đã làm khá nhiều về số lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế; còn có tính chắp vá, cục bộ, thiếu ăn khớp, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ, thể chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
Thực tế cũng cho thấy, từ trước đến nay khoa học về tổ chức về quản lý chưa được quan tâm đúng mức. Thế nên mới có tình trạng nhiều thủ tục hành chính vẫn rườm rà làm khổ người dân và doanh nghiệp; nền hành chính công vụ nhiều khó khăn vướng mắc, trên bảo dưới không nghe, có hiện tượng "sinh con rồi mới sinh cha" trong xây dựng luật. Điển hình là khi Quốc hội xem xét thông qua Luật cán bộ công chức, Luật viên chức, Luật thanh tra rồi nhưng vấn đề thanh tra công vụ vẫn chưa được quy định ở đâu; xây dựng các luật có quy định về tài chính công, tài sản công nhưng lại thiếu một đạo luật quy định về hành chính công, quản trị công. Để tháo gỡ những vướng mắc trên đây thì mấu chốt là hoạt động lập pháp của chúng ta cần phải quan tâm đến vấn đề khoa học về tổ chức, về quản lý và quản trị công hay gọi là hành chính công để xây dựng nền hành chính thống nhất, hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân.
Các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, phức tạp trong nhiều lĩnh vực hoạt động, hệ thống các cơ quan hành chính không đồng bộ, chồng chéo, không phù hợp, mệnh lệnh hành chính và kỷ luật lỏng lẻo.
“Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, với thời gian 872 giờ doanh nghiệp phải bỏ ra để nộp thuế mỗi năm, Việt Nam đã trở thành nước tốn nhiều thời gian nộp thuế nhất khu vực. Năm 2014, thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm được 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm. Theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 12/3/201 thì năm 2015 phải rút ngắn thời gian nộp thuế không quá 121,5 giờ/năm. Tuy nhiên, đây vẫn là con số khá cao Doanh nghiệp vẫn tốn rất nhiều thời gian cho việc nộp thuế thay vì tập trung kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.”
Những quy định pháp lý cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính, cũng như của từng cán bộ, công chức; chế độ làm việc tập thể tràn lan, không rõ trách nhiệm chậm được khắc phục.
“Năm 2014, dịch sởi xảy ra khiến cho 108 trẻ em phải chết, tuy nhiên với tư cách là người đứng đầu Bộ Y tế- Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn không có trách nhiệm gì mặc dù đã có nhiều lời kêu gọi từ chức. Hay như, kỳ thi tuyển sinh Đại học 2015 kéo dài hơn 20 ngày khiến người dân mệt mỏi tốn kém tuy nhiên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận chỉ nhận trách nhiệm thiếu xót. Việc không có những quy định về pháp lý cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan khiến cho người dân chịu nhiều tổn thất, tốn kém tiền bạc của xã hội”
Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính quyền địa phương còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Chẳng hạn như lĩnh vực điện năng, tập đoàn điện lực Việt Nam là công ty trực thuộc và chịu sự quản lý của Bộ Công thương có chức năng kinh doanh trong thị trường điện lực tuy nhiên lại chịu sự quản lý hành chính của Bộ Công thương, chịu ảnh hưởng bởi nhiều mệnh lệnh hành chính khiến cho giá điện của Việt Nam luôn ở mức cao, thị trường độc quyền thiếu sự cạnh tranh. Đó là do nhà nước ôm đồm luôn việc quản lý, sản xuất và kinh doanh khiến thị trường méo mó.
Việc triển khai đẩy mạnh phân cấp Trung ương - địa phương vẫn đang còn nhiều hạn chế, cơ chế giám sát và trách nhiệm giải trình còn mang tính hình thức, chưa đảm bảo tính răn đe, dẫn đến hiện tượng lạm quyền.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương chưa có sự đổi mới, cải cách đáng kể; về cơ bản vẫn như cũ, cả 3 cấp tỉnh – huyện – xã đều có HĐND và UBND với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn gần giống nhau, trùng nhau và quá nhiều việc dẫn đến bộ máy hành chính cồng kềnh;
“Minh chứng như phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long có 475 cán bộ; UBND thị trấn Mạo Khê, huyện Đông Triều có tới 639 công bộc hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước. Bí thư tỉnh ủy Quản Ninh cho biết thêm, chỉ một xã đảo có gần 200 hộ mà có hơn 100 cán bộ ăn lương và phụ cấp đến nỗi báo chí phải đưa tựa đề Cán bộ phường đông như quân Nguyên để mô tả mức độ cồng kềnh của bộ máy hành chính”
Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính các cấp chậm được đổi mới; chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong Chính phủ và UBND các cấp mặc dù có nhiều hạn chế, nhược điểm nhưng chậm được thay đổi.
