Đối với công tác giá, tính thuế: Chi cục phải phân công cán bộ giá chuyên
trách, không kiêm nhiệm. Cán bộ làm công tác giá, thuế phải được phân công dựa
trên kiến thức chuyên môn được đào tạo (tốt nghiệp các trường kinh tế, tài chính, kế
toán, thương mại, ngoại thương). Ưu tiên bố trí những cán bộ đã làm công tác thuế,
giá lâu năm, dày dặn kinh nghiệm thực tế.
Công tác đào tạo: Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, tiếp tục
thực hiện công tác đào tạo nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác thuế,
giá tại các Chi cục trực thuộc đặc biệt là cán bộ làm công tác kiểm tra.
Xây dựng chế độ khen thưởng: khen thưởng định kỳ, đột xuất đối với những
trường hợp có thành tích trong công tác phát hiện gian lận, truy thu thuế cho Nhà
nước và các Chi Thuế Tài Nguyên cần được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa cơ
cấu thuế suất để nâng cao khả năng kiểm soát, chống gian lận thương mại, theo đó
cần giảm bớt số lượng các mức thuế suất, loại bỏ việc áp dụng nhiều mức thuế suất
đánh vào các sản phẩm cùng loại. Đồng thời cần xác lập rõ hệ thống phân loại các
mức thuế suất.
17 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích tác động của thuế tài nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TÀI
NGUYÊN
GVHD : PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÙNG
HVTH : NGUYỄN THỊ DIỆU HIỀN
LỚP : NH ĐÊM 6 – K20
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 8 NĂM 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quý giá do thiên nhiên ban tặng, thuộc sở
hữu quốc gia do Nhà nước thống nhất quản lý, có vai trọng quan trọng đối với con
người.Trong điều kiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và quốc tế hoá sâu rộng như
hiện nay, nhu cầu sử dụng tài nguyên cho phát triển kinh tế quốc dân ngày càng trở
thành vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc gia, nhất là các loại tài nguyên quý hiếm, tài
nguyên không tái tạo như: Dầu khí, than, đá,... Bên cạnh các công cụ quản lý hành
chính như: Cấp phép thăm dò, khai thác, chế biến,... thì Thuế tài nguyên là công cụ
hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên, tăng thu
ngân sách, định hướng sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn tài
nguyên và thân thiện với môi trường.
Tổ chức thu đúng, thu đủ và thu kịp thời thuế Tài Nguyên đối với các nguồn
khai thác Tài Nguyên trong lãnh thổ Việt là nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan thuế
Nhà nước, nhằm góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện
chính sách phát triển Kinh tế đất nước, đồng thời tạo lập được một môi trường phát
triển trong lành tránh tình trạng khai thác bừa bãi, thúc đẩy góp phần đẩy mạnh cuộc
sống con người ngày càng phát triển.
Trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc cắt giảm thuế
suất và thực hiện các chính sách ưu đãi thuế quan là quá trình tất yếu của Việt Nam
khi gia nhập WTO, đồng thời cũng là thách thức đối với cơ quan Thuế trong việc
hoàn thành chỉ tiêu thu Ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy, nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý thu Thuế, em đã chọn đề tài : Phân tích tác dộng của thuế Tài Nguyên.
CHƯƠNG I:KHÁI QUÁT THUẾ TÀI NGUYÊN CÁC NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Bảng số liệu chi tiết theo nước
NƯỚC ĐỐI TƯỢNG CHỊU
THUẾ
CƠ SỞ
TÍNH
THUẾ
THUẾ SUẤT GHI CHÚ
1.
