Nếu như nói đến Tín dụng là chỉ nói đến sự chuyển giao vốn giữa các chủ thể với nhau, thì Tín dụng Tiêu dùng làm người ta nghĩ ngay đến mục đích của việc chuyển giao đó. Có thể nói đây là mảng nghiệp vụ của ngân hàng tiếp cận gần nhất với cuộc sống của người lao động, nhằm hỗ trợ họ trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Nhu cầu của con người ngày càng được tăng lên cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, kèm theo đó là hàng loạt các đòi hỏi cần được thoả mãn. Khả năng tài chính trở thành yếu tố rất quan trọng để tài trợ cho những nhu cầu đó, nhưng trong nhiều trường hợp nhu cầu tiêu dùng thường xuất hiện trước khi quỹ đầu tư cá nhân được hình thành. Tức là có sự tách biệt về yếu tố thời gian đối với nhu cầu tiêu dùng và khả năng tài chính của con người. Khi đó người ta sử dụng Tín dụng Tiêu dùng như là sự ứng trước của quỹ đầu tư cá nhân sẽ được hình thành trong tương lai để thoả mãn các nhu cầu trong hiện tại. Chính vì mục đích đó nên ngay từ khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra chủ trương kích cầu bằng Cho Vay Tiêu Dùng và đươc thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại, thì loại hình này đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ phía người lao động.
Tín dụng Tiêu dùng không những đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, góp phần cải thiện đời sống của người lao động ngày một tốt hơn; đồng thời nó là sợi dây gắn kết giữa người lao động với cơ quan, doanh nghiệp, nơi họ làm việc; từ đó có thể tăng năng lực lao động và khả năng cống hiến cho xã hội. Hơn thế nữa, cùng với xu thế đa dạng hoá trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại, và với sự cạnh tranh gay gắt trong việc giải quyết đầu ra cho nguồn vốn của các ngân hàng thì mảng Tín dụng Tiêu dùng được các ngân hàng sử dụng như là nghiệp vụ nhằm hướng đến một thị trường mới mẻ đầy tiềm năng mà trước đây chưa được khai thác.
Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với tình hình thực tế về Cho Vay Tiêu Dùng tại ngân hàng Á Châu ¬- chi nhánh Đà Nẵng, qua thời gian thực tập tại ngân hàng em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu ”. Qua đó em xin đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn hoạt động Cho Vay Tiêu Dùng của Ngân hàng.
Nội dung đề tài gồm ba phần như sau:
Phần I: Ngân hàng Thương mại với hoạt động Cho Vay Tiêu Dùng
Phần II: Phân tích tình hình Cho Vay Tiêu Dùng Tại Ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng
Phần III: Một số ý kiến nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác Cho Vay Tiêu Dùng tại ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng.
Vì thời gian thực tập có hạn và kiến thức thực tế còn ít ỏi, hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của cán bộ ngân hàng, các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
43 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4293 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho vay trong năm 2002 là 19.632 triệu đồng sang năm 2003 đạt 21.718 triệu đồng, tăng lên 2.086 triệu đồng so với năm 2002 ứng với mức tăng là 10,63 %. Còn cho vay có tài sản đảm bảo chủ yếu là thế chấp bất động sản thì gia tăng đáng kể. Nếu năm 2002 doanh số cho vay là 9.685 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 33,04 % trong tổng doanh số cho vay thì năm 2003 là 17.657 triệu đồng chiếm tỉ trọng 44,84 % với tốc độ tăng tương ứng là 82,31 %. Điều này có thể thấy chủ trương đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng trong hoạt động cho vay tiêu dùng nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu vốn vay của khách hàng.
b.Về doanh số thu nợ :
Ngoài doanh số cho vay thì doanh số thu nợ cũng là một chỉ số để đánh giá về chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nó không chỉ thể hiện khả năng thu hồi nợ vay của ngân hàng mà còn chứng tỏ việc sử dụng vốn vay có hiệu quả, tình hình tài chính ổn định và khả năng hoàn trả nợ vay đầy đủ, đúng hạn của khách hàng. Để đánh giá công tác thu nợ với từng hình thức đảm bảo ra sao ta xem bảng số liệu sau:
BẢNG 12: DOANH SỐ THU NỢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẢM BẢO
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Số tiền Tỉ lệ (%)
- Đảm bảo không bằng tài sản ( CBCNV ) 13.299
68,36
19.284
66,30
+5.985
+45,00
- Đảm bảo bằng tài sản 6.154 31,64 9.804 33,70 +3.650 +59,31
Tổng : 19.453 100 29.088 100 +9.635 +49,53
Doanh số thu nợ vay không có tài sản đảm bảo chiếm tỉ trọng cao trong tổng doanh số thu nợ và đạt 19.284 triệu đồng năm 2003, tăng 5.985 triệu đồng tương ứng với mức tăng 45 % so với năm 2002. Đây là kết quả của việc thực hiện tốt công tác đôn đốc, nhắc nhở thu nợ đúng hạn, tăng cường công tác thẩm định trước khi cho vay của cán bộ tín dụng thời gian qua. Khả năng trả nợ của những khách hàng vay có tài sản đảm bảo cũng tăng không kém, năm 2002 doanh số thu nợ là 6.154 triệu đồng, năm 2003 là 9.804 triệu đồng, tăng 3.650 triệu đồng với mức tăng tương ứng là 59,31%. Mức tăng này là phù hợp với mức tăng doanh số cho vay của hình thức này trong năm 2003. Bên cạnh đó, do nợ vay được đảm bảo bằng tài sản nên khách hàng có trách nhiệm hơn trong việc trả nợ ngân hàng.
c. Về dư nợ bình quân và nợ quá hạn bình quân :
BẢNG 13 : DƯ NỢ BÌNH QUÂN VÀ NỢ QUÁ HẠN BÌNH QUÂN CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẢM BẢO
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
DNBQ NQH
BQ N QH B Q
D N B Q DNBQ NQH
BQ N QH B Q
D N B Q DNBQ NQH
BQ
Đảm bảo không bằng t ài sản ( CBCNV ) 18. 466,5
1.117
6,05
22. 850
954,27
4,18
4. 383,5
-162,73
Đ ảm b ả o b ằ n g
t a ìi s ả n 8. 750,5
0 0 14. 442,5 202,23 1,4 5. 692
+202,23
Tổng 21. 217 1.117 4,10 37. 292,5 1.156,5 3,10 10. 075,5 +39,50
Dư nợ bình quân của từng hình thức đảm bảo đều tăng mạnh. Trong đó, dư nợ bình quân của cho vay có tài sản đảm bảo tăng nhanh nhất đạt 14442,5 triệu đồng tăng 5.692 triệu đồng so với năm 2002. Bởi vì cho vay đối với hình thức này được ngân hàng chú trọng đẩy mạnh và doanh số cho vay hình thức này năm 2003 cũng gia tăng lớn nhất. Điều này là một phần trong việc thực hiện chủ trương chung của ngân hàng là mở rộng cho vay trên cơ sở có tài sản đảm bảo, tạo sự phát triển an toàn và hiệu quả đối với hoạt động tín dụng. Cùng với sự gia tăng dư nợ bình quân thì trong năm 2003 có nợ quá hạn bình quân đối với hình thức cho vay này là 202,23 triệu đồng với tỉ lệ nợ quá hạn tương ứng 1,4 %. Nợ quá hạn đối với hình thức này mới phát sinh nhưng có xu hướng gia tăng, ngân hàng cần phải tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp xử lí kịp thời.
