Đánh giá lựa chọn các phương thức vay nợ nước ngoài sao cho vừa thỏa mãn được
nhu cầu vay nợ vừa có mức lãi suất không quá cao.
Cần quy định cụ th ể trong văn bản quy chế vay và trả nợ nước ngoài để cho phía
nước ngoài cũng như phía chính quy ền và doanh nghiệp địa phương biết rằng “Chính phủ
không chịu trách nhiệm khoản vay doanh nghiệp địa phương nếu như không được Chính
phủ chấp thuận và bảo lãnh”. Đồng thời, cần có biện pháp cấp bách để hướng dẫn triển
khai thực hiện quy chế trên một cách nghiêm túc và hiệu quả. Thận trọng xem xét khả năng
trả nợ nhằm hạn chế rủi ro khi phát hành trái phiếu quốc tế.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích rủi ro quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc tính giá trị những
khoản tín dụng của các ngân hàng này có nguy cơ bị thiệt hại tại Ukraine vào khoảng 28 tỷ
USD.
Gazprombank, Vnesheconombank (VEB), Sberbank và VTB là những ngân hàng
cho vay chủ chốt tại đây.
Cả hai hãng xếp hạng tín nhiệm Moody's và Fitch tuần này đều cảnh báo những rủi
ro mà những ngân hàng trên phải đối mặt khi cung cấp các khoản cho vay cho các doanh
nghiệp Ukraine, nếu nền kinh tế này trượt vào suy thoái và đồng nội tệ hryvnia tiếp tục sụt
giảm mạnh.
Nạn khủng bố
Khủng bố (terrorism) là hình thức sử dụng vũ trang và vũ lực nhằm đạt được một
mục tiêu chính trị nào đó, bằng cách đe dọa và tác động lên nỗi sợ hãi của con người.
Trong những năm gần đây, khủng bố trở thành một dạng rủi ro quốc gia hết sức nghiêm
trọng. Nạn khủng bố đang không ngừng leo thang trên khắp thế giới, mà một ví dụ điển
hình là vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ. Không chỉ lấy đi sinh mạng của
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 16
hàng trăm con người, vụ khủng bố còn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với thị trường tài
chính New York cũng như làm ngưng trệ hoạt động kinh doanh của vô số doanh nghiệp.
Nạn khủng bố khiến người dân sợ hãi, dẫn tới giảm lượng tiêu thụ hàng hóa và có nguy cơ
dẫn đến nên khủng hoảng kinh tế. Các ngành thương mại dịch vụ như du lịch, hàng không,
giải trí và các ngành bán lẻ hàng hóa đặc biệt bị ảnh hưởng. Nạn khủng bố cũng tác động
xấu đến các thị trường tài chính, cụ thể là trong quãng thời gian sau cuộc tấn công
11/9/2001, giá trị thị trường chứng khoán Hoa Kỳ giảm khoảng 14%.
Bên cạnh chế độ chính trị, những khác biệt trong hệ thống luật pháp ở các quốc gia
khác nhau cũng là một nguyên nhân tạo nên rủi ro quốc gia. Đặc biệt liên quan đến kinh
doanh quốc tế là luật thương mại và tư pháp, trong đó luật thương mại bảo trùm toàn bộ
các giao dịch thương mại, còn Tư pháp điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân và các tổ
chức, bao gồm các điều luật hợp đồng cũng như trách nhiệm và bổn phận của mỗi bên nảy
sinh trong những trường hợp vi phạm. Ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống luật pháp thiên
về bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, các tổ chức bản địa. Các bộ luật thường được xây
dựng nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh và thúc đẩy kinh tế ở địa phương.
Hệ thống luật pháp ở cả “nước chủ nhà” và “nước ngoài” đều tạo nên những khó
khăn thử thách khác nhau đối với các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế
nói riêng.
Rủi ro quốc gia nảy sinh từ môi trường pháp lý ở nước ngoài
Đối với một số quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển, để bảo hộ cho nền kinh
tế trong nước cũng như các ngân hàng nội và sự yếu kém trong một số mảng quản lý khiến
cho chính phủ các quốc gia này sử dụng luật pháp như một công cụ để cấm một số hoạt
động giao dịch của ngân hàng. Việc này gây ra không ít cho những ngân hàng ngoại, vốn
dĩ đang chật vật với việc gây dựng cơ sở ở nước sở tại. Chẳng hạn như tại Anh, trong báo
cáo công bố ngày 26/2/2014, Cơ quan Luật lệ An toàn (PRA) thuộc Ngân hàng Trung ương
Anh (BoE) đã đưa ra những quy định mới mang tính bắt buộc đối với các ngân hàng nước
ngoài không thuộc Liên minh châu Âu (EU) mở chi nhánh ở Đảo quốc này. Một số ngân
hàng nước ngoài có nguy cơ bị cấm hoạt động ở Anh do không thỏa mãn những điều kiện
khắt khe lần đầu tiên được áp dụng này. PRA sẽ yêu cầu các ngân hàng nước ngoài phải
đáp ứng những tiêu chuẩn về hoạt động giám sát của Anh trong lĩnh vực tài chính. Đây
được coi là điều kiện tiên quyết để xem xét liệu ngân hàng nước ngoài có được phép mở
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 17
chi nhánh hoạt động ở Anh hay không. Nếu không đạt được những tiêu chuẩn này, các
ngân hàng nước ngoài có thể bị cấm hoạt động ở Anh. Trước đây, các chi nhánh ngân hàng
của Iceland từng mở dịch vụ nhận tiền gửi ở Anh. Sau đó, họ đã không thể thanh toán do
lâm vào khủng hoảng, buộc giới chức Anh phải vào cuộc nhằm giảm thiểu thiệt hại cho
người gửi tiền. Trong khuôn khổ những quy định mới, các ngân hàng nước ngoài phải cung
cấp thông tin về thực trạng tài chính cho PRA. Trên cơ sở đó, PRA sẽ phân tích và đánh
giá mức độ ảnh hưởng đối với hệ thống tài chính Anh trong trường hợp ngân hàng gặp rắc
rối. Ngoài ra, các ngân hàng cũng phải chuẩn bị những phương án và giải pháp ứng phó với
nguy cơ xảy ra khủng hoảng. PRA còn quy định rằng họ có thể sẽ rút giấy phép kinh doanh
của các ngân hàng ở một quốc gia nào đó, nếu họ thấy lo ngại về chất lượng của hoạt động
giám sát nội địa. Quy định này đã châm ngòi cho nhiều ý kiến phản đối và chỉ trích cho
rằng Anh đang cố ý bảo hộ cho các ngân hàng thuộc khối Eurozone mà bỏ quên đi sự thiệt
thòi của các ngân hàng nước ngoài khác trong bối cảnh Chính phủ Anh đang tìm cách thu
hút các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc, nhằm tăng cường vị thế của
Trung tâm tài chính London.
Rủi ro quốc gia nảy sinh từ môi trường pháp lý ở nước mình
Theo thống kê từ ngân hàng nhà nước, các ngân hàng ngoại kiếm lãi gấp hơn 8 lần so
với những ngân hàng nội mà phần lợi nhuận này phần nhiều là nhờ chiêu thức mua bán
ngoại tệ lòng vòng, lách luật. Khi mà ngân hàng nội địa bị ràng buộc bởi hàng loạt các quy
định hành chính liên quan đến kinh doanh ngoại tệ, không thể lách luật, thì ngân hàng nước
ngoài tỏ ra linh hoạt. Suốt một thời gian dài họ mua bán đô la Mỹ với doanh nghiệp thông
qua một ngoại tệ thứ ba để đạt được tỷ giá mong muốn và khi NHNN cấm nghiệp vụ này,
họ vẫn sử dụng ngoại tệ thứ ba thông qua một ngân hàng thứ ba.