Afganis tan
Tất cả các tài
nguyên trên hoặc
dưới bề mặt, trừ
hydrocarbons và
nước
Tổng
doanh thu
Trong khoản từ 5%
doanh thu gộp với các
tài nguyên công nghiệp
cho tới 10% áp dụng
với các loại đá quý
2. Ấn Độ Các loại tài nguyên Giá bán + Đá quý: 10%;
Apatit: 5% ;
+ Phosphat: 11%;
+ Asbestos: 726
rupees/tấn;
+ Barytes: 7,5%; Bio
xit: 0,35%;
+ Cadmium: 10%;
+ Đá : 15% ; Đất sét:
21 rupees/tấn;
+ Chro-mit: 7,5%;
Đồng: 3,2%;
+ Kim cương: 10%;
Vàng: 0,5%;
+ Đá graphit: 225
rupees/tấn;
+ Quặng sắt: 24
rupees/tấn; + Chì: 5%
;
+ Quặng măng-gan:
3%; Nic-ken: 0,1%
Thuế
TNDN:
35%
3. Sri-
lanka
Khoáng sản ở bất
cứ dạng lỏng, rắn
hay khí, nằm trên
hay dưới mặt đất,
gồm cả muối và
than bùn nhưng
không tính hydro-
carbons
Tính trên
tổng doanh
thu
0,5% tổng doanh thu
4. Trung
quốc
Các loại tài nguyên + Dầu mỏ 8-30 NDT/tấn
+ Khí đốt thiên nhiên 2-
15 NDT/nghìn m3
Thuế
TNDN:
NƯỚC ĐỐI TƯỢNG CHỊU
THUẾ
CƠ SỞ
TÍNH
THUẾ
THUẾ SUẤT GHI CHÚ
+ Than 0-3-5 NDT/tấn
+ Các loại quặng thô
quặng phi kim khác 0-5-
20 NDT/tấn hoặc m3
+ Quặng thô quặng
kim loại đen 2-30
NDT/tấn
+ Quặng thô quặng kim
loại màu 0-4-30
NDT/tấn
+ Muối: Muối rắn 10-60
NDT/tấn; Muối lỏng 2-
10 NDT/tấn
Trung
ương 33%;
Địa
phương
3%
5. Mông
cổ
Áp dụng với việc
khai thác tất cả các
loại tài nguyên
thiên nhiên trừ
nước, xăng dầu và
gas tự nhiên
Giá bán ấn
định dựa
trên giá bán
trong nước
và quốc tế
Với việc bán than đá và
các tài nguyên phổ
biến: 2.5% giá bán của
thành phẩm khai thác
từ quyền khai thác mở
được bán, đặt mua
hoặc sử dụng. Với các
sản phẩm khác áp dụng
mức thuế suất 5.0 %.
6.
Myanma
Đá quý, kim loại,
khoáng sản công
nghiệp, đá
Theo giá
bán và giá
tham chiếu
quốc tế
(nếu có)
- Đá quý: 5% -7.5%;
- Vàng, bạc, platin, iridi,
palladi, rutherni, rhodi,
tantalu, columbi, niobi,
urani, thori và các kim
loại quý khác: 4% -5%;
- Kẽm, đồng, chì , thiếc,
Vonfram, nickel,
antimony, alumini, arsen,
bismuth, cadi, chromi,
cobalt, mangan and và các
kim loại khác: 3% - 4%:
d) Khoáng sản công
nghiệp và đá:1% - 3%.
7. Lào Các loại tài nguyên Doanh thu 3%-5% doanh thu theo
hợp đồng ký khai thác
doanh nghiệp ký kết với
Chính phủ
Thuế
TNDN:
35%
8.
Philippines
Các loại tài nguyên Doanh thu 5% trên doanh thu khai
thác quặng.
Thuế
TNDN:
32%
- Doanh thu - Kim loại: 2-4% Thuế
NƯỚC ĐỐI TƯỢNG CHỊU
THUẾ
CƠ SỞ
TÍNH
THUẾ
THUẾ SUẤT GHI CHÚ
9.Bờ biển
Ngà
- Kim loại quý : 1.5 -3%
tuỳ loại
- Đá quý, kim cương: 5%
Không đánh thuế với
nguyên vật liệu xây
dựng
TNDN:
35%
10. Nam
Phi
Các loại tài nguyên Doanh thu Từ 0,5% đến 5% trên
doanh thu khai thác
quặng
Thuế
TNDN:
43%
11.
