Đề tài Phân tích rủi ro tín dụng cho vay cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Cần Thơ

Trong quá trình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang đối đầu với những khó khăn và thử thách mới và hệ thống ngân hàng đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, tạo ra một động lực phát triển mạnh mẽ nhất trong nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng có vị trí quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn trong mọi nền kinh tế, hay nói khác hơn ngân hàng là cầu nối giữa nơi thừa với nơi thiếu vốn. Chính vì vậy, sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng ở mọi quốc gia luôn là cơ sở của sự ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đồng thời là tiền đề, điều kiện khai thác nguồn lực phát triển kinh tế. Bên cạnh đó nhà nước ta cũng quan tâm việc thực hiện chủ trương cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, huy động lại tiềm lực trong dân, đẩy mạnh tín dụng đầu tư, góp phần thực hiện kích cầu vì sự năng động kinh tế theo chiến lược: Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo xung lực mới cho nền kinh tế. Ngày nay, trong mọi hoạt động sản xuất hay kinh doanh, rủi ro được xem là một hiện tượng tất yếu. May mắn là cái mà mọi người đều mong muốn đạt được, đi kèm theo may mắn luôn là sự phồn vinh, phát triển mạnh mẽ của nước nhà. Ngược lại, rủi ro là cái mà mọi người không mong muốn vấp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh. Một khi rủi ro xảy ra, ở nhiều cấp độ khác nhau, rủi ro có thể gây ra mọi sự đảo lộn và nếu ở cấp độ nặng hơn thì nó sẽ mang đến thảm họa cho nền kinh tế nếu ta không kịp thời phát hiện và tìm cách khắc phục nó. Khi rủi ro xảy ra thì những ảnh hưởng của nó thường dẫn đến những hậu quả khó lường. Nó luôn là đầu mối của mọi tổn thất về kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là hoạt động rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế - xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động ngân hàng, gây nên những xáo động bất ngờ và làm cho hiệu quả của ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng phải đối đầu với hàng loạt các rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản Trong các loại rủi ro trên thì rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất và gắn liền với hoạt động của ngân hàng vì phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là đầu tư tín dụng cho vay. Cho nên khi rủi ro xảy ra nếu ở mức độ thấp sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh và uy tín của ngân hàng; còn xảy ra ở mức độ cao sẽ dẫn đến nguy cơ ngân hàng có thể bị phá sản. Đối với Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Cần Thơ, với mục tiêu trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu thì thị trường cá nhân là một thị trường mục tiêu hấp dẫn. Vì mục tiêu đó, hiện nay tại ngân hàng Sacombank sản phẩm dịch vụ phục vụ cho đối tượng khách hàng cá nhân rất đa dạng, điển hình như sản phẩm tiền vay, sản phẩm tiền gửi, thẻ, chuyển tiền Trong đó sản phẩm tiền vay là sản phẩm mang lại nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế rủi ro về tín dụng luôn là đề tài được mọi người quan tâm hơn cả. Với những lý do trên em đã chọn đề tài "Phân tích rủi ro tín dụng cho vay cá nhân tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Cần Thơ”

doc86 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2414 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích rủi ro tín dụng cho vay cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhân dân. Trong địa bàn thành phố Cần Thơ có khá nhiều xí nghiệp sản xuất thuỷ hải sản, trong đó xí nghiệp CATACO, Công ty chế biến thủy sản Nam Hải, Mêkông, Caseamex, Bình An, Biển Đông, Miền Nam,…chuyên chế biến xuất khẩu với quy mô lớn, xí nghiệp sản xuất dày da Tây Đô...Vì thế khi các doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ do không ký được hợp đồng xuất khẩu, các xí nghiệp sản xuất các mặt hàng liên quan cũng gặp nhiều khó khăn như chế biến thức ăn cho cá, gia súc,... Ngân hàng khó thu hồi vốn đúng hạn được mà phải gia hạn lại nợ cho khách hàng lớn thường xuyên giao dịch này. Mặt khác, các cá nhân sản xuất quy mô nhỏ do không đủ năng lực tài chính và sức cạnh tranh trong thời kỳ này đã tuyên bố ngừng hoạt động. Chính vì những lý do hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn mà nợ xấu cao trong năm 2005 kéo sang dến năm 2006. Tình hình nợ xấu năm 2007 được cải thiện đáng kể do việc xuất khẩu đạt được kết quả cao, khách hàng tiêu dùng ở nước ngoài ủng hộ và tin tưởng vào chất lượng của hàng Việt Nam, một số công ty được giảm thuế bán phá giá, nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Chính vì thế nợ quá hạn của chi nhánh đối với nhóm khách hàng sản xuất kinh doanh được hạn chế lại. 4.2.4.2 Nợ xấu trung và dài hạn Bảng 16: NỢ XẤU TRUNG DÀI HẠN CÁ NHÂN Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh 2006/2005 So sánh 2007/2006 Giá trị Giá trị Giá trị Giá trị % Giá trị % 1. Cho vay sản xuất kinh doanh 475,29 333,55 131,10 -141,74 -29,82 -202,45 -60,69 Cho vay cá thể SXKD thông thường 285,17 166,77 91,77 -118,40 -41,52 -75,00 -44,97 Cho vay đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 Cho vay góp chợ 190,12 166,77 39,33 -23,34 -12,28 -127,44 -76,42 Cho vay mở rộng tỷ lệ đảm bảo 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 2. Cho vay phục vụ đời sống 633,72 555,92 491,64 -77,81 -12,28 -64,28 -11,56 Cho vay tiêu dùng 253,49 222,37 294,98 -31,12 -12,28 72,62 32,66 Cho vay CBNV 253,49 194,57 98,33 -58,92 -23,24 -96,24 -49,46 Cho vay mua xe ôtô 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 Cho vay bất động sản 126,74 138,98 98,33 12,23 9,65 -40,65 -29,25 3. Cho vay cầm cố giấy tờ có giá 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 4. Cho vay nông nghiệp 475,29 222,37 65,55 -252,92 -53,21 -156,81 -70,52 Tổng 1.584,30 1.111,83 655,52 -472,47 -29,82 -456,31 -41,04 ( Nguồn: phòng Kế toán và Quỹ) Nợ xấu trung và dài hạn là kết quả của quá trình thu nợ của cán bộ tín dụng tại ngân hàng. Tình hình nợ xấu sẽ đánh giá được chất lượng tín dụng. Nếu xấu trung và dài hạn cao chứng tỏ công tác thu nợ của ngân hàng không tốt hoặc là do các yếu tố chủ quan lẫn khách như quá trình thẩm định dự án của cán bộ tín dụng, thiên nhiên,hoặc là do cá nhân làm ăn không đạt hiệu quả dẫn đến việc trả nợ chậm trễ,… Xét một cách tổng quát về nợ xấu trung và dài hạn cá nhân ta thấy có khuynh hướng giảm dần qua ba năm. Điều đó chứng tỏ ngân hàng hoạt động ngày càng có hiệu quả. Sự giảm nợ xấu trung và dài hạn trong những năm qua do những nguyên nhân nào và giảm ở những lĩnh vực nào, ta sẽ dễ hình dung hơn qua việc tìm hiểu về biểu đồ sau: Tuy trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn có mảng sản phẩm cho vay cầm cố giấy tờ có giá, nhưng trong nợ xấu thì mảng sản phẩm này hoạt có hiệu quả nợ xấu bằng không. Nên ở đây ta chú ý đến ba mảng