Thí dụ doanh nghiệp XYZ muốn mua đô la Mỹ của họ, thì đầu tiên doanh nghiệp đó
phải mua euro của ngân hàng nội địa XYZ với một tỷ giá thỏa thuận. Họ bán euro cho ngân
hàng XYZ để XYZ bán cho doanh nghiệp. Có euro rồi, doanh nghiệp bán lại cho họ cũng
theo giá thỏa thuận vào ngày hôm sau, làm sao tương ứng với sự chênh lệch của đô la Mỹ
(giữa giá niêm yết của ngân hàng và giá thị trường tự do) mà họ bán cho doanh nghiệp.
Trên hợp đồng, giá mua bán đô la vẫn tuân thủ quy định của NHNN, nhưng trên thực tế,
sau một sự lòng vòng, giá thực mua - bán đã khác nhiều.
Ngoài ra một số ngân hàng nước ngoài áp dụng phí ngoại tệ linh hoạt (flexible fees)
khi doanh nghiệp chuyển khoản ra nước ngoài, mở L/C, bảo lãnh… Với các công ty đa
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 18
quốc gia, việc đưa ra các mức phí càng thuận lợi hơn, nhất là khi các công ty này nhập
khẩu máy móc, nguyên vật liệu, triển khai dự án đầu tư. Không phải ngẫu nhiên, các công
ty của nước nào thì thường giao dịch với ngân hàng của nước ấy mở ở Việt Nam. Chẳng
hạn các công ty Hàn Quốc giao dịch với ngân hàng Hàn Quốc, Đài Loan với Đài Loan,
Pháp với Pháp, Úc với Úc…Ngân hàng trong nước không thể “bắt chước” cách kinh doanh
ấy của ngân hàng nước ngoài vì nếu làm vậy có thể bị thanh tra, kiểm tra liên tục.
Tuân thủ đúng quy định, ngân hàng nội khó tìm lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối.
Một khi giá mua bán đô la Mỹ chuyển khoản và tiền mặt luôn kịch trần và bằng nhau, các
ngân hàng cổ phần chỉ còn cách giới thiệu các doanh nghiệp với nhau để tự thương lượng.
Hậu quả là doanh thu kinh doanh ngoại tệ của nhiều ngân hàng cổ phần sụt giảm mạnh, có
ngân hàng thậm chí lỗ ở mảng này trong khi các ngân hàng quốc tế khác lại lãi một cách
mạnh mẽ.
2. Rủi ro từ yếu tố kinh tế và tài chính của một quốc gia
Rủi ro đến từ các yếu tố tăng trưởng của nền kinh tế
Đây là yếu tố đầu tiên mà các công ty đa quốc gia nói chung cũng như ngân hàng
quốc tế nói riêng rất cân nhắc khi quyết định có tham gia hay tiếp tục đầu tư hay kinh
doanh tại một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thể hiện giá trị tăng thêm
của sản phẩm dịch vụ trong một năm mà quốc gia đó sản xuất được, nó là nhân tố tiên
quyết quyết định sự thịnh vượng của một quốc gia. Nền kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu về
vốn hiển nhiên sẽ lớn và hiệu quả tất yếu sẽ là các tổ chức kinh doanh tiền tệ nói chung
cũng như ngân hàng quốc tế nói riêng sẽ có nhiều cơ hội để kinh doanh cũng như nhiều cơ
hội đề phát triển hơn. Ngược lại, với một nền kinh tế đầy bất ổn với tỷ lệ tăng trưởng thấp,
doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả sẽ kéo theo sự hoạt động kém hiệu quả của hệ
thống ngân hàng nói chung và khả năng thua lỗ cũng như mất vốn lớn.
Rủi ro đến từ các biến động trong tỷ giá hối đoái
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh tại nước sở tại, các công ty đa quốc gia nói
chung cũng như ngân hàng quốc tế nói riêng phải chịu rất nhiều áp lực đến từ tỷ giá hối
đoái của quốc gia đó. Có rất nhiều phương thức tỷ giá mà các quốc gia có thể chọn lựa, tỷ
giá hối đoái thả nổi hoàn toàn, tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái thả nổi có điều chỉnh.
Với mỗi phương thức điều hành tỷ giá sẽ phát sinh mỗi vấn đề khác nhau cho các thành
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 19
phần của nền kinh tế mà ngân hàng quốc tế là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất. Vốn dĩ không có sẵn nguồn nội tệ để kinh doanh tại các quốc gia sở tại nên
hệ thống ngân hàng quốc tế phụ thuộc rất lớn vào chính sách tỷ giá của quốc gia đó. Nếu
quốc gia áp dụng tỷ giá hối đoái cố định vào một ngoại tệ mạnh nào đó, ngân hàng quốc tế
có thể phần nào yên tâm về khả năng chủ động về nguồn vốn nội tệ của mình để phục vụ
kinh doanh, ngược lại khi chính phủ thả nổi tỷ giá thì ngân hàng quốc tế sẽ gặp phải rủi ro
rất lớn trong việc kinh doanh bằng nội tệ tại quốc gia sở tại đó.
Rủi ro đến từ biến động trong lãi suất
Lãi suất là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng then chốt đến kết quả hoạt động kinh
doanh của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng. Đối với các ngân
hàng hoạt động theo mô hình truyền thống, thu nhập từ lãi vốn là nguồn thu nhập chính,
chiếm bình quân khoảng 80% nguồn thu nhập của ngân hàng, còn với hệ thống ngân hàng
hiện đại, thu nhập từ lãi vốn cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ, không dưới 50%. Do đó sự
biến động về lãi suất là cả một vấn đề đối với hệ thống ngân hàng nói chung chứ không
riêng gì ngân hàng quốc tế. Với hệ thống ngân hàng quốc tế, dòng vốn của nó được huy
động từ rất nhiều quốc gia trên thế giới và sẽ được phân bổ vào các nền kinh tế theo thứ tự
ưu tiên về mức lãi suất cho vay đang được áp dụng trong nền kinh tế đó. Nếu lãi suất cho
vay có sự biến động đột ngột theo chiều hướng đi xuống sẽ khiến các ngân hàng quốc tế
phải chịu cảnh sụt giảm trong lợi nhuận hoặc mất rất nhiều chi phí để di chuyển dòng vốn
đến các quốc gia khác có mức lãi suất cao hơn.