Zambia
- Các kim loại cơ
bản
- Đá quý, kim loại
quý
- Khoáng sản khác
Tổng giá trị
(giá bán
FOB) tại
điểm xuất
khẩu từ
Zambia
hoặc điểm
nhận hàng
trong nội
địa Zambia.
- 3% tổng giá trị với các
kim loại cơ bản được
phép khai thác theo quy
định tại giấy phép.
- 5% tổng giá trị đá quý
hoặc kim loại quý theo
quy định tại giấy phép.
- 2% tổng giá trị với các
khoáng sản khác
Thuế suất có thể là
thỏa thuận trong các
hiệp định về phát triển.
12.
Boswana
Vật ở dạng rắn,
lỏng hay khí, trừ
xăng dầu và nước
tự nhiên thuộc sở
hữu công cộng hay
tư nhân theo mục
đích sử dụng quy
định tại Luật sử
dụng nước.
Dựa trên
tổng giá trị
thị trường
của tài
nguyên,
được xác
định là giá
bán nhận
được tại
mỏ.
Đá quý: 10%
Kim loại quý: 5%;
Các tài nguyên và sản
phẩm tài nguyên khác:
3%.
Thuế tài
nguyên
được nộp
trên một tài
nguyên
hoặc
thương
phẩm theo
hóa đơn
thanh toán.
13. Chi lê Các loại tài nguyên Giá bán Các mức thuế suất
khác nhau đối với các
loại khoáng sản nhưng
đều dưới 5% trên giá
bán quặng khai thác.
Thuế
TNDN:
50%
14. Vê-nê-
zu-êla
Các loại tài nguyên Giá bán - Vàng: 1%
- Khoáng sản kim loại
khác: 3%
Thuế
TNDN:
30%
15. Pê ru
Các loại tài nguyên -Khoáng sản kim loại:
2 USD/hecta/năm;
-Khoáng sản không kim
loại: 1 USD/hecta/năm.
Thuế
TNDN:
30%
(Nguồn: .quochoi.vn)
Trên thế giới, Các nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện về nguồn tài
nguyên và chiến lược khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên để quy định phương thức
đánh thuế tài nguyên; có nước thu thuế tài nguyên (Natural resources tax), có nước
áp dụng phân chia sản phẩm thu được (royalty); có nước áp dụng thuế suất % theo
doanh thu, có nước áp dụng thuế tuyệt đối tính trên sản lượng khai thác. Vì vậy, việc
lựa chọn kinh nghiệm nước ngoài áp dụng cho Việt Nam là không mang tính thông
lệ.
CHƯƠNG II: LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM
2.1 Khái niệm và đặc điểm của Thuế Tài Nguyên
Ở Việt Nam, Thuế tài nguyên là khoản thu của Ngân sách nhà nước nhằm điều
tiết một phần giá trị Tài nguyên thiên nhiên khai thác đối với tổ chức, cá nhân khai
thác Tài nguyên hợp pháp trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam tạo nguồn thu Ngân sách nhà nước, đảm bảo quản lý, sử dụng hiệu quả các
nguồn Tài nguyên của Nhà nước.
Con người tác động vào tài nguyên với nhiều hình thức:khai thác, xử lý và sử
dụng nhưng thuế tài nguyên chỉ điều tiết vào hành vi khai thác, Thuế tài nguyên
không đìều tiết vào tất cả các hành vi tác động vào tài nguyên mà chỉ điều tiết vào
hành vi khai thác tài nguyên. Nghĩa là hành vi tác động làm biến đổi bản chất “tự
nhiên” của tài nguyên. Vì vậy, tại điều 1 Pháp lệnh thuế tài nguyên quy định: Mọi tổ
chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội
thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đều là đối tượng phải nộp thuế tài nguyên, trừ đối tượng không thuộc
diện nộp thuế.
Đặc điểm của thuế tài nguyên:
Thứ nhất, đối tượng chịu thuế tài nguyên là các loại tài nguyên thiên nhiên.
Nếu tài nguyên đó được hình thành có sự can thiệp của con người thì nó không còn là
đối tượng chịu thuế tài nguyên nữa.
Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên là đối tượng chịu thuế phải tồn tại trên lãnh
thổ Việt Nam, thuộc chủ quyền Việt Nam theo luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc
tế.
Thứ ba, như đã phân tích, thuế tài nguyên không đánh vào tất cả các hành vi
tác động vào tài nguyên mà chỉ điều tiết vào hành vi của các tổ chức, cá nhân khai
thác tài nguyên thiên nhiên hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, mục tiêu cơ bản của thuế tài nguyên là nhằm điều tiết một phần thu
nhập của tổ chức, cá nhân có hành vi khai thác tài nguyên vào ngân sách nhà nước
trên cơ sở đó quản lý hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.
Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên
của tổ chức, cá nhân. Hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên là sự kiện pháp lý làm
phát sinh thuế tài nguyên (không phải hành vi sử dụng tài nguyên thiên nhiên). Việc
thu thuế tài nguyên hiện nay dựa trên cơ sở pháp lý là Pháp lệnh Thuế tài nguyên
năm 1998 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6, Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm
2008. Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998 sẽ hết hiệu lực thi hành vào ngày
01/07/2010 khi Luật Thuế tài nguyên có hiệu lực.
Theo Điều 2 Luật Thuế tài nguyên, phần lớn đối tượng chịu thuế tài nguyên là
tài nguyên khoáng sản, như: khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, dầu
thô, khí than, khí thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên và nước khoáng. Khi Luật Thuế
tài nguyên có hiệu lực thì các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có nghĩa vụ nộp
thuế tài nguyên phải quan tâm đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, quy định về thuế suất. Có thể nói, thuế suất được xem như là “linh
hồn” của một sắc thuế. Việc xác định mức thuế suất như thế nào sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến số tiền nộp thuế của các chủ thể khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung
cũng như các chủ thể khai thác khoáng sản nói riêng. Biểu thuế suất này được quy
định trong Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998 và Pháp lệnh số 07/2008/PL-
UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998. Trước sự
biến động của nền kinh tế, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài
nguyên năm 1998 đã điều chỉnh khung thuế suất thuế tài nguyên nhằm góp phần
điều tiết kịp thời lợi nhuận của doanh nghiệp khai thác khoáng sản khi giá cả biến
động.
Có thể nói, trên thực tế, việc áp dụng mức thuế suất trong một biên độ rộng
theo quy định của Pháp lệnh năm 2008 là điều không đơn giản vì sự chênh lệch quá
cao giữa biểu thuế suất. Sự chênh lệch này sẽ làm khó cho cơ quan tính thuế khi nào
thì áp dụng mức thuế suất sàn và khi nào áp dụng mức thuế suất trần.
Nhằm tăng tính hiệu quả và hợp lý cho việc thu thuế tài nguyên, biểu thuế suất
trong Luật Thuế tài nguyên đã được thu hẹp lại biên độ bằng việc tăng mức sàn và hạ
mức trần. Việc điều chỉnh này hướng tới hầu hết tài nguyên thuộc nhóm khoáng sản
kim loại và một số tài nguyên quý hiếm khác. Chúng đều có mức thuế suất sàn tăng
vì đây là những tài nguyên không thể tái tạo, có giá trị lớn. Việc xác định biểu thuế
suất này vẫn nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần nâng
cao ý thức bảo vệ tài nguyên quốc gia từ phía các chủ thể tiến hành khai thác.
