Đề tài Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU3 CHƯƠNG I. 4 CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT4 1.1Các khái niệm về lạm phát. 4 1.1.1 Khái niệm lạm phát4 1.1.2 Các chỉ số liên quan đến lạm phát4 1.2 Phân loại lạm phát. 5 1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm:. 5 1.2.2 Căn cứ vào định tính:. 6 1.3 Nguyên nhân lạm phát. 7 1.3.1 Lạm phát do cầu kéo. 7 1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy. 8 1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục. 8 1.3.4 Các nguyên nhân khác. 10 1.4 Hậu quả và những biện pháp khắc phục. 11 1.4.1 Hậu quả của lạm phát11 1.4.2. Những biện pháp khắc phục lạm phát12 CHƯƠNG II. 14 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY14 2.1 Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ trước năm 1986 đến 2006. 14 2.1.1 Tình hình lạm phát ở Việt Nam trước những năm 1986. 14 2.1.2 Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2005. 16 2.1.3 Các nguyên nhân chính. 17 2.2 Lạm phát những năm 2007 – 2009. 20 2.3 Tình hình lạm phát hiện nay đang trở nên vô cùng cấp bách. 23 2.4 Tác động của lạm phát đối với kinh tế xã hội26 CHƯƠNG III. 30 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LẠM PHÁT HIỆN NAY30 KẾT LUẬN32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO33 LỜI MỞ ĐẦU Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia nhưng cũng là một trong những trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỷ của nền kinh tế thị trường. Càng ngày, cùng với sự phát triển đa dạng phong phú của nền kinh tế thì nguyên nhân dẫ đến lạm phát cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn.Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắc lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó, lạm pháp nổi lên như là mộtvấn đề hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Những tháng qua chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng cao đẩy nguy cơ lạm phát cho nền kinh tế đến mức đáng báo động và nếu cứ như đà bây giờ thì đến cuối năm sẽ khó có thể giữ được mức 7% mà quốc hội đã đề ra. Để hiểu rõ hơn về lạm phát cũng như những tác động của nó đến nền kinh tế, nhóm sinh viên quyết định chọn đề tài: “Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây” làm đề tài nghiên cứu của mình. Đề tài gồm 3 phần chính: Chương I: Các vấn đề chung về lạm phát Chương II: Tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây Chương III: Kiến nghị và giải pháp

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11684 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục những tồn tại đã qua. Trong đó, lạm pháp nổi lên như là mộtvấn đề hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Những tháng qua chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng cao đẩy nguy cơ lạm phát cho nền kinh tế đến mức đáng báo động và nếu cứ như đà bây giờ thì đến cuối năm sẽ khó có thể giữ được mức 7% mà quốc hội đã đề ra. Để hiểu rõ hơn về lạm phát cũng như những tác động của nó đến nền kinh tế, nhóm sinh viên quyết định chọn đề tài: “Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây” làm đề tài nghiên cứu của mình. Đề tài gồm 3 phần chính: Chương I: Các vấn đề chung về lạm phát Chương II: Tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây Chương III: Kiến nghị và giải pháp CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT Các khái niệm về lạm phát 1.1.1 Khái niệm lạm phát Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả. Có thể hiểu theo một cách khác rằng: “Lạm phát là hiện tượng cung cầu tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá cả chung tăng nhanh và kéo dài trong một thời gian dài” 1.1.2 Các chỉ số liên quan đến lạm phát Chỉ số giá tiêu dung (CPI) Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng. Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều chỉnh GDP). Chỉ số giá sản xuất (PPI) Chỉ số giá sản xuất ( Producer Price Index - PPI)đo lường mức độ lạm phát Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường mức độ lạm phát trải qua bởi các nhà sản xuất. Số liệu này mô tả mức độ thay đổi giá cả trung bình trong rổ hàng hóa cố định được mua bởi nhà sản xuất. Một cách tổng thể, lạm phát cao dẫn đến lãi suất cao, điều này sẽ có xu hướng làm mạnh đồng tiền của quốc gia. PPI còn được coi là một chỉ số của giá thương phẩm. Chỉ số giảm phát GDP Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình. 1.2 Phân loại lạm phát 1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm: Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn … Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động của nó là không đáng kể Lạm phát phi mã: Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế * Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất nhanh tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã ,nó như một căn bệnh chết người ,tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng ,giá cả tăng nhanh và không ổn định ,tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh ,tiền tệ mất giá nhanh chóng ,thông tin không còn chính xác ,các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn ,mất phương hướng .Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra. 1.2.2 Căn cứ vào định tính: Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung. Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra. Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường Lạm phát dự đoán trước: Là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế . Lạm phát bất thường: Xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút. Đối với các nước đang phát triển lạm phát thường kéo dài, do đó các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau: lạm phát kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 1.3 Nguyên nhân lạm phát 1.3.1 Lạm phát do cầu kéo Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp , hay nói cách khác là nền king tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó . Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá. Trong nền kinh tế thị trường thì lao động cũng là một dịch vụ, trong thời gian đó thị trường lao động trở nên khan hiếm nên tăng lương cũng là một phần của quá trình lạm phát. Khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt qua mức sản lượng tiềm năng, việc tăng mức cầu dẫn tới lạm phát do cầu kéo. Vì tổng mức chi đối với C + I + G tăng , chi tiêu tăng lên trong khi có một mức cung hạn chế về sản lượng thực tế , phần lớn tổng mức chi cao hơn dẫn đến giá cả cao hơn . Do đó chính mức cầu cao hơn kéo giá lên cao hơn, đó là lạm phát do cầu kéo 1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trảvới giá cao hơn .Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chiphí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng hoặc khả năng khả thác hạn chế. Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả nguyên nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng .Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên qoàn thế giới .Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy . Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa cũng là một yếu tố gây lên lạm phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác 1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều, chưa khai thác nhiều. Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động. Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong trường hợp này, khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi suất giảm đến một mức độ nào đó, các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các nhà máy, xí nghiệp mở cửa để sản xuất, kinh doanh .Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai thác, người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên. Ở nền kinh tế toàn dụng ,các nhà máy ,xí nghiệp được hoạt động hết công suất ,nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều.Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông .Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng ,thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó .Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện kinh doanh tốt) hoặc các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung và dài hạn , điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ năm 1966-1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh taị Việt Nam, lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (Y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi .Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng .Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .Đây cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 1.3.4 Các nguyên nhân khác Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên, một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát .Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao. Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát.Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn. Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát. Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn. Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái .Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt khac khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy. Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát. 1.4 Hậu quả và những biện pháp khắc phục 1.4.1 Hậu quả của lạm phát Trong lĩnh vực kinh doanh: Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, gía cả hang hóa bị tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Qui mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn hạn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy trong điều kiện có lạm phát, lãnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức. Trong lĩnh vực thương mại: Người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hang hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thong tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo… Trong lĩnh vực về tiền tệ tín dụng: Tín dụng cũng bị rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hành bị phá sản do mất khả năng thanh toán và thô lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát nổi. Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho NSNN qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập qốc dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của NSNN ( chủ yếu là thuế ) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể… Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng dẫn trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề. Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội và nhà nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát. 1.4.2. Những biện pháp khắc phục lạm phát Thời kỳ các nước còn áp dụng chế đọ lưu thông tiền kim loại tùy theo mức độ mất giá của tiền giấy mà sẽ áp một trong ba biện pháp: Biện pháp loại bỏ tiền giấy không bồi hoàn ( Annulation ). Biện pháp khôi phục ( Rest Ration ). Biện pháp phá giá tiền tệ ( Devaluation ). Ngày nay trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, căn bệnh lạm phát hầu như là hiện tượng tất yếu ở các nước chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử lạm phát hầu như chưa có ở nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát mà vấn đề cần duy trì lạm phát ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu lạm phát thì lạm phát không còn được xem là công cụ điều tiết kinh tế nữa mà nhà nước cần áp dụng những biệ pháp nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát sao cho thích ứng trong từng giai đoạn, tình huống của nền kinh tế. Nhìn chung, trong cơ chế thị trường những giải pháp chống lạm phát là rất đa dạng chúng ta có thể nêu lên một số giải pháp cơ bản sau: Biện pháp cơ bản chiến lược: Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn nhằm tạo động lực cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Đây là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái. Nhà nước cần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Phát triển ngành mũi nhọn xuất khẩu. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy các nhu cầu cơ bản của đời sống kinh tế xã hội và việc làm của nhân dân lao động. Nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước bằng các công cụ vốn có như luật pháp, các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả…để tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước. Được coi là biện pháp mang tính chất chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giản biên chế và cải cách hành chính. Nhà nước cần chống thâm hụt ngân sách. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 2.1 Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ trước năm 1986 đến 2006 2.1.1 Tình hình lạm phát ở Việt Nam trước những năm 1986 Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát đã tồn tại nhưng không công khai, các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ sử dụng các cụm từ “chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền”, “thị trường vật giá không ổn định...”. Hay nói cách khác, lạm phát trong giai đoạn này là “lạm phát ngầm”. Do cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước có vai trò định giá cho hầu hết các sản phẩm và dịch vụ lưu thông trên thị trường. Thời kỳ 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam nhằm đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức. Hậu quả nặng nề của lạm phát là nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần. Thời kỳ 1946-1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước. Thời kỳ 1955-1965: Chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ với giá trị hàng trăm tỉ đô la nhưng cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra. Thời kỳ 1965-1975 : Ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính phủ đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. Thời kỳ 1976-1980: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội với tỷ lệ lên tới 3 con số. * Giai đoạn 1981-1985: Lạm phát thời kỳ này diễn ra trong điều kiện bắt đầu có những cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực của cơ chế kinh tế. Lạm phát đã diễn ra trên quy mô cả nước. Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã: Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980.Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985. Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm phát sẽ chấm dứt nên Chính phủ mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức mua của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985). Nhưng sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%. Cải cách 1981-1992 và 1985 không giúp lạm phát giảm mà còn trở thành tác nhân trực tiếp của lạm phát sau đó 2.1.2 Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2005 * Siêu lạm phát 1986-1988: Tiếp tục hậu quả từ quy định về sức mua đồng tiền mới năm 1985, năm 1986 CPI tăng lên đến 775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng ba chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo. Chỉ số giá bán lẻ năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Lạm phát trong giai đoạn này có năm đặc trưng cơ bản: 1. Lạm phát ba con số kéo dài 2 năm liên tục, được mở rộng bằng cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền. 2. Thời kỳ này ảnh hưởng giá cả trong quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kỳ 1981-1985 song vẫn bất lợi cho cán cân thanh toán của Việt Nam. 5. Tính chất công khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Hệ quả siêu lạm phát nghiêm trọng trong 2 năm là rất nặng nề. * Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao (1989-1994): Sau một thập kỷ lạm phát cao liên tục, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kéo dài nhưng đến năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới của lạm phát được đặc trưng bởi sự hạ sốt lạm phát và đến năm 1994 triển vọng bước qua thời kỳ kiểm soát lạm phát một con số là khả năng thực hiện được. Trong giai đoạn này, lạm phát giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổi mới kinh tế, chuyển hẳn và chuyển toàn diện sang kinh tế thị trường. * Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam từ 1995 – 2006: Biểu đồ 1: Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2007 Theo định hướng chung, nền kinh tế Việt Nam (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, xóa bỏ hoàn toàn chế độ quan liêu bao cấp) trong những năm này tiếp tục trên đà phát triển và mục tiêu đặt ra là kiểm soát chặt chẽ sự lạm phát. Từ năm 1995 đến năm 2006, mức lạm phát của nước ta luôn ở một con số. Trong giai đoạn này, nền kinh tế vì thế đã thoát khỏi khủng hoảng và phát triển khá bền vững. 2.1.3 Các nguyên nhân chính Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn đến lạm phát. Hai là, chính sách đổi tiền tăng giá là một trong những chính sách phá giá đồng tiền. Từ đầu những năm 1980 đến nay, Nhà nước ta đã ba lần tổng điều chỉnh giá với mức quá lớn, không đồng bộ. Nhà nước Trung ương không điều hành nổi cơ chế giá ở tầm vĩ mô, buộc phải chấp nhận cơ chế giá trượt trong thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Nhiều ngành, địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Điều này đã gây ách tắc, rối loạn thị trường và tăng bội chi ngân sách. Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế. Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến lạm phát. Bốn là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý làm cho sản xuất chậm phát triểm trong khi dân số tăng nhanh, gây mất cân đối trên nhiều mặt , sản xuất chậm phát triển thu nhập quốc dân trong nước chỉ đảm bảo 80-90%quỹ tiêu dùng xã hộị Trong tình hình ấy tài chính - tín dụng có tài giỏi đến mấy cũng không thể phân phối và phân phối lại vượt quá mức số của cải trong nước làm ra cộng với số vay nợ, viện trợ hạn chế của nước ngoài. Sự phân phối và phân phối lại thông qua tài chính - tín dụng tuy có những yếu kém nhất định nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát mà là hệ quả của cơ cấu đầu tư , cơ cấu kinh tế không hợp lý với sự duy trì bộ máy hành chính cồng kềnh và cơ cấu quản lý kinh tế kém năng lực. Năm là, lạm phát xuất hiện ở một nước, mà nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài. Thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi bằng ngoại tệ vào các năm 1981 - 1985 là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều dựa vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài, thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động bình thường. Sự viện trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã. Sáu là, việc buông lỏng quản lý ngoại thương, ngoại hối cũng gây ra những tác hại lớn cho ngân sách nhà nước và lưu thông tiền tệ. Trong hoạt động xuất nhập khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, địa phương này treo giá cao để thu hút hàng của địa phương khác.Việc đẩy giá mua của hàng nội địa ảnh hưởng đến giá cả trong nước. Trên thị trường có sự tranh bán, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta bị ép giá gây thiệt hạI đến lợi ích quốc gia.Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm 30% tổng kim ngạch nhập khẩu.Mỗi năm ngân sách nhà nước phảI bù lỗ xuất nhập khẩu. Những chính sách trên đã làm cho nguồn thu ngày càng cạn kiệt, ngân sách nhà nước ngày càng thiếu hụt, lạm phát ngày càng gia tăng. 2.2 Lạm phát những năm 2007 – 2009 Trong giai đọan 2007 đến tháng 3/2008 (14 tháng), chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 31,1%; trong đó: Lương thực tăng 55,3%, Thực phẩm tăng 44,5%, Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 49,5%, Phương tiện đi lại tăng 27,6%,… Bảng : Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008 ( nguồn: Tổng cục Thống kê) 2005 2006 2007 3/2008 So 12/2007 Chỉ số giá quý I năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 Tháng 3/08 So Tháng 12/05 Chỉ số giá tiêu dùng 1,084 1,066 1,1263 1,0919 1,1637 1,311 Lương thực 1,078 1,141 1,1540 1,1791 1,2152 1,553 Thực phẩm 1,120 1,055 1,2116 1,1308 1,2840 1,445 Đồ uống và thuốc lá 1,049 1,052 1,0678 1,0773 1,0696 1,210 May mặc, giày dép, mũ nón 1,050 1,058 1,0670 1,0842 1,0757 1,224 Nhà ở và Vật liệu xây dựng 1,098 1,059 1,1712 1,2061 1,1794 1,496 Thiết bị và đồ dùng gia đình 1,048 1,062 1,0515 1,0663 1,0578 1,191 Dược phẩm, y tế 1,049 1,043 1,0705 1,0806 1,0773 1,207 Phương tiện đi lại, bưu điện 1,091 1,040 1,0727 1,1434 1,1004 1,276 Giáo dục 1,050 1,036 1,0197 1,0212 1,0199 1,079 Văn hóa, thể, giải trí 1,027 1,035 1,0169 1,0438 1,0261 1,099 Hàng hóa và dịch vụ khác 1,060 1,065 1,0902 1,1283 1,1193 1,310 Chỉ số giá vàng 1,113 1,272 1,2735 1,1846 1,4042 1,919 Chỉ số giá đô la Mỹ 1,009 1,010 0,9997 0,9812 0,9942 0,991 Nguyên nhân chính: Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng cao bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng dầu hồi đầu tháng 11 đã khiến nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%. Giá xăng dầu hiện góp mặt vào CPI cả trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là thông qua chi phí sản xuất và trực tiếp là góp mặt vào rổ hàng hóa khi tính CPI. Hiện trong rổ hàng hóa, xăng dầu chiếm 2,58%. Ngày 25/2 vừa qua, giá xăng A92 trong nước tăng lên mức 14.500 đồng mỗi lít. Trong 5 năm qua, giá mặt hàng chiến lược này được điều chỉnh 19 lần, trong đó 5 lần giảm giá. Riêng trong năm 2008, giá xăng thế giới đã tăng 28% nhưng giá trong nước mới tăng bằng 81% mức tăng giá của thế giới. Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong suốt thời gian từ đầu năm 2007 đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá trong nước tăng theo: đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới. Trong điều kiện quy mô của nền kinh tế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%; mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất thuốc 60%... mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước. Giá cả thế giới tăng cao, làm tăng chi phí đầu vào, tất yếu dẫn đến giá cả đầu ra tăng cao. Giá cả đầu vào còn tăng "kép", tức là không chỉ do bản thân giá cả tính bằng ngoại tệ tăng, mà còn do tỷ giá VND/ngoại tệ - nhất là nhập khẩu và thanh toán bằng các đồng euro, bảng Anh, yên Nhật, các đồng nội tệ của các nước trong khu vực... Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng như thiên tai diễn biến phức tạp, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy được khống chế trong một số tháng qua, nhưng đã xuất hiện trở lại ở một số tỉnh và đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch trở lại; giá thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi tăng cao cũng đã ảnh hưởng tới việc khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; thời tiết không thuận lợi nên lượng đánh bắt hải sản giảm... dẫn đến nguồn cung thực phẩm thiếu hụt khiến giá một số thực phẩm vẫn ở mức cao.  