Dư nợ bình quân cho vay không có tài sản đảm bảo (cho vay CBCNV) năm 2003 tăng 4383,5 triệu đồng còn nợ quá hạn bình quân là 954,27 triệu đồng giảm 162,73 triệu đồng so với năm 2002 làm cho tỉ lệ nợ quá hạn giảm từ 6,05 % năm 2002 xuống còn 4,18 % năm 2003. Nguyên nhân giảm tỉ lệ nợ quá hạn đối với cán bộ công nhân viên là kết quả của việc nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn của cán bộ tín dụng, kịp thời phối hợp đại diện cơ quan, đơn vị nơi khách hàng công tác để thu hồi nợ ngay khi mới phát sinh nợ quá hạn. Mặt khác ngân hàng đã có sự lựa chọn kĩ càng khách hàng để cho vay nên cũng góp phần giảm nợ quá hạn. Tuy nhiên, với tỉ lệ nợ quá hạn hiện nay vẫn còn cao ngân hàng cần nâng cao ý thức trả nợ của khách hàng và có biện pháp kiên quyết xử lí đối với những trường hợp cố tình dây dưa, không thực hiện trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
4. Phân tích nợ quá hạn theo thời hạn quá hạn và theo nguyên nhân phát sinh:
BẢNG 14: NỢ QUÁ HẠN BÌNH QUÂN THEO THỜI HẠN QUÁ HẠN
ĐVT: Triệu đồng
Thời hạn quá hạn Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ (%)
Dưới 6 tháng 536,16 624,52 + 88,36 +16,48
Từ 6 tháng đến dưới 12 tháng 357,44 404,76 +47,32 +13,24
Từ 12 tháng trở lên. 223,4 127,22 - 96,18 -43,05
Tổng 1.117,0 1.156,5 +39,5 +3,53
Hiện nay, ngân hàng đã thực hiện việc chuyển nợ quá hạn theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN : Khi đến kì hạn trả nợ gốc hoặc lãi nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ hoặc lãi thì Tổ chức tín dụng chuyển toàn bộ số dư nợ gốc sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn gia tăng so với năm 2003 là 39,5 triệu đồng tốc độ tăng 3,53 %. Trong đó, nợ quá hạn dưới 6 tháng chiếm phần lớn và gia tăng mạnh nhất với số tiền là 88,36 triệu đồng với tốc độ tăng là 16,48 %. Nợ quá hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng tăng lên 47,32 triệu đồng so với năm 2002 và tốc độ tăng là 13,24 %. Riêng nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên thì giảm từ 223,4 triệu đồng năm 2002 xuống còn 127,22 triệu đồng năm 2003. Đây là kết quả của việc ngân hàng đã chỉ đạo sát sao việc thu hồi nợ trên 12 tháng và ngăn chặn phát sinh nợ trên 12 tháng trong năm 2003.
Để khắc phục tình trạng nợ quá hạn ta đi tìm hiểu nguyên nhân phát sinh :
BẢNG 15: NỢ QUÁ HẠN BÌNH QUÂN THEO NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH:
ĐVT: Triệu đồng
Nguyên nhân Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lê û(%)
I.Nguyên nhân khách quan 55,85 69,39 +13,54 +24,24
II.Nguyên nhân chủ quan 1061,15 1087,11 +25,96 +2,45
1. Về phía khách hàng 912,59 933,35 +20,76 +2,27
2.Về phía khách hàng 148,56 153,76 +5,2 +3,50
Tổng 1.117,0 1.156,5 +39,5 +3,53
Việc xác định nguyên nhân gây ra nợ quá hạn sẽ giúp ngân hàng có hướng thu hồi, xử lí dễ dàng hơn. Năm 2002, nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan là 55,85 triệu đồng, năm 2003 là 69,39 triệu đồng với tốc độ gia tăng là 24,24 %. Đây là những trường hợp mà người vay bị đau ốm, phải nghỉ việc để chữa bệnh, chết hoặc tai nạn làm giảm sút thu nhập hoặc thu nhập chỉ đủ cho chi tiêu mà không trả nợ ngân hàng được. Những trường hợp này ngân hàng nên xem xét giảm nợ cho họ.
Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan năm 2003 là 1087,11 triệu đồng tăng 25,96 triệu đồng so với năm 2002 , tốc độ tăng là 2,45 %. Trong đó, nguyên nhân chủ quan về phía khách hàng là 933,35 triệu đồng tăng 2,27 % so với năm 2002. Như vậy, nguyên nhân này chiếm tỷ lệ đáng kể trong nợ quá hạn. Khách hàng không trả nợ vì lý do công việc như công tác xa một vài tháng, đi công tác đột xuất nhưng lại rơi vào thời hạn trả nợ ngân hàng, nợ bị nộp chậm vài ngày đã chuyển sang nợ quá hạn. Phần lớn ý thức trả nợ của khách hàng chưa cao. Những khoản nợ này ngân hàng có khả năng thu hồi nhưng phải luôn đôn đốc nhắc nhở họ, nhất là đối với cán bộ công nhân viên vay đảm bảo bằng lương. Bên cạnh đó vẫn có trường hợp khách hàng vay nợ nhưng cố tình lừa đảo hoặc vay cùng lúc nhiều nơi.
Nợ quá hạn hai năm qua phần lớn thuộc về các khách hàng vay từ những ngày đầu ngân hàng cho vay cán bộ công nhân viên nên nguyên nhân chủ quan gây ra nợ quá hạn từ phía ngân hàng chủ yếu là do ngân hàng còn sơ suất trong quá trình thẩm định người vay do cán bộ tín dụng chưa có nhiều kinh nghiệm, do sự mở rộng ồ ạt và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng làm cho ngân hàng dễ dàng hơn về điều kiện cho vay. Bên cạnh đó, ngân hàng chưa thực sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan, đơn vị người vay vốn công tác để quản lý, theo dõi người vay nên có trường hợp cán bộ, nhân viên chuyển nơi công tác, làm việc ở cơ quan khác không thông báo cho ngân hàng; xin xác nhận bảng lương để đi vay ở nhiều nơi hoặc khi cho vay có tài sản đảm bảo ngân hàng chú trọng vào giá trị của tài sản đảm bảo mà chưa xem xét kĩ năng lực trả nợ của người vay.
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÀ NẴNG THỜI GIAN QUA ( 2002-2003)
1.Kết quả hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng qua hai năm 2002-2003
BẢNG 16: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÀ NẴNG
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2003/ 2002
Số tiền Tỉ lệ (%)
I. Thu nhập 75.825 82.913 +7.088 +9,35
1.Thu lãi cho vay, lãi tiền gửi. 69.605 75.688 +6.083 +8,74
2.Thu dịch vụ ngân hàng 5.821 6.752 +931 +15,99
3.Các khoản thu khác 399 473 +74 +18,55
II. Chi phí 56.960 62.916 +5.956 +10,46
1.Chi trả lãi tiền gửi, tiền vay. 45.768 51.572 +5.804 +12,68
2.Các khoản chi khác 11.192 11.344 +152 +1,36
III. Lợi nhuận 18.865 19.997 +1.132 +6,0
Trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng phải bỏ ra các khoản chi phí nhất định để tạo ra thu nhập. Chênh lệch giữa thu nhập đạt được và chi phí bỏ ra càng lớn thì lợi nhuận mang lại càng cao, kinh doanh ngân hàng càng hiệu quả. Do vậy, để đánh giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng như thế nào, ta xem xét các yếu tố thu nhập, chi phí và lợi nhuận.
Thu nhập của ngân hàng năm qua tăng 7.088 triệu đồng với tốc độ tăng là 9,35 % so với năm 2002, trong đó thu nhập từ hoạt động cho vay tăng 6.038 triệu đồng với tốc độ tăng là 8,74 % do trong năm qua ngân hàng gia tăng doanh số cho vay. Ngoài ra, năm qua ngân hàng đẩy mạnh việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng nhằm tăng nguồn thu từ hoạt động này nên thu từ dịch vụ ngân hàng tăng 931 triệu đồng với tốc độ tăng 15,99 % và thu khác tăng 74 triệu đồng với tốc độ gia tăng là 18,55 %. Cùng với sự tăng lên về thu nhập thì chi phí hoạt động của ngân hàng cũng tăng không kém với tốc độ gia tăng là 10,46 % ứng với số tiền là 5.956 triệu đồng. Trong đó chi phí trả lãi tăng lên 5.804 triệu đồng với mức tăng tương ứng là 12,68 % còn chi phí khác chỉ tăng 152 triệu đồng với mức tăng tương ứng là 1,36 % nhờ ngân hàng đã cắt giảm những khoản chi tiêu không hợp lí.