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, mặc dù công tác đào tạo bồi dưỡng những năm qua được tăng cường đáng kể nhưng do nội dung và phương pháp đào tạo chậm đổi mới một cách cơ bản và do ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc học tập, bồi dưỡng chưa cao nên nhìn chung trình độ, năng lực thực tế, nhất là về kiến thức quản lý hành chính và kỹ năng thực thi công vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, bất cập trước yêu cầu cải cách, mở cửa, hội nhập hiện nay.
“Chúng ta hiện đang có 2,8 triệu công chức nhưng thực sự 2,8 triệu công chức ấy có cống hiến hết mình hay không? Chế độ chi cho công chức, công vụ của chúng ta hiện nay vẫn tính trên tổng biên chế nói chung mà chưa tính đến việc làm cụ thể của từng vị trí công chức. Biên chế càng lớn thì chi thường xuyên càng lớn. Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào” – Phó Thủ tướng phát biểu. Điều này nói lên chất lượng của công chức tại Việt Nam, còn có 1 bộ phận không làm việc, không đóng góp vào sự phát triển của tổ chức nhưng vẫn nhận lương từ Ngân sách”
Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ công chức có vi phạm pháp luật tiến hành chưa thật sự nghiêm minh, thiếu khách quan, công bằng.
“ 80.000 tỷ đồng tương đương khoảng 4,2 tỷ USD, tức là đã bằng khoảng 4% GDP của cả nước năm 2009. Đó là số nợ của Vinashin hiện nay cho thấy mức độ nghiêm trọng đến thế nào. Một con số dư nợ khổng lồ của một Doanh nghiệp nhà nước phát sinh tuy nhiên lại vượt qua được cả một hệ thống thanh tra chính phủ, kiểm toán chưa kể thanh tra ngành, địa phương. Tuy chưa thể đánh giá ngay được mức độ thiệt hại về kinh tế nhưng một lần nữa sự kiện này cho chúng ta nhiều bài học trong quản lý và giám sát”.
Cơ chế quản lý ngân sách, tài sản công còn nhiều yếu kém, bất hợp lý, chưa khuyến khích tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân thụ hưởng ngân sách; chưa đổi mới cơ bản theo hướng quản lý dựa trên kết quả đầu ra như yêu cầu của chương trình cải cách hành chính tổng thể, đồng thời lại tạo nhiều kẽ hở cho tình trạng lãng phí, tham nhũng phổ biến, tràn lan, chậm được khắc phục.
“ Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) ngày 3/12/2014 công bố Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng 2014 (CPI 2014), xếp hạng 175 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xếp hạng dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và các chuyên gia trong nước về tham nhũng trong khu vực công ở mỗi quốc gia/ vùng lãnh thổ. Theo công bố, Việt Nam đạt 31/100 điểm, đứng thứ 119 trên bảng xếp hạng toàn cầu và thứ 18 trên tổng số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mặc dù đã có nhiều cải cách, quy định chế tài nhưng tham nhũng tại Việt Nam vẫn chưa thay đổi không muốn nói là mức độ tham nhũng ngày càng tinh vi hơn”.
Lòng tin của công chúng vào cơ quan công quyền và sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội dân sự vào quản lý nhà nước còn hạn chế.
Đề xuất- kiến nghị
Nền hành chính Việt Nam tồn tại khá nhiều bất cập hạn chế dẫn đến yêu cầu cần phải cải cách mạnh mẽ, sâu rộng dựa trên các nguyên lý cơ bản của quản trị công mới để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện ở một nước mà mô hình quản trị công truyền thống còn chi phối nặng nề như nước ta, sẽ có những yếu tố không phù hợp hoặc khó được chấp nhận. Do đó, chúng ta không thể bê nguyên xi mô hình quản trị công mới của các nước trên thế giới vào thực tiễn Việt Nam mà chỉ vận dụng các yếu tố tích cực của mô hình này cho phù hợp với các điều kiện thực tế tại Việt Nam.
