Đặt vấn đề
II.Tìm hiểu vấn đề
1. Khát quái về nhân cách và nhu cầu-biểu hiện của thuộc tính xu hướng trong cấu trúc nhân cách
2. Giới thiệu về trường phái tâm lý học nhân văn
3. Nội dung thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của Maslow
4. Ứng dụng của thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống
III. Kết luận
P/S: Bài này điểm cao lắm nhé
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11688 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nội dung của thuyết hệ thống nhu cầu 5 bậc của maslow (maxlau), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề 1: Phân tích nội dung của thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của maslow (maxlau) .Ứng dụng của thuyết này trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống.
Dàn ý
I.Đặt vấn đề 0.5
II.Tìm hiểu vấn đề
Khát quái về nhân cách và nhu cầu-biểu hiện của thuộc tính xu hướng trong cấu trúc nhân cách 2tr
Giới thiệu về trường phái tâm lý học nhân văn 1tr
Nội dung thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của Maslow 5tr
Ứng dụng của thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống 1tr
III. Kết luận 0.5
I.Đặt vấn đề
Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hành vi, tinh thần và tư tưởng của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động), chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con người. Ngày nay, môn tâm lý học đã trở thành một trong những cơ sở khoa học của các ngành chuyên môn liên quan đến con người và có vai trò rất quan trọng trong đời sống hiện nay. Tâm lý học góp phần cải tạo và hợp lý hoá các điều kiện sống của con người, mang lại và nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển văn hoá và sự tiến hoá của xã hội.Trong tâm lý học hiện đại có một vài quan điểm cơ bản, trong đó có trường pháp tâm lý học nhân văn . Để tìm hiểu rõ hơn về trường phái này và quan điểm của nhà tâm lý học Abraham Maslow em xin chọn đề tài : “Phân tích nội dung của thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của maslow (maxlau) .Ứng dụng của thuyết này trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống”.
II. Tìm hiểu vấn đề
Khát quái về nhân cách và nhu cầu- biểu hiện của thuộc tính xu hướng trong cấu trúc nhân cách
Để tìm hiểu rõ hơn thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của Maslow, trước hết ta cần tìm hiểu về nhân cách và nhu cầu –biểu hiện của thuôc tính xu hướng trong cấu trúc nhân cách.
Nhân cách
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các mối quan hệ con người , của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ. Nhà tâm lý học Xô Viết nổi tiếng X.L.Rubinstein đã viết : “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức”. Có thể khái quát khái niệm nhân cách như sau: “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một các nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy. Nói thuộc tính tâm lý là nói hiện tượng tâm lý tương đối ổn định- kể cả phần sống động và phần tiềm tàng có tính quy luật” . “Tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Nói “bản sắc” là muốn nói trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó có cái chung từ kinh nghiệm- xã hội – lịch sử đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người có đặc điểm về nội dung và cả về hình thức, không giống với các tổ hợp khác của bất cứ một người nào khác. “Giá trị xã hội” có nghĩa là những thuộc tính đó được thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy và được xã hội đánh giá.
Nhu cầu- biểu hiện của thuộc tính xu hướng trong cấu trúc nhân cách
Để tồn tại và phát triển cá nhân đòi hỏi ở môi trường xung quanh thỏa mãn những cái cần thiết (không thể thiếu) cho mình.
Nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của con người trong những điều kiện nhất định , bảo đảm sự tồn tại và phát triển của họ.
Nhu cầu bao giờ cũng là đòi hỏi về một cái gì đó, được cá nhân nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa của nó đối với sự tồn tại và phát triển của mình .Lúc đó nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm mục đích thỏa mãn chính nhu cầu này.
Nội dung của nhu cầu do những bđiều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định. Nhu cầu thường có tính chất chu kỳ.
Nhu cầu ở con người khác với nhu cầu ở động vật ở chỗ , nó mang bản chất xã hội. Sự khác biệt thể hiện như sau :
-Khác về đối tượng và phương thức thỏa mãn nhu cầu.
-Ở con người có nhu cầu về tinh thần mà ở con vật không bao giờ có.