Rủi ro đến từ nợ công quốc gia
Rủi ro đến từ nợ công quốc gia là loại rủi ro được gây ra bởi tình trạng mất khả năng
thực hiện nghĩa vụ của chính phủ một quốc gia đối với một số quốc gia khác hay một tổ
chức hay một doanh nghiệp hay một ngân hàng quốc tế nào đó. Nhìn chung, yếu tố này ít
gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống ngân hàng quốc tế bởi các chương trình tài trợ vốn
cho chính phủ các quốc gia thường được thực hiện bởi ngân hàng thế giới hoặc các tổ chức
kinh tế phi ngân hàng khác. Rủi ro gây ra bởi nợ công quốc gia chủ yếu tác động gián tiếp
đến hệ thống ngân hàng quốc tế thông qua việc nợ công quá mức cho phép sẽ làm đổ vỡ
nền kinh tế tại quốc gia sở tại mà ngân hàng quốc tế đang hoạt động, từ đó gây nên các rủi
ro cho các ngân hàng này trong việc kinh doanh cũng như di chuyển dòng vốn ra khỏi quốc
gia này.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 20
CHƯƠNG II
THỰC TẾ VỀ RỦI RO QUỐC GIA TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI TẠI MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
1. Rủi ro quốc gia tại Thái Lan năm 1997
Những tiềm ẩn rủi ro
Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961. Tốc độ tăng trưởng
GDP trong thập niên 60 vào khoảng 8%/năm, thập niên 70 vào khoảng 7%/năm, thập niên
80 vào khoảng 8%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mức 440USD năm
1995 lên 3012USD năm 1996. Giá trị xuất khẩu theo đầu người đạt 630USD năm 1991
tăng lên 1177USD năm 1996.
Với mức lãi suất tiết kiệm trong nước cao, bình quân là 16,3%/năm, trong khi ở Mỹ là
7,6%/năm. Cộng thêm chính sách tỷ giá hối đoái gần như là cố định, đã tạo nên môi trường
kinh doanh hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài chính, cho vay
ngắn hạn và tín dụng thương mại.
Nguồn tiền dồi dào, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp cao, dẫn đến tín dụng tăng
trường nóng, các ngân hàng và các công ty tài chính Thái Lan tích cực vay nợ từ nước
ngoài để tài trợ cho các doanh nghiệp trong nước, các dự án bất động sản, thị trường chứng
khoán.
Khi rủi ro bộc phát:
Hàng loạt doanh nghiệp phá sản. Do các doanh nghiệp gia tăng vay vốn bên ngoài mà
không thực sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn vay, ROA của đa số doanh nghiệp đến
năm 1996 chỉ đạt 1%/năm trong khi đó lãi suất cho vay đã trên 16%/năm.
Hệ thống ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả. Kiểm soát lỏng lẻo, đầu tư
nhiều vào các dự án bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, nợ xấu gia tăng.
Thị trường bất động sản đóng băng và dần suy thoái. Do đầu tư quá ồ ạt vào bất động
sản, tỷ lệ phòng trống không cho thuê được của các tòa nhà cao ốc văn phòng lên đến 20%,
các công ty chủ đầu tư gặp khó khăn lớn trong việc tìm nguồn trả nợ, cộng thêm vào là
mức lãi suất cho vay rất cao.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 21
Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán. Chỉ số thị trường chứng khoán sụt giảm từ 1.280
vào cuối năm 1995 xuống còn 372 vào cuối năm 1997, mức vốn hóa thị trường giảm từ
141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD.
Thái Lan tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán. Cán cân thương mại luôn thâm hụt
trong suốt những năm 1991 – 1996, tổng thâm hụt lên đến 35,26 tỷ USD. Thâm hụt tài
khoản vãng lại năm 1996 lên đến 14,7 tỷ USD. Trong khi tỷ giá gần như cố định, nhưng
lạm phát trong nước lại cao hơn so với Mỹ (Thái Lan 5%, Mỹ 3%). Vay nợ nước ngoài gia
tăng từ 35,99 tỷ USD năm 1991 lên đến 89 tỷ USD năm 1996, bằng 54% GDP, trong đó nợ
ngắn hạn chiếm 51% tổng nợ và gấp 1,18 lần dự trự ngoại tệ quốc gia, tính đến tháng
06/1997 nợ nước ngoài ngắn hạn đã gấp 1,5 lần dự trữ ngoại tệ.
Ảnh hưởng đến thị trường tài chính tiền tệ:
Lo sợ nguy cơ khủng hoảng, nhiều nhà đầu tư đổ xô đi mua USD, làm cho cầu USD
tăng. Ngân hàng trung ương Thái Lan sau khi tung gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng Bath
nhưng không thành, ngược làm còn làm sụt giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia lúc này chỉ còn
10 tỷ USD.
Đến tháng 03/1997, người dân và các nhà đầu tư ồ ạt rút vốn ở dạng tiền mặt ra khỏi
các ngân hàng và công ty tài chính. Chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoán 1
ngày 03/03/1997 và yêu cầu mọi tổ chức tài chính phải gia tăng dự trữ tiền mặt, 10 công ty
tài chính ở trạng thái kiểm soát (Unico Housing Co.,LTD, Thai-Fui Royal International,..).
Ngày 04 và 05/03/1997 hơn 21,4 tỷ Bath (820 triệu USD) đã được rút khỏi các ngân
hàng và công ty tài chính. Ngày 25/06/1997 Chính phủ đã ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài
chính, nâng tổng số công ty tài chính bị đóng cửa lên 58 công ty trên tổng số 91 công ty tài
chính đang hoạt động.
Ngân hàng trung ương Thái Lan đã phải thả nổi đồng Bath, làm cho đồng Bath mất giá
từ mức 25,26Bath/1USD xuống mức kỷ lục 54,1Bath/1USD (06/01/1998). Có thể thấy sự
phá giá của đồng Bath Thái Lan như một ngòi nổ mở màn cho cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ của Thái Lan và các nước Đông Nam Á.
Ngân hàng trung ương Thái Lan cạn kiệt nguồn ngoại tệ và phải nhờ đến sự giúp đỡ của
IMF, Nhật Bản. Tiếp đó là đồng Peso bị ảnh hưởng và Philippines phải tuyên bố phá giá
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 22
đồng Peso từ 26,4Peso/1USD xuống còn 46,5Peso/1USD. Một phản ứng dây chuyền, ngày
11/08/1997 Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường ngoại hối để tránh các thiệt
hại nặng nề hơn. Cuộc khủng hoảng còn lan sang cả Hàn Quốc, đồng Won đã giảm xuống
976KRW/1USD mặc dù Hàn Quốc đã kiên quyết không phá giá đồng tiền, Đài Loan cũng
phải tuyên bố thả nội tiền tệ, thị trường tài chính tiền tệ Hồng Kông thì bị xáo trộn dẫn đến
nhiều vụ khủng hoảng chứng khoán toàn cầu.
2. Ukraine: Rủi ro chính trị và hoạt động của ngân hàng quốc tế
Cuộc khủng hoảng chính trị ở Ukraine được châm ngòi từ sự kiện chính phủ của Tổng
thống Yanukovych hồi cuối năm 2013 bất ngờ hủy bỏ việc ký kết các thoả thuận chính trị,
thương mại mang tính lịch sử với Liên minh Châu Âu (EU) chỉ vài ngày trước khi sự kiện
này chính thức diễn ra. Thay vào đó, Kiev chọn con đường thiết lập quan hệ gắn bó hơn
với Moscow. là “cuộc đấu” giữa Nga với Mỹ và Châu Âu nhằm tranh giành quốc gia Đông
Âu. Ukraine đang bị chia rẽ giữa một bên là lực lượng thân Nga và bên kia là phe thân
phương Tây.