Lợi nhuận thu được năm 2003 đạt 19.997 triệu đồng tăng lên 1.132 triệu đồng với tốc độ gia tăng là 6%. Trong hai năm qua, hoạt động kinh doanh ngân hàng đã được những kết quả đáng khích lệ nhờ sự nỗ lực của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cần phải phấn đấu nhiều hơn để tăng lợi nhuận cao hơn nữa góp phần vào sự ổn định và lớn mạnh của toàn hệ thống qua đó tạo lập vị thế của ngân hàng và nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên ngân hàng.
2. Kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng :
Để đánh giá kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng ta đi tính lợi nhuận thu từ hoạt động này. Do kết quả hoạt động kinh doanh ngân hàng không có hạch toán riêng rẽ đối với từng khoản vay theo mục đích hay kì hạn nên để tính thu nhập và chi phí của cho vay tiêu dùng ta phân phối các khoản này theo mức dư nợ bình quân.
* Thu nhập cho vay tiêu dùng = Thu lãi cho vay .
* Chi phí cho vay tiêu dùng được phân bổ như sau:
= .
= Chi phí khác .
* Lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng:
Lợi nhuận = thu nhập - ( chi phí trả lãi huy động + chi phí khác).
BẢNG 17 : KẾT QUẢ TÀI CHÍNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG QUA HAI NĂM 2002-2003
ĐVT : Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
Số tiền Tỉ lệ (%)
I.Thu nhập 1.538,7 2.037,09 498,39 32,39
II.Chi phí 1.235,53 1.666,74 431,21 34,9
1.Chi phí trả lãi 1.008,41 1.388,03 379,62 37,65
2.Chi phí khác 227,12 278,71 51,59 22,71
III. Lợi nhuận 303,17 370,35 67,18 22,16
Trong năm 2003 thu nhập từ hoạt động cho vay tiêu dùng đạt 2.037,09 triệu đồng tăng 498,39 triệu đồng với tốc độ gia tăng là 32,39 % nhờ ngân hàng đã mở rộng địa bàn và gia tăng doanh số cho vay. Chi phí trả lãi vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng chi phí cho vay, chi phí này năm 2003 là 1.666,74 triệu đồng, gia tăng với tốc độ 37,65 % so với năm 2002. Lợi nhuận đạt được năm 2002 là 303,17 triệu đồng, năm 2003 là 370,35 triệu đồng gia tăng với tốc độ là 22,16 % so với năm 2002.
Hoạt động cho vay này có khả năng mang lại lợi nhuận nhiều hơn nếu ngân hàng có những biện pháp giảm chi phí huy động vốn vay trên cơ sở đó tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh, thu hút được thêm nhiều khách hàng, góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng.
CHƯƠNG III :
GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÀ NẴNG
I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÀ NẴNG :
1. Những thuận lợi trong hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng :
- Trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh ngân hàng đã được sự quan tâm, giúp đỡ kịp thời của chính phủ : như ban hành các văn bản pháp lí, chỉ đạo các ban ngành, các cấp chính quyền có liên quan tăng cường phối hợp, tạo điều kiện cho ngân hàng trong quá trình hoạt động, cấp bổ sung vốn điều lệ cho ngân hàng Công Thương theo lộ trình cơ cấu lại các ngân hàng thương mại đã được duyệt giúp nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Trên cơ sở đó, ngân hàng đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ từ các cấp uỷ ban, xây dựng uy tín và niềm tin trong lòng khách hàng nên ngân hàng thời gian qua đã giữ vững thị phần, tiếp tục có những bước đi phù hợp để ngày càng phát triển, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế .
- Hiện nay, nền kinh tế cả nước nói chung và kinh tế của thành phố Đà nẵng nói riêng có những bước phát triển ổn định và vững chắc, hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế ngày càng có hiệu quả, thu nhập của người lao động ngày càng được cải thiện rõ rệt. Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế - xã hội là những thay đổi trong nhận thức của người dân và trong dư luận xã hội. Con người ngày nay được tự do phát triển mọi mặt của cuộc sống: từ hoạt động sản xuất kinh doanh đến hưởng thụ, thoả mãn mọi nhu cầu chính đáng của bản thân và gia đình. Song không phải mọi nhu cầu của họ đều được thoả mãn do hạn chế về khả năng tài chính và cần phải có sự tích luỹ lâu dài. Nhu cầu chi tiêu này đã được giải quyết phần nào khi họ tìm đến nguồn vốn ngân hàng thông qua hình thức cho vay trả góp. Đây là tiền đề thuận lợi để ngân hàng phát triển và mở rộng nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. Thực tế, thời gian qua nghiệp vụ này đã thu hút được sự quan tâm và hưởng ứng của nhiều người.
- Ngân hàng có mạng lưới chi nhánh, các tổ huy động và cho vay phân bố ở nhiều khu vực khác nhau trên địa bàn. Những địa điểm này là nơi tập trung nhiều công ty, xí nghiệp, trường học nên ngân hàng có điều kiện tiếp cận với nhu cầu vay vốn của cán bộ viên chức, người lao động có thu nhập ổn định, việc quản lí và giám sát thu hối nợ vay dễ dàng và thuận lợi hơn.
- Đội ngũ cán bộ tín dụng được bổ sung về số lượng và trình độ chuyên môn. Cán bộ làm công tác cho vay tiêu dùng hiện nay do đã có nhiều kinh nghiệm qua một thời gian đảm nhận công việc này nên khả năng thẩm định tốt hơn, năng lực giải quyết công việc nhanh chóng và chính xác hơn.
- Công tác quản lí hồ sơ khách hàng đã được ngân hàng chú trọng. Điều này phần nào cung cấp được nhu cầu thông tin về khách hàng khi thẩm định và xét duyệt cho vay, giảm thời gian chờ đợi, nâng cao hiệu quả công việc.
2. Những khó khăn trong hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng :
- Trên địa bàn hiện nay, ngoài bốn ngân hàng thương mại quốc doanh còn có một số lượng đáng kể các ngân hàng thương mại cổ phần cùng hoạt động. Các ngân hàng này với qui mô nguồn vốn nhỏ hơn có xu hướng đầu tư tín dụng vào đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình thông qua cho vay tiêu dùng trả góp với những hình thức sản phẩm đa dạng, cải tiến về chất lượng dịch vụ đây là những khó khăn mà ngân hàng cần quan tâm để tăng cường vị thế cạnh tranh.
- Tình trạng phát sinh nợ quá hạn vẫn xảy ra, tỷ lệ nợ quá hạn trong dư nợ còn khá cao, gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, ngân hàng chưa có biện pháp hữu hiệu để khắc phục .
- Việc phát mãi tài sản thu hồi nợ còn chậm do gặp những vướng mắc về thủ tục, hồ sơ pháp lí gây ứ đọng vốn, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2004 - 2005 :
- Tập trung cải biến mạnh mẽ chất lượng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng Công Thương theo hướng đa dạng, đa năng, tiện ích. Đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án hiện đại hoá, tung ra các sản phẩm mới như : dịch vụ ngân hàng trực tuyến, các sản phẩm ngân hàng điện tử ( internet banking, phone-banking ), ngân hàng lưu động ( mobile-banking) ,các sản phẩm thanh toán mới như thẻ tiền lẻ, thẻ thanh toán ICB-ATM tích hợp các tiện ích thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, phát hành thẻ tín dụng quốc tế, mở rộng hệ thống đại lí chấp nhận thẻ tín dụng.