Áp dụng mô thức quản lý của doanh nghiệp: theo quan điểm của quản trị công mới, dù là quản lý của khu vực công hay quản lý của khu vực tư nhân, bản chất của nó tương tự nhau, sự khác nhau chỉ thể hiện ở một số phương diện thứ yếu. Vì thế, Chính phủ cần thiết phải vận dụng “tinh thần doanh nghiệp” vào tổ chức và hoạt động của mình, đổi mới văn hóa hành chính; tiếp đó hình thành một nền hành chính có sinh lực và sức sống, có năng lực thích ứng và tinh thần đổi mới. Đồng thời, cần thiết phải học hỏi lý luận, mô thức, nguyên tắc, kỹ thuật quản lý của doanh nghiệp bao gồm cả việc tiếp nhận các nhân viên quản lý từ các doanh nghiệp vào làm việc trong khu vực công để góp phần đổi mới nền hành chính, khắc phục những yếu kém trong hoạt động của nền hành chính, nâng cao hiệu quả hành chính và cải thiện chất lượng phục vụ công.
Thiết lập cơ chế lấy khách hàng làm định hướng: bản chất là vận dụng nguyên tắc “khách hàng là trên hết”, “khách hàng là tối cao” của thị trường, xem công chúng là khách hàng của các tổ chức công, tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng, coi sự hài lòng của khách hàng là mục tiêu trong thực thi nhiệm vụ của nền hành chính. Việc thiết lập cơ chế" “lấy khách hàng làm định hướng” đã đặt cơ sở cho nghiên cứu dân chủ hành chính và mô hình nền hành chính phục vụ. Để thực hiện cơ chế" “lấy khách hàng làm định hưống”, khu vực công cần phải đề ra tiêu chuẩn phục vụ một cách rõ ràng, có sự cam kết phục vụ với khách hàng, tiến hành điều tra ý kiến khách hàng để làm cơ sở cho việc cải thiện chất lượng phục vụ công.
Vận dụng việc quản lý theo kết quả nhưng có sự định hướng mục tiêu: để áp dụng phương pháp quản lý theo kết quả, buộc nhà quản lý phải có các tiêu chí cụ thể để đánh giá kết quả đầu ra. Các tiêu chí một mặt để lượng hóa công việc, mặt khác để đánh giá khối lượng, chất lượng công việc đã hoàn thành, đánh giá khả năng làm việc của cán bộ, công chức, của bộ máy nhà nước. Một điều chú ý là, các nhà quản lý cần định hướng các kết quả đầu ra theo mục tiêu nhất định. Điều này sẽ bảo đảm các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước đúng mong muốn của nhà quản lý. Hơn nữa, do có nhiều phương pháp để đạt mục tiêu nên nhà quản lý phải có định hướng nhằm tránh những hành động đạt mục đích bằng mọi giá.
Thực hiện hợp tác xã hội, tư nhân hóa một số dịch vụ công: chính phủ cần phải thực hiện tốt vai trò là “người cầm lái”, vai trò “hoa tiêu” chứ không phải vai trò “chèo thuyền”. Nhiều chức năng quản lý vốn trước đây do khu vực công đảm nhiệm, nay cần hợp tác với khu vực doanh nghiệp để thực hiện. Để làm đươc điều này, khu vực công cần phải đổi mới quan niệm hành chính, không tự cho mình sự độc quyền đối với các nguồn lực công, trực tiếp thực hiện việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công mà cần áp dụng các hình thức như đấu thầu rộng rãi, quản lý chất lượng, quản lý mục tiêu để phát huy vai trò của khu vực doanh nghiệp vào việc tham gia cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công.
Thực hiện phân cấp, phân quyền cho địa phương: phân quyền giúp cho cấp trung ương tập trung thực hiện vai trò hoạch định chính sách, giảm bớt các hoạt động tác nghiệp; phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, cơ quan chuyên môn, đơn vị cơ sở, đưa nền hành chính sát hơn với những đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể. Phân quyền đảm bảo công bằng, phát triển dịch vụ đa dạng, cung ứng hiệu quả hơn theo hướng công dân là khách hàng sử dụng dịch vụ; phát triển nền dân chủ, tạo điều kiện cho công dân và các tổ chức của mình tham gia vào các hoạt động quản trị công và giám sát quá trình thực thi công vụ. Tuy nhiên, khi tiến hành phân cấp, phân quyền cần có kế hoạch nâng cao năng lực, chuẩn bị đầy đủ nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, các điều kiện thuận lợi cho chính quyền địa phương, đơn vị cơ sở. Đồng thời, tăng cường chế độ thông tin, báo cáo và vai trò hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của cấp trên, của các cơ quan hữu quan. Điều này giúp đảm bảo tính khả thi của việc phân cấp, tránh nguy cơ đùn đẩy trách nhiệm hoặc giao việc quá tầm cho chính quyền địa phương, đơn vị cơ sở; tránh nguy cơ phân phối dịch vụ không đồng đều, bất bình đẳng giữa các công dân và giữa các vùng, miền.
