Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhưng hoạt động phân tích tín dụng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế và vướng mắc nhất định.
Tín dụng vẫn là hoạt động tạo thu nhập chính của các ngân hàng Việt Nam, nhưng tình trạng ""độc canh" tín dụng lại quá phổ biến. Sự ngại thay đổi, chia lẻ thị trường và "ngại hy sinh" của các nhà băng đang làm tăng khả năng tổn thương với thị trường tài chính .
Đáng nói hiện nay, tình trạng "độc canh" tín dụng vẫn còn phổ biến ở nhiều ngân hàng . Tín dụng vẫn là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các NHTM Việt Nam, nơi mà các hoạt động phi tín dụng và dịch vụ phụ chưa phát triển. Hầu hết các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại mới chỉ ở giai đoạn thứ nghiệp hoặc triển khai thí điểm. Gần như mỗi nhà băng vẫn có một nhóm khách hàng thân quen riêng và địa bàn riêng, ngại sự thay đổi và chưa mạnh dạn ""mạo hiểm"" với thị trường . Các chuyên gia dẫn chứng, sự chia lẻ và thiếu gắn kết của thị trường thẻ ATM đang là một ví dụ điển hình cho sự thiếu gắn kết và ""ngại hy sinh lợi ích"" của các nhà băng Việt Nam.
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích tín dụng - Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN TÍCH TÍN DỤNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TẠI VIỆT NAM
1. Tầm quan trọng/mục tiêu :
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM.Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hang.Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn chủ, đẩy ngân hang đến phá sản.Do vậy,các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng, bao gồm quá trình thẩm tra trước, trong và sau khi cho vay,chiết khấu,cho thuê,bảo lãnh.
Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua hợp đồng tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc thực hiện hợp đồng.Do đó,mục tiêu của phân tích tín dụng la thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định nội dung của hợp đồngtín dụng bao gồm xác định vị trí thị trường so sanhcủa người nhận tín dụng,sức mạnh cạnh tranh,rủi ro,mức độ thay đổi kỹ thuật,sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay…trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, cho phép ngân hàng điều chính các giá trị trong quan hệ tín dụng với khách hàng.
Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc.Trong môi trường gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng ,khách hang , đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện quy trình phân tích tín dụng nhanh,gọn và tiết kiệm chi phí ; đây cũng là hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban va cán bộ ngân hang.Do vậy,quy trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Được xây dựng và thống nhất trong toàn NH, tránh tuỳ tiện ,duy ý chí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo NH thong qua và phổ biến đến các phòng có lien quan cung như các cán bộ tín dụng.
- Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích,tránh chung chung.Mỗi phòng chức năng trong NH cũng như cán bộ NH cần phải làm gì, đến mức nào;
- Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng NH.*Phân tích tín dụng giữ vai trò quan trọng : giúp Ngân hàng phân tích, đánh giá và ra quyết định cho vay khi đứng trước một yêu cầu vay vốn của khách hàng. Va kiểm soát và quản lý rủi ro tín dụng khi quyết định cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng nói chung.
2. Quy trình phân tích tín dụng.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng . Đó chính là các bước (hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng , các phòng, ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng . Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lí các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay .
Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lí thông tin :
Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: Thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp… Phỏng vấn trực tiếp giúp cán bộ ngân hàng loại trừ các báo cáo “ma”, cảm nhận cái đang diễn ra….
Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lí, qua các bạn hàng chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn ). Rất nhiều người vay lần đầu tiên đến với ngân hàng ,hoặc chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Tìm hiểu khách hang này trong thời gian ngắn là không đơn giản. Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian giúp phân tích người vay qua các mối liên hệ của họ, cho thấy uy tín, tình trạng rủi ro, phát triển hay suy thoái.