- Thực hiện cơ cấu lại nguồn vốn huy động có lãi suất đầu vào hợp lí, nguồn vốn ổn định. Cơ cấu lại dư nợ tín dụng theo hướng tăng tỷ trọng nợ có đảm bảo, tăng cho vay kinh tế dân doanh, phân tán rủi ro.
- Tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán trong nước, dịch vụ ngân hàng quốc tế như nghiệp vụ L/C, D/P, D/A, T/T, các dịch vụ ngoại hối, kiều hối.
- Cải cách qui trình, thủ tục, hồ sơ giao dịch đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng. Cải tiến cơ chế theo hướng vừa đúng luật, vừa thông thoáng, linh hoạt.
- Xây dựng phong cách giao dịch mang đặc trưng thương hiệu ngân hàng Công Thương. ( Incombank ).
- Tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến, tiếp thị và chăm sóc khách hàng.
III. GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐÀ NẴNG
Hoạt động cho vay tiêu dùng vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác để gia tăng dư nợ. Hoạt động này vẫn còn xa lạ với nhiều người vì ngân hàng chưa có các chính sách tuyên truyền, tiếp thị sâu rộng. Do cho vay tiêu dùng có tính chất các món vay nhỏ lẻ, chi phí quản lí từng món vay lớn, thời hạn vay thường trên một năm nên việc gia tăng doanh số cho vay, gia tăng số lượng món vay, tăng lượng khách hàng là cần thiết để giảm chi phí, góp phần gia tăng lợi nhuận. Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng, hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn phát sinh cũng không kém phần quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sau đây em xin đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng :
1. Huy động vốn từ các tổ chức và dân cư :
Tiền đề cần thiết để tiến hành hoạt động cho vay là phải có vốn. Nguồn vốn huy động có vai trò quan trọng trong các quyết định cho vay và đầu tư của ngân hàng bởi ngân hàng đi vay để cho vay. Trong những năm qua, ngân hàng Công Thương đã chủ động về nguồn vốn hoạt động, giảm sự lệ thuộc vào nguồn vốn điều chuyển từ ngân hàng tổng, dựa vào nội lực để khai thác nguồn vốn tại địa phương là chính thông qua các phương thức huy động vốn hiệu quả từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trên địa bàn.
Trong huy động vốn hiện nay ngân hàng cần có phương án khơi tăng nguồn vốn trên 12 tháng, xây dựng kế hoạch chỉ tiêu cụ thể cho từng quí, từng đối tượng khách hàng, từng khu vực dân cư. Bởi vì hiện nay, nguồn vốn huy động được của ngân hàng chủ yếu là vốn ngắn hạn, ngân hàng chỉ được sử dụng 30% để cho vay trung, dài hạn trong khi đó nhu cầu của khách hàng cũng như chủ trương của ngân hàng là tăng dần tỉ trọng cho vay trung, dài hạn như cho vay tiêu dùng thì yêu cầu về vốn vay trung hạn là chủ yếu. Vốn trong dân cư là “ vùng đất rộng lớn “, phong phú và tạo nền tảng ổn định lâu dài nếu ngân hàng biết huy động do những năm gần đây nền kinh tế tăng trưởng cao thu nhập bình quân đầu người tăng lên, thu nhập đảm bảo cho chi tiêu ngoài ra còn có tích luỹ. Với những người chưa có nhu cầu sử dụng thì họ để dành ở nhà, mua kì phiếu, trái phiếu hoặc gửi tiền vào một ngân hàng nào đó. Ngân hàng cần phải có chiến lược huy động vốn phù hợp nhằm thu hút được số lượng tiền nhàn rỗi lớn còn nằm trong dân cư với chi phí thấp và hướng họ gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng mình. Khi yếu tố lãi suất không có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng như hiện nay thì việc tạo ra tiện ích về dịch vụ cho khách hàng là yếu tố quan trọng để cạnh tranh. Ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng sự tiện lợi về địa điểm giao dịch, giảm thời gian chờ đợi khi làm thủ tục gửi hoặc rút tiền, bí mật về số dư theo yêu cầu của khách hàng, phát triển giao dịch qua mạng điện tử, thu tiền tại nhà. Đồng thời tăng cường công tác bảo đảm an ninh tại ngân hàng và các quỹ tiết kiệm.
Nghiên cứu mở rộng các phương thức huy động vốn mới như: tiết kiệm đầu tư cho đi học, tiết kiệm cải thiện nhà ở... kết nối và chuyển hoá hài hoà giữa huy động với cho vay tiêu dùng. Những nhu cầu tiêu dùng xuất hiện khi tích luỹ chưa đủ thì ngân hàng có thể cho khách hàng vay, một mặt ngân hàng vừa gia tăng doanh số một mặt đơn giản về thủ tục do tài sản đảm bảo là tiền gửi tại ngân hàng. Hơn nữa, khi gửi tiền tại ngân hàng thì người gửi có tâm lí mong muốn sẽ được ngân hàng cho vay vốn khi mình có nhu cầu .
Để huy động vốn có hiệu quả thì không thể không thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng cáo nhằm thu hút cá nhân đến với ngân hàng khi có nhu cầu gửi tiền. Ngân hàng có thể thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, treo băng-rôn với mẫu biểu thống nhất trước trụ sở các điểm giao dịch của ngân hàng, đặt áp phích tại những khu vực trung tâm, phân phát các tờ rơi, ...Đồng thời được tập trung vào các thời điểm nhất định, như : ngày lễ, ngày tết, dịp kỉ niệm; vào các dịp ngân hàng tung ra các sản phẩm, dịch vụ mới hay một chiến dịch mới về huy động vốn phát hành kì phiếu hay trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi trung dài hạn. Yếu tố con người có vai trò rất lớn trong kinh doanh ngân hàng. Vì vậy, ngoài nghiệp vụ chuyên môn thì cán bộ ngân hàng cần phải có kĩ năng tiếp thị, chăm sóc khách hàng : có thái độ phục vụ chu đáo, hướng dẫn tận tình, tạo sự thoải mái khi đến giao dịch, thăm hỏi, tặng quà cho những khách hàng có quá trình gắn bó lâu dài và có số dư tiền gửi lớn tại ngân hàng.
2. Phát triển các sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp :
Sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng chưa có sự đa dạng hoá mà chỉ là cho vay với mục đích chủ yếu là sữa chữa, mua sắm nhà ở, mua phương tiện đi lại. Lãi suất cho vay chỉ phân biệt giữa các thời hạn chứ không có sự phân biệt theo mục đích hoặc đối tượng khách hàng. Trong khi các nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống và việc thoả mãn các nhu cầu đó càng phong phú trong dân cư, ngân hàng nên nghiên cứu, tìm hiểu để đưa ra các sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp với nhu cầu, thu nhập của các nhóm đối tượng khách hàng khác nhau:
- Cho vay mua xe ô tô đối với những người có thu nhập cao như giám đốc các doanh nghiệp tư nhân...;
- Cho vay du học sinh với vốn vay được giải ngân làm nhiều lần, ưu đãi hơn về lãi suất và phí chuyển tiền và thực sự thời gian qua nhu cầu này không ngừng gia tăng khi có một lượng lớn học sinh, sinh viên có nguyện vọng du học ở nước ngoài.
- Cho vay mua sắm nhà ở chung cư có giá trị cho cán bộ công nhân viên với thời hạn trên 3 năm và đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đây là hình thức tài trợ bán trả góp của ngân hàng đối với các công ty xây dựng và kinh doanh nhà ở. Đầu tiên, ngân hàng, khách hàng và đại diện công ty thoả thuận với nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần. Sau đó, ngân hàng cho người mua nhà vay phần tiền chưa trả đủ cho công ty và giữ lại quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ. Có thể mô tả theo sơ đồ sau:
(1) Người mua trả trước 20-30% giá trị ngôi nhà cho công ty.
(2) Công ty giao nhà cho người mua đồng thời giữ lại giấy tờ sở hữu nhà.
(3) Công ty giao giấy tờ sở hữu nhà cho ngân hàng làm thế chấp.
(4) Ngân hàng trả phần tiền người mua còn thiếu cho công ty.( 70-80% )
(5) Người mua trả góp cho ngân hàng theo mức và kì hạn được xác định.
(6) Ngân hàng giao giấy tờ sở hữu nhà cho người mua sau khi người mua hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
3. Thực hiện chính sách Marketing :
Nhận thức được tầm quan trọng của Marketing trong kinh doanh ngân hàng và áp dụng vào thực tiễn sẽ tạo được hiệu quả tích cực và có tính chiến lược lâu dài để thu hút khách hàng. Ngân hàng hiện nay đã tiến hành một số hoạt động Marketing trong hoạt động cho vay, gồm cả cho vay tiêu dùng nhưng để hoạt động thực sự hiệu quả thì ngân hàng cần xây dựng một chính sách Marketing cụ thể hướng tới đối tượng khách hàng là các cá nhân và hộ gia đình.
Mục đích của hoạt động Marketing là nhằm thu hút khách hàng tiếp cận và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng; mặt khác, tạo ấn tượng đối với khách hàng về ngân hàng, cải tiến bộ mặt, tăng danh tiếng và uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Ngân hàng thông qua hoạt động này phải cung cấp cho khách hàng những hiểu biết về các thủ tục, điều kiện và các qui định khác khi quan hệ tín dụng với ngân hàng, những ưu thế nổi bật riêng có so với các ngân hàng khác, những lợi ích mà khách hàng sẽ nhận được để khách hàng có sự lựa chọn dễ dàng. Những thông điệp này phải được thiết kế sao cho vừa đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với nhận thức của nhiều nhóm đối tượng khách hàng khác nhau.
Sau khi đã xây dựng những thông tin cần truyền đạt, ngân hàng phải chủ động tìm kiếm khách hàng thông qua việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tạp chí, tờ báo có số lượng phát hành lớn, đông độc giả, trên niên giám điện thoại..., thông qua các sở, ban ngành, đoàn thể, các hiệp hội, tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, tại các hội nghị khách hàng cá nhân và doanh nghiệp do ngân hàng tổ chức. Khai thác triệt để lợi thế về địa điểm mạng lưới các tổ cho vay của ngân hàng là đóng tại các khu vực đông dân cư để tuyên truyền quảng cáo.
Khi đã tiến hành các đợt quảng cáo, tiếp thị, nhân viên ngân hàng có thể liên hệ trước với những cơ quan, đơn vị có đủ điều kiện vay vốn để sắp xếp một buổi giao lưu gặp gỡ giữa nhân viên ngân hàng với cán bộ nhân viên tại đơn vị để giới thiệu về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Tại buổi gặp mặt này, nhân viên ngân hàng vừa làm công tác tiếp thị vừa giải đáp những thắc mắc của họ, giải toả dần tâm lí e ngại, tạo sự quan tâm và thói quen sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng.
Cán bộ làm công tác tín dụng đảm nhận trực tiếp việc cho vay phải có thái độ hoà nhã, vui vẻ, lịch sự, dễ gần, tạo bầu không khí thân mật, gần gũi khi trò chuyện với khách hàng; sẵn sàng tư vấn, hướng dẫn tận tình về thủ tục, hồ sơ tránh việc khách hàng phải đi lại nhiều lần.
4. Đa dạng hoá đối tượng khách hàng:
Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng chỉ cho cán bộ công nhân viên tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước vay vốn đảm bảo bằng lương và cá nhân hoặc hộ gia đình vay có thế chấp bằng tài sản.
Trong xu thế hiện nay là tăng cường cho vay tiêu dùng đối với những khách hàng có tài sản và có đủ khả năng trả nợ thì ngân hàng nên quan tâm đến đối tượng là các hộ tiểu thương tại các chợ có tình hình kinh doanh hiệu quả.
- Đối với tiểu thương tại các chợ, ngân hàng có thể thông qua ban quản lí chợ hoặc người đại diện lập danh sách những người có nhu cầu vay vốn. Sau đó tiến hành xem xét tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ để quyết định cho vay hay không.
Bên cạnh đó, ngân hàng có thể mở rộng cho vay sang đối tượng khách hàng vay kinh doanh tại ngân hàng có uy tín và có nhu cầu vay tiêu dùng với giá trị lớn: mua xe ô tô phục vụ cho đi lại của cá nhân và gia đình.
5. Cải thiện phương thức hoàn trả nợ gốc và lãi :
Vấn đề mà ngân hàng luôn quan tâm hàng đầu khi xét duyệt cho khách hàng vay chính là khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi vay. Do đó, việc cải thiện phương thức thu hồi nợ và lãi vay phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ của mình là cần thiết để ngân hàng đảm bảo an toàn về vốn khi cho vay.
Hiện nay phương thức hoàn trả nợ gốc và lãi vay đối với cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng là trả góp hàng tháng với số nợ gốc được chia đều cho các kì hạn trả, lãi được tính trên số dư nợ gốc hàng tháng. Phương thức này phù hợp với những khách hàng là cán bộ công nhân viên tại các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh có thu nhập ổn định, thường xuyên.
Đối với khách hàng là tiểu thương, vay vốn có tài sản đảm bảo, thu nhập thường xuyên nhưng không cố định mà có xu hướng gia tăng vào những tháng cuối năm, những dịp lễ tết, mùa khai trường, ... khi hàng hoá bán được nhiều. Ngân hàng có thể áp dụng phương thức thu lãi hàng tháng nhưng kì hạn thu nợ gốc là hai hoặc ba tháng một lần.
Đối với khách hàng vay tiêu dùng là các chủ doanh nghiệp tư nhân, các chủ cơ sở sản xuất kinh doanh thì ngân hàng có thể thoả thuận thu nợ gốc và lãi theo phương pháp trả góp hàng tháng hoặc thu lãi hàng tháng nhưng nợ gốc thì trả theo kì hạn 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng và ngân hàng sẽ tính toán mức lãi suất phù hợp với từng phương thức trả nợ trên.
6. Cải thiện phương thức cho vay:
Cho vay tiêu dùng với cán bộ, công nhân viên tại ngân hàng hiện nay vẫn mang tính chất riêng lẻ từng món vay, tức là ngân hàng quan hệ tín dụng trực tiếp với từng cá nhân có nhu cầu vay vốn vì khi quyết định cho vay thì ngân hàng đều có thông qua cơ quan, đơn vị nơi người vay công tác nhưng chưa phối hợp với các cơ quan, đơn vị này để quản lí, thu nợ người vay thông qua biện pháp trừ lương tháng. Phương thức này làm cho cả ngân hàng lẫn người đi vay đều gặp những trở ngại nhất định.
Về phía ngân hàng, cho vay tiêu dùng là các món vay nhỏ, mất nhiều thời gian và chi phí cho việc thẩm định, xét duyệt, giám sát và thu hồi nợ trong khi đó khả năng xảy ra rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng đối với người vay vốn cũng rất cao: tai nạn, mất việc làm, đau ốm, chết, vi phạm pháp luật. Ngoài ra, do quan hệ vay trả nợ xảy ra giữa ngân hàng và người vay nên trong một số trường hợp người vay chưa trả hết nợ vay đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng và phải gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn nhưng vẫn được thủ trưởng đơn vị xác nhận để vay tiếp tại tổ chức tổ chức tín dụng khác vì đơn vị chỉ kí văn bản xác nhận tư cách của người vay mà chưa thực sự phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để quản lí người vay vốn.
Về phía khách hàng, người đi vay những cán bộ nhân viên công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp khó có thể bỏ công sở trong giờ làm việc để đến giao dịch với ngân hàng, trong khi hiện nay ngân hàng chỉ làm việc trong giờ hành chính. Hơn nữa, một số đơn vị không kí xác nhận cho nhân viên vì ngại chịu trách nhiệm liên quan.