-Ở con người còn có ý thức trong việc thỏa mãn nhu cầu của mình
Nhu cầu gồm 3 loại :
-Nhu cầu vật chất : là những nhu cầu có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của cơ thể con người, có cội nguồn sâu xa từ bên trong cơ thể. Ví dụ : nhu cầu về thức ăn, phòng ở, quần áo mặc.
-Nhu cầu tinh thần : là những nhu cầu có liên quan trực tiếp với những đòi hỏi về các lĩnh vực chính trị-đạo đức, nhận thức và thẩm mỹ. Nó có cội nguồn từ trong xã hội loài người.
-Nhu cầu gắn liền với các chức năng xã hội là những nhu cầu lao động, nhu cầu giao tiếp và nhu cầu hoạt động xã hội.
Giới thiệu về trường phái tâm lý học nhân văn
Truờng phái tâm lý học nhân văn do A.Maslow (1908-1970) và C.Rogers (1902-1987) sáng lập. Nhà tâm lý học Abraham Maslow được xem như một trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn (humanistic psychology), trường phái này được xem là thế lực thứ 3 (the Third Force) khi thế giới lúc ấy đang biết đến 2 trường phái tâm lý chính: Phân tâm học (Psychoanalysis) và Chủ nghĩa hành vi (Behaviorism). Các nhà tâm lý học nhân văn cho rằng, con người bẩm sinh là tốt, nếu được đặt trong môi trường lành mạnh tự nhiên họ sẽ hòa hợp với những người khác. Động cơ chính trong cuộc đời là khuynh hướng tự thể hiện mình, khuynh hướng này bẩm sinh nơi con người và không ngừng thúc đẩy con người hướng tới hoạt động và các sự kiện giúp họ tự thể hiện mình.
Theo Maslow, các nhu cầu của con người được sắp đặt theo một thứ bậc. Các nhu cầu càng thấp trong thứ bậc, chúng càng cơ bản và càng giống các nhu cầu của động vật. Các nhu cầu càng cao trong thứ bậc, chúng càng đặc trưng cho con người. Ông đã đưa ra năm mức độ nhu cầu cơ bản của con người xếp thứ tự từ thấp đến cao :
- Nhu cầu cơ bản (basic needs)- Nhu cầu về an toàn (safety needs)- Nhu cầu về xã hội (social needs)- Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)- Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs).
C.Rogers cho rằng, con người cần phải được yêu mến, kính trọng. Nói chung, quan niệm của các nhà tâm lý học nhân văn về bản tính con người khiến họ lạc quan đối với con người và tương lai của con người.
Nội dung thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của Maslow
Năm 1943, Nhà tâm lý học Abraham Maslow đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của con người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Theo lý thuyết của Maslow thì các nhu cầu cơ bản của chúng ta hình thành trong một hệ thứ bậc các nhu cầu (needs hierachy) - các nhu cầu bẩm sinh của chúng ta được xếp trong một chuỗi các giai đoạn từ nguyên thuỷ đến tiến bộ. 5 bậc thang nhu cầu của Maslow là phát hiện xã hội quan trọng mang tính học thuật cơ bản có khả năng ứng dụng thực tiễn rất cao, giúp các nhà quản lí có nhân sinh quan soi sáng vào quan điểm lãnh đạo của mình và hình thành phương pháp hoàn thiện trình độ quản lí.
3.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, không khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.
Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
Ông bà ta cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”, cần phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu cầu cao hơn.
Sự phản đối của công nhân, nhân viên khi đồng lương không đủ nuôi sống họ cũng thể hiện việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản cần phải được thực hiện ưu tiên.
3.2. Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs):
Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không còn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,…. Trẻ con thường hay biểu lộ sự thiếu cảm giác an toàn khi bứt rứt, khóc đòi cha mẹ, mong muốn được vỗ về.
Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng là do nhu cầu an toàn này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần.
Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm, …cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.* Thông qua việc nghiên cứu 2 cấp bậc nhu cầu trên chúng ta có thể thấy nhiều điều thú vị:
- Muốn kìm hãm hay chặn đứng sự phát triển của một người nào đó, cách cơ bản nhất là tấn công vào các nhu cầu bậc thấp của họ. Nhiều người làm việc chịu đựng các đòi hỏi vô lý, các bất công, vì họ sợ bị mất việc làm, không có tiền nuôi bản thân và gia đình, họ muốn được yên thân,…- Muốn một người phát triển ở mức độ cao thì phải đáp ứng các nhu cầu bậc thấp của họ trước: đồng lương tốt, chế độ đãi ngộ hợp lý, nhà cửa ổn định,…Chẳng phải ông bà chúng ta đã nói: “An cư mới lạc nghiệp” hay sao?- Một đứa trẻ đói khát cùng cực thì không thể học tốt, một đứa trẻ bị stress thì không thể học hành, một đứa trẻ bị sợ hãi, bị đe dọa thì càng không thể học. Lúc này, các nhu cầu cơ bản, an toàn, an ninh được kích hoạt và nó chiếm quyền ưu tiên so với các nhu cầu học hành. Các nghiên cứu về não bộ cho thấy, trong các trường hợp bị sợ hãi, bị đe doạ về mặt tinh thần và thể xác, não người tiết ra các hóa chất ngăn cản các quá trình suy nghĩ, học tập.
3.3. Nhu cầu về xã hội (social needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm, …Nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của loài người chúng ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu này sau 2 nhu cầu phía trên, nhưng ông nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, những người sống độc thân thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp hơn những người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cô đơn có thể dễ dàng giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường từ bỏ thế giới này với lý do: “Những người xung quanh, không có ai hiểu con!”.
Để đáp ứng cấp bậc nhu cầu thứ 3 này, nhiều công ty đã tổ chức cho các nhân viên có các buổi cắm trại ngoài trời, cùng chơi chung các trò chơi tập thể, nhà trường áp dụng các phương pháp làm việc theo nhóm, các phương pháp giảng dạy dựa trên vấn đề, các tổ chức Đoàn, Đội trong nhà trường được giao trách nhiệm tập hợp các em, định hướng các em vào những hoạt động bổ ích. Các kết quả cho thấy: các hoạt động chung, hoạt động ngoài trời đem lại kết quả tốt cho tinh thần và hiệu suất cho công việc được nâng cao.Kinh nghiệm giảng dạy của nhiều giáo viên cũng đưa đến kết luận: phần lớn các em học sinh sống trong các gia đình hay bất hòa, vợ chồng lục đục, thiếu quan tâm, tình thương của gia đình thường có kết quả học tập không cao như các em học sinh khác.
3.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc về một tổ chức”, nhu cầu xã hội phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức, một đội nhóm, chúng ta luôn muốn được mọi người trong nhóm nể trọng, quý đấu để cảm thấy mình có “vị trí” trong nhóm đó.Kinh nghiệm giáo dục cũng chỉ ra rằng: các hành động bêu xấu học sinh trước lớp, cho các học sinh khác “lêu lêu” một em học sinh bị phạm lỗi,… chỉ dẫn đến những hậu quả tồi tệ hơn về mặt giáo dục, tâm lý. “Nhà sư phạm lỗi lạc Makarenko trong suốt cuộc đời dạy dỗ trẻ em hư, khi được hỏi bí quyết nào để sửa trị các em, ông nói “Tôi chỉ đúc kết trong một công thức ngắn gọn: Tôn trọng và yêu cầu cao .Bản chất tâm lý con người ai cũng muốn được tôn trọng, chạm đến lòng tự trọng là chạm đến điều sâu và đau nhất, là điểm tử huyệt nhất của con người (cho dù đó là đứa trẻ khó dạy, chưa ngoan).Chỉ tôn trọng mà không yêu cầu là không ổn. Khi được tôn trọng là đã cho con người ở đúng vị trí “Người” nhất của mình. Do vậy, cần có trách nhiệm buộc phải sống và hành xử đúng đắn với sự tôn trọng đó.”
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs):
Khi nghe về nhu cầu này: “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho nó ý nghĩa tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất. “Thể hiện mình” không đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lòe lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ nho” khắp nơi, nói năng khệnh khạng, …Maslow mô tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person's need to be and do that which the person was “born to do” (nhu cầu của một cá nhân mong muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”). Nói một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.