sản phẩm còn lại. Qua bảng số liệu ta nhận thấy nợ quá hạn trung và dài hạn theo lĩnh vực đầu tư giảm dần qua các năm. Nhưng mảng nợ xấu cho vay phục vụ đời sống có giảm nhưng tốc độ khá chậm. Mảng nợ xấu giảm với tốc độ nhanh là nợ xấu cho vay nông nghiệp, nợ xấu sản xuất kinh doanh cũng giảm với tốc độ khá nhanh. Đa số các ngành SXKD đều đạt hiệu quả nên đã trả nợ cho ngân hàng đúng thời hạn, còn lĩnh vực nông nghiệp mà chủ yếu là nuôi cá tra với qui mô vừa và lớn có bước phát triển mạnh làm ăn có hiệu quả hơn những năm trước nên việc trả nợ cũng trở nên dễ dàng hơn. Còn trong lĩnh vực phục vụ đời sống, tiêu dùng ngày càng tăng nhiều người cần mua sắm, xây nhà, sửa chữa, lo cho việc học tập,..trong khi đó thì kinh tế vào năm 2005, 2006 gặp khó khăn, lương tuy có tăng nhưng vẫn còn thấp dẫn đến việc nợ xấu tuy có giảm nhưng sức giảm không cao. Năm 2006 nợ xấu trung và dài hạn trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ giảm tương đối khá nhiều, cụ thể như sau: năm 2005 nợ xấu trung và dài hạn của SXKD 475,29 triệu đồng chiếm tỷ trọng 30% trong tổng nợ xấu trung và dài hạn, giảm còn 333,55 triệu vào năm 2006, đến năm 2007 giảm còn 131,10 triệu đồng chiếm 20% trong tổng nợ xấu trung và dài hạn. Qua biểu đồ ta thấy nợ xấu nông nghiệp là có kết quả tốt nhất giảm rất mạnh qua các năm tư chiếm 30% trong cơ cấu nợ xấu qua hai năm giảm xuống còn 20%, 10%. Nguyên nhân bắt đầu từ sự cố gắng ở cả hai phía khách hàng và ngân hàng dưới tác động của nền kinh tế thế giới cũng như trong nước. 4.2.6 Tỷ lệ nợ xấu Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu trong tín dụng ngắn hạn của Sacombank có những chuyển biến tích cực trong thời gian gần đây. Chi nhánh hạn chế tỷ lệ nợ xấu đến mức có thể, hạn chế được rủi ro trong hoạt động của chi nhánh. Đồng thời chấp hành đúng quy định về tỷ lệ nợ qúa hạn (nợ xấu) do Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam quy định tại quyết 493/2005. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2005 là 0,47%, năm 2006 giảm xuống còn 0,34%, năm 2007 là 0,15%. Chi nhánh Cần Thơ đã dần kiểm soát được tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực cho vay 1% như định hướng chung đã đề ra trong toàn hệ thống Sacombank. Bảng 17: TỶ LỆ NỢ XẤU CÁ NHÂN Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Ngắn hạn 0,14 0,15 0,05 2. Trung và dài hạn 0,33 0,19 0,1 Tổng 0,47 0,34 0,15 (Nguồn: phòng Kế toán và Quỹ) Bảng 18: TỶ LỆ NỢ XẤU TRÊN TỔNG DƯ NỢ CÁ NHÂN Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Ngắn hạn 1. Cho vay sản xuất kinh doanh 0,04 0,05 0,01 2. Cho vay phục vụ đời sống 0,06 0,08 0,04 3. Cho vay nông nghiệp 0,04 0,03 0,01 Tổng 0,14 0,15 0,05 Trung và dài hạn 1. Cho vay sản xuất kinh doanh 0,10 0,06 0,02 2. Cho vay phục vụ đời sống 0,13 0,09 0,07 3. Cho vay nông nghiệp 0,10 0,04 0,01 Tổng 0,33 0,19 0,1 (Nguồn: phòng Kế toán và Quỹ) Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn năm 2006 tăng nhẹ tăng 0,01% so với năm 2005 nhưng đến năm 2007 giảm xuống con số lý tưởng 0,01%. Về phía trung và dài hạn tình hình cũng rất khả quan, từ 0,1% qua hai năm giảm xuống đến mức 0,02%. Chi nhánh Sacombank Cần Thơ rất thành công trong việc hạn chế nợ xấu phát sinh trong lĩnh vực này. Do tỷ lệ nợ xấu trong hoạt động tín dụng nói chung trong năm 2005 khá cao. Do đó, chi nhánh đã tăng cường kiểm soát chặt chẽ từng món vay trong năm 2006 nhằm giảm bớt tỷ lệ nợ xấu xuống. Cán bộ tín dụng được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, cẩn thận trong khâu thẩm định, xét duyệt hồ sơ. Vì thế, tỷ lệ nợ quá hạn trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh giảm đáng kể vào năm 2006 và năm 2007. Ngoài ra, lĩnh vực cho vay phục vụ đời sống cũng được chi nhánh đặc biệt quan tâm. Nợ xấu đối với lĩnh vực này được ngân hàng kiểm soát chặt chẽ dựa vào thu nhập hàng tháng của khách hàng. Do đó, tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn tuy có sự tăng nhưng đến năm 2007 có sự chuyển biến từ 0,08% xuống còn 0,04% nợ xấu được cải thiện đáng kể. Năm 2005 nợ xấu trung và dài hạn này 0,13%, năm 2006 tỷ lệ này giảm xuống còn 0,09%, năm 2006 là 0,07%. Nợ xấu nông nghiệp giảm mạnh qua các năm và đạt đến mức gần như tuyệt đối, nợ xấu ngắn hạn từ 0,04% giảm xuống còn 0,01%, nợ xấu trung dài hạn từ 0,1% giảm còn 0,01%. Do các năm vừa qua các cá nhân sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp được mùa có giá, công tác thu hồi nợ của ngân hàng có hiệu quả, ý thức trả nợ của khách hàng ngày càng cao dẫn đến tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh. Đây là điều mà mỗi ngân hàng điều mong muốn. 4.3 PHÂN TÍCH CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG SACOMBANK CHI NHÁNH CẦN THƠ Trong bất cứ hoạt động nào cũng vậy, hiệu quả đạt được và rủi ro luôn luôn song hành với nhau, một vấn đề đặt ra là làm sao để đạt được mức lợi nhuận mong muốn trong khi rủi ro gây ra được hạn chế ở mức thấp nhất. Đây là một điều không dễ dàng thực hiện được đặc biệt là rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Qua quá trình phân tích thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Sacombank trong thời gian qua, ta rút ra được những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh như sau: 4.3.1 Nguyên nhân từ phía ngân hàng - Rủi ro xuất hiện từ phía ngân hàng là vấn đề nghiêm trọng, có khi là phá sản cả ngân hàng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do những hành vi làm sai, tiếp tay hoặc cố ý lừa đảo của cán bộ tín dụng, điều đó được thể hiện: + Tham nhũng, nhận hối lộ thông qua nhận quà, nhận tiền thưởng hay một sự ưu đãi nào đó để đổi lấy việc thực hiện hay không thực hiện một việc nào đó trong phạm vi của mình. + Sử dụng thông tin nội bộ nhằm mưu lợi cá nhân như trong việc mua bán, kinh doanh chứng khoán hay mua bán ngoại tệ hoặc cung cấp thông tin cho đối thủ cạnh tranh… + Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, sử dụng hồ sơ người khác, thu nợ nhưng không nộp liền cho ngân hàng mà đem sử dụng vào mục đích riêng. Thông đồng với khách hàng lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng… - Những rủi ro phát sinh từ quy trình xét duyệt cho vay: nguồn thông tin bên ngoài là cơ sở để ngân hàng phân tích đánh giá chính xác tình hình hoạt động của khách hàng. Nhưng trong thực tế, việc thu thập thông tin của ngân hàng chủ yếu dựa trên thông tin do khách hàng cung cấp. Còn thông tin tập trung từ phòng chống rủi ro chỉ giới hạn ở việc trả lời số dư tài khoản tại ngân hàng, chưa nắm bắt được tình hình kinh doanh hiện thời của khách hàng. Do đó những thông tin mà ngân hàng nhận được là chưa đầy đủ và tính chính xác chưa cao. + Phân tích tín dụng chưa chặt chẽ: Năng lực tổ chức của khách hàng chỉ mới được xem xét ở mặt quy mô, chưa xem xét về mặt chất lượng, số liệu của các báo cáo tài chính có độ tin cậy chưa cao. + Năng lực hoạt động: chưa xem xét khả năng quản lý và năng lực chuyên môn của người điều