Sau khi phe đối lập thực hiện một cuộc “đảo chính” lật đổ chính quyền của Tổng thống
Yanukovych, Mỹ và phương Tây đã nhanh chóng thừa nhận và hậu thuẫn cho chính quyền
lâm thời mới ở Ukraine. Trong khi đó, Nga chưa công nhận tính hợp pháp của chính quyền
do phe đối lập dựng lên và tuyên bố chỉ làm việc với Ukraine khi một chính phủ mới chính
thức được thành lập. Trong bối cảnh này, báo chí Ukraine và phương Tây đã “tung” không
ít những thông tin gây bất lợi cho Nga.
Ngày 3-3-2014, giới chức Ukraine khẳng định 16.000 lính Nga đã được huy động đến
Crimea, dấu hiệu cho thấy Nga đã mở rộng can thiệp quân sự vào bán đảo Crimea
Căng thẳng quân sự leo thang giữa Ukraine và Nga đã khiến các đồng nội tệ của cả hai
nước giảm giá mạnh so với đồng USD. Do đó, các công ty của Nga và Urkraine vốn có
nhiều nợ nước ngoài sẽ đối mặt với việc giá trị của các khoản nợ tăng lên trong tương quan
với giá trị của tài sản. Điều này khiến nguy cơ vỡ nợ tăng lên.
Nói một cách ngắn gọn, khi đồng USD tăng lên, thanh khoản giảm và rủi ro tín dụng
tăng. Đây sẽ là vấn đề lớn đối với hệ thống ngân hàng của các nước mới nổi.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 23
Một số chuyên gia cho rằng, cuộc khủng hoảng của Ukraine có thể dẫn tới một cuộc
khủng hoảng toàn diện của các thị trường mới nổi nói chung. Ngoài ra, vấn đề của Ukraine
cũng sẽ ảnh hưởng xấu tới các ngân hàng của Nga vốn phụ thuộc nhiều vào Ukraine. Từ
đầu năm 2014 tới nay, đồng Rúp Nga đã mất giá khoảng 10%.
Tài chính Nga, Ukraine thiệt hại hàng chục tỷ đôla vì xung đột. Căng thẳng leo thang
giữa hai quốc gia khiến chứng khoán trong nước lao dốc, đồng rouble Nga và hryvnia
Ukraine đều chạm đáy so với USD, còn giá vàng - dầu thế giới liên tục tăng cao.
Theo Bloomberg, tài sản của 300 người giàu nhất thế giới đã giảm 44,4 tỷ USD hôm
qua, do chứng khoán toàn cầu lao dốc mạnh nhất một tháng và đồng rouble Nga xuống
thấp kỷ lục.
Trong đó, đà giảm mạnh nhất là tại Nga. Chỉ số Micex mất 11%, trong khi đó Market
Vectors Russia ETF (RSX) giảm 6%. Cổ phiếu các hãng lớn như Tập đoàn năng lượng
Gazpro giảm hơn 10%, hay công cụ tìm kiếm Yandex giảm 14%.
Thị trường chứng khoán Nga cũng bốc hơi 58,4 tỷ USD chỉ trong gần một ngày. Đến
chiều qua (3/3), giá trị vốn hóa các cổ phiếu trong chỉ số Micex chỉ còn 512 tỷ USD, giảm
so với gần 570 tỷ USD chốt phiên giao dịch cuối tuần trước, Reuters cho biết.
Rouble Nga hôm qua xuống thấp nhất từ trước đến nay, khi mất giá 2% so với USD và
1,2% so với euro. Để ngăn nội tệ lao dốc, Reuters cho biết Ngân hàng trung ương Nga đã
phải bán 10 tỷ USD dự trữ ngoại tệ. Cơ quan này cũng phải nâng lãi suất cho vay cơ bản từ
5,5% lên 7%.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 24
Đồng hryvnia của Ukraine cũng lập đáy so với USD hôm qua. Giới phân tích cho biết
nguyên nhân là thiếu đôla Mỹ và giao dịch bị ảnh hưởng bởi căng thẳng với Nga. Nội tệ
mất giá và vỡ nợ quốc gia hiện là rủi ro chính với các ngân hàng Ukraine. Theo Moody’s,
các ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất từ rủi ro vỡ nợ là Savings Bank of Ukraine,
Ukreximbank và Ukrgazbank.
Mới đây, Ngân hàng trung ương Ukraine đã phải hạn chế số ngoại tệ người gửi có thể
rút và tuyên bố sẵn sàng bơm thêm thanh khoản. Theo thống kê, Ukraine đang ôm khối nợ
13 tỷ USD và 16 tỷ USD sẽ đáo hạn năm 2015. Nếu không được hỗ trợ kịp thời, họ sẽ vỡ
nợ.
Tình hình tại châu Âu còn u ám hơn khi tất cả các thị trường lớn hôm qua đều đỏ lửa.
Chỉ số Dax của Đức đóng cửa giảm hơn 3%, CAC 40 (Pháp) giảm hơn 2%, còn FTSE 100
(Anh) giảm 1,5%.
Căng thẳng tại Ukraine cũng khiến châu Á lao đao. Hang Seng (Hong Kong, Trung
Quốc) đóng cửa hôm qua giảm 1,5%. Nikkei 225 (Nhật Bản) mất 1,3%. Đến sáng nay, hầu
hết các thị trường châu Á đã lấy lại đà tăng sau hai ngày lao dốc. “Nhà đầu tư đang có cơ
hội mua vào. Cuộc khủng hoảng này sẽ được giải quyết sớm thôi, vùng Crimea sẽ về với
Nga và chiến tranh sẽ không xảy ra”, Andreas Utermann – Giám đốc Đầu tư tại Allianz
Global Investors nhận xét.
Tình hình bất ổn đã khiến nhà đầu tư tìm đến các công cụ trú ẩn. Giá vàng chốt phiên
hôm qua tại Mỹ tăng gần 2% lên 1.350 USD một ounce. Nhà đầu tư cũng tăng mua trái
phiếu Chính phủ Mỹ, đẩy lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm xuống dưới 2,6%.
Giá dầu thô WTI hôm qua cũng tăng gần 2%, lên hơn 104 USD mỗi thùng. Đến 2h30
chiều nay (giờ Hà Nội), giá mới giảm 0,9%. “Sự tham gia của Nga rõ ràng đã làm lớn
chuyện, tăng khả năng giá năng lượng thế giới bị ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp”,
Stephanie Flanders – chiến lược gia thị trường châu Âu tại JPMorgan nhận xét.
3. Rủi ro quốc gia tại Hy Lạp: Rủi ro nợ công
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra tháng 9/2008 đang chồng chất lên vai các
quốc gia gánh nặng nợ nần do họ phải đi vay để chi tiêu và cứu trợ kinh tế. Hy Lạp đứng
trước nguy cơ vỡ nợ, nhiều nước trong khu vực đồng euro cũng nợ ở mức báo động. Mức
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 25
nợ công của Việt Nam nếu tính theo GDP sắp xấp xỉ mức nợ tối thiểu tính theo GDP đối
với các thành viên thuộc khu vực euro.
Hai năm trước, Hy Lạp gia nhập khu vực đồng euro. Ngày nay, với nợ công lên tới
110% GDP, Hy Lạp bị khủng hoảng và gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ cũ, khó bán
các khoản nợ mới ở mức giá hợp lý; thậm chí có nguy cơ bị khai trừ hoàn toàn khỏi thị
trường nợ. Thế giới đứng trước nguy cơ Hy Lạp trở thành một Lehman Brothers, tập đoàn
đầu tư lớn thứ tư của Mỹ, phá sản tháng 9/2008, là mồi lửa gây "hoả hoạn" Phố Wall, lây
lan ra hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới.