Quan hệ cung cầu về hàng hóa, dịch vụ ở trong nước có diễn biến khác với các năm trước. Sản lượng lương thực bị giảm do thời tiết, sâu bệnh, bão lũ, trong khi dân số vẫn tăng trên 1 triệu người; giá cả thế giới tăng khá nhanh, xuất khẩu lại vẫn giữ khối lượng như năm trước nên giá lương thực tăng cao là khó tránh khỏi. Đàn gia cầm chưa phục hồi so với đỉnh cao cách đây mấy năm, nay lại thường xuyên bị các dịch đe dọa; đàn gia súc tăng thấp, nay lại bị dịch lở mồm long móng rồi đến dịch lợn tai xanh... rình rập, trong khi giá thức ăn thì đắt lên gấp bội... Nhiều làng thuần nông mà có đến một nửa số hộ không nuôi lợn, bởi chăn nuôi lợn trong nhiều năm chỉ "lấy công làm lãi" hoặc như đem tiền bỏ ống mà thôi. Bên cạnh đó những yếu kém về công tác phân tích dự báo còn nhiều hạn chế, chưa lường hết được sự biến động giá cả của thị trường thế giới, nhất là giá xăng dầu. Chính sách điều hành tiền tệ đã tác động nhất định đến chỉ số giá tiêu dùng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, tuy tạo cơ hội lớn cho phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán; việc điều hành các công cụ tiền tệ để rút tiền từ lưu thông về nhằm trung hòa với lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ chưa thật nhịp nhàng, ăn khớp đã tạo sức ép tăng giá. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã dồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ. 2.3 Tình hình lạm phát hiện nay đang trở nên vô cùng cấp bách Từ đầu năm 2010 đến nay tình hình lạm phát vẫn đang có nhưng diễn biến vô cùng phức tạp, đặc biệt từ đầu năm 2011 đến nay. Từ tết nguyên đán đến nay chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng và tăng hơn nhiều lần so với cùng kỳ những năm trước và chưa hề có dấu hiệu giảm sút. Và tính đến thời điểm hiện tại thì lạm phát của 3 tháng đầu năm đã lên đến con số 6,1% , đó là một con số khá cao trong khi đó quốc hội đề ra chỉ tiêu đến cuối năm nay lạm phát chỉ là 7%. Như vậy nếu tình hình không thay đổi thì đến cuối năm chúng ta sẽ khó có thể giữ được mức 7% lạm phát như quốc hội đề ra. Biểu đồ 2: Chỉ số tiêu dùng quý I – 2011 Đơn vị: 100% Tháng 1 Tháng 2 Chỉ số giá quý I năm 2011so với cùng kỳ năm 2010 Chỉ số giá tiêu dùng 102.09 102.17 112.79 Lương thực 101.51 102.18 115.66 Thực phẩm 104.53 101.57 118.78 Đồ uống và thuốc lá 102.14 100.88 110.31 Nhà ở và Vật liệu xây dựng 100.83 103.67 115.53 Thiết bị và đồ dùng gia đình 100.64 101.22 106.89 Dược phẩm, y tế 100.30 100.71 104.29 Phương tiện đi lại, bưu điện 101.01 106.69 105.19 Giáo dục 100.89 100.90 123.42 Văn hóa, thể, giải trí 101.24 100.98 105.69 Hàng hóa và dịch vụ khác 101.36 101.39 109.98 Chỉ số giá vàng 99.65 105.00 137.07 Chỉ số giá đô la Mỹ 100.94 103.06 110.53 Trích: Tổng cục thống kê Nguyên nhân chính: Yếu tố “cầu kéo” Nền kinh tế phục hồi sau ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất dần tăng trở lại. Cầu tăng giúp kích thích nền kinh tế nhưng vấn đề đáng lo ngại hơn là nhu cầu giả tạo, làm giá cả tăng cao không cần thiết. Cán cân thương mại Việt Nam chịu thâm hụt lớn kéo dài trong nhiều năm (năm 2007 thâm hụt hơn 12 tỷ USD, năm 2008 mức thâm hụt tăng lên đến trên 17 tỷ USD). Sang năm 2009, khác với các nước khác, mất cân bằng cán cân thương mại thu hẹp lại khi chịu chịu tác động của khủng hoảng, mức thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam có giảm xuống nhưng không đáng kể, nhập siêu vẫn ở mức 12,2 tỷ USD ngang bằng với năm 2007 và cao hơn rất nhiều so với nhiều năm trước đó. Sự nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo chương trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại lớn quay trở lại. Năm 2010 thâm hụt ngân sách có phần giảm tuy nhiên giới phân tích rất lo lắng trong khi chính phủ vẫn điềm tĩnh và cho rằng thâm hụt vẫn chưa ở mức đáng lo. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại triền miên và chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do tạo tâm lý lo ngại Việt Nam đồng mất giá, tạo ra cầu giả tạo, giá cả tăng cao. Tuy nhiên, với những động thái điều chỉnh tý giá gần đây của NHNN nhằm giúp giảm chênh lệch 2 mức tỷ giá để người dân giảm tích trữ hàng hóa, vàng, đô la, hạ thấp nhu cầu giả tạo, góp phần kiểm soát giá cả. Yếu tố “Chi phí đẩy” Bên cạnh đó, năm 2010, giá cả của nhiều đầu vào như giá than, giá điện, giá xăng và giá nước đồng loạt được điều chỉnh tăng. Ngoài ra, theo lộ trình, trong năm 2010 sẽ tăng lương, cộng với tình hình kinh tế thế giới ấm lên sẽ làm giá cả các mặt hàng tăng… Từ đầu năm 20011 đến nay giá cả trong nước có nhiều biến động đặc biệt là trong ngành năng lượng với điện và xăng dầu là củ chốt. Cuối tháng ba chính phủ đã đồng ý cho ngành điện tăng thêm giá trên 20% và đồng thời những biến động từ thị trường nước ngoài như động đất song thần ở Nhật Bản, chiến sự tại các vùng ở châu phi đặc biệt Libia – là một trong những nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới. Chính những điều này làm cho giá xăng dầu biến động mạnh, chỉ trong vòng một tháng bộ tài chính