Thứ hai, giá tính thuế. Giá tính thuế tài nguyên được quy định rõ hơn trong
Luật Thuế tài nguyên năm 2009 theo hướng “là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên
của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng” (Khoản 1 Điều 6)
chứ không chung chung như quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm
1998 là “tại nơi khai thác”. Quy định “tại nơi khai thác” theo Pháp lệnh năm 1998 là
tại tỉnh, huyện hay xã là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong quá trình thực hiện. Đối với
trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán thì Khoản 2 Điều 6 Luật Thuế tài
nguyên đưa ra nguyên tắc xác định giá bán cụ thể như sau: (i) giá bán thực tế trên thị
trường khu vực của đơn vị sản phẩm tài nguyên cùng loại nhưng không thấp hơn giá
tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Chúng tôi cho rằng, quy định này
nhằm giúp khống chế mức giá sàn của loại tài nguyên không được thấp hơn đơn giá
do Nhà nước quy định nhằm tránh trường hợp kê khai giá quá thấp để trốn thuế. (ii)
đối với tài nguyên khai thác chứa nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế xác định theo
giá bán đơn vị của từng chất và hàm lượng của từng chất trong tài nguyên khai thác
nhưng không thấp hơn giá tính thuế do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, trên thực tế, việc xác định hàm lượng riêng của từng chất trong
tài nguyên rất phức tạp và đòi hỏi phải thông qua quy trình kỹ thuật và phải có chi
phí để xác định. Trong khi đó, cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật cũng như nguồn
nhân lực của cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên - môi
trường để thực hiện việc phân tích, xác đ ịnh hàm lượng chưa đảm bảo thì e rằng, tính
khả thi của quy định này sẽ không cao.
2.2 Phân tích tác động của Luật thuế tài nguyên
2.2.1 Thuế Tài Nguyên góp phần bảo vệ môi trường và tăng nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước.
Theo thống kê của Tổng cục Thuế, số thu thuế Tài nguyên các năm 2005-
2008 bình quân mỗi năm trên 23.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 15% tổng thu ngân sách
Nhà nước từ sản xuất kinh doanh trong nước. Năm 2011, chỉ tính riêng việc thu thuế
từ dầu thô ước đạt 100 nghìn tỷ đồng, bằng 144,3% so với dự toán.
Trước đây, thuế Tài nguyên được thực hiện theo Pháp lệnh thuế Tài nguyên
(năm 1998) và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế Tài nguyên (năm
2008).
Riêng đối với dầu mỏ, khí thiên nhiên được thực hiện theo quy định của Luật
Dầu khí. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách thuế Tài nguyên, một số
quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật Dầu khí, Luật
Đầu tư và thực tế triển khai thực hiện, Pháp lệnh thuế Tài nguyên đã bộc lộ những
bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung.
Do đó, tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội XII đã thông qua Luật Thuế Tài nguyên, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2010.
Nhằm tăng tính hiệu quả và hợp lý cho việc thu thuế Tài nguyên, biểu thuế
suất trong Luật thuế Tài nguyên đã được thu hẹp lại biên độ bằng việc tăng mức sàn
và hạ mức trần. Việc điều chỉnh này hướng tới hầu hết tài nguyên thuộc nhóm
khoáng sản kim loại và một số tài nguyên quý hiếm khác.
Đối tượng chịu thuế này đều có mức thuế suất sàn tăng vì đây là những tài
nguyên không thể tái tạo, có giá trị lớn. Việc xác định biểu thuế suất này vẫn nhằm
đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức bảo vệ
tài nguyên quốc gia từ phía các chủ thể tiến hành khai thác. Việc áp dụng thuế và phí
trong bảo vệ môi trường là những hình thức thể hiện của nguyên tắc “người gây ô
nhiễm phải trả tiền”. Thuế và phí đều là những nguồn thu phải nộp vào ngân sách
Nhà nước.
Theo đó, đối tượng chịu thuế so với qui định trước đây đã loại “động vật của
rừng tự nhiên” ra khỏi đối tượng chịu thuế. Bổ sung thêm “khí than” vào đối tượng
chịu thuế. Riêng sản phẩm của rừng tự nhiên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên
không bao gồm hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người nộp thuế (NNT) trồng tại khu
vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi và bảo vệ.
Đồng thời, Thuế Tài nguyên đã nâng mức thuế tối thiểu của khung thuế suất
đối với các loại tài nguyên thuộc nhóm kim loại và một số loại tài nguyên quý hiếm
khác; bỏ thuế suất 0% và qui định tài nguyên không tái tạo phải áp dụng mức thuế
suất cao; mở rộng đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế...