Khủng hoảng nợ nhà nước của Hy Lạp cũng có khả năng lây lan thành một đợt rối loạn
tài chính toàn cầu mới. Dưới sức ép của EU, Hy lạp có 3 tháng để tự cứu mình. Quốc hội
Hy Lạp vừa thông qua các giải pháp thắt lưng buộc bụng mất lòng dân, "đau đớn nhất" mà
hoàn cảnh trước đây không cho phép thực hiện, như cắt giảm chi tiêu khu vực nhà nước,
hạn chế trả lương, thưởng và ngừng trợ cấp hưu trí; tăng thuế giá trị gia tăng, tăng thuế
nhiên liệu, thuốc lá, rượu và hàng xa xỉ.
Hy Lạp, cũng như các nước sử dụng đồng euro, đã từng thực hiện nhiều thủ thuật che
giấu thực trạng tài chính và nhằm đạt được những chỉ tiêu đề ra cho các nước thành viên,
như tổng dư nợ không quá 60% GDP và thâm hụt ngân sách hàng năm không quá 3%
GDP. Để đạt được những chỉ tiêu ấy, nhiều năm qua các chính phủ EU đã bán ra nhiều tài
sản quốc gia và che giấu nhiều khoản chi. Hy Lạp che giấu một số khoản chi quốc phòng,
với lý do "bí mật nhà nước". Năm 2000, Hy Lạp báo cáo chi 828 triệu euro (1,13 tỉ USD)
cho quân sự, chỉ bằng 1/4 con số 3,17 tỉ euro mà sau đó họ thừa nhận đã chi cho quốc
phòng. Nay Hy Lạp thừa nhận đã báo cáo mức chi cho quốc phòng thấp hơn thực tế tới 8,7
tỉ euro trong giai đoạn 1997-2003. Từ năm 2007-2010, nợ công của toàn thế giới lên tới
15.300 tỉ USD, trong đó 8 phần là đến từ nhóm G-7. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo,
đến năm 2014, nợ công của các nền kinh tế nhóm G-20 có thể chiếm 118% GDP, cũng
chẳng khác gì tình cảnh hiện tại của Hy Lạp. Về phần các nước khác, đến lượt một số quốc
gia cũng phải đối mặt với nguy cơ bị phá sản.
4. Tác động từ rủi ro nợ công: bài học từ khủng hoảng nợ công ở châu Âu
Xuất khẩu giảm :Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu : tốc
độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 26
vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất
giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với
hàng nhập khẩu giảm mạnh. Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hoá giá rẻ là
ưu thế của Việt Nam, do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu
chuyển từ hàng hoá cao và trung cấp sang hàng hoá do Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên,
những số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ công châu
Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, với
mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%)
và Anh (1,9%). Vì vậy, nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu
thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Lãi suất thấp ở các nước, trong khi ở Việt Nam cao sẽ bất lợi về chi phí cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam. Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân
hàng trung uơng các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích
thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ
bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước : FED (Mỹ) : 0,25%; ECB (EU) : 1%; BOE (Anh) :
0,5%; Nhật Bản 0,1%.Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn
đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ
hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.Nếu tính đến lạm phát ước
cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỉ suất lợi nhuận trên 24-27%, là
mức cao so với tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm
2009 (khoảng 20%).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm : Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra t¸c
động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia
có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI
dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập
doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Ngược lại, các nước có
trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch
chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong
khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng
hoảng nợ.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 27
Giá vàng bùng nổ : Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an
toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng
trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu
về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu,
châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc. Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng
tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong
thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. Điều
này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỉ trọng
lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác
như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên
hạn chế.
Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên; Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các
nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự :
3 số liệu cảnh báo bao gồm : nợ quá nhiều, thể hiện ở tỉ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá
mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt
giảm. Hệ quả là Việt Nam với tỉ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ
chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp
(321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn
đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
Biến động tỉ giá hối đoái sẽ rất khó lường : Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những
biến động khó lường về tỉ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh
so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có
dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD. Trong tháng 6, tỉ giá
USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng 3, do đó sẽ tạo ra
những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Với cơ cấu nợ công của
Việt Nam nghiêng về nợ nước ngoài nhiều thì ảnh hưởng của tỉ giá tới khả năng hoàn trả
vốn khi quản lý nợ công là cao, bởi lẽ :
+ Về thời hạn, khi đa số c¸c khoản vay nước ngoài là vay trung và dài hạn rủi ro tín
dụng và rủi ro tỉ giá là cao;
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 28
+ Rủi ro kép với mức chênh lệch lãi suất được đánh giá theo lãi suất thị trường. Nếu
như chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế để thực
hiện cân bằng tài khoản vốn có thể gia tăng mức độ đôla hoá và tạo áp lực lên tỉ giá;
+ Khả năng kiềm chế lạm phát, khi tính toán tỉ giá thực và sức mua ngang giá của tiền
đồng vào từng thời kỳ. Vì vậy, giữa số vốn vay và số vốn trả nợ khi đáo hạn vốn vay nước
ngoài sẽ chịu tác động của tỉ giá rất lớn, nếu như sử dụng và quản lý vốn vay không có hiệu
quả.
Nếu chỉ nhìn vào các số liệu được công bố về nợ công thì hiện nay sức ép về nợ công
của Việt Nam chưa phải là đáng ngại với phần lớn là vốn vay trung dài hạn, lãi suất thấp,
vốn vay ODA nhiều, vốn vay có lãi suất cố định chiếm phần lớn. Song, điều này cũng
không nói lên rằng mức độ nợ công của chúng ta hiện nay là vẫn ở ngưỡng an toàn trong
điều kiện số liệu thống kê chưa sát thực và cơ sở tính toán chưa chuẩn mực. Vấn đề quan
trọng trong quản lý nợ công là nguồn vốn dùng để trả nợ thế nào và việc sử dụng nợ công
ra sao? Điều đáng quan ngại hơn là vấn đề sử dụng nợ công ở Việt Nam. Chúng ta đã từng
biết bài học quản lý vốn ODA của PMU 18 và hệ quả của nó. Mục tiêu sử dụng vốn ODA
là đầu tư vào cơ sở hạ tầng với thời hạn dài, hoàn vốn lâu, quản lý vốn qua nhiều cấp. Mặt
khác, cơ chế quản lý nợ công của Việt Nam còn chồng chéo giữa nhiều cơ quan chức năng,
khả năng quản lý nợ, nhất là của chính quyền địa phương và vốn vay được Chính phủ bảo
lãnh, còn nhiều bất cập. Vì vậy, nếu không xem xét quản lý nợ công nghiêm túc thì tác
động của nó tới nền kinh tế mai sau sẽ không phải là nhỏ, nhất là kinh tế Việt Nam được
đánh giá là có độ mở cao trên thế giới
5. Một số khía cạnh thực tế về rủi ro quốc gia tại Việt Nam
a. Nhận định về rủi ro kinh tế
Lạm phát
Năm 2012, lạm phát dừng ở mức 6,81%, thấp hơn đáng kể so với chỉ tiêu đề ra là 8%.