Chúng ta có thể thấy nhiều người xung quanh mình, khi đã đi đến đoạn cuối của sự nghiệp thì lại luôn hối tiếc vì mình đã không được làm việc đúng như khả năng, mong ước của mình. Hoặc có nhiều trường hợp, một người đang giữ một vị trí lương cao trong một công ty, lại vẫn dứt áo ra đi vì muốn thực hiện các công việc mà mình mong muốn, cái công việc mà Maslow đã nói “born to do”.Đó chính là việc đi tìm kiếm các cách thức mà năng lực, trí tuệ, khả năng của mình được phát huy và mình cảm thấy hài lòng về nó.
* * *
Loài ngừời là những sinh vật có suy nghĩ, với bộ não phức tạp đòi hỏi có kích thích tư duy. Chúng ta bị thúc đẩy bởi nhu cầu mạnh mẽ về nhận thức muốn biết quá khứ của mình để hiểu biết những bí ẩn của cuộc sống hiện tại, và để đoán trước được tương lai. Sức mạnh của các nhu cầu này giúp học giả và các nhà khoa học cống hiến cuộc đời mình cho các cuộc truy tìm kiến thức mới .
Tại đỉnh của hệ thứ bậc là những con người được nuôi dưỡng, che chở, được yêu thương và yêu thương, được yên tâm, được tư duy và sáng tạo. Những con người này đã chuyển động vượt ra ngoài những nhu cầu cơ bản của con người để tìm kiếm sự phát huy đầy đủ tiềm năng của mình, còn gọi là sự ý thức đầy đủ về bản thân. Một con người có ý thức đầy đủ về mình, tự nhận thức được mình, tự chấp nhận , thì nhiệt tình với xã hội, có tính sáng tạo, không gò bó, sẵn sàng tiếp nhận cái mới và sẵn sàng chấp nhận thử thách - không kể các phẩm chất tích cực khác.
Đáng chú ý, có truờng hợp : Có lúc ta đói mà nhất quyết không ăn nếu việc ăn đó ảnh hưởng tới danh dự, hay hình ảnh mà ta muốn mình vươn tới . Nói đến vấn đề này, cần chú ý bài báo công bố về vấn đề này của Maslow năm 1943 ( ), Maslow có viết "The hierarchy principle is usually empirically observed in terms of increasing percentages of non-satisfaction as we go up the hierarchy". Maslow nói các thứ tự này không phải luôn luôn là như thế, mà chúng là giá trị trung bình thường gặp, hơn nữa Maslow cũng cho rằng các nhu cầu không bị tách ra độc lập, mà các nhu cầu có mối quan hệ với nhau, một hành động thường là nỗ lực giải quyết vài nhu cầu khác nhau 1 lúc. Maslow cũng nói rõ là khi các nhu cầu bên dưới được giải quyết 1 phần (chứ chưa cần trọn vẹn) thì con người đã bắt đầu tìm lên các nhu cầu cao hơn .
Maslow cho rằng hệ thống nhu cầu của con người dựa trên nền tảng di truyền nhất định. Điều đó không chính xác vì nội dung nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó qui định. Nhu cầu của con người cũng phụ thuộc vào những điều kiện và phương thức sinh hoạt của gia đình và xã hội. Cho nên muốn cải tạo những nhu cầu xấu ở con người thì phải cải tạo cơ sở xã hội đã làm nảy sinh ra nó. Muốn làm nảy sinh nhu cầu tốt phải tạo ra những điều kiện và phương thức sinh hoạt tương ứng với nó.
Maslow còn cho rằng nhu cầu của con người mang tính vô thức, gần giống nhu câu của con vật. Thực tế là nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của động vật. Điều này thể hiện ở đối tượng, phương thức thỏa mãn nhu cầu, tính ý thức trong việc thỏa mãn nhu cầu.