hành, thị trường cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm, uy tín chất lượng sản phẩm dẫn đến tình trạng hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được trên thị trường, kém phẩm chất, tồn kho, ứ động. + Uy tín người vay: Các thông tin liên quan đến phẩm chất người vay còn hạn chế dẫn đến đánh giá sai lệch về người vay + Tài sản đảm bảo: chưa thẩm định chính xác tính pháp lý giá trị của tài sản trên thị trường và chưa dự đoán tình hình giá cả trong tương lai dẫn đến việc khó phát mãi tài sản, thu hồi không đủ vốn. - Việc quản lý dư nợ của một số Cán Bộ tín dụng còn hạn chế và có tư tưởng chủ quan, nếu không thu được nợ thì cho gia hạn, hay điều chỉnh kỳ hạn nợ một cách tinh tế bị động mà chỉ quyết tâm thu nợ khi hết quyền gia hạn, đến lúc này do công việc quá nhiều, vừa phải thực hiện chỉ tiêu khác dẫn dến các món nợ xử lý không kịp phải chuyển nợ quá hạn. - Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, đôn đốc việc trả lãi và nợ gốc đúng hạn. Một khi thực hiện xong các công việc đó, thu đủ gốc và lãi cho Ngân hàng thì cơ bản coi như đã hoàn thành một khoản cho vay. Do đó, cường độ làm việc của cán bộ tín dụng rất lớn, phải thường xuyên bám sát khách hàng trong việc sử dụng vốn và quản lý tài sản thế chấp, thông thạo các vấn đề pháp lý và giá cả thị trường của tài sản, hàng hoá đảm bảo nợ vay,…do số lượng người vay ngày càng đông nên khối lượng công việc các cán bộ tín dụng phải thực hiện càng nhiều, song do số lượng công việc chỉ có thể thực hiện được trong khoảng thời gian làm việc trong ngày và ngày làm việc trong tuần nên dễ dẫn đến tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, do khối lượng công việc quá nhiều trong khi số lượng cán bộ tín dụng có hạn. Đôi khi, họ buộc phải làm thêm ngoài giờ, làm cả buổi tối và ngày chủ nhật. Vì vậy, đôi khi một số cán bộ tín dụng không thực hiện đúng với quy trình đề ra, sơ xuất trong hồ sơ cho vay, dễ dẫn đến phát sinh nợ quá hạn, chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút. - Một số món vay cho sai mục đích do nguyên nhân chủ quan từ cán bộ tín dụng trước đây dẫn đến nợ xấu gia tăng, việc kiểm tra sử dụng vốn vay còn mang tính chất đối phó không phản ánh thực trạng món vay đó. - Trình độ công nghệ còn thấp (máy tính còn ít, không có chương trình xử lý rủi ro, không có cán bộ chuyên về tin học) 4.3.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng Khi cá nhân vay vốn gặp phải các nguy cơ sau thường không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ cả vốn lẫn lãi - Thu nhập hàng tháng không ổn định, thường xuyên thay đổi công việc nên khi gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng. - Bị tai nạn lao động: trong quá trình làm việc có thể họ bị tai nạn làm giảm hoặc mất đi khả năng lao động, từ đó thu nhập cũng giảm hoặc không còn thu nhập để trả nợ. - Thiếu trung thực trong vay vốn, như sử dụng vốn sai mục đích xin vay cố ý lừa đảo, chiếm dụng vốn không trả nợ cho Ngân hàng. - Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Việc sử dụng vốn đúng mục đích đã được qui định trong nguyên tắc tín dụng. Khi đi vay, khách hàng phải trình bày mục đích sử dụng vốn vay của mình với Ngân hàng, mục đích vay vốn phải dược Ngân hàng chấp thuận và được ghi trên hợp đồng tín dụng. Hiệu quả tín dụng của Ngân hàng chính là việc khách hàng sử dụng vốn vay mang lại hiệu quả. Nguyên nhân xảy ra rủi ro là do khách hàng không sử dụng vốn vay được từ Ngân hàng để sản xuất, kinh doanh mà dùng vốn để tiêu sài, cờ bạc hoặc đem vốn đầu tư vào ngành chứa nhiều rủi ro. Nguyên nhân này là nguyên nhân thường xuyên xảy ra nhất khi phát sinh rủi ro tín dụng. Tóm lại, sau khi cho vay Ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra vốn vay có được sử dụng đúng mục đích không. Tuy nhiên, nguyên nhân này cũng phải kể đến lỗi từ phía Ngân hàng Ba Xuyên. Có nhiều trường hợp khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích nhưng cũng không trả nợ cho Ngân hàng. Trường hợp rủi ro phát sinh là do khách hàng kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến thua lỗ. Việc khách hàng kinh doanh thua lỗ vì sản phẩm của họ không cạnh tranh lại với những sản phẩm khác, dần dần khách hàng bị mất thị phần. Đồng thời vì thiếu kinh nghiệm quản lí nên không thể ứng phó với những tình huống xấu xảy ra trong kinh doanh, điều này đã làm cho khách hàng bị phá sản không trả nổi nợ cho Ngân hàng - Thực hiện sản xuất kinh doanh tự phát không có kế hoạch đầu tư hoàn thiện. - Công nghệ sản xuất lạc hậu chất lượng sản phẩm thấp, không đáp ứng nhu cầu thị trường. - Khi tập huấn kỹ thuật thì người đi tập huấn không đúng đối tượng (người đi tập huấn là vợ hay con mà người quyết định sản xuất là chồng) nên không nắm được kỹ thuật hoặc có nắm được kỹ thuật nhưng lại quyết định sản xuất không đúng theo khuyến cáo của ngành chức năng 4.3.3 Những nguyên nhân khách quan * Từ tình hình kinh tế trong nước Hoạt động cho vay của Ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều thời cơ cho các doanh nghiệp bên cạnh đó cũng tồn tại những khó khăn do áp lực cạnh tranh dẫn đến nhiều doanh nghiệp thua lỗ và phá sản, từ đó có các khoản tiền vay Ngân hàng không trả được. Điều này làm cho nợ quá hạn trong Ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Trong thời gian qua nhìn chung tỷ lệ lạm phát ở nước ta tương đối cao trung bình khoảng 7,6%/năm nên khách hàng gửi tiền có tâm lý lo sợ rằng đồng tiền của mình bị mất giá khi gửi ở Ngân hàng, cho nên họ muốn rút tiền ra khỏi Ngân hàng. Trong khi đó những người đi vay thì lại muốn tăng nhu cầu vay vốn và muốn kéo dài thời hạn vay. Điều này cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguy cơ này có thể làm cho hoạt động cho vay của Ngân hàng bị phá sản. * Từ tình hình thế giới Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tế các nước đều có tác động ảnh hưởng lẫn nhau theo xu hướng của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, khi có những biến cố và tình hình kinh tế, chính trị, quân sự xảy ra ở bất kỳ một nước nào thì cũng có thể tác động mạnh đến các nước khác trên toàn thế giới, và sẽ dẫn đến biến động kinh tế trong nước và tác động xấu đến hoạt động của Ngân hàng. Qua các cuộc khủng hoảng kinh tế như ở Thái Lan (1997), nó ảnh hưởng mạnh đến cả những nền kinh tế mạnh như Nhật Bản và Hàn Quốc và làm cho hệ thống tài chính Ngân hàng ở những nước này bị suy yếu hàng loạt. Có thể nói những nguyên nhân trên là những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng - Những vụ kiện thương mại, chính sách bảo hộ của nước Mỹ như: Vụ kiện cá da trơn, tôm… - Giá vàng ngày càng tăng làm cho người dân không muốn gửi tiền vào Ngân hàng mà đổ sô vào mua vàng dự trữ làm cho nguồn vốn đầu tư bị thu hẹp, còn người dân thì không muốn trả nợ cho Ngân hàng. - Do sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng và Quỹ tín dụng, Ngân hàng buộc phải tăng chi phí dự thưởng - Vai trò quản lý