Đây là một bước tiến tích cực so với mức 18,13% của năm 2011. Nhờ sự quyết liệt trong
chỉ đạo của Chính phủ mà tốc độ tăng CPI có xu hướng chậm dần, đến tháng 12 chỉ tăng
0,27%, trong khi thông thường thời điểm cuối các năm giá tăng cao.
Chính sách của Chính phủ thường mang tính thụ động sau khi đã có dấu hiệu lạm phát
gia tăng. Do chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát mà hoạt động sản xuất kinh
doanh lâm vào đình đốn, ngưng trệ, trong khi chính sách tài khoá không có tác động rõ
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 29
ràng. Rủi ro lạm phát cao và đồng Việt Nam giảm mạnh sức mua luôn thường trực trong
nền kinh tế nhiều năm qua, tiềm ẩn nhiều bất trắc cho hoạt động đầu tư, chính vì điều này
trong những năm qua các ngân hàng trên thế giới đắn đo khi gia nhập sân chơi tại Việt
Nam
Chính sách lãi suất
Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước được điều
hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ dao
động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định
biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn (trần) và lãi suất chiết khấu (sàn) (Nhóm
nghiên cứu Học viện Chính sách Phát triển, 2012).
Thực tế trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước chưa ban hành được cơ chế điều
hành và phương pháp xác định cụ thể từng loại lãi suất. Khi quyết định các loại lãi suất chủ
yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo thực hiện chỉ số CPI, các chỉ số kinh tế vĩ mô tháng
trước và quan điểm chỉ đạo điều hành mục tiêu chính sách tiền tệ của Chính phủ, thiếu các
thông tin, phân tích dự báo thị trường về cung cầu, số lượng giao dịch, lãi suất, ..; Do đó
các lãi suất được điều hành không sát với cung cầu tiền tệ và lãi suất thực trên thị trường,
hạn chế tác dụng điều tiết của các công cụ lãi suất (Nhóm nghiên cứu Học viện Chính sách
Phát triển, 2012).
b. Nhận định về rủi ro tài chính: Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái
Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái tại Việt Nam hiện nay vẫn đang ổn định, chưa xảy
ra bất cứ một trường hợp nào chủ động phá giá đồng bạc Việt Nam. Chính phủ chỉ cho
phép Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá chính thức gần sát với tỷ giá trên thị trường tự
do.
Điển hình gần đây nhất là vào cuối năm 2010, khi cơn sốt tỷ giá USD bùng phát cấp
tính, Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng kềm giữ tỷ giá chính thức đồng Việt Nam ở mức
18.932 VND/1 USD trong khi trên thị trường tự do tỷ giá thực tế của đồng USD đã ở mức
21.500 VND, một sự chênh lệch lên đến 13,5%. Lúc đó tình trạng khiếm hụt cán cân
thương mại rất nghiêm trọng, khối dự trữ ngoại tệ quốc gia giảm sút và nguồn cung ngoại
tệ vào hệ thống ngân hàng trở nên hiếm hoi, tạo nên tình trạng "chợ đen" trong quan hệ
mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng và các doanh nghiệp nhập khẩu và xuất khẩu. Ngày 11-2-
2011, Ngân hàng Nhà nước đã buộc phải giảm tỷ giá chính thức xuống mức 20.693 VND/1
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 30
USD, nguồn cung USD trở nên dồi dào hơn, giao dịch ngoại tệ giữa các ngân hàng và
doanh nghiệp nhộn nhịp trở lại.
Chính sách neo tỷ giá trong thời gian qua đã thành công phần nào khi mang đến một
liều thuốc an thần về giá trị ổn định của đồng bạc Việt Nam đồng thời giải thích vì sao sau
hai năm nền kinh tế gánh chịu mức lạm phát bình quân trên 10%, tỷ giá đồng Việt Nam so
với USD vẫn không thay đổi, tất nhiên nhờ một điều kiện thực tế là đồng USD giảm giá
liên tục trên thị trường tiền tệ quốc tế.
c. Nhận định về rủi ro chính trị
Pháp luật
Sự thay đổi luật pháp luôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho
các pháp nhân kinh tế, do vậy sự thay đổi này ảnh hưởng mạnh đến hoạt động của ngân
hàng. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng có thời hạn và được ký kết trước hoặc sau khi có văn
bản pháp luật ban hành và có hiệu lực, do vậy nếu nội dung một hợp đồng tín dụng ký kết
trước khi văn bản pháp luật ban hành mà trái với nội dung của văn bản pháp luật đó thì rất
dễ dàng nhận lấy rủi ro. Đối với doanh nghiệp nếu bị một văn bản pháp luật chi phối các
hành vi hợp đồng mà họ đã ký kết thì nhất định việc kinh doanh của họ sẽ gặp nhiều khó
khăn và những khó khăn này sẽ dẫn đến việc họ sẽ không trả được nợ cho ngân hàng
i. Pháp lý
Môi trường pháp lý còn gây rủi ro cho ngân hàng khi môi trường pháp lý đó chưa hoàn
thiện hoặc cách thức thi hành còn chưa đảm bảo tính thời gian, tính nghiêm minh, phát sinh
nhiều chi phí do thủ tục tố tụng kéo dài. Ví dụ: Như việc phát mãi tài sản thế chấp hiện
nay, để có thể phát mãi một tài sản thế chấp đòi hỏi khá nhiều thủ tục, thời gian, chi phí mà
ngân hàng phải nhận chịu rủi ro rất nhiều. Hoặc luật không giải thích một cách đầy đủ gây
khó khăn trong việc thực hiện tạo rủi ro cho ngân hàng. Ví dụ: Một hợp đồng có tài sản thế
chấp, khi khách hàng không trả được nợ phải chăng ngân hàng chỉ có quyền nhận lấy tài
sản thế chấp để trừ nợ (gán nợ) hoặc phát mãi tài sản thế chấp để thu nợ, thiếu hay đủ ngân
hàng cũng phải chịu? Theo chúng tôi, một chủ nợ có quyền đòi hỏi con nợ phải trả hết nợ
khi con nợ đó còn tài sản trách nhiệm (tài sản kinh doanh) chỉ khi nào con nợ đó hết tài sản
trách nhiệm thì chủ nợ mới chấm dứt quyền đòi nợ, vì vậy nếu tài sản thế chấp khi phát
mãi không còn đủ giá trị để trả nợ thì con nợ phải dùng tài sản khác để trả nợ nếu con nợ
còn tài sản trách nhiệm.
Ngoài Pháp lệnh ngân hàng và các văn bản liên quan, việc thực hiện và giải quyết các
hợp đồng tín dụng khi đáo hạn còn chịu sự chi phối của Bộ Luật dân sự, Pháp lệnh thủ tục
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 31
giải quyết các vụ án kinh tế (26.03.94), Pháp lệnh thi hành án (17.04.93), Luật Phá sản
Doanh nghiệp...v...v... Do đó khi nợ đáo hạn, nếu con nợ mất khả năng chi trả hoặc cố tình
trốn tránh thanh toán nợ thì ngân hàng chỉ có con đường hợp pháp duy nhất là khởi kiện
trước tòa án có thẩm quyền. Vấn đề tố tụng trước tòa án hiện nay quá nhiêu khê và thường
kéo dài qua nhiều giai đoạn làm mất nhiều thời gian, dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho
con nợ có ý đồ, đồng thời gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Thời gian tố tụng kể từ khi khởi
kiện cho đến khi có quyết định của tòa án có hiệu lực thi hành rồi đến khi phát mãi được tài
sản thu hồi được nợ thường kéo dài gần một năm, chưa kể trường hợp tòa có quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án theo điều 38 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Tình
trạng này thường làm cho ngân hàng phải chịu đọng vốn trong lúc ngân hàng phải chịu lãi
suất cho người gửi. Đây là một thiệt hại lớn cho ngân hàng chưa kể các chi phí phát sinh
trong thủ tục tố tụng.