Thông qua các thông tin có được từ báo cáo của người vay. Ngân hàng luôn luôn yêu cầu người vay vốn phải gửi cho ngân hàng các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), báo cáo thu thập, báo cáo bán hàng… ngân hàng cũng yêu cầu hoặc mua những thông tin về giám đốc, đội ngũ nhân sự, công nghệ…của khách hàng. Các báo cáo này cho thấy các số liệu trong nhiều năm gian qua, vì vậy, giúp ngân hàng có cơ sở để dự đoán về tình hình của khách hàng trong tương lai gần. Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, hoặc không trả đầy đủ, giá trị các tài sản có thể phát mại khi cần thiết…
Nội dung phân tích:
Đánh giá tài sản của khách hàng
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kì. Đối với họ, hoặc người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương và các khoản thu thập khác. Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, khả năng quản lí của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Quan trọng hơn, tài sản (tất cả hoặc một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng , tiền mặt trong két, các khoản phải thu. Tiền gửi và tiền mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán hàng hoá và dịch vụ chưa thu được tiền) luôn có khả năng chuyển thành tiền gửi hoặc tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kĩ khoản này để loại trừ các khoản bán chịu không thu được, khó thu được hoặc đã bán lại cho người khác. Các khoản cho vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kì thu tiền.Các chứng khoán có giá : Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài sản này làm tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
Hàng hoá trong kho: Rất nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hoá, có nghĩa là một phần hàng hoá trong kho được hình thành từ vốn vay ngân hàng . Do đó, ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm, rủi ro đối với hàng hoá trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng còn yêu cầu người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ hàng hoá kém, mất phẩm chất, chậm tiêu thụ, phát hiện hàng giả, hàng người khác gửi…
Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn phòng…thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn.
Đánh giá các khoản nợ
Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.Về thời gian: Gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn); nhiều khi ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong năm (các khoản nợ ngắn và trung, dài hạn phải trả trong năm) và các khoản nợ phải trả trong các năm sau. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng . Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và ngân quỹ trong năm của khách hàng la hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng . Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản nợ cũ, các khoản nợ của các ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kĩ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm và nợ khác. Các tài sản đã làm đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ; nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ.
Phân tích luồng tiền
Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên, việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới ngân quỹ của người vay (ví dụ ,cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ là các khoản thu nhập bằng tiền của người vay, kì hạn thu nợ có thể lệch pha với các khoản thu của người vay). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lời, chênh lệch dòng tiền vào và ra là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Tuy nhiên nhiều khoản mục có liên quan đến dòng tiền không được chỉ dẫn đầy đủ trong cân đối tài sản của công ty: Phần lớn luồng tiền sau tháng 12 đều không ghi vào bảng cân đối (các tài khoản chỉ ghi lại những gì xảy ra trong năm vừa qua), phần lớn các trách nhiệm thanh toán không được chỉ ra trong cân đối khi mà vào thời điểm đó nó không tồn tại. Bán hàng là nguồn tiền quan trọng để trả nợ song bảng cân đối nói rất ít về bán hàng.
Để hỗ trợ ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai – phụ thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai – cần được dự kiến. Kế hoạch này ghi lại vận động hàng tháng của các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong hiện tại có thể có dự án chi trong tương lai cao và với thu bán hàng không đổi, sẽ có thể có luồng tiền âm (không có khả năng chi trả).
Sử dụng các tỉ lệ.
Sau khủng hoảng 1929-1932, rất nhiều các ngân hàng phát hiện rằng họ không thu được nợ (và như vậy là không có khả năng chi trả) ngay cả khi họ cho vay các khoản vốn lưu động phù hợp. Cùng các khoản cho vay ngắn hạn, đã xuất hiện ngày càng nhiều các khoản cho vay dài hạn mà mối tương quan với vốn của chủ sở hữu và các luồng trả nợ trở nên rất quan trọng. Để quá trình phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào được tiêu chuẩn hoá, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài chính của người vay có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều trường hợp,, ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cán bộ tín dụng sắp xếp và cho điểm đối với từng tỉ lệ của mỗi người vay. Điểm cần chú ý là các tỉ lệ này thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó, tìm kiếm các số liệu có mối tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơn nữa các tỷ lệ này lấy từ các báo cáo tài chính phản ánh tình hình đã và đang xảy ra, do đó, các tỷ lệ này không phải lúc nào cũng là những chỉ dẫn cho các quyết định của ngân hàng .
Các loại tỷ lệ: Những tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro.
Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán các trái khoán khi đến hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có thể càng tốt. Một là, tỷ lệ thanh khoản nhanh được đo bằng ngân quỹ của người vay trên các khoản nợ hiện hành( gồm các khoản nợ ngắn hạn và trung, dài hạn đến hạn trong kì). Mẫu số phản ánh nợ đến hạn sắp phải trả, trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong két và tiền gửi ngân hàng hiện có, các khoản đang trong quá trình thu (sắp thu). Chú ý là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có thể giảm nhanh chòng do người vay cần thanh toán tiền mua hàng hoá hoặc trả lương, các khoản đang trong quá trình thu có thể không thu được. Do đó, ngân hàng cần xem xét kĩ lưỡng các khoản đang trong quá trình thu, tính số ngày của một kì thu, loại trừ nợ nần dây dưa. Hai là, tỷ lệ thanh khoản trung bình đo bằng tỷ lệ tài sản lưu động trên nợ hiện hành. Tử số gồm ngân quỹe và hàng hoá của người vay (hàng hoá trong kho, trên đường, trên quầy). Điều đáng quan tâm là giá cả hàng hoá tồn kho và các loại hàng hoá kém luân chuyển. Ngân hàng phân loại những hàng hoá này ra khỏi tử số của tỷ lệ thanh khoản.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng phân tích các tỷ lệ thích hợp. Nếu cho vay trong thời gian ngắn 2-3 tháng, ngân hàng cần chú ý đến tỷ lệ thanh toán nhanh; còn cho vay 9-12 tháng ngân hàng cần chú ý đến thanh khoản trung bình.
Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay. Khả năng sinh lời của người vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi ngân hàng . Các tỷ lệ này đều có tử số là lợi nhuận ròng trước hoặc sau thuế lợi tức, hoặc doanh thu và mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng vốn. Có thể hỏi tại sao ngân hàng lại quan tâm đến khả năng sinh lợi khi mà luồng tiên có tầm quan trọn đối với khoản trả nợ? Khả năng trả nợ thực chất là bắt nguồn từ khả năng tạo thu nhập, tức là người vay có khả năng thu về lượng giá trị lớn hơn giá trị đầu tư ban đầu. Một người vay làm ăn thua lỗ mà vẫn trả nợ được ngân hàng thì chỉ có thể dùng vốn tự có (hoặc giảm vốn tự có) hoặc dùng nợ nuôi nợ (vay người này trả người khác). Cả hai con đường này đều tiềm ẩn tổn thất đối với người cho vay.
Để phân tích tỷ lệ sinh lợi, bên cạnh bảng cân đối tài sản ngân hàng cần có báo cáo thu nhập của người vay.
Nhóm tỷ lệ rủi ro (RR): RR của người vay rất đa dạng.Chúng ta cần có nhiều trường hợp điều chỉnh RR trong mọi trường hợp. Danh sách sau trình bày cách tiếp cận rủi ro của người vay:Sản xuất: Doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu? Tác động trong thay đổi chi phí là gì? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất? Lao động? Vốn? Có thay đổi nhanh trong kĩ thuậ? Chi phí là bao nhiêu? Tính phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác như thế nào? Tác động của nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi cơ cấu chi phí là gì? RR tác động tới việc sử dụng trang thiết bị là gì?
Tiếp thị : Các nhân tố tác động tới việc bán hàng? Cầu co giãn với giá? Thu nhập là co dãn? Sản phẩm thay thế là gì ? Nhập khẩu có lớn không? Chiến lược cạnh tranh là gì? Những gì cản trở việc đối thủ khác gia nhập vào ngành? Thay đổi trong nhu cầu của khách? Người bán có quyền lực hơn người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng chính là gì?
Nhân sự: Cái gì làm năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người lao động? Rủi ro của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá nhân đặc biệt?Tài chính : Sức chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất ? Có bao nhiêu cách huy động tiền? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án? Việc đa dạng các nguồn thu?Chính sách của Chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác động tới khách hàng như thế nào? Chính sách kinh tế? Bảo vệ nhập khẩu? Trợ cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu: Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở hữư đủ dể tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hữu =Vốn sở hữu/ Tổng tài sản
Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tỷ lệ này vào khoảng 0,3- 0,4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay.
Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung chú ý vào tỷ lệ tài trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn, ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp ( ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để xác định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khấu hao và thu nhập sau thuế cùng với giá trị còn lại của tài sản cố định là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng .
Các điều kiện kinh tế.
Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách hàng. Điều ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng, có thể là trong mấy tháng hoặc mấy năm. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai,các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành… làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn thất của ngân hàng chỉ trong gang tấc.
Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và ngân hàng , với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng ) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng , đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật , các quy định. Do vậy, cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng . Sau đây là nội dung chính của hợp đồng tín dụng .
Khách hàng: Họ tên, địa chỉ , tư cách pháp nhân (nếu có).
Mục đích sử dụng: Khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì.
Số lượng tín dụng : Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng ) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau.
Lãi suất : Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời xác định tính chất của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kì hạn tín dụng ). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.
Phí : Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí (ví dụ, phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện trong Hợp đồng tín dụng .
Thời hạn tín dụng : Ngân hàng thường xác định rõ thời hạn tín dụng trong hợp đồng như tài trợ trong 6 tháng, 9 tháng, 2 năm… kể từ lúc khoản cho vay đầu tiên được phát ra đến khi người vay trả toàn bộ gốc và lãi. Cũng có trường hợp thời hạn không xác định cụ thể trước mà tuỳ theo thời gian luân chuyển của vật tư hàng hoá là đối tượng tài trợ của ngân hàng. Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều kì hạn trả nợ nhỏ.
Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng có thể ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho các khoản tín dụng (kèm theo các hợp đồng phụ) như hợp đồng bảo lãnh ,vật tư hàng hoá trong kho, tài sản cố định, hoặc các chứng khoán có giá… Các nội dung quan trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo… đều phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng .
Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kì hạn giải ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn, ngân hàng cấp tiền vay một lần vào đầu kì. Đối với các khoản vay lớn và trong thời gian dài, ngân hàng cấp tiền theo nhiều kì hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn.
Ví dụ: Hợp đồng kí cho vay 300 triệu trong thời hạn 9 tháng để thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Điều kiện giải ngân là hàng nhập về đến đâu cho vay đến đó (kèm chứng từ) , hoặc trả xong khoản vay đợt trước mới cấp tiền đợt sau.
Điều kiện thanh toán: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngày trả và cách trả) .
Các điều kiện khác: Tuỳ thuộc điều khoản cuối cùng song rất quan trọng, bao gồm các thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay, phong toả tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản, nộp báo cáo định kì, phạt vi phạm hợp đồng …
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng.
Sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng , ngân hàng kiếm soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ?...Quá trình này cho phép ngân hàng thu thậpthêm các thông tinvề khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ ngân hàng cần có các biện pháp xử lí kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng . Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay… khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vậy cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1và ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc hông hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “ trục trặc” trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng .
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng , cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lí, tức là sử dụng các biện pháp có thể được thu hồi khoản nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế cấp, tước đoạt các khoản tiền gửi…
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính , song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
III. THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG
CỦA CÁC NHTM Ở VIỆT NAM
Kết quả mà các ngân hàng đã đạt được
Thứ nhất :một số NHTM đã thực hiện tách các chức năng quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro, quyết định tín dụng , quản lý nợ.Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch.
Thứ hai: Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng (TCTD) và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được chia thành 5 nhóm: với nợ từ loại 3 đến 5 là nợ xấu; còn nợ nhóm 1 - nợ thông thường - trích dự phòng 0%; nợ nhóm 2 - nợ cần chú ý - trích dự phòng 5%. Đây là một bước tiến mới với cách phân nhóm nợ theo QĐ 493 đã tiến gần tới những chuẩn mực quốc tế, đó là các loại nợ với mức rủi ro khác nhau đã gắn liền với tỷ lệ trích dự phòng khác nhau, bước đầu tạo nên quĩ dự phòng đủ lớn để xử lý tổn thất. Cũng theo QĐ này, nợ xấu (nhóm 3,4,5) chiếm tỷ lệ khoảng từ 2 - 5%, một tỷ lệ chấp nhận được.Có thể thấy với cách phân chia thế tạo điều kiện cho các ngân hàng đánh giá các khoản nợ một cách chính xác từ đó nhận định về khách hàng tốt nhất nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng .
Thứ ba: nếu như trước đây khách hàng phải tìm đến ngân hàng cầu cạnh vay tiền, thì nay ngân hàng quốc doanh lẫn ngân hàng TMCP không những len vào những khoảng trống mà hệ thống ngân hàng trước đây chưa phủ sóng đến mà còn chạy đua tìm khách hàng để tài trợ vốn.Các ngân hàng nội địa đang tăng tốc chạy đua tìm kiếm khách hàng.Các ngân hàng đã cải tiến thủ tục, nhanh chóng thẩm định dự án một cách chính xác góp phần đẩy lùi tình trạng “cò” tín dụng .Các ngân hàng đã đầu tư hệ thống công nghệ,tập trung dữ liệu khách hàng của các chi nhánh, giúp cấp quản lý có thể kiểm soát được quá trình thẩm định tìm ra những khách hàng tiềm năng.Với những khách hàng vay vốn có uy tín các ngân hàng áp dụng chế độ ưu đãi hơn.Ngoài ra, ngân hàng sẽ cấp hạn mức tín dụng phù hợp, đa dạng hoá các loại hình cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp chứ không nhất thiết phải lệ thuộc vào tài sản đảm bảo. Chính vì vậy mà các ngân hàng đã chạy đua trong việc tìm kiếm khách hàng tiềm năng.Trên thị trường tín dụng đã và đang nở rộ các chương trình khuyến mại rầm rộ, các cú bắt tay liên kết của các ngân hàng và doanh nghiệp, ngân hàng và các siêu thị lớn… Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) sử dụng “chiêu” đánh vào tâm lý các doanh nghiệp với mong muốn được đồng hành cùng ngân hàng trên bước đường kinh doanh. Sacombank không những cung ứng vốn cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Với cho vay tiêu dùng cá nhân, nhiều ngân hàng đã nâng mức hạn mức từ vài chục triệu lên vài trăm triệu, như Ngân hàng ACB gần đây đã nâng mức cho vay đến 250 triệu đồng/ người. Trong khi đó thì mức lương tối thiểu để xét cho vay lại hạ xuống, chỉ cần từ 2 triệu đồng/tháng.Thứ tư: các NHTM,nhất là các NHTMCP đã mở rộng phạm vi địa bàn hoạt động, thị phần hoạt động tín dụng của các ngân hàng đẫ thay đổi đáng kể: tính đến tháng 11 năm 2007, các NHTM nhà nước đạt 435,6 ngàn tỷ đồng, chiếm 70%; các NHTMCP đạt 180,4 ngàn tỷ đồng, chiếm 27,7%,như vậy cơ cấu cho vay của các NHTMCP đã tăng đáng kể so với trước. Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thị phần tín dụng tăng khá mạnh từ 60-120% năm.Tuy ngân hàng đã cải tiến và có nhiều thành tựu nổi bật nhưng vẫn không tránh khỏi khuyết điểm.2. Những thách thức của các ngân hàng thương mại
Thứ nhất, khi thẩm định các phương án, dự án vay vốn, một số ngân hàng thường “áp đặt” ý kiến chủ quan của mình đối với khách hàng. Ví dụ, một khách hàng vay vốn đề nghị vay một khoản tiền 5 tỷ đồng với thời hạn 12 tháng; nhưng sau khi thẩm định (vì mục tiêu hạn chế rủi ro cho mình), ngân hàng chỉ đồng ý cho vay 3 tỷ đồng, thời hạn 8 tháng. Những điều kiện mới này, hầu như, được khách hàng chấp thuận, mặc dầu khách hàng chưa cân đối được nguồn vốn cho phần 2 tỷ đồng và 4 tháng bị ngân hàng rút ngắn; trong khi đó, ngân hàng cho vay cũng không phân tích thẩm định, liệu với số tiền cho vay và thời hạn cho vay bị rút ngắn có làm cho khách hàng bị rủi ro trong quá trình sử dụng vốn vay không? Chính yếu tố này là nguyên nhân làm phát sinh các trường hợp rủi ro trong một số ngân hàng thương mại, mà nguồn gốc là khách hàng, có thể, thiếu vốn đầu tư và phải cân đối vốn để trả trước hạn so với dự tính ban đầu.
Thứ hai, từ tư tưởng “áp đặt” mà ngân hàng đã đưa ra nhiều điều khoản ràng buộc đối với khách hàng trong các cam kết giữa hai bên, trong khi ngay chính bản thân ngân hàng cũng biết chắc chắn là những cam kết đó không thể khả thi theo luật định. Phần lớn các quy định trong hợp đồng tín dụng đều mang chế tài bảo vệ người cho vay như: ngân hàng có quyền thay đổi lãi suất cho vay, kiểm tra tình hình tài chính , tài sản đảm bảo tiền vay; đình chỉ cho vay và thu hồi nợ trước hạn; thu hồi nợ bằng các nguồn khác nhau, bao gồm phát mại tài sản đảm bảo, kiểm tra tình hình tài chính , tài sản đảm bảo tiền vay bất cứ lúc nào… Chính tính “áp đặt này” mà trong một số trường hợp, ngân hàng cho vay xử lý các tình huống phát sinh cũng theo cách “bề trên”, dẫn đến việc không sâu sát thực trạng, không nắm bắt được toàn bộ nội dung và bản chất của của sự việc
Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỷ trọng lớn nhất từ 60%-70% trong danh mục tài sản có. Hoạt động tín dụng của mỗi NHTM đều căn cứ, tuân thủ và xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng . Chính sách tín dụng , có thể coi như một cương lĩnh tài trợ của một NHTM, bao gồm các quan điểm, chủ trương ,định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư của NHTM.Thông qua chính sách tín dụng các NHTM thực hiện phân tích tín dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng cho các NHTM. Hiện tại các NHTM đã bước đầu xây dựng chính sách tín dụng tuy nhiên chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, chưa thực sự phát huy hiệu quả quản lý ở Trụ sở chính và thực thi thông suốt ở các đơn vị trực thuộc và ở mỗi cán bộ tín dụng.