2.2.2 Thuế tài nguyên góp phần ổn định sản xuất và chống lạm phát
Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện các nguồn lực để phát triển kinh tế còn
chưa đủ mạnh thì tài nguyên là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước (theo số liệu Quyết toán thu ngân sách năm 2007
thì: Số thu từ dầu khí chiếm 24% tổng số thu ngân sách = 78.634 tỷ đồng/327.911 tỷ
đồng. Số thu thuế tài nguyên là 23.992 tỷ đồng (chiếm 7.32% tổng số thu ngân sách =
23.992/327.911 tỷ đồng; chiếm 13,11% tổng thu nội địa = 23.992/182.993 tỷ đồng).
Trong thời gian vừa qua, sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác, chế
biến tài nguyên đã cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào đáng kể cho các ngành sản
xuất khác, hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, góp phần ổn định
sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động, nâng cao đời
sống nhân dân.
Với các ngành sản xuất: than, điện, phân bón, xi măng, giấy.. là các ngành
quan trọng của nền kinh tế (cung cấp phần lớn sản phẩm đầu vào cho nền sản xuất
trong nước).
Than là nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất: Điện, phân bón, xi măng,
giấy,... Điện là đầu vào cho các ngành sản xuất, sinh hoạt và dịch vụ. Phân bón là đầu
vào của ngành sản xuất nông nghiệp. Xi măng là sản phẩm đầu vào cho ngành xây
dựng. Sự ổn định về giá cả, về sản lượng cung cấp của ngành sản xuất than sẽ dẫn
đến sự ổn định giá điện, giá phân bón, giá xi măng,... dẫn đến ổn định giá các mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu như lương thực, thực phẩm và nhiều mặt hàng quan trọng
khác. Thuế tài nguyên là yếu tố cấu thành trong giá bán sản phẩm. Do đó, sự ổn định
thuế tài nguyên cũng góp phần ổn định giá, chống lạm phát.
2.2.3 Nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên đối với sự phát triển
kinh tế đất nước
Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trong
khi các nguồn lực để phát triển kinh tế còn thiếu và yếu, thì tài nguyên là nguồn lực
đóng vai trò quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian vừa
qua, do sự khó khăn về mặt kinh tế, nền khoa học kỹ thuật chưa phát triển, dẫn đến
sự hạn chế nhất định về công tác thăm dò, khai thác, đánh giá trữ lượng tài nguyên
hiện có của đất nước. Thêm vào đó, các địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức
về vai trò của nguồn lực tài nguyên. Cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, sự hội
nhập quốc tế, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển
kinh tế ngày càng tăng. Tài nguyên được khai thác và sử dụng ngày càng nhiều, đặc
biệt là tài nguyên không tái tạo; giá tài nguyên có xu hướng tăng nhanh. Hoạt động
kinh doanh khai thác tài nguyên thu được lợi nhuận lớn, trong khi công tác quản lý
tài nguyên chưa được thực hiện một cách triệt để, hoạt động khai thác tài nguyên diễn
ra tràn lan, khai thác không phép, khai thác vượt phép, xuất khẩu nguyên liệu thô
diễn ra phổ biến. Dẫn đến thất thoát tài nguyên, thất thu ngân sách, gây mất ổn định
xã hội và ô nhiễm môi trường.
Luật thuế tài nguyên là một trong những công cụ quan trọng trong việc quản
lý tài nguyên. Cùng với quy định thuế tài nguyên (trừ dầu khí) để lại ngân sách địa
phương 100%, việc quy định giao cho UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung
ương quy định giá tính thuế đối với một số tài nguyên đã tạo điều kiện để cơ quan
quản lý địa phương tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động khai thác tài
nguyên, hạn chế khai thác không phép, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi
trường nơi khai thác.
Việc nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên sẽ khuyến khích các địa
phương lựa chọn phương thức đầu tư khai thác, chế biến tài nguyên hợp lý và lựa
chọn đường lối phát triển kinh tế xã hội thích hợp với điều kiện địa phương mình.