CHƯƠNG IV
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO
QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM
1. Nhóm đề xuất cho rủi ro tài chính
Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái:
Chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
như chính sách tiền tệ, lãi suất,ngoại thương,…đồng thời phải có sự hội nhập thị trường
quốc tế.
Vấn đề chính sách tỷ giá trong năm 2013 nên thả nổi có kiểm soát, tỷ giá của Việt
Nam trong giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế là làm sao để xử lý được dòng ngoại hối đổ vào
Việt Nam đầu tư mà không gây ra các hiệu ứng phụ, đặc biệt là lạm phát. Khi dòng vốn
nước ngoài vào dồn dập trong một thời gian ngắn, NHNN có thể sẽ phải bơm mạnh tiền
đồng ra để mua lại ngoại tệ nhằm ngăn VND tăng giá quá nhanh. Đây là điều mà NHNN
đã làm trong thời gian qua giúp cho dự trữ ngoại hối tăng thêm 18 tỉ USD trong năm 2012.
Và để ngăn ngừa lạm phát, NHNN đã phải phát hành tín phiếu để trung hoà dòng tiền này.
Trong năm 2013, NHNN có thể phải dùng đến công cụ tăng dự trữ bắt buộc nếu như tiền
đồng bị bơm ra nhiều quá.
Việc NHNN tiếp tục đỡ VND ở mức cố định như hiện tại tạo ra tín hiệu sai cho thị
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 32
trường. Thị trường có thể nghĩ rằng NHNN đang kìm giữ tỷ giá cố định thay vì đang đỡ,
ngăn không cho đồng nội tệ mạnh lên. Ngoài ra, việc tiếp tục mua vào ngoại tệ trong một
thời gian ngắn sẽ tạo ra gánh nặng cho chính sách điều hành lãi suất (điều chỉnh cung tiền)
để đảm bảo ổn định vĩ mô.
Vì vậy, dựa trên biến động dòng ngoại hối theo mùa vụ từ năm 2006 tới nay, NHNN
hãy để cho VND mạnh lên trong ít nhất là nửa đầu năm 2013 và có thể sau đó để VND yếu
hơn đi vào giai đoạn cuối năm. Việc để tỷ giá biến động như vậy thể hiện cam kết của
NHNN chuyển việc điều hành chính sách tỷ giá theo hướng thả nổi có kiểm soát (biên độ
+/-3%), tránh việc hiểu nhầm rằng NHNN theo đuổi chính sách tỷ giá cố định.
Về quản lý ngoại hối:
Cần có chiến lược tăng dự trữ ngoại phù hợp với mục tiêu phát triển quốc gia. Ngoại
tệ chuyển vào nước ta chủ yếu là kiều hối, ngoại tệ do cá nhân mang từ nước ngoài về,
nguồn ngoại tệ do khách du lịch nước ngoài chi trả tại Việt Nam, tiền lương của người Việt
Nam làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài, ngoại tệ từ dòng vốn đầu tư của nước
ngoài vào Việt Nam,… Trong đó, kiều hối là nguồn thu ngoại tệ lớn. Để khai thác tối đa
nguồn ngoại tệ này, chúng ta cần tạo niềm tin cho kiều bào về sự ổn định kinh tế – chính trị
– xã hội trong nước để họ yên tâm chuyển tiền về nước. Cơ quan hải quan cần kiểm soát
chặt chẽ hơn nguồn kiều hối lậu chảy về; Ngân hàng nhà nước khuyến khích các Ngân
hàng thương mại mua để tăng nguồn kiều hối thu hút vào ngân hàng và bán cho Ngân hàng
nhà nước.
Xây dựng hệ thống nhóm chỉ tiêu dự trữ ngoại hối làm cơ sở cho các nhà quản lý đầu
tư dự trữ ngoại hối tuân theo cũng như để đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý dự trữ ngoại
hối của từng nhà đầu tư. Điều đó góp phần tăng cường ý thức, trách nhiệm đối với các nhà
quản lý dự trữ ngoại hối. Các nhóm chỉ tiêu bao gồm: Nhóm chỉ tiêu đáp ứng nhu cầu
thanh khoản; Nhóm chỉ tiêu hạn mức sinh lời và rủi ro của hoạt động đầu tư.
Quản lý nợ vay nước ngoài
Quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài gồm vay nợ chính phủ và vay nợ tư nhân về nhu
cầu trả nợ, cơ cấu đồng tiền. Hoàn thiện hệ thống thông tin vay nợ nước ngoài, trước hết là
tăng cường công tác thống kê nợ nước ngoài. Việc thống kê nợ nước ngoài bao gồm cả nợ
dưới hình thức phát hành trái phiếu và do người không cư trú nắm giữ, đặc biệt là luồng
vốn đầu tư vào giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 33
Thành lập Hội đồng tư vấn Nợ. Giải pháp này đã được đề ra nhưng cần phải hoạt
động độc lập với thẩm định dự án, những người làm trong Hội đồng này cần phải thực sự
vô tư, không có khả năng dùng quyền lực của mình để “đặt giá” với các đơn vị xây dựng
đề xin vay vốn…nhằm loại trừ tiêu cực trong đánh giá và xét duyệt các dự án vay nợ nước
ngoài.
Đánh giá lựa chọn các phương thức vay nợ nước ngoài sao cho vừa thỏa mãn được
nhu cầu vay nợ vừa có mức lãi suất không quá cao.
Cần quy định cụ thể trong văn bản quy chế vay và trả nợ nước ngoài để cho phía
nước ngoài cũng như phía chính quyền và doanh nghiệp địa phương biết rằng “Chính phủ
không chịu trách nhiệm khoản vay doanh nghiệp địa phương nếu như không được Chính
phủ chấp thuận và bảo lãnh”. Đồng thời, cần có biện pháp cấp bách để hướng dẫn triển
khai thực hiện quy chế trên một cách nghiêm túc và hiệu quả. Thận trọng xem xét khả năng
trả nợ nhằm hạn chế rủi ro khi phát hành trái phiếu quốc tế.
Hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường tài chính
Đối với thị trường tiền tệ
Đây là thị trường lớn nhất trong hệ thống thị trường tài chính nước ta hiện nay. Vai
trò của nó là cung cấp nguồn vốn cho các chủ đầu tư. Trong những năm qua, thị trường tín
dụng của nước ta không ngừng lớn mạnh nhưng vẫn còn một số điểm bất cập cần được
khắc phục sớm nhằm nâng cao sức cạnh tranh môi trường đầu tư ở Việt Nam :
• Nâng cao tiềm lực tài chính của các tổ chức tín dụng để đáp ứng yêu cầu nguồn vốn
đầu tư
• Đẩy mạnh hình thức đồng tài trợ nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguồn vốn cho
nền kinh tế
• Nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ đối với mỗi tổ chức tín dụng cũng như
trong toàn bộ hệ thống tín dụng
• Giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế
• Thực hiện quản trị rủi ro tín dụng chặt chẽ.