nhà nước của chính quyền trong tổ chức sản xuất, bảo vệ môi trường chưa kiên quyết, còn lúng túng, khi có dấu hiệu dịch bệnh việc tiến hành khoanh vùng và xử lý mầm bệnh nhằm hạn chế sự lây lan gây thiệt hại cho người nuôi thường thực hiện chậm. Tóm lại, nợ quá hạn gây cho Ngân hàng chủ yếu chính từ phía khách hàng vay vốn, điều này không chối cãi. Nhưng nếu để phân tích nguyên nhân sâu xa của nó thì từ phía Ngân hàng cũng có phần trách nhiệm vì đã không kiểm soát chặt chẽ đồng vốn sau khi cho vay, mà thực tế thường chú trọng khâu kiểm soát trước khi cho vay, nhất là điều kiện thế chấp tài sản. Cho nên khách hàng lợi dụng sự sơ hở của Ngân hàng mà sử dụng vốn sai mục đích hay lừa đảo Ngân hàng. Chính vì vậy, gây ra nợ quá hạn cho Ngân hàng. CHƯƠNG 5 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO TÍN DỤNG CHO VAY CÁ NHÂN 5.1 MỘT SỐ TÍN HIỆU RỦI RO CHO NGÂN HÀNG: - Ngày trả nợ và Giá trị trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký không thực hiện một cách đúng đắn mà không giải trình được lý do xác đáng phù hợp với thực tế của bên vay. - Thời gian vay đầu trả nợ tương đối tốt, nhưng vào thời gian giữa và phần cuối việc trả nợ không đều đặn, không đúng ngày, không đúng Giá trị phải trả, con nợ liên tiếp vi phạm hợp đồng tín dụng và liên tiếp làm đơn khắc nợ với nhiều lý do được đưa ra chưa qua sự kiểm chứng thực tế và chấp nhận của ngân hàng. - Những thông tin không tốt đẹp về tình hình tài chính, khả năng thanh toán, thực tế sản xuất kinh doanh của đơn vị, khả năng biến hàng hoá thành tiền, tình trạng hàng tồn kho lớn, chậm tiêu thụ, công nợ chồng chất và ngày càng phát sinh lớn hơn, nợ thuế ngân sách và các khoản bắt buộc phải trả khác (tiền lương, tiền năng lượng…) ngân hàng thu nhập được thông qua công tác phồng chống rủi ro, các nguồn thông tin khả tin khác và qua kiểm tra thực tế sau khi cho vay. - Phát hiện vốn tự có của đơn vị đã khai man hoặc giảm dần một cách khó hiểu và đáng nghi ngờ, vội vã bán hàng ra với bất cứ giá nào, kể cả dưới giá vốn rất nhiều hoặc chấp thuận việc hạ giá bán một cách không bình thường không logich để thu tiền về mà không chịu trả hoặc trì hoản việc trả nợ cho ngân hàng. Tình hình sản xuất kinh doanh bị đình đốn sản phẩm giảm dần về số lượng, số công nhân, cán bộ có trình độ kỹ thuật xin nghỉ dần hoặc chuyển đi các đơn vị khác. Với những tín hiệu dẫn đến rủi ro nêu trên, ngân hàng cần tích cực chủ động tìm ra các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất mà vẫn đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để hiểu rõ thêm vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần tiếp theo sau đây. 5.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG. 5.2.1 Cần phải hiểu rõ thông tin về khách hàng trước khi cho vay Thông tin về khách hàng có thể được thu nhập thông qua các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp vay vốn thường xuyên phải cung cấp cho Ngân hàng, hoặc thông qua các báo cáo kiểm toán, thông qua trung tâm thông tin tín dụng hoặc cũng có thể thông qua quan hệ bạn hàng, qua hội nghị khách hàng,… Việc nắm bắt kịp thời, chính xác các thông tin về khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng đề ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, có thể hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, Ngân hàng cần tiến hành phân tích, đánh giá chính xác khách hàng trước khi quyết định cho vay. Đây là một trong những biện pháp quan trọng quyết định hiệu quả đầu tư và hạn chế rủi ro. Để hoạt động đầu tư của Ngân hàng có hiệu quả, cần phân tích, đánh giá khách hàng ở những nội dung sau: - Đối với khách hàng cá nhân cần phải đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng nhằm ràng buộc trách nhiệm của khách hàng trước pháp luật đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của Ngân hàng. - Đối với khách hàng là doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế. + Đánh giá khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của người lãnh đạo doanh nghiệp. Bởi lẽ vị trí của người lãnh đạo, người điều hành trong doanh nghiệp một phần quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Có thể đánh giá trên một số khía cạnh như năng lực, trình độ chuyên môn, uy tín,…và khả năng hoạch định các chính sách trong kinh doanh của nhà lãnh đạo. Từ đó, Ngân hàng xác định được mức vốn đầu tư phù hợp cho doanh nghiệp. + Đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp nhằm giúp cho Ngân hàng nắm được thực trạng trong sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp. + Đánh giá cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp để có thể xác định thực trạng và triển vọng về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường, cũng như để khẳng định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra Ngân hàng cần phân tích thật kỹ lý do đề nghị vay vốn của khách hàng, để nắm bắt được mục đích sử dụng vốn có phù hợp với mục đích xin vay và có phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp hay không, từ đó giúp Ngân hàng đưa ra quyết định đầu tư đúng mục đích, có hiệu quả. 5.2.2 Cần phải giám sát việc sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích của khách hàng - Kiểm tra quá trình sử dụng vốn của khách hàng có đúng như thỏa thuận ban đầu không. Nếu không đúng có thể ngừng phát vay hoặc thu hồi nợ ngay mà không cần phải chờ đến hạn. - Theo dõi tình hình trả nợ gốc và lãi của khách hàng để có thể nhắc nhở khách hàng trả đúng hạn, hoặc phát hiện những vấn đề khác như khách hàng không muốn trả nợ, hay có ý định bỏ trốn… Từ đó có hướng giải quyết kịp thời. - Theo dõi tình hình của tài sản bảo đảm như thế nào, có bị hao hụt giá trị không, có bị tranh chấp, bị sang nhượng không… - Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và diễn biến thị trường, khả năng cạnh tranh của khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa… - Để thực hiện việc theo dõi, giám sát ta có thể tiến hành như sau: - Trước hết là phải thu thập thông tin: những tài liệu chứng minh quá trình sử dụng vốn của khách hàng từ phía người vay và từ những đối tác làm ăn của khách hàng, và từ những khách hàng quen biết. Để làm được điều này, cán bộ tín dụng phải thiết lập những mối quan hệ tốt với khách hàng mà mình đang chịu trách nhiệm quản lý, phải có kỹ năng giao tiếp tốt và nghệ thuật lấy thông tin giỏi. Sau mỗi lần kiểm tra, cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích và thiết lập báo cáo với trưởng phòng dịch vụ khách hàng và phòng quản lý tín dụng những nhận xét về tình hình, khả năng và mức độ rủi ro của từng hồ sơ vay. Đặc biệt là những món nợ lớn, những khoản vay bị quá hạn để các bên cùng phối hợp giải quyết. Nếu trong quá trình kiểm tra, cán bộ tín dụng phát hiện những điều bất thường xảy ra như khách hàng không cung cấp báo cáo tài chính hay các tài liệu không đúng như trong hợp đồng đã cam kết; không trả vốn và lãi vay, hoặc trả không đúng như trong hợp đồng