Vận dụng cơ chế cạnh tranh: giống như các quy tắc của thị trường, khu vực công cần phải thông qua thị trường để đạt được các nguồn lực, đồng thời có sự cạnh tranh với các tổ chức khác. Cần chú trọng vào việc phát triển kỹ thuật thông tin, coi trọng quản lý và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực hành chính. Quan trọng hơn là, trong nội bộ nền hành chính cần phải thực hiện một cách rộng rãi việc đánh giá kết quả hoạt động, hiệu suất quản lý, hiệu suất hoạt động; quy định rõ ràng mục tiêu công việc; đồng thời, sáng tạo và sử dụng tổng hợp các phương thức và phương pháp mang tính công cụ để góp phần nâng cao hiệu suất hoạt động như: đánh giá định lượng về hiệu suất công việc, thực hiện chế độ hợp đồng làm việc, khen thưởng trực tiếp về vật chất, tiến hành đánh giá kết quả công việc cuối cùng.
Phi quy chế hoá nhằm loại bỏ các “hàng rào” không cần thiết: công khai quy trình giải quyết công việc và áp dụng cơ chế “một cửa” là một trong những biện pháp nhằm đổi mới mối quan hệ giữa cơ quan công quyền với công dân, tổ chức; tạo sự liên thông giữa các cơ quan chức năng trong phối hợp công tác, xử lý công việc nhanh chóng, rõ trách nhiệm từng khâu; giúp cơ cấu lại tổ chức bộ máy hợp lý hơn. Áp dụng cơ chế “một cửa” đã đơn giản hoá và loại bỏ thủ tục hành chính gây khó khăn, phiền hà cho các hoạt động dân sự, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời phải xóa bỏ cơ chế xin cho đã ăn sâu vào nhận thức người dân sẽ là một bước đột phá trong cải cách hành chính. Cần luật hoá các quy định liên quan đến thủ tục hành chính. Trường hợp thật cần thiết, các bộ ngành, địa phương mới ban hành thủ tục hành chính nhưng phải đảm bảo các tiêu chí như: đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, tạo thuận lợi tối đa cho tổ chức, cá nhân.
Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức: việc tuyển dụng cán bộ, công chức ngoài các phương pháp truyền thống, có thể áp dụng phương pháp tuyển dụng theo vị trí việc làm. Đó là mô tả yêu cầu, tiêu chuẩn đối với từng vị trí, chức danh để tuyển chọn người đảm nhiệm có phẩm chất, năng lực phù hợp nhất, sử dụng “đúng người, đúng việc”. Đồng thời phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để cán bộ, công chức không bị lạc hậu với thời đại và tiếp cận nhiều hơn kiến thức mới. Mỗi công chức phải tích cực học tập, nâng cao hiệu quả hoạt động, đổi mới tư duy, tác phong phục vụ và cải tiến lề lối làm việc thì công cuộc cải cách hành chính ở nước ta mới đạt hiệu quả.
Kiểm soát tham nhũng: lương thấp và sự xuống cấp đạo đức trong các cơ quan Nhà nước góp phần làm tăng tham nhũng ở Việt Nam. Chống tham nhũng là một việc quan trọng trong cải cách khu vực công do đó Việt Nam cần thiết lập một cơ quan chống tham nhũng độc lập, cơ quan này sẽ nhận và điều tra các khiếu nại tố cáo tham nhũng của người dân. Cơ quan chống tham nhũng chỉ hành động theo pháp luật và được trao đủ quyền điều tra, truy tố bất kỳ một thành viên cấp cao nào trong Đảng và chính phủ mà không chịu bất cứ sự can thiệp nào.