Đối với thị trường chứng khoán
Về các chính sách cụ thể liên quan đến thị trường vốn, có 4 vấn đề cần giải quyết
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 34
trong thời gian tới:
Thứ nhất, tiếp tục đồng bộ hệ thống luật pháp, điều tiết trên thị trường chứng khoán.
Các nhà đầu tư sẽ e ngại đầu tư vào một nước có hệ thống luật pháp yếu kém, không minh
bạch và hệ thống tài chính thiếu nhất quán. Hệ thống kiểm soát ngoại hối liên quan đến tự
do hóa tài khoản vốn cũng là mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta sẽ
đi theo quan điểm rằng các chính sách tự do hóa tài khoản vốn tại Việt Nam phải rất thận
trọng.
Thứ hai, cần tiếp tục các chính sách mở rộng thị trường tài chính cả về quy mô và
chất lượng. Chúng ta bây giờ cần phát triển hệ thống tài chính theo một lộ trình thích hợp,
phù hợp với các chính sách mở cửa thị trường. Cần xem xét các nội dung hoạt động chính
như sau: Hỗ trợ cung thị trường; Nâng cao chất lượng các sản phẩm thị trường; Xây dựng
năng lực các trung gian thị trường; Đồng bộ việc tổ chức, cơ cấu và giám sát thị trường của
cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng; Cải thiện cơ sở hạ tầng
thị trường vốn, hệ thống giao dịch và hệ thống cung cấp thông tin.
Thứ ba, áp dụng thông lệ quốc tế về quản trị công ty và tiếp tục cải cách hệ thống
hành chính và quản lý kinh tế của Nhà nước.
Thứ tư, ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động dài hạn của các nhà đầu tư
thể chế nước ngoài.
Tóm tại, đầu tư theo danh mục thông qua thị trường chứng khoán, thị trường vốn, đặc
biệt sự tham dự của các nhà đầu tư nước ngoài luôn là những xung lực mạnh cho phát triển
và tăng trưởng tại các nước đang phát triển.
Dưới góc độ cơ quan quản lý thị trường, Bộ Tài chính và Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước sẽ tiếp tục các biện pháp phát triển bền vững thị trường vốn, thị trường chứng khoán
để tạo một môi trường an toàn, minh bạch và hiệu quả cho đầu tư và bảo vệ các nhà đầu tư.
2. Nhóm đề xuất cho rủi ro kinh tế
Kiềm chế lạm phát
Xem xét và thực hiện bước đột phá thực sự là tách Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
khỏi Chính phủ Việt Nam, đặt cơ quan này dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc hội. Việc
tăng tính độc lập của ngân hàng trung ương đối với chính phủ là yêu cầu bức thiết nhằm
ngăn chặn tình trạng phát hành tiền nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách một cách quá mức.
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 35
Cân nhắc thận trọng đối với gói giải cứu bất động sản. Năm 2009, gói kích cầu 6 tỉ
USD cũng đã là một bài học đắt giá: vốn không đi đến đúng đối tượng, kinh tế phục hồi
không đáng kể trong khi hậu quả lạm phát kéo dài suốt các năm 2011-2012.
Tăng cường công tác kiểm soát giá cả thị trường, chống đầu cơ đồng thời tiếp tục đẩy
nhanh việc thị trường hoá giá các mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu.
Xem lại hiệu quả đầu tư công và chính sách tài khoá
Trong khi dồn gánh nặng kiểm soát lạm phát sang chính sách tiền tệ thắt chặt thì
chính sách tài khoá và đầu tư công hoàn toàn mờ nhạt về vai trò. Hiệu quả đầu tư công và
sử dụng vốn ngân sách hoàn toàn không được đánh giá khoa học trên phạm vi quốc gia,
trong khi ICOR cao và phân bố vốn tiếp tục dàn trải. Do vậy, cần nghiêm túc đánh giá hiệu
quả đầu tư công và sử dụng ngân sách trên phạm vi toàn quốc. Nghiêm khắc giảm thâm hụt
ngân sách, không vì các vấn đề khác mà vi phạm mục tiêu thâm hụt ngân sách đặt ra. Tổ
chức ngay tổng điều tra thực trạng hiệu quả làm việc của công chức nhà nước, đồng thời có
biện pháp phù hợp nhằm cắt giảm chi phí lương không cần thiết.
Đối với chính sách tài khoá, cần giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và giá trị gia tăng
để cứu hệ thống doanh nghiệp đi đôi với cắt giảm chi ngân sách vào các mục tiêu không ưu
tiên. Tạm thời dừng các dự án không có hiệu quả kinh tế hay đòi hỏi quá nhiều vốn. Tăng
các chế tài xử lí đối với các hành vi lạm dụng chi ngân sách.
Hoàn thiện công cụ điều hành lãi suất
Nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý và nội dung kinh tế của lãi suất cơ bản trở
thành lãi suất chuẩn.
Ngoài ra, cần giảm bớt việc sử dụng các biện pháp hành chính phi thị trường để điều
hành lãi suất. Tuy nhiên, đối với các tổ chức tín dụng yếu kém về thanh khoản, chiếm tỷ
trọng thị phần hoạt động ngân hàng rất nhỏ và đang được tái cơ cấu thì Ngân hàng Nhà
nước cần áp dụng các biện pháp mạnh kể cả áp dụng trần lãi suất huy động và cho vay
ngăn các tổ chức này nâng lãi suất cao trái với định hướng của Ngân hàng Nhà nước
(Nhóm nghiên cứu Học viện Chính sách Phát triển, 2012).
Đánh giá hiệu quả xuất-nhập khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại
Khẩn trương có đánh giá toàn diện giá trị gia tăng mà các mặt hàng xuất khẩu hiện
nay đang thực sự mang lại vì gia tăng xuất khẩu nhưng lại đi kèm với gia tăng mạnh nhập
PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG
NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 36
khẩu nguyên vật liệu không phải là hướng đi đúng và bền vững. Đề ra các hàng rào kĩ thuật
ngăn cản việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, tăng cường kiểm
soát và xử lí nạn buôn lậu.
3. Nhóm đề xuất cho rủi ro chính trị
Giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Kiên quyết chống tham nhũng.
Đẩy mạnh các hoạt động cải cách về thủ tục hành chính tốt hơn trong thời gian tới.
Để làm được điều đó cần tập trung làm tốt các công việc sau đây:
Đẩy mạnh đổi mới tư duy trong công tác quản lý nhà nước.
Công bố công khai các thủ tục (các biểu mẫu, các loại giấy tờ) và quy trình giải
quyết công việc, thời gian giải quyết, phí và lệ phí theo quy định để nhân dân biết và thực
hiện thuận lợi.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhằm
bảo đảm thông tin về những thủ tục hành chính đến tổ chức, doanh nghiệp và người dân
một cách nhanh nhất, rõ ràng, công khai, đồng thời tạo cơ sở tiến tới mở rộng việc thực
hiện cung cấp các thủ tục hành chính qua mạng điện tử.
Nâng cao năng lực, trình độ giải quyết công việc của cán bộ công chức.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ngan_hang_quoc_te_nhom_5_2_lop_nhdem1_5566.pdf