tín dụng; làm hư hỏng, thay đổi tài sản thế chấp; tình hình tài chính không ổn định… Khi đó cán bộ tín dụng có trách nhiệm lập tờ trình với Ban Giám Đốc, các Trưởng phòng phụ trách để xem xét và đề xuất biện pháp xử lý thích hợp như: ngừng giải ngân, thu hồi vốn vay, gia hạn nợ, yêu cầu khách hàng cam kết trả nợ, xử lý tài sản bảo đảm hoặc biện pháp cuối cùng là khởi kiện nếu các biện pháp khác không có hiệu lực với khách hàng. + Khi xét duyệt cho vay, cán bộ tín dụng cũng như ban lãnh đạo cần xem xét kỹ mọi khía cạnh những vấn đề trước khi ra quyết định. Phải cương quyết từ chối những khoản vay không đảm bảo những yếu tố cần thiết. + Hồ sơ vay phải đầy đủ giấy tờ cần thiết như giấy đề nghị vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh, bản sao chứng minh nhân dân, hộ khẩu, giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản bảo đảm,…và phải đúng thủ tục trình ký, công chứng nhằm đảm bảo về mặt pháp lý yếu tố thực thi. + Xác định lãi suất vay, thời hạn trả nợ, gia hạn nợ sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng tận dụng nguồn vốn của đối tượng đi vay. 5.3. Cần phải xác định đúng giá trị thực của tài sản cầm cố thế chấp Ngân hàng cần lựa chọn hình thức đảm bảo phù hợp với yêu cầu của một khoản vay đồng thời phải đánh giá chính xác giá trị vật làm đảm bảo tại thời điểm khách hàng vay vốn. + Đối với đảm bảo bằng tài sản, Ngân hàng phải xác định chính xác được quyền sở hữu, quyền sử dụng, tính lưu thông và sự tồn tại thực tế của tài sản đó đối với người vay tiền. Bên cạnh đó cũng cần lưu ý đến thời hạn sử dụng của tài sản đảm bảo phải lớn hơn thời hạn vay tiền. + Đối với đảm bảo bằng bảo lãnh: Ngân hàng cần đánh giá chính xác năng lực pháp lý, năng lực tài chính, uy tín và trách nhiệm của người bảo lãnh. 5.4. Theo dõi những biến động bên ngoài có thể ảnh hưởng đến Ngân hàng Biện pháp này nhằm mục đích xây dựng chính sách cho vay hợp lý để đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư của Ngân hàng, đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp việc xây dựng chính sách tín dụng cho Ngân hàng. Nội dung nghiên cứu thể hiện ở các mặt như: Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, diễn biến của thị trường vốn, quan hệ cung cầu vốn trên thị trường,… 5.5. Tăng cường công tác mua bảo hiểm tiền gửi Để đề phòng một số trường hợp dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng mà Ngân hàng không thể lường trước được như thiên tai, hỏa hoạn, hư hỏng công trình,…việc mua bảo hiểm tiền gửi sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được tác hại của rủi ro, bởi lẽ toàn bộ những rủi ro này sẽ được chuyển cho cơ quan bảo hiểm, và đây cũng là nguồn trả nợ chính cho Ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Vì vậy công tác mua bảo hiểm là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống rủi ro khi cho vay. 5.6. Thực hiện tốt việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng Biện pháp này nhằm để xử lý kịp thời những rủi ro tín dụng xảy ra, đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được diễn ra bình thường, liên tục. Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng phải theo đúng tỷ lệ quy định của Ngân hàng Nhà nước và đưa vào chi phí, tuy nhiên cũng phải phù hợp với kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng. 5.7. Tăng cường công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong hoạt động của Ngân hàng Công tác kiểm soát nội bộ hoạt động nhằm mục đích ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Phải kiểm tra chặt chẽ các cơ sở pháp lý khi thiết lập quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích cho chính bản thân Ngân hàng trước pháp luật. Nội dung kiểm toán nội bộ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có thể bao gồm: * Kiểm tra việc chấp hành quá trình cho vay vốn và kiểm tra việc thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay. * Kiểm tra hồ sơ cho vay để đánh giá những khoản đã cho vay còn có những vấn đề gì cần bổ sung, chỉnh sửa. * Phân tích, đánh giá chất lượng của các khoản cho vay để làm cơ sở chắc chắn cho những khoản vay tiếp theo. * Tiến hành phân loại các khoản nợ và phân loại dư nợ, tổ chức kiểm tra chéo, áp dụng các biện pháp cụ thể về xử lý các khoản nợ có vấn đề, tăng cường kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, đồng thời giám sát việc thực hiện quá trình đầu tư vốn. 5.8. Thành lập bộ phận giám sát nguồn vốn vay của Ngân hàng độc lập với cán bộ tín dụng Nhìn vào thực tại ta có thể thấy được tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng, bởi vì cán bộ tín dụng phải làm rất nhiều việc từ việc cho vay đến giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, bên cạnh đó mỗi một cán bộ tín dụng phải quản lý một địa bàn tương đối rộng nên dẫn đến việc lơ là công việc giám sát việc sử dụng nguồn vốn của khách hàng nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng. Bộ phận giám sát này có trách nhiệm thường xuyên giám sát tình hình sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích hay không để báo cáo về chi nhánh, giúp cho Ngân hàng nắm bắt được những thông tin chính xác về khách hàng của mình góp phần hạn chế rủi ro. 5.9. Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất tại Ngân hàng Việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam (theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành) đã mang lại nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của cả hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Sacombank Cần Thơ nói riêng. Trước hết, nó phù hợp cơ chế lãi suất của các nước trong khu vực và tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế mà Việt Nam đang định hướng hội nhập nền kinh tế của mình nói chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng, giảm dần sự can thiệp và điều hành bằng các biện pháp hành chính của Ngân hàng Nhà nước vào công việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng, đồng thời giúp cho Ngân hàng chủ động hơn trong việc quyết định lãi suất cho vay. Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, chi nhánh sẽ phải đối mặt với sự thay đổi thường xuyên của lãi suất thị trường. Và sự thay đổi của lãi suất sẽ dẫn đến rủi ro lãi suất. Ngoài ra trong lĩnh vực tín dụng thương mại, việc thực thi cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận sẽ gây sự cạnh tranh quyết liệt giữa các Ngân hàng. Do đó, để có thể đứng vững trên thị trường, Ngân hàng buộc phải đưa ra những mức lãi suất cho vay khá hấp dẫn để thu hút khách hàng và mở rộng thị phần. Tuy nhiên việc thực hiện cơ chế quản trị và điều hành lãi suất của mỗi Ngân hàng sẽ không hoàn toàn giống nhau do tính đặc thù của từng hệ thống Ngân hàng. Sau đây là một số giải pháp hoàn thiện cơ bản: - Cần thành lập một bộ phận chuyên theo dõi, nghiên cứu và đề xuất về lãi suất. Chức năng này cũng có thể giao cho bộ phận quản lý vốn khả dụng. Bộ phận này sẽ làm việc hằng ngày với giám đốc hoặc phó giám đốc phụ trách để luôn có quyết sách kịp thời. Đồng thời coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên Ngân hàng, cán bộ quản lý vốn khả dụng. - Việc quản trị và điều hành lãi suất của Ngân hàng phải đảm bảo tính thống nhất trong toàn hệ thống, từ hội sở chính đến các chi nhánh. Lãi suất huy động vốn và cho vay được quy định thống nhất và linh hoạt từng ngày trên cơ sở diễn biến vốn khả dụng, sự thay đổi của thị trường tiền tệ, vận dụng lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố, dự đoán nhu cầu cho vay và khả năng thu hút tiền gửi của Ngân hàng,… + Giao cho giám đốc chi nhánh một phạm vi tự chủ nhất định trong một biên độ cho phép, linh hoạt về lãi suất tiền gửi không kỳ hạn với số lượng lớn, tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Giám đốc chi nhánh có thể chủ động quyết định lãi suất cho vay cụ thể đối với các khách hàng tốt nhất trong phạm vi hạn mức tín dụng được quyền phán quyết. + Ngân hàng còn phải tính đến lãi suất đầu ra, lãi suất đầu vào, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chiến lược khách hàng để có những quyết sách cụ thể 5.10. Nâng cao chất lượng trình độ cho cán bộ tín dụng Công việc của cán bộ tín dụng khá phức tạp, bởi cán bộ tín dụng là người trực tiếp quan hệ với khách hàng, là người thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và kiểm tra khách hàng nên mối quan hệ giữa cán bộ tín dụng và khách hàng là rất mật thiết. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có những phẩm chất, đặc điểm nhất định như trung thực, liêm khiết và có trách nhiệm. Ngoài phẩm chất tốt, trình độ nghiệp vụ và ý thức tuân thủ là những yếu tố cần thiết để tránh được những sơ hở trong khâu thẩm định, kiểm tra và giám sát, từ đó có thể sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Không những cán bộ tín dụng tự trao dồi kiến thức và trao đổi học hỏi kinh nghiệm, mà Ngân hàng cần phải tạo điều kiện để các cán bộ tín dụng này có thể tiếp xúc học hỏi kinh nghiệm từ những chi nhánh khác, những cán bộ tín dụng khác. Đồng thời Ngân hàng cũng nên thường xuyên mở các lớp đào tạo để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và khả năng phán đoán cho cán bộ nhân viên. Định kỳ tổ chức kiểm tra trình độ của nhân viên để bổ sung kịp thời những kiến thức còn hạn chế, hoặc có thể tổ chức thi đua công tác tốt, khen thưởng đúng lúc, kịp thời nhằm khuyến khích cán bộ nhân viên làm việc tốt hơn. Phải có biện pháp khen thưởng hợp lý, rõ ràng. Có như vậy công việc mới được hoàn thành một cách tốt nhất. Bên cạnh đó có thể bố trí cán bộ tín dụng phụ trách chính theo từng hình thức công việc như một người phụ trách chính về cho vay nông thôn, hoặc cho vay sản xuất kinh doanh… như vậy sẽ dễ dàng hơn trong khâu thẩm định cũng như kiểm tra. Vì một người chuyên môn về một lĩnh vực sẽ nắm rõ được đặc tính của từng sản phẩm, khi đó công việc sẽ được tiến hành nhanh chóng và chính xác hơn. + Trước hết cần cũng cố kiến thức, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng để hiểu biết và sử dụng tốt công cụ dẫn xuất tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại Việt Nam đồng thời cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp trong từng thành viên của Ngân hàng, nhằm làm giảm các nguy cơ rủi ro về đạo đức trong giao dịch dẫn xuất tín dụng nói riêng và trong hoạt động tín dụng nói chung. + Chỉ thực hiện giao dịch dẫn xuất tín dụng để bảo hiểm nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng, không được lạm dụng, coi nó như một hướng đầu tư để hạn chế rủi ro. + Tiếp tục thúc đẩy các hoạt động bán nợ, bảo hiểm rủi ro tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro,… nhằm đa dạng hoá các công cụ quản lý rủi ro. + Tham gia, kiểm nghiệm và mở rộng các hoạt động quản lý rủi ro thông qua dẫn xuất tín dụng trên các thị trường tài chính trong khu vực và quốc tế làm kinh nghiệm thực hiện trên thị trường tài chính Việt Nam. Trên đây là những biện pháp có thể áp dụng để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân Hàng. Tuy nhiên khi rủi ro thật sự xảy ra, ta phải tìm hiểu rõ nguyên nhân để từ đó áp dụng những giải pháp phù hợp. CHƯƠNG 6 KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ 6.1 KẾT LUẬN Trong bối cảnh hoạt động đầy cạnh tranh và với một áp lực ngày càng cao từ những đối thủ không chỉ là những Ngân hàng trong nước mà cả với những Ngân hàng nước ngoài có tiềm lực mạnh hơn rất nhiều về tài chính một vấn đề đặt lên hàng đầu đối với Ngân hàng Sacombank chi nhánh Cần Thơ là hiệu quả kinh tế đạt được trong hoạt động kinh doanh trong khi đó làm thế nào để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả kinh tế như mong muốn đòi hỏi Ngân hàng Sacombank Cần Thơ không ngừng nỗ lực hơn nữa, khắc phục những khó khăn và hạn chế của mình để vươn lên phát triển. Bằng chính nghị lực của mình Ngân hàng Sacombank Cần Thơ đã vượt qua bao khó khăn về biến động của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn và giữ một vay trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế hiện nay của tỉnh. Trong ba năm qua Ngân hàng đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn với tổng nguồn vốn huy động ngày càng tăng, đáp ứng được nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế, đồng thời phục vụ ngày càng tốt hơn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó Ngân hàng Sacombank Cần Thơ không ngừng đa dạng hoá, làm phong phú hơn các hình thức đầu tư không những giúp cho Ngân hàng phân tán được rủi ro mà còn làm cho lợi nhuận ròng qua ba năm liên tục tăng lên. Thông qua hoạt động tín dụng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, y tế, giáo dục, cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, góp phần ổn định kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chi nhánh đã hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng do thực hiện đúng quy trình tín dụng, từng bước mở rộng thêm đối tượng khách hàng mới thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở lựa chọn, sàng lọc kỹ khách hàng, tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận trước mắt, chạy theo số lượng mà vi phạm nguyên tắc an toàn trong cho vay để dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Có được một thành quả như vậy một phần là do Ngân hàng có đội ngũ cán bộ dồi dào kinh nghiệm, được đào tạo qua các trường lớp nghiệp vụ, nhiệt tình trong công việc, có tinh thần đoàn kết, nhất trí trong tập thể cùng với sự thống nhất điều hành trong ban giám đốc. Qua quá trình phân tích đã giúp ta hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng như tầm quan trọng của việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển, Ngân hàng cần có những phương pháp quản trị rủi ro thích hợp, phải biết đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro nhằm đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro tới mức thấp nhất. 6.2. KIẾN NGHỊ Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Sacombank