Tăng cường công tác quản lý và cấp phép khai thác, kinh doanh tài nguyên khoáng
sản, lựa chọn nhà đầu tư đủ điều kiện, tiềm lực để khai thác, chế biến tài nguyên; có
chính sách khuyến khích đầu tư chế biến sâu nâng cao giá trị tài nguyên. Từ đó, tài
nguyên ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ
nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường.
2.3 Những khó khăn và thuận lợi
2.3.1 Những thuận lợi
Tăng cường quản lý nhà nước đối với tài nguyên, bảo vệ, khai thác, sử
dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả; bảo vệ môi trường.
Kế thừa, luật hoá các quy định của pháp luật hiện hành về thuế liên quan
đến tài nguyên còn phù hợp. Khắc phục những mặt hạn chế, chưa đầy đủ
của chính sách thuế tài nguyên hiện hành.
Thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải
cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với các quy định của Hiến
pháp, tính thống nhất và đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên
quan.
Góp phần đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước.
2.3.2 Những khó khăn
Trong quá trình thực hiện chính sách thuế, việc tính thuế tài nguyên đang có
nhiều bất cập và vướng mắc:
Công tác điều tra đánh giá nguồn tài nguyên khoáng sản của quốc gia
cũng như những điểm mỏ do địa phương quản lý không được coi trọng.
Và theo đó công tác quy hoạch phát triển ngành khai khoáng của địa
phương hoàn toàn bị bỏ qua. Các điểm mỏ hàng ngày bị xé nhỏ, cấp
phép tràn lan cho các doanh nghiệp không có kinh nghiệm kỹ thuật
công nghệ, không có tiềm lực tài chính, không có đánh giá địa chất đầy
đủ để có thể quyết định đầu tư chế biến sâu ra các sản phẩm có giá trị
thương mại cao hơn sản phẩm thô. Từ đó hạn chế nguồn thu thuế
Sự chênh lệch quá cao giữa biểu thuế suất quy định so với thực tế cũng
gây không ít khó khăn cho cơ quan tính thuế. Chẳng hạn, quy định
khoáng sản không kim loại có khung biểu thuế suất (từ 3 - 15%). Với
biên độ khá lớn này, khi nào tính thuế suất 3% và khi nào tính 15%
Chưa đưa các loại tài nguyên như không khí, vùng biển, vùng trời, kho
số, tần số, các nguồn năng lượng (gió, ánh sáng mặt trời)… vào đối
tượng chịu thuế tài nguyên.
Việc xác định giá tính thuế theo quy định tại điều 7 của dự thảo luật
cũng rất phức tạp và chưa bao quát hết những trường hợp sẽ xảy ra
trong thực tế. Chẳng hạn, khoản 3 điều 7 “giá tính thuế đối với một số
trường hợp cụ thể” còn quá sơ sài. Trường hợp số lượng tài nguyên
được khai thác nhưng được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau (làm
nguyên liệu cho quá trình sản xuất tiếp; tiêu thụ trên thị trường nội địa,
xuất khẩu, nhập kho dự trữ...) hoặc bán ở nhiều địa điểm khác nhau
chưa được quy định và cũng rất khó có thể quy định một cách rõ ràng,
minh bạch. Vì vậy, việc quy định giá tính thuế là “giá bán đơn vị sản
phẩm tài nguyên” như quy định của dự thảo là không rõ ràng, dẫn đến
khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn
Khi tính thuế tài nguyên sẽ căn cứ vào “Sản lượng tài nguyên thực tế
khai thác”, nhưng, quy định tính thuế theo “sản phẩm sản xuất trong
kỳ” và “định mức sử dụng tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm” đối
với loại tài nguyên chưa bán ngay mà còn phải qua gia công để tiếp tục
sản xuất ra sản phẩm là không khả thi vì tài nguyên đó sản xuất ra rất
nhiều sản phẩm, theo nhiều công đoạn sản xuất sẽ tính theo sản phẩm
nào.