đã cho phép giá xăng dầu tăng 2 lần lên mức 21.300d/1 lit xăng ,…Giá vàng và đô la cũng không chịu đứng ở ngoài cuộc và liên tục có những phiên lên xuông ngoạn mục. Có những lúc giá vàng tăng lên mức kỷ lục trên 3 triệu sáu trăm nghìn. Chính những vấn đề này đã góp phần đưa chỉ số tiêu dùng lên cao hơn những tháng qua. Tuy nhiên, không phải cứ giá đầu vào tăng bao nhiêu thì giá cả sản phẩm tăng lên bấy nhiêu nếu các doanh nghiệp có các biện pháp quản lý chi phí, tiết kiệm được chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm. Một nhược điểm khác của thị trường Việt Nam là yếu tố tâm lý có tác động một phần khá lớn tới giá cả hàng hóa. Về mặt lý thuyết, tiền lương tăng lên để bù đắp mức tăng của giá cả, giúp đảm bảo và nâng cao đời sống của người dân. Tuy nhiên, trước khi tiền lương được chính thức tăng lên, thì thông tin tăng lương cũng đã đẩy giá các mặt hàng thiết yếu lên cao. Có người gọi đó là lạm phát tâm lý, Cụ thể về chi phí đẩy, vừa qua Tổng cục Thống kê có công bố một loạt chỉ số giá mới như chỉ số giá bán người sản xuất công nghiệp, nông nghiệp… Tất cả các chỉ số này đều cao hơn chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tính theo quý so với cùng kỳ. Đặc biệt là chỉ số giá bán người sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng tới trên 23%, công nghiệp tăng gần 15% (quý 1/2011 so với cùng kỳ Yếu tố tiền tệ Đằng sau những nguyên nhân trực tiếp trên là vấn đề cố hữu của nền kinh tế trong nhiều năm qua. Sau những năm suy giảm phát triển kinh tế cuối giai đoan 90, từ năm 2000, các nhân tố lạm phát bắt đầu được nuôi dưỡng khi giải pháp kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được ưa chuộng để kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, khả năng sản xuất trong nước lại không đáp ứng được sự tăng lên của nhu cầu nội địa. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến nay. Năm 2009, bội chi ngân sách đã lên cao, chiếm 7% GDP trong khi đó hệ số ICOR tính bình quân 5 năm cho cả 2 giai đoạn 2001 – 2005 (4,6%) và 2006 – 2010 (5,8%) của Việt Nam đều cao gấp đôi so với Malaysia hay Indonesia khi các nước này ở trong cùng giai đoạn giống ta. Thực tế, chỉ số ICOR cao cũng không phải là điều đáng lo ngại nếu nó được giải thích bởi sự gia tăng cơ sở hạ tầng, xây dựng phát triển đẩy mạnh nền tảng kinh tế nhưng tình hình Việt Nam, tổng chi đầu tư cho kết cấu hạ tầng trên GDP cao nhưng kết cấu hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập. Điều này cho thấy cơ cấu đầu tư của Việt Nam có vấn đề, cơ cấu kinh tế chưa thực sự hợp lý để tạo điều kiện phát triển bền vững cho những năm sau. Việc bơm tiền ra để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, song hệ số ICOR cao, nguy cơ lạm phát là khó tránh khỏi. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009 đã ở mức 38%, gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn nhiều so với mức chênh lệch 3,5 lần giữa tốc độ tăng tín dụng bình quân và tốc độ tăng GDP trong 5 năm trước. Đây là sức ép gây ra lạm phát cho năm 2010 và những tháng qua. 2.4 Tác động của lạm phát đối với kinh tế xã hội Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Đối với các Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại. Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng. Lĩnh vực sản xuất: Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các nguyên vật liệu, sản phẩm biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong thị trường, gây khó khăn không nhỏ đối với các Doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa giá cả tăng cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khoảng 95% là Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty không kiểm soát được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất. 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít phải nhờ đến nguồn vốn vay và được các lãnh đạo có kinh nghiệm dẫn dắt. Số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm phát, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu. Như vậy 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đứng trước nguy cơ phá sản. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động. Lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng cao đến 23% làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Chính những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị trường trở nên khan hiếm hàng hóa, dẫn đến mất cân bằng cung-cầu. Tác động đến xã hội: Với việc giá cả gia tăng trong khi đó đồng lương cơ bản chưa tăng, giá trị tiền đồng giảm sút đã gây rất nhiều khó khăn trong tiêu dùng cho người dân. Những người bị hứng chịu mạnh nhất đó là các công chức nghỉ hưu, sinh viên, nông dân và người nghèo. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LẠM PHÁT HIỆN NAY Điều tiết giảm tổng cầu của nền kinh tế để giảm bớt sức ép lạm phát; thu hẹp chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế để từng bước giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn lực bên ngoài, cải thiện cán cân thanh toán, kiểm soát nợ công và nợ quốc gia bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Cần tập trung thực hiện một số biện pháp cụ thể sau: Trong điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cần ưu tiên vốn tín dụng phục vụ trực tiếp sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản; hạn chế cấp vốn tín dụng cho lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, nhập khẩu hàng hoá thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu; có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận nguồn vốn. Từng bước giảm mặt bằng lãi suất bảo đảm hài hoà lợi ích của người gửi tiền và người đi vay, khuyến khích được doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm cung - cầu hàng hoá và các cân đối lớn của nền kinh tế, nhất là cân đối nguồn điện. Trong điều hành chính sách tài khoá, kiên quyết không chi ngân sách nhà nước vượt dự toán chi đã được phê duyệt, đưa mức bội chi ngân sách nhà nước xuống dưới 5% GDP; quản lý chặt chẽ các khoản chi có nguồn gốc ngân sách và việc ứng chi ngân sách nhà nước; tiến hành khẩn trương và cương quyết việc cắt giảm các dự án đầu tư chưa cần thiết. Chính phủ cần giao cụ thể chỉ tiêu cắt giảm vốn đầu tư cho mỗi ngành, mỗi địa phương, việc cắt giảm các dự án cụ thể giao cho ngành và địa phương quyết định. Về tình hình xuất nhập khẩu, cần thực hiện các biện pháp quyết liệt giảm tỷ lệ nhập siêu xuống dưới 16% tổng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập khẩu, góp phần cải thiện mạnh cán cân thanh toán, bảo đảm cân đối ngoại tệ quốc gia. Tăng cường kiểm tra, giám sát, không cho nhập khẩu thiết bị, vật tư, hàng hoá đã sản xuất được trong nước; hạn chế đến mức tối thiểu nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ. Khuyến khích đầu tư sản xuất các hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu đủ sức cạnh tranh về giá cả và chất lượng. Cần cơ cấu lại việc phân bổ các nguồn lực cho các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế một cách hợp lý trên cơ sở có cơ cấu đầu tư hiệu quả, lấy cơ cấu đầu tư là công cụ điều tiết sự phát triển nền kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế là thước đo và tiêu chí chủ yếu để quyết định đầu tư. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành, lĩnh vực, những dự án có giá trị gia tăng cao trên cơ sở ứng dụng công nghệ, phát huy sáng tạo, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng phương thức quản trị doanh nghiệp hiện đại; khẩn trương ban hành cơ chế, chính sách Khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ. Cần chú trọng tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng một số khu kinh tế ven biển làm động lực phát triển kinh tế vùng. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư của nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội, giảm vốn nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực, các dự án mang tính kinh doanh để tập trung vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực xã hội, nhất là giáo dục, đào tạo, y tế và an sinh xã hội. Hoàn thiện chính sách xã hội hoá đầu tư để khai thác tối đa các nguồn lực trong xã hội phục vụ cho đầu tư phát triển. KẾT LUẬN Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát hoàn toàn thì cái giả phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại.Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hành công khái khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xóa bỏ bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong cuộc chống lạm phát 1989 và các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008 đưa nước ta vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị…những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triên khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà một phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước trong nhiều năm tới này. Nhóm sinh viên xin chân thành cảm ơn giảng viên Ths. Phạm Thị Nguyệt đã hướng dẫn giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình tài chính tiền tệ phần 1 – PGS. TS Phạm Thị Cúc - Khoa tài chính kế toán – ĐH Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh Các trang web: – Tổng cục thống kê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây.doc
Luận văn liên quan