Mỗi con người đều tự có trong mình một thang giá trị ưu tiên, và thứ tự ưu tiên sẽ ảnh hưởng tới định hướng hành động của con người. thang giá trị và thứ tự ưu tiên các giá trị của con người lại là động, nghĩa là thay đổi theo thời gian, chứ không cố định, do ảnh hưởng của hoàn cảnh sống mỗi người, sự phát triển nhận thức và các kết quả mà con người đạt được. Tất cả các hiện tượng tâm lý của con người đều hình thành, tồn tại và phát triển trong mối liên hệ, tương tác lẫn nhau như thế. Mọi cố gắng chia tách bạch, nghiên cứu riêng rẽ từng hiện tượng nào đó đều dẫn tới những hạn chế nhất định.
Ứng dụng của thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống
Tâm lý học Maslow đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ và đóng góp to lớn cho nền tâm lý học thế giới.Thuyết nhu cầu của A.Maslow là thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các nhu cầu tự nhiên của con người nói chung, có ảnh hưởng tinh thần rất lớn đến các học thuyết nhân cách khác.
Thông qua lý thuyết về Thang bậc nhu cầu được đề xướng bởi nhà tâm lý học Abraham Maslow, mỗi người trong chúng ta có thể rút ra nhiều điều thú vị về những nhu cầu, giá trị trong cuộc sống, tìm hiểu các khó khăn mà mỗi người gặp phải, các phương thức cần thiết để giáo dục hiệu quả.
Trong mỗi con người chúng ta đều tồn tại cả 5 nhu cầu này, song nhu cầu chủ lực sẽ quyết định đến tính cách và hành vi của chúng ta.Và mỗi giai đoạn khác nhau chúng ta sẽ có những nhu cầu chủ lực khác nhau.
Chính vì thế, khi tung một sản phẩm ra thị trường, chúng ta cần chọn đối tượng khách hàng mục tiêu, chúng ta cần hiểu được họ đang ở nấc nhu cầu nào để tác động một cách hợp lí nhất.
Nếu bạn là một người quản lý, bạn cần biết nhân viên của mình đang ở mức nhu cầu nào để biết cách giúp họ làm việc đạt hiệu suất cao nhất.
Thang bậc nhu cầu cũng được ứng dụng hiệu quả trong giáo dục, qua đó, chúng ta có thể nhận thấy khó khăn mà học sinh , sinh viên đang gặp phải để rút ra phương pháp giáo dục thích hợp và hiệu quả nhất.
Cần đáp ứng nhu cầu cá nhân được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả cho phát triển cá nhân và xã hội.Khi một người được khích lệ, và thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn.
Bằng thang bậc nhu cầu, bạn cũng có thể tự rút ra nhiều điều về nhu cầu của chính chúng ta, để ta có thể điều chỉnh hành vi, mục đích của mình cho phù hợp, hướng đến những mặt tích cực hơn của cuộc sống.
Thang nhu cầu Maslow có thể giúp ta nhận ra và chiêm nghiệm được nhiều điều thú vị trong cuộc sống, ứng dụng của nó là có thể giải thích những điều xảy ra xung quanh ta.
III. Kết luận
Tâm lý học Maslow đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ và đóng góp to lớn cho nền tâm lý học thế giới. Cũng giống như bao lý thuyết khác, lý thuyết này dĩ nhiên không phải là một sự tuyệt đối hóa và toàn vẹn, nó cũng nhận được nhiều ý kiến trái ngược và phản bác. Tuy nhiên, hơn 60 năm qua, lý thuyết vẫn được nhắc đến và sử dụng rộng rãi. Cho đến ngày nay, thuyết “Hệ thống nhu cầu 5 bậc” của Maslow vẫn có vai trò quan trọng trong nghiên cứu, tìm hiểu về tâm lý học và trường phái tâm lý học nhân văn, đem lại nhiều ứng dụng trong cuộc sống con người.
Tài liệu tham khảo
- www.ship.edu- - - - - - - - - - -
-
-
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tâm lí học đại cương, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.
Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Giáo trình tâm lí học đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2005.
Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lí học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Trần Trọng Thủy (chủ biên), Tâm lí học đại cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Pierre Daco (Võ Liên Phương dịch), Những thành tựu lẫy lừng trong tâm lí học hiện đại, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích nội dung của thuyết Hệ thống nhu cầu 5 bậc của maslow (maxlau) Ứng dụng của thuyết này trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống.doc