Do đó mà thực trạng cho thấy hiện nay các NHTM đều chưa xây dựng được một chiến lược canh tranh dài hạn rõ ràng, đảm bảo tính khả thi cao dựa trên lợi thế riêng có, mà chủ yếu vẫn kinh doanh theo chiến lược ngắn hạn, thậm chí là ‘chụp giật, bóc ngắn-cắn dài”.Ví dụ như 5 NHTM với tổng số vốn thuộc sở hữu nhà nước cũng chỉ đạt khoản 19400tỷ đồng, hệ số an toàn bình quân hệ thống chỉ đạt dưới 5%, trong khi tỷ lệ tương ứng theo thông lệ quốc tế phải đạt tối thiểu 8%. Hoạt động của các NHTM lại chịu không ít rủi ro bởi có tới 70 % vốn huy đông là vốn ngắn hạn, nguồn vốn có kỳ hạn trên 5năm chỉ chiếm khoảng 7%, nhưng các NH hiện nay đang phải sử dụng tới 30-35% vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 12/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vào nền kinh tế của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam tăng gần 37,8% so với cuối năm 2006, vượt xa so với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đề ra cả năm là 18-22% và thực tế năm 2005 chỉ tăng 19,2% và năm 2006 tăng 21,4%. Dư nợ cho vay theo các ngành kinh tế lên tới hơn 1triệu tỷ đồng. Nợ xấu năm 2007 chỉ chiếm 2% tổng dư nợ cho vay, giảm so với cùng kỳ năm trước là 2,65%,Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tăng từ 38% trở lên; các ngân hàng thương mại nhà nước có tốc độ tăng dưới 30%.
Các ngân hàng trong việc xác định ngành hàng chiến lược, khách hàng chiến lược vẫn còn lúng túng; tăng trưởng tín dụng chưa đi kèm với quản lý rủi ro tín dụng ; chính sách lãi suất cho vay còn cứng nhắc, mức lãi suất cho vay hầu như giống nhau đối với với tất cả các khoản vay.Việc tổ chức hạch toán, phân loại nợ, thống kê thông tin tín dụng chưa đảm bảo tính chính xác, minh bạch để làm cơ sở cho việc quản lý tín dụng có hiệu quả; việc tổ chức hệ thốngthông tin phục vụ hoạt động tín dụng còn thiếu và yếu, chưa đồng bộ và độ tin cậy không cao, chất lượng cán bộ tín dụng còn hạn chế, kỹ năng giao tiếp, chăm sóc khách hàng làm chưa bài bản, chuyên nghiệp
3. Một số giải pháp
Thứ nhất: điều chỉnh chính sách tín dụng nhằm đạt được mục tiêu cân băng tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, từng bước phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai: nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng .Cần dành thời gian hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh.
Thứ ba: nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng .Tổ chức lưu trữ, thu thập các thông tin về khách hàng, thông tin thị trường , thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng…dựa trên việc sử dụng các phần mềm tin học.
Thứ tư: cải cách bộ máy tín dụng hoạt động theo thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro tín dụng .Tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập, quyết định tín dụng và quản lý nợ cùng với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đảm bảo tính độc lập, khách quan.Thực hiện sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên của cán bộ các cấp liên quan tới cấp tín dụng và bộ phận kiểm tra và giám sát tín dụng độc lập.
4. Thực trạng tín dụng ở một số ngân hàng thương mại
4.1 Ngân hàng Công Thương (INCOMBank)