Cần Thơ, cùng với sự chỉ dẫn tận tình của các anh chị trong Ngân hàng, em đã hiểu biết thêm về lĩnh vực hoạt động tín dụng tại Ngân hàng từ những quy chế quy định về thủ tục vay, phương pháp thực hiện đến những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng như thế nào,… Qua phân tích và tìm hiểu quá trình hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, em nhận thấy rằng tuy hoạt động tín dụng của Ngân hàng vẫn đạt hiệu quả và tương đối an toàn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không ít khó khăn làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển. Để hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Sacombank Cần Thơ, em xin nêu ra một số kiến nghị sau: 6.2.1. Về phía bản thân Ngân hàng * Đầu tư xây dựng trụ sở khang trang để tăng vị thế cạnh tranh. * Trang bị máy rút tiền tự động (ATM), nhanh chóng áp dụng hiện đại hoá trong Ngân hàng. Cần có sự liên kết thẻ với các hệ thống Ngân hàng khác. * Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hiện có, đồng thời coi trọng phát triển sản phẩm, dịch vụ mới triển khai các hình thức gửi tiền tiết kiệm mới như đồng sở hữu sổ tiết kiệm, cho phép chuyển nhượng sổ tiết kiệm, cho phép gửi tiền thay cho chủ sở hữu sổ tiết kiệm, gửi tiền ở một nơi rút tiền ở nhiều nơi… trên cơ sở ứng dụng nhiều thành tựu mới của công nghệ và thực hiện quy trình giao dịch một cửa nhằm rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng, góp phần thu hút thêm nhiều khách hàng mới bên cạnh duy trì quan hệ tốt đẹp với những khách hàng truyền thống. Bởi lẽ, trong điều kiện của cơ chế thị trường như hiện nay, hoạt động của Ngân hàng luôn có sự cạnh tranh gay gắt để tìm kiếm khách hàng. Song sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại chủ yếu là dựa trên cung cách phục vụ của nhân viên, chất lượng sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp. Hiện nay các dự án lớn của các ngành như hàng không, bưu chính viễn thông, dầu khí,… đang và có thể sẽ bị các Ngân hàng nước ngoài thu hút bởi hệ thống các dịch vụ phong phú, đa dạng, bên cạnh đó các khách hàng là cá nhân có thu nhập cao cũng bị lôi cuốn bởi dịch vụ chuyển tiền cho con đi du học hoặc người thân đi chữa bệnh,… * Cân đối giữa khả năng huy động và sử dụng vốn trung và dài hạn, đồng thời tăng cường công tác quản lý rủi ro nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng an toàn và hiệu quả bền vững. * Tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng nhằm đảm bảo an toàn chất lượng tín dụng, đủ nhân lực để nắm bắt các cơ hội kinh doanh mới, đây được xem là nhiệm vụ cấp thiết của các Ngân hàng thương mại trong giai đoạn mới. Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức mới và kinh nghiệm cho vay đến cán bộ tín dụng, chú ý rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ để có thể tiếp cận nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài; gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài tạo cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng có uy tín trong khu vực và trên thế giới về thẩm định dự án và cho vay theo dự án,… - Thường xuyên tổ chức cuộc họp giữa cán bộ tín dụng và các trưởng phòng tín dụng để trao đổi những kinh nghiệm, những vấn đề khúc mắc, những khuyết điểm trong quá trình thực hiện của từng cán bộ tín dụng… Từ đó vừa nâng cao trình độ, kinh nghiệm cho các cán bộ tín dụng vừa hạn chế, khắc phục những sai lầm đã mắc phải đảm bảo an toàn cho những khoản nợ vay. - Ngân hàng có thể vừa thu hút thêm khách hàng, gia tăng mức độ cạnh tranh, vừa hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra bằng cách cung cấp dịch vụ chuyển tiền mặt đến tận nhà cho khách hàng với mức phí hợp lý. Vì phần lớn những người đi vay rút bằng tiền mặt, với số lượng tiền lớn mang ra ngoài sẽ rất nguy hiểm, nếu có rủi ro xảy ra thì chẳng những gây thiệt hại cho khách hàng mà Ngân hàng cũng có thể bị mất vốn. Do đó việc vận chuyển tiền cho khách hàng vừa đảm bảo an toàn qua đó Ngân hàng cũng sẽ có thêm khoản doanh thu từ phí dịch vụ này. - Bố trí việc tiếp nhận hồ sơ vay của khách hàng theo khu vực, địa bàn mà cán bộ tín dụng sinh sống hoặc nắm rõ nhất. Theo cách bố trí này, việc kiểm tra thẩm định hồ sơ vay sẽ được tiến hành dễ dàng và chính xác hơn do cán bộ tín dụng có sự hiểu biết khá rõ về đặc tính của vùng, của khách hàng và đặc điểm sản xuất ở nơi đó, như vậy rủi ro cũng được giảm phần nào. - Hạn chế cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ của những khách hàng là người thân quen để tránh sự gian lận hoặc ý kiến chủ quan trong khâu thẩm định. - Để tránh trường hợp khách hàng bị tai nạn hoặc bị bệnh bất ngờ dẫn đến việc khách hàng bị giảm hay mất khả năng trả nợ, Ngân hàng có thể đề nghị khách hàng mua bảo hiểm trước khi vay. Như vậy khi rủi ro xảy đến khách hàng sẽ không dùng Giá trị vay cho mục đích khác như điều trị bệnh và Ngân hàng vẫn có thể thu hồi đủ món nợ vay. - Đối với điều kiện trong hợp đồng cho vay cán bộ công nhân viên, ngoài điều kiện cán bộ đi vay phải có đơn vị liên kết đứng ra bảo lãnh cam kết trích lương của người vay để trả nợ, Ngân hàng cũng nên đưa ra đề nghị yêu cầu đơn vị bảo lãnh không được chuyển công tác đối với những cán bộ có vay vốn khi thời hạn hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Điều này vừa giúp cho Ngân hàng thu nợ được dễ dàng hơn, vừa ngăn chặn tình trạng khách hàng không muốn trả nợ vì đã thay đổi đơn vị khác mà đơn vị này lại không có cam kết bảo lãnh với Ngân hàng. - Tìm cộng tác viên tích cực phụ trách việc thu nợ tập trung tại đơn vị liên kết khi đến thời hạn, sau đó nộp lại cho Ngân hàng. Cộng tác viên, có thể là một cán bộ có uy tín tại đơn vị liên kết, sẽ được hưởng hoa hồng từ Ngân hàng. Với phương thức này sẽ giúp cho Ngân hàng thu nợ được kịp thời, đầy đủ đồng thời hạn chế được nợ quá hạn. - Hoàn thiện và đổi mới công nghệ Ngân hàng, thiết lập hệ thống quản lý và cung cấp thông tin trong nội bộ sử dụng chung, đồng thời xây dựng trang web riêng chi nhánh, nối kết Internet trong toàn Ngân hàng để tất cả cán bộ, nhân viên Ngân hàng có thể nắm bắt nhanh chóng thông tin kinh tế chính trị, xã hội, diễn biến tình hình thị trường trong và ngoài nước góp phần cải thiện và tiêu chuẩn hoá phương thức quản lý, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo ra được cách suy nghĩ, cách làm việc và quản lý khoa học dựa trên hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ, đồng thời giúp cho công tác giao dịch đối ngoại được thuận tiện hơn (như các tiêu thức trong bảng tổng kết tài sản, trong báo cáo phục vụ kiểm toán,…). Như vậy rủi ro tín dụng là nhân tố quan trọng đối với Ngân hàng, nhà phát hành, nhà đầu tư trái phiếu. Các công cụ truyền thống nhằm quản lý rủi ro tín dụng như nâng cao chất lượng tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, phân tán rủi ro, bán nợ và bảo hiểm tài sản mới chỉ đưa ra những giải pháp đơn lẻ nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng. Sự phát triển thị trường dẫn xuất rủi ro tín dụng đã đưa ra những công cụ mới đầy quyền năng để quản lý rủi ro tín dụng với chi phí thấp hơn và hiệu quả lớn hơn các công cụ truyền thống. Hiểu và vận dụng được điều này không chỉ giúp các Ngân hàng, các nhà đầu tư tài chính, nhà phát hành, kinh doanh chứng khoán, các quỹ tương hỗ có thể sử dụng dẫn xuất tín dụng để bảo hiểm cho những thay đổi bất lợi về chất lượng tín dụng của các khoản đầu tư, góp phần thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam phát triển, mang lại lợi ích cho bản thân các Ngân hàng tham gia thị trường này và cho toàn bộ nền kinh tế. 6.2.2. Về phía Ngân hàng Nhà nước Bổ sung thêm trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp về thời hạn được phép phát mãi tài sản thế chấp. Hiện nay, trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản chưa có điều khoản về thời gian phát mãi tài sản khi khách hàng không còn đủ khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Với điều khoản này, Ngân hàng có thể phân biệt những khách hàng nào có thiện chí trả nợ, đồng thời góp phần giảm được rủi ro, bởi vì khách hàng muốn vay vốn trước hết phải tính toán thật kỹ nguồn trả nợ từ phương án kinh doanh của mình. Cho phép trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro được phép tự do mua bán thông tin kinh tế tài chính doanh nghiệp. Đây không chỉ là nhu cầu cấp thiết của bản thân Ngân hàng mà còn của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,… Để đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng được an toàn và có hiệu quả thì Ngân hàng cũng cố và nâng cao vai trò của thông tin nhằm phòng ngừa rủi ro, tránh thiệt hại về tài sản và uy tín của Ngân hàng. Để thực hiện được mong muốn đó, trước hết Ngân hàng Nhà Nước cho phép trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro tự do mua bán thông tin tài chính kinh tế của doanh nghiệp. Vì hiện nay, việc cung cấp thông tin đầu vào cho trung tâm chưa đầy đủ kịp thời, chính xác dẫn đến hậu quả là thông tin đầu ra của trung tâm không thể phát huy hết tác dụng bởi do thiếu độ tin cậy cao. Tăng tính tự chủ của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, Ngân hàng Nhà Nước theo mô hình “Bộ chủ quản” đã còn can thiệp quá sâu vào tất cả các hoạt động của Ngân hàng thương mại từ bộ máy tổ chức đến các quan hệ về nghiệp vụ, tổ chức chính trị, đoàn thể, qua đó đã hạn chế quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các Ngân hàng thương mại. Do đó, các Ngân hàng thương mại đang không có điều kiện để có được chính sách kinh doanh độc lập, điều này càng thể hiện rõ đối với các hệ thống các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Các Ngân hàng cần được giải phóng khỏi các nhiệm vụ phải cho vay theo chính sách phát triển hoặc chính sách cơ cấu. Trong tương lai không nên có nhiều mức lãi suất khác nhau quy định cho các khu vực, địa phương hoặc ngành nào đó, mà các Ngân hàng sẽ tự quyết định lãi suất theo nguyên tắc kinh doanh Ngân hàng. Như vậy, để hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn thì Ngân hàng cần có những biện pháp phòng chống rủi ro bổ sung, đồng thời cần có sự giúp đỡ của các ban ngành khác đặc biệt là Nhà nước. Nếu Ngân hàng thực hiện tốt những điều này thì có thể khắc phục được những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đối với các cơ quan Nhà nước, các cấp, các ngành có liên quan: Cần đơn giản hóa các thủ tục, các loại giấy tờ công chứng; hạn chế công chứng ở nhiều cơ quan; cần giải quyết nhanh các hồ sơ nhằm tạo thuận lợi và đảm bảo về mặt thời gian cho những người có nhu cầu vay vốn. Đứng trước sự phát triển của nền kinh tế trong nước và trên thế giới thì vấn đề đặt lên hàng đầu đối với mọi Ngân hàng là hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả kinh tế như mong muốn đòi hỏi các Ngân hàng không ngừng nỗ lực hơn nữa, khắc phục những khó khăn và hạn chế của mình để vươn lên phát triển. Đây cũng chính là sự nỗ lực của Ngân hàng Sacombank Cần Thơ trong thời gian qua. Bằng chính nghị lực của mình, chi nhánh Ngân hàng đã vượt qua bao khó khăn về biến động của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn, chi nhánh đã trở thành một trong những Ngân hàng quan trọng hàng đầu hiện nay. Trong ba năm qua chi nhánh đã đạt được nhiều thắng lợi to lớn với tổng nguồn vốn huy động ngày càng tăng, đáp ứng được nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế, đồng thời phục vụ ngày càng tốt hơn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chi nhánh không ngừng đa dạng hoá, làm phong phú hơn các hình thức đầu tư làm cho lợi nhuận ròng qua ba năm liên tục tăng lên. Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã và đang góp phần quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển Cần Thơ nói riêng và kinh tế cả nước nói chung. Thông qua hoạt động tín dụng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, y tế, giáo dục, cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, góp phần ổn định kinh tế xã hội. Bên cạnh đó chi nhánh đã hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng do thực hiện đúng quy trình tín dụng từng bước mở rộng thêm đối tượng khách hàng mới thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở lựa chọn, sàng lọc kỹ khách hàng, tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận trước mắt, chạy theo số lượng mà vi phạm nguyên tắc an toàn trong cho vay để dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Có được một thành quả như vậy một phần là do Ngân hàng có đội ngũ cán bộ dồi dào kinh nghiệm, được đào tạo qua các trường lớp nghiệp vụ, nhiệt tình trong công việc, có tinh thần đoàn kết, nhất trí trong tập thể cùng với sự thống nhất điều hành trong ban giám đốc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bản tin Sacombank các số năm 2005, 2006, 2007. 2. Hồ Diệu (2002). “Quản trị ngân hàng”, NXB Thống kê. 3. Lê Văn Tề (1999). “Quản trị ngân hàng thương mại”, NXB Thống kê 4. Lê Văn Tư (2005). “Quản trị ngân hàng thương mại”, NXB Tài chính Hà Nội. 5. Mạnh Quân (2007). “Vì sao tăng trưởng kinh tế năm 2006 chậm lại?” 6. Nguyễn Tấn Quyên (2008). “Thành phố Cần Thơ trên con đường đổi mới và hội nhập” 7. Phú Khởi (2006). "Thị trường bất động sản đầu năm: Ảm đạm tại những khu trung tâm" 8. Thái Bá Cần – Trần Nguyên Nam - Học viện Ngân hàng, (2004). “Phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập”, Nhà xuất bản Tài chính. 9. Thái Văn Đại, Nguyễn Thanh Nguyệt (2005). “Quản trị ngân hàng thương mại”, Tủ sách Đại học Cần Thơ. 10. Thái Văn Đại (2005). “Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Tủ sách Đại học Cần Thơ. 11. Văn Tiến (2002). “Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”, NXB Thống kê.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích rủi ro tín dụng cho vay cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - chi nhánh Cần Thơ.doc
Luận văn liên quan