Mở rộng quan hệ quốc tế trong vấn đề cải cách hành chính: trong xu hướng toàn cầu hóa, nhiều nước đã điều chỉnh hệ thống thể chế, thủ tục hành chính cho phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế. Do đó, một mặt nền hành chính cần gìn giữ, phát huy các giá trị, truyền thống quý báu trong lịch sử dựng nước, giữ nước và trị quốc của cha ông ta. Mặt khác, tiếp thu có chọn lọc các tri thức phát triển hành chính của nhân loại; đúc rút kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp với cơ cấu vị trí việc làm được thiết kế theo nhu cầu thực tế từng cơ quan, đơn vị.
KẾT LUẬN
Quản trị công mới có ý nghĩa sâu sắc trong việc xác định bản chất của quản lý Nhà nước và hoạch định chính sách ở các nước trên thế giới. Quản trị công mới đã tạo ra một nền “văn hóa doanh nghiệp” cho khu vực công với mục đích rõ ràng, với chiến lược tốt, lấy người dân làm trung tâm, xác định rõ trách nhiệm và quyền của người công chức. Quản trị công mới cũng đảm bảo sự trung thực và tính trung lập trong quản lý công. So với hầu hết các nước phương Tây, Việt Nam ít được thể chế hóa, hệ thống cơ quan công quyền cũng ít trung lập và dễ bị ảnh hưởng bởi chính trị.
Việc áp dụng kinh nghiệm và bài học thực tế từ nước này sang nước khác không phải là việc dễ dàng bởi nó không chỉ đơn giản chỉ là sao chép mô hình mà còn phải xem xét kỹ các yếu tố đặc thù của mỗi quốc gia. Việt Nam đã thực hiện một số cải cách như tinh giản biên chế, tư nhân hóa và xóa bỏ nhiều quy định bất hợp lý trong lĩnh vực hành chính. Điều này tạo cơ sở cho việc áp dụng các nguyên lý cơ bản của quản trị công trong tương lai.
Cải cách hành chính trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những thành công đáng ghi nhận, tuy nhiên hoạt động của Nhà nước và nền hành chính quốc gia vẫn còn nhiều điểm bất cập. Nếu duy trì quá lâu tình trạng này sẽ tạo ra tác động kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước yêu cầu phát triển sâu hơn nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yêu cầu hội nhập mạnh mẽ và toàn diện, công cuộc cải cách hành chính đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Để vượt qua những thách thức này, cải cách hành chính trong giai đoạn mới cần phải có những thay đổi hết sức sâu sắc cả về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, của bản thân hệ thống thể chế hành chính, của cơ cấu hệ thống tổ chức hành chính và đội ngũ công chức hành chính... Việc thực hiện những phương hướng mới trong cải cách hành chính như đã phân tích ở trên là hết sức cần thiết. Với những thành công đã đạt được và quyết tâm to lớn của cả hệ thống chính trị, chắc chắn cải cách hành chính trong giai đoạn tới sẽ thu được những thành công to lớn, góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh, mạnh, vững chắc nền kinh tế - xã hội của nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Owen E.Huges. (2012). Public magnagement or administration - An Introdustion (4th. Ed.). Hamsphire, UK: Palerave Macmillan, USA.
Schiavo Campo, s., & Sundaram, p. (2001). To Serve and to Preserve: Improving Public Administration in a Competitive World. Manila: ADB. Retrieved 25/8/2015 from
Naim Kapucu. (n.d). New publicment: Theory, Ideology, and practice. Trích nguồn ngày 01/07/2015 từ: https://classroom.google.com
TS. Nguyễn Quang Trung. (2015). Chương 2: Quản trị công mới (power point silde). Trích nguồn từ https://classroom.google.com
TS. Nguyễn Thị Hồng Hải. (29/10/2014). Một số xu hướng thay đôi của hành chính công trong thế kỷ 21. Trích nguồn từ
Chính phủ Việt Nam. (2001). Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 Phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010.
Chính phủ Việt Nam. (2011). Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 về việc ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
VN vẫn thấp trong bảng xếp hạng tham nhũng. (03/12/2014). Trích nguồn từ
TS. Hà Quang Trường. (24/06/2015). Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2015. Trích nguồn ngày 24/06/2015 từ
ThS. Lê Anh Tuấn. (n.d.). Cải cách hành chính theo lý thuyết quản lý công mới ở Nhật Bản và một số nước ASEAN. Trích nguồn từ
ThS. Đoàn Văn Dũng. (2010). Quản lý công mới và việc ứng dụng vào nền hành chính Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_cong_truong_8729.doc