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của hoạt động ngân hàng trong năm đầu gia nhập WTO, đồng thời thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt chống lạm phát của Ngân hàng Nhà nước, kinh doanh của NHCTVN vẫn giữ được đà phát triển ổn định và bền vững, là một năm thành công và đạt kết quả to lớn. Qui mô tài sản tăng 24%, tiếp tục cải thiện chất lượng tín dụng đầu tư, lành mạnh tài chính , phát triển sản phẩm dịch vụ, củng cố và mở rộng hệ thống màng lưới, đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại hoá hoạt động nghiệp vụ. Các chỉ tiêu cơ bản đều hoàn thành vượt cao so với kế hoạch. Các mặt hoạt động kinh doanh đều có tăng trưởng so với năm trước, hiệu quả kinh doanh đạt cao. Nguồn vốn huy động tăng 18,4%, cho vay & đầu tư tăng 22,4%, lợi nhuận tăng 83,5% so với năm 2006. Tổng cho vay và đầu tư đến cuối năm 2007 có số dư trên 153.400 tỷ đồng, tăng 22,6% so với năm trước. Trong đó, cho vay nền kinh tế đến 31/12/2007 đạt trên 101.000 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng 28% so với đầu năm, chiếm 10% thị phần cho vay toàn ngành. Về chất lượng cơ cấu tín dụng tiếp tục được cải thiện và đổi mới theo hướng đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn, hiệu quả hơn. Tỷ lệ nợ xấu (nợ nhóm 3, 4,5 ) là 1,02% / mục tiêu dưới 3%. Đến nay, NHCTVN đã tham gia vào 84 dự án đồng tài trợ với số dư nợ chiếm 10% tổng cho vay, là những dự án lớn thuộc các ngành kinh tế quan trọng của đất nước. NHCT Việt Nam chú trọng mở rộng tài trợ vốn và tiếp cận các dự án lớn. Các chương trình tài trợ, đồng tài trợ, cấp tín dụng cho những dự án lớn như Dây chuyền mới Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, Nhà máy Xi măng Công Thanh, Hướng Dương, các nhà máy Thuỷ điện Sông Tranh, Đa Dâng-Bờ Trái, Bản Vẽ, cam kết tín dụng cho thuỷ điện Sơn La,…
NHCTVN tích cực mở rộng thị phần tín dụng bán lẻ, năm 2007 triển khai mới thêm 3 chương trình tín dụng dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: JIBIC giai đoạn 2; Cho vay và bảo lãnh các dự án tiết kiệm hiệu quả năng lượng; Save Chirdren. Bên cạnh việc cung cấp tín dụng , các sản phẩm này còn kèm theo các dịch vụ phi tài chính như đào tạo doanh nghiệp, tư vấn lập dự án, cung cấp thông tin, dịch vụ kiểm toán năng lượng. Đây chính là cơ sở để thu hút khách hàng cũng như tạo sự gắn bó của các khách hàng tốt.
Đối với khách hàng cá nhân, trong năm 2007 NHCTVN đã có các sản phẩm mới: Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán trên sàn giao dịch chính thức; Cho vay mua nhà dự án; Cho vay mua ô tô tiêu dùng; Hợp đồng Đại lý với Công ty Bảo hiểm Quốc tế Mỹ AIA cung cấp sản phẩm kết hợp tín dụng – bảo hiểm trước mắt triển khai tại các thành phố lớn.Các chương trình tài trợ, đồng tài trợ, cấp tín dụng cho những dự án lớn như Dây chuyền mới Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, Nhà máy Xi măng Công Thanh, Hướng Dương, các nhà máy Thuỷ điện Sông Tranh, Đa Dâng-Bờ Trái, Bản Vẽ, cam kết tín dụng cho thuỷ điện Sơn La,…
Định hướng mục tiêu hoạt động kinh doanh trong năm 2008 của NHCTVN là: Tiếp tục cơ cấu lại toàn diện hoạt động, thực hiện 4 hoá: Hiện đại hoá; Cổ phần hoá; Chuẩn hoá các nghiệp vụ, quản trị ngân hàng , nhân sự cán bộ; Công khai minh bạch hoá, lành mạnh tài chính . Tăng trưởng mạnh về vốn, đầu tư cho vay, tổng tài sản nợ, tổng tài sản có, thị phần trên nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững. Hoàn thiện và phát triển bộ máy, hệ thống màng lưới kinh doanh, phát triển thị trường , phát triển khách hàng. Đảm bảo an ninh tài chính , an toàn tuyệt đối trong mọi hoạt động của NHCTVN. Thực hiện cải cách hành chính, phong cách giao dịch, xây dựng văn hoá doanh nghiệp, thương hiệu của NHCTVN, tạo ra một môi trường kinh doanh tốt, đem đến lợi ích chung cho toàn hệ thống cũng như lợi ích cho khách hàng của NHCTVN.
4.2.Ngân hàng ACB
Là một ngân hàng trẻ với sản phẩm dịch vụ chính là:1.huy động vốn bằng đồng VN ., ngoại tệ và vàng.2.sử dụng vốn bằng đồng VN, ngoại tệ và vàng.4.các dịch vụ trung gian khác.5.kinh doanh ngoại tệ và vàng.6.phát hành và thanh toán thẻ tín dụng , thẻ ghị nợ.