Trước những trở ngại trên khách hàng cũng ít có mong muốn đến ngân hàng vay tiền, ngân hàng cũng ngần ngại khi xét duyệt cho vay. Để khắc phục tình trạng này, ngân hàng cần tìm đến các nhà quản lí của doanh nghiệp phổ biến những lợi ích của người lao động khi được vay vốn để đặt vấn đề phối hợp phục vụ người vay. Sau đó ngân hàng bàn về biện pháp quản lí món vay với Ban giám đốc, Ban chấp hành công đoàn để phục vụ người vay được thuận lợi hơn thông qua một hợp đồng nguyên tắc được kí kết giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Hợp đồng qui định rõ trách nhiệm của mỗi bên: Ngân hàng có trách nhiệm phổ biến nghiệp vụ, cung cấp các loại hồ sơ vay vốn, thẩm định và cho vay. Doanh nghiệp kiểm tra kĩ trước khi xác nhận giới thiệu người vay đến ngân hàng làm thủ tục vay vốn, hàng tháng căn cứ danh sách do ngân hàng lập để trừ lương theo thoả thuận đã kí trên hợp đồng tín dụng giữa người vay với ngân hàng, giúp ngân hàng thu nợ.
Đối với các tiểu thương thì ngân hàng có thể kí thoả thuận thu nợ hàng tháng qua người đại diện có uy tín trong bà con tiểu thương. Định kì, ngân hàng lập danh sách người vay vốn với số tiền nợ gốc và lãi phải thu gửi người đại diện để họ thu và nộp cho ngân hàng. Ngân hàng nên có một khoản hoa hồng xứng đáng với người đại diện để họ làm việc tốt hơn.
7. Nâng cao chất lượng phục vụ :
Có thể thấy theo sự phát triển của thị trường, rõ ràng khách hàng ngày càng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào. Nếu coi con người là tài sản của doanh nghiệp thì khách hàng được xem như nguồn vốn, khách hàng càng đông, nguồn vốn càng tăng. Do vậy sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào số lượng khách hàng mà mình có được. Với đặc thù là một doanh nghiệp dịch vụ thì khách hàng càng có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Đặc trưng các sản phẩm ngân hàng là tính chất dễ bắt chước nên khả năng cạnh tranh bằng sản phẩm là rất khó. Khách hàng khi sử dụng sản phẩm của ngân hàng luôn cân nhắc giữa lợi ích nhận được với chi phí bỏ ra. Để tăng cường khả năng cạnh tranh, ngân hàng phải quan tâm đến việc gia tăng lợi ích và giảm thiểu chi phí cho khách hàng trong khả năng của mình. Lợi ích mà khách hàng quan tâm là lợi ích về kinh tế thể hiện trực tiếp qua chi phí vay vốn gồm: chi phí trả lãi, chi phí đi lại, thủ tục hồ sơ và lợi ích mà bản thân khách hàng cảm nhận được đó là sự thuận tiện, sự hài lòng khi đến giao dịch vay vốn tại ngân hàng. Lãi suất vay vốn chịu sự ảnh hưởng của lãi suất đầu vào trong nội bộ ngân hàng và trong hệ thống ngân hàng cũng dễ bị cạnh tranh nên thu hút khách hàng qua yếu tố lãi suất là có giới hạn. Như vậy, ngân hàng cần phải lấy việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là nền tảng trong xây dựng chiến lược cạnh tranh giành thị phần và khách hàng.
Để nâng cao chất lượng phục vụ, ngân hàng cần lấy sự hài lòng của khách hàng mục tiêu hàng đầu. Ngân hàng có thể xem xét để giảm bớt những thủ tục giấy tờ không cần thiết, giảm bớt chi phí và thời gian cho khách hàng. Với cán bộ công nhân viên thời gian rất quan trọng vì họ phải đến ngân hàng trong giờ làm việc của mình. Cán bộ tín dụng phải trực tiếp sắp xếp kế hoạch làm việc, lịch đón tiếp khách hàng cụ thể hàng ngày, không để xảy ra tình trạng khách hàng đến phải chờ đợi quá lâu hoặc không gặp được cán bộ tín dụng làm cho họ phải lui tới nhiều lần, nhất là những khách hàng đến vay vốn lần đầu sẽ gây ấn tượng không tốt. Ngoài ra, cán bộ tín dụng phải có thái độ niềm nở trong giao tiếp với khách hàng, hướng dẫn cặn kẽ, chu đáo các giấy tờ, thủ tục để khách hàng có sự chuẩn bị đầy đủ, không mất thời gian đi lại nhiều lần, nhiều nơi. Tình trạng này ở ngân hàng xảy ra không nhiều nhưng ngân hàng không thể coi nhẹ vì nếu không quan tâm kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến lượng khách hàng trong tương lai.
Trụ sở ngân hàng, phòng giao dịch của ngân hàng phải khang trang, sạch đẹp, hiện đại, lịch sự, bố trí hợp lí và tiện lợi, có bảng chỉ dẫn cho khách hàng đến nơi giao dịch cần thiết. Tại hàng ghế chờ nên có nước uống, báo, tài liệu hướng dẫn cụ thể cho khách hàng xem trong khi chờ đợi. Có các bảng thông báo rõ ràng lãi suất cho vay, qui trình thủ tục vay vốn.... đẹp mắt, hấp dẫn. :
Đồng thời đối với những khách hàng đã từng có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng, luôn vay mượn, trả nợ sòng phẳng, sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả thì ngân hàng nên quan tâm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, kịp thời giải ngân vốn. Đây là những khách hàng có ý thức trả nợ cao, khả năng trả nợ tốt, quan hệ với họ sẽ giảm chi phí và thời gian thẩm định cho ngân hàng, mang lại kết quả tốt nên ngân hàng cần có hình thức thăm hỏi, quan tâm phù hợp. Đối với những khách hàng không đủ điều kiện cho vay thì cán bộ tín dụng cũng giải thích rõ ràng, cặn kẽ những lí do mà mình từ chối cho khách hàng hiểu để họ có ấn tượng tốt với ngân hàng và sẽ quay lại ngân hàng khi họ có nhu cầu và đủ điều kiện vay vốn.
8. Thẩm định trước khi cho vay:
Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng gặp rủi ro rất lớn nên thẩm định là khâu hết sức quan trọng không thể thiếu được đối với hoạt động này. Thông qua công tác thẩm định ngân hàng biết được tình hình tài chính, mục đích sử dụng vốn vay, tư cách và khả năng hoàn trả nợ của người vay. Đối với cho vay tiêu dùng thì công tác này càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, cho vay tiêu dùng tại ngân hàng hầu hết là cam kết trả nợ từ thu nhập hàng tháng và vốn vay được sử dụng vào mục đích tiêu dùng nên đồng vốn không có khả năng sinh lời như cho vay để sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư. Hơn nữa, công tác thẩm định còn ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các khoản cho vay trong khi hiện nay nợ quá hạn có xu hướng gia tăng nên ngân hàng không thể không tăng cường thực hiện tốt công tác này. Nhiều yếu tố được cán bộ tín dụng xem xét khi phân tích một yêu cầu xin vay nhưng yếu tố về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả nợ vay, phù hợp với các điều kiện khoản của hợp đồng tín dụng là những yếu tố quan trọng nhất cần được cán bộ tín dụng thẩm định.
Trước tiên cán bộ tín dụng phải xem xét uy tín của người vay. Uy tín ở đây không chỉ có ý nghĩa là sự sẵn lòng trả nợ mà còn có ý nghĩa là phản ánh ý muốn kiên quyết thực hiện tất cả các giao ước trong hợp đồng tín dụng. Uy tín quan trọng nhất của tín dụng là tính thật thà và liêm chính của cá nhân. Hồ sơ quá khứ của một cá nhân xin vay trong việc thực hiện các các hợp đồng của họ thường có giá trị khi đánh giá về tín dụng. Những câu trả lời miệng của khách hàng có thể dễ dàng bộc lộ những đặc điểm cũng như sự trung thực của khách hàng. Cán bộ tín dụng cần đối chiếu lời khai của người vay với thông tin mình thu thập được.
Mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập của khách hàng là những thông tin quan trọng để đánh giá khả năng hoàn trả nợ vay. Cán bộ tín dụng phải đồng thời tiến hành kiểm tra cơ quan nơi các khách hàng làm việc để đánh giá độ chính xác của mức thu nhập, độ dài thời gian làm việc, nơi cư trú. Bởi lẽ có trường hợp, người vay giảm sut thu nhập trong thời hạn trả nợ do thay đổi công việc hoặc nghỉ hưu nên ảnh hưởng đến khả năng trả nợ.
Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú : Cán bộ tín dụng nên kiểm tra kĩ thời gian làm việc tại nơi làm việc hiện tại cũng như khoảng thời gian mà người đó sinh sống tại nơi cư trú hiện tại. Vì nếu khoảng thời gian mà người đó cư trú tại một nơi càng lâu thì có thể tin rằng cuộc sống của người đó càng ổn định. Còn nếu một người thường xuyên thay đổi chỗ ở thì sẽ là một yếu tố bất lợi cho ngân hàng khi quyết định cho vay.
Sau khi biết rõ những vấn đề trên, cán bộ tín dụng mới quyết định mức cho vay, cách thức trả nợ, thời hạn trả nợ phù hợp với khả năng trả nợ của người vay mà không gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ còn Ngân hàng thì hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
Ngoài ra, nếu thực hiện cho vay có tài sản đảm bảo là bất động sản thì tài sản đảm bảo đóng vai trò là nguồn thu nợ thứ hai nếu người vay không trả được nợ và khoản tín dụng được cấp với hi vọng là sẽ được hoàn trả như thoả thuận chứ không phải là tài sản sẽ bán đi để trả nợ nên cán bộ tín dụng cần xem xét đầy đủ các yếu tố cần thiết trước khi quyết định cho vay, trong đó yếu tố uy tín là quan trọng nhất.
9. Công tác thu thập thông tin :
Để quyết định cho vay hay từ chối khoản vay thì cán bộ tín dụng phải thực hiện công tác thẩm định. Để công tác thẩm định đạt kết quả cao nhất thì việc điều tra, thu thập, tổng hợp các nguồn thông tin về khách hàng là không thể thiếu. Một số nguồn thông tin quan trọng mà cần phải điều tra như sau:
+ Phỏng vấn trực tiếp người vay: Thông qua phỏng vấn có thể kiểm tra tính trung thực của người vay, phát hiện những vấn đề không nhất quán hoặc không trung thực giữa hồ sơ vay vốn và nội dung trả lời phỏng vấn. Trong quá trình phỏng vấn, cán bộ tín dụng có thể yêu cầu cung cấp những thông tin cần thiết như tình hình tài chính, bản hợp đồng lao động nếu khách hàng là lao động theo hợp đồng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,.... Cán bộ tín dụng có thể chuẩn bị sẵn nội dung phỏng vấn cũng như cách đặt câu hỏi cho phù hợp để lấy được thông tin bổ ích từ khách hàng. Ngoài ra, nghệ thuật nói chuyện, tạo bầu không khí thoải mái, khuyến khích khách hàng nói chuyện cũng quan trọng không kém.
+ Nguồn thông tin từ cơ quan, đoàn thể nơi khách hàng công tác: Cán bộ tín dụng đến xin xác nhận của thủ trưởng đơn vị về bảng lương của người đi vay đồng thời tìm hiểu về đời sống, tư cách, năng lực làm việc, thời gian làm việc tại đơn vị của người vay. Ngân hàng cũng cần tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị trong trường hợp người vay vốn công tác tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Thu thập thông tin thông qua những người lân cận: Với mục đích để được ngân hàng chấp nhận cho vay, những lời khai của người vay sẽ chứa đựng nhiều yếu tố thiếu chính xác. Cán bộ tín dụng có thể thăm dò khách hàng mình thông qua những người thân, những người sống gần họ để kiểm chứng những lời khai trước đó có mâu thuẫn hay sai lệch hay không. Mặc khác, có những thông tin có tính chất cá nhân không thể hỏi trực tiếp khách hàng mà phải thông qua những người thân cận ( trình độ học vấn, cuộc sống gia đình, lối sống của họ...) Ngoài ra, nguồn thông tin từ những khách hàng công tác cùng đơn vị với người vay, có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng cũng là cơ sở để đánh giá người vay.
+ Thu thập thông tin từ hồ sơ lưu trữ của ngân hàng: Qua hồ sơ lưu trữ có thể xem xét trước đó khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng hay chưa? Nếu có, việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của họ ra sao? có tình trạng gia hạn nợ, chậm trả nợ hay không, mức độ ra sao? Đây là một cách để ngân hàng hạn chế cho vay những khách hàng có ý thức trả nợ kém và những khoản vay kém hiệu quả. Hiện nay, ngân hàng đã bước đầu thực hiện công tác này nhưng vẫn còn hạn chế về nguồn thông tin và chi phí thực hiện. Ngân hàng cần phải khai thác tối đa những kênh thông tin khác nhau, tận dụng những cơ hội tìm hiểu khách hàng. Thông tin thu thập được chính xác, kịp thời sẽ góp phần không nhỏ trong việc giảm tình trạng phát sinh nợ quá hạn, góp phần giảm rủi ro cho ngân hàng và nâng cao dần chất lượng cho vay tiêu dùng.
Công tác thu thập thông tin nếu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho công tác thẩm định chính xác hơn, đảm bảo an toàn vốn vay cho ngân hàng.
Bên cạnh các việc thu thập, xử lí thông tin thì không thể không quan tâm đến vai trò của cán bộ làm công tác tín dụng trong việc nâng chất lượng hoạt động cho vay.
10. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng:
Trong hoạt động cho vay muốn có hiệu quả trước hết phải có đội ngũ cán bộ tín dụng có năng lực. Nếu công tác thu thập thông tin, thẩm định trước khi cho vay cán bộ tín dụng thực hiện tốt thì chất lượng tín dụng sẽ ngày càng được cải thiện. Do đó, ngân hàng phải quan tâm, từng bước nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định của cán bộ: tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ; yêu cầu tất cả các cán bộ tín dụng phải nắm vững và thực hiện đúng các cơ chế, qui chế, qui trình nghiệp vụ tín dụng; thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm giữa các cán bộ làm công tác tín dụng trong công tác xét duyệt cho vay, xử lí thu hồi nợ ...
Điều kiện tiên quyết của ngân hàng hiện nay là phải xây dựng một đội ngũ cán bộ nhân viên tín dụng đáp ứng được yêu cầu của công việc, đó là những cán bộ thông hiểu về cơ chế chính sách pháp luật, giỏi về nghiệp vụ, năng động trong công việc và có tinh thần trách nhiệm cao. Có như vậy thì việc phát triển hoạt động kinh doanh, đa dạng các nghiệp vụ ngân hàng và các chính sách của ngân hàng mới được thực thi dễ dàng.
11. Tăng cường công tác theo dõi, thu hồi nợ và xử lí nợ quá hạn :
Thực trạng nợ quá hạn cho vay tiêu dùng tại ngân hàng phần lớn là do chủ quan về phía khách hàng chây ì, không trả nợ đúng hạn. Vấn đề theo dõi và thu nợ chặt chẽ hạn chế phát sinh nợ quá hạn là rất cần thiết đối với cán bộ làm công tác tín dụng. Cán bộ tín dụng cần phải mở sổ theo dõi hàng ngày cho từng khách hàng với hệ thống thông tin quản lí phản ánh những tiêu thức cơ bản sau: dư nợ, nợ đến hạn thanh toán, nợ quá hạn gốc và lãi, gia hạn nợ, giãn nợ .