Hàm lượng, chất lượng tài nguyên khai thác lên cùng tạp chất không
đồng đều nên việc xác đ ịnh khối lượng tài nguyên, giá tính thuế trên tài
nguyên là khó khăn. Khó đảm bảo thống nhất giá tài nguyên trên toàn
quốc.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý cấp phép khai thác tài nguyên và
cơ quan thuế chưa chặt chẽ, hệ thống thông tin về trữ lượng, chủng loại
tài nguyên tại địa phương chưa đầy đủ dẫn đến khó khăn trong việc thu
thuế tài nguyên.
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ
Hoàn thiện luật quản lý thuế theo hướng qui định rõ chế độ tự chịu trách
nhiệm khai báo và nộp thuế của từng đối tượng nộp thuế; đối tượng được ủy quyền,
bảo lãnh nộp thay thuế.
Xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ: xây dựng và công khai các qui trình
nghiệp vụ cụ thể trong từng khâu nghiệp vụ, có chế độ trách nhiệm cho từng đối
tượng, chế độ báo cáo cấp trên và chế độ kiểm tra định kỳ.
Chính sách miễn thuế phải được quy định một cách cụ thể, chi tiết và xem xét
đến tính công bằng cho các Doanh nghiệp.
Chế độ ấn hạn thuế rõ ràng theo tiêu chí và thời gian cụ thể, trách chung
chung rất khó trong công tác xử lý như hiện nay.
Đối với công tác giá, tính thuế: Chi cục phải phân công cán bộ giá chuyên
trách, không kiêm nhiệm. Cán bộ làm công tác giá, thuế phải được phân công dựa
trên kiến thức chuyên môn được đào tạo (tốt nghiệp các trường kinh tế, tài chính, kế
toán, thương mại, ngoại thương). Ưu tiên bố trí những cán bộ đã làm công tác thuế,
giá lâu năm, dày dặn kinh nghiệm thực tế.
Công tác đào tạo: Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, tiếp tục
thực hiện công tác đào tạo nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác thuế,
giá tại các Chi cục trực thuộc đặc biệt là cán bộ làm công tác kiểm tra.
Xây dựng chế độ khen thưởng: khen thưởng định kỳ, đột xuất đối với những
trường hợp có thành tích trong công tác phát hiện gian lận, truy thu thuế cho Nhà
nước và các Chi Thuế Tài Nguyên cần được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa cơ
cấu thuế suất để nâng cao khả năng kiểm soát, chống gian lận thương mại, theo đó
cần giảm bớt số lượng các mức thuế suất, loại bỏ việc áp dụng nhiều mức thuế suất
đánh vào các sản phẩm cùng loại. Đồng thời cần xác lập rõ hệ thống phân loại các
mức thuế suất.
hoàn chỉnh các qui trình, qui chế thực hiện các biện pháp chế tài để đảm bảo
thực thi nghiêm túc Luật thuế Tài Nguyên... không để nợ thuế quá hạn hàng quí,
năm.Để phát triển công nghiệp khai khoáng và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
khoáng sản trên địa bàn các tỉnh phải bắt đầu từ các dự án khai thác mỏ, cần theo
đúng Luật Khoáng sản và theo cam kết của các doanh nghiệp, nếu dự án không triển
khai theo đúng tiến độ thì sẽ bị thu hồi. Các dự án hết hạn đều không cho gia hạn.
KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài tiểu luận Phân tích tác động của
Thuế tài nguyên. Từ chương 1 khái quát về một số luật thuế tài nguyên ở các quốc
gia trên thế giới tới chương 2 khái quát về Luật Thuế Tài nguyên số 45/2009/QH12
do Quốc Hội ban hành có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2010. Qua đó, phân tích tác
động của luật thuế tài nguyên tới mặt của đời sống kinh tế - xã hội, những điểm thuận
lợi, khó khăn khi thi hành luật thuế tài nguyên. Cuối cùng, đưa ra những kiến nghị
chỉ mang tính định hướng, gợi mở về luật thuế tài nguyên .
Do thời gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế , nên đề tài tiểu luận
không thể tránh khỏi những thiết sót, những vấn đề chưa phân tích thỏa đáng , rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia_tieu_luan_9445.pdf