Vài năm gần đây , ACB đã đạt được nhiều thành công:
năm thành công của ACB với việc huy động tốt đã nâng tổng tài sản của ACB lên 24247 tỷ đồng, tăng 57%so với năm 2004. Dư nợ tín dụng tăng trưởng khả quan : tốc độ tăng năm 2005 đạt 42% trong khi toàn ngành ngân hàng tăng 22.5 % , tổng dư nợ cho vay đạt 9565 tỷ đồng trong đó vay khách hàng cá nhân chiếm 49% ; cho vay khách hàng doanh nghiệp chiếm 51%, tỷ lệ nợ xấu đều dưới mức 1% và có hướng giảm dần
Với sự phát triển không ngừng ,cùng nhiều hoạt động thúc đẩy dịch vụ tín dụng của ngân hàng như ngân hàng tổ chức hoạt động tín dụng dự thưởng”vay ngay trúng lớn” kéo dài từ 29/10/2007 đến 25/1/2008, hoạt động này trao giải cho khách hàng là cá nhân hoặc doanh nghiệp may mắn có khoản vay đáp ứng điều kiện của chương trình. Năm 2007 , ngân hàng đã đạt được
tổng tài sản đạt 87000 tỷ, tăng 96, 2% so với năm 2006.
dư nợ tín dụng là 31600 tỷ , tăng 84,6% so với năm 2006.
vốn huy động là 75300 tăng 107,1%so với năm 2006
Trong đó dư nợ cho vay chứng khoán chiếm 2,4%tổng dư nợ ACB nắm tới 57% thị phần thẻ tín dụng quốc tế,6% thị phần huy động tiết kiệm cả nước, 55%thị phần dịch vụ chuyển tiền nhanh western Union và là ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất trong khối các ngân hàng cổ phần
IV. HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC TRONG HOẠT ĐỘNG
PHÂN TÍCH TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhưng hoạt động phân tích tín dụng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế và vướng mắc nhất định.Tín dụng vẫn là hoạt động tạo thu nhập chính của các ngân hàng Việt Nam, nhưng tình trạng ""độc canh" tín dụng lại quá phổ biến. Sự ngại thay đổi, chia lẻ thị trường và "ngại hy sinh" của các nhà băng đang làm tăng khả năng tổn thương với thị trường tài chính .Đáng nói hiện nay, tình trạng "độc canh" tín dụng vẫn còn phổ biến ở nhiều ngân hàng . Tín dụng vẫn là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các NHTM Việt Nam, nơi mà các hoạt động phi tín dụng và dịch vụ phụ chưa phát triển. Hầu hết các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại mới chỉ ở giai đoạn thứ nghiệp hoặc triển khai thí điểm. Gần như mỗi nhà băng vẫn có một nhóm khách hàng thân quen riêng và địa bàn riêng, ngại sự thay đổi và chưa mạnh dạn ""mạo hiểm"" với thị trường . Các chuyên gia dẫn chứng, sự chia lẻ và thiếu gắn kết của thị trường thẻ ATM đang là một ví dụ điển hình cho sự thiếu gắn kết và ""ngại hy sinh lợi ích"" của các nhà băng Việt Nam.
Chưa có sự phân tích rõ ràng chức năng giữa bộ phận giao dịch với khách hàng với bộ phận thẩm định lại theo dõi khách hàng.Đôi khi cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ tiếp xúc với khách hàng cũng làm cả việc theo dõi sau cho vay và phân tích tình hình tài chính của khách hàng sau cho vay,đièu này mất tính khách quan, có thể dẫn tới móc ngoặc gây rủi ro tín dụng .Hệ thống hạn mức tín dụng chưa được thiết lập đầy đủ,đôi khi chưa được thiết lập trên cơ sở đánh giá tình hình tài chính của khách hàng.
Việc xử lí chỉ đạo công việc đôi khi còn bỏ qua yêu cầu mọi vấn đề phải được thể hiện bằng văn bản,cấp trên có thể ra lệnh cho cấp dưới bằng miệng hay bằng những kí hiệu riêng mà không được phép
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình tín dụng chưa đầy đủ,chưa hiệu quả và chưa tuân thủ một cách nghiêm túc ở mọi chi nhánh của các tổ chức tín dụng .Tổ chức tín dụng có thể giảm rủi ro tín dụng bằng nhận cầm cố,thế chấp khi cho vay.Tuy nhiên việc xác định giá trị của các tài sản thế chấp,cầm cố không phải là vấn đề đơn giản.Việc cho vay đôi khi còn chịu mệnh lệnh hành chính.
Nhân viên tổ chức tín dụng còn gặp nhiều khó khăn trong đánh giá tình hình tài chính của khách hàng vay,do một số tổ chức tín dụng chưa có quy trình dánh giá tình hình tài chính của khách hàng vay một cách có hệ thống để xếp hạng khách hàng, do chưa có sự minh bạch trong tình hình tài chính của khách hàng vay
Hệ thống IT tại các tổ chức tín dụng nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu, gây khó khăn trong việc xử lí cũng như cho việc thông tin, báo cáo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tín dụng - thực trạng và giải pháp tại việt nam.docx