Theo đó, cán bộ tín dụng cần nhắc nhở khách hàng về những khoản nợ sắp đến hạn thanh toán trước kì hạn thanh toán một vài ngày thông qua biện pháp: gọi điện, gặpû trực tiếp nhắc nhở vì thực tế thời gian qua nợ quá hạn phát sinh mà nguyên nhân là khách hàng đủ khả năng thanh toán nhưng lại chưa ý thức được về nợ quá hạn. Ngoài ra, cán bộ tín dụng có thể khuyến khích khách hàng trả nợ trước hạn trong trường hợp thời hạn trả nợ rơi vào thời gian công tác của khách hàng. Cán bộ tín dụng cần phải khéo léo, tế nhị để không làm ảnh hưởng đến uy tín và lòng tự trọng của khách hàng. Tuy công tác này mất thời gian và tốn kém chi phí nhưng nếu thực hiện được thì không những hạn chế nợ quá hạn phát sinh mà còn tiết kiệm được chi phí xử lí, thu hồi nợ thường lớn hơn rất nhiều.
Theo dõi tình hình trả nợ vay đúng hạn của khách hàng. Từ đó phát hiện những khoản nợ quá hạn, thông báo cho khách hàng và đôn đốc việc trả nợ. Tìm hiểu nguyên nhân gây ra nợ quá hạn: do ốm đau, bệnh tật hay lí do khác làm giảm sút hoặc mất đi thu nhập...để có hướng giải quyết thoả đáng.
Phân loại nợ quá hạn một cách khoa học, trên cơ sở căn cứ vào các tiêu thức: nguyên nhân phát sinh nợ, khả năng thu hồi, đối tượng khách hàng để có biện pháp cụ thể trong hoạt động xử lí nợ.
+ Ngân hàng cần tăng cường hơn nữa các biện pháp xử lí và hạn chế nợ quá hạn, có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Biện pháp phát triển tín dụng an toàn và hiệu quả là hoạt động tín dụng gắn liền với quyền lợi tài chính của cán bộ. Ngân hàng đề ra các chính sách khen thưởng nhằm động viên, khuyến khích cán bộ tín dụng tích cực thu hồi nợ. Nghiêm khắc xử lí đối với những sai phạm do nguyên nhân chủ quan của cán bộ tín dụng.
- Phối hợp với cơ quan, đoàn thể để thu hồi nợ bằng biện pháp trừ lương hàng tháng hoặc cán bộ công nhân viên chuyển nơi công tác thì làm việc với cả cơ quan trước đó và cơ quan mới để thu nợ.
- Trên cơ sở phân tích nguyên nhân nợ quá hạn có biện pháp thu hồi nợ thích hợp: đối với trường hợp mà người vay bị tai nạn, chết hay gia đình họ đang gặp khó khăn thì ngân hàng nên thực hiện gia hạn nợ, miễn giảm lãi vay; đối với trường hợp mà người vay có tài sản đảm bảo thì ngân hàng tiến hành xử lí tài sản đảm bảo để thu hồi nợ; nếu cố tình lừa đảo hoặc dây dưa không chịu trả nợ thì Ngân hàng phải nhanh chóng khởi kiện ra toà nhờ sự giúp đỡ can thiệp của pháp luật.
- Không cho vay đối với các cơ quan, đơn vị mà ở đó người vay không tích cực trả nợ, chây ì; thủ trưởng không có sự phối hợp với ngân hàng trong việc thu nợ.
- Khởi kiện một số cán bộ công nhân viên chây ì, “ điển hình” để tạo ra tâm lí e ngại của khách hàng khi họ không chịu trả nợ ngân hàng.
12. Cho vay cán bộ công nhân viên có tăng cường biện pháp đảm bảo:
Để nâng cao ý thức trả nợ cho người vay, khi cho cán bộ công nhân viên vay mua xe, sửa chữa, xây dựng nhà ở ...ngoài những điều kiện về việc làm và thu nhập ngân hàng nên yêu cầu khách hàng gửi tại ngân hàng giấy tờ tài sản có giá trị ( thẻ tiết kiệm, giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ởí, giấy đăng kí xe máy,...) với một cam kết ngân hàng sẽ được quyền phát mãi các tài sản trên nếu khách hàng vay không trả nợ hoặc trả nợ không đúng kì hạn .
Tuy nhiên, để biện pháp này thực sự hiệu quả thì ngân hàng chỉ nên giữ các giấy tờ tài sản của chính bản thân người vay. Do giá trị của tài sản mà ngân hàng giữ giấy tờ sở hữu lớn hơn số tiền còn nợ ngân hàng nên người vay sẽ cố gắng trả nợ cho ngân hàng để nhận lại giấy tờ này.
13. Một số kiến nghị:
Việc mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động cho vay của ngân hàng không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ phía ngân hàng mà cần có sự giúp đỡ, quan tâm của các cấp chính quyền, sự phối hợp của các ban, ngành có liên quan.
- Kiến nghị với cơ quan pháp luật đẩy nhanh tốc độ thi hành án đối với những trường hợp khách hàng bị khởi kiện ra toà và đã có quyết định thi hành án.
- Kiến nghị UBND thành phố tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để đẩy nhanh hoạt động phối hợp của các cơ quan, ban ngành có liên quan trong quá trình xử lí nợ theo hướng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong khâu thi hành án; hoàn chỉnh hồ sơ pháp lí của tài sản: thủ tục phát mãi, công chứng..., đồng thời có văn bản chỉ đạo cơ quan, đơn vị chủ quản có trách nhiệm kết hợp xử lí các khoản nợ của cán bộ, nhân viên đơn vị mình với ngân hàng cũng như chịu trách nhiệm về tính chính xác đối với những thông tin cung cấp cho cán bộ tín dụng về cán bộ, nhân viên đơn vị mình.
- Kiến nghị với cơ quan công chứng tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình công chứng hồ sơ tài sản thế chấp.
Trong những năm tới đây, cùng với xu thế phát triển và hội nhập của nền kinh tế trong nước thì Tín dụng tiêu dùng sẽ có tiềm năng trở thành một trong những hoạt động chủ đạo trong mảng các nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Xu hướng này diễn ra bởi vì Tín dụng tiêu dùng không chỉ là một trong những khoản mục mang lại lợi nhuận tương đối cao cho ngân hàng, mà còn bởi vì người tiêu dùng với trình độ ngày càng cao sẽ vay nhiều hơn để nâng cao mức sống của bản thân và đáp ứng các kế hoạch chi tiêu trên cơ sở triển vọng về thu nhập trong tương lai.
Thấy được xu thế phát triển của loại hình này, và trên cơ sở thực tập tại ngân hàng Á Châu Đà Nẵng, em mạnh dạn phân tích thực tế hoạt động Tín dụng nói chung và Tín dụng tiêu dùng nói riêng của ngân hàng nhằm đưa ra một số giải pháp để tiếp tục phát triển loại hình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu Đà Nẵng. Hy vọng đây sẽ là những ý kiến xác thực phù hợp với cơ sở lý luận và tình hình thực tế của ngân hàng, giúp gia tăng hơn nữa dư nợ của loại hình cho vay này từ đó góp phần vào sự phát triển chung trong hoạt động của ngân hàng.
Mặc dù rất cố gắng trong việc tìm tòi, nghiên cứu để chuyên đề tốt nghiệp được hoàn thiện, nhưng do kiến thức còn hạn chế nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong những ý kiến đóng góp từ thầy cô, các anh chị ở ngân hàng Á Châu Đà Nẵng và các bạn sinh viên.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh dạo và các anh chị công tác tại Phòng Tín Dụng - Ngân hàng Á Châu Đà Nẵng đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian thực tập để em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Ngọc Anh đã tận tình hướng dẫn, xem xét, góp ý trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tình hình cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu.doc