Sinh viên : Phạm Thị Tuyết Mai
Lớp : Nông nghiệp 46 A
Bài tập : Tài chính tiền tệ
Đề tài : Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn . Trên cơ sở đó cho biết nguyên nhân và bịên pháp khắc phục .
* * *
Thời gian gần đây chúng ta đang quan tâm nhiều đến vấn đề giá cả . Bởi vì giá cả có mối quan hệ chặt chẽ đến cuộc sống của chúng ta . Giá cả tăng mà thu nhập không tăng sẽ dẫn tới mức sống của chúng ta giảm xuống . Do đó mà chúng ta phải quan tâm đến vấn đề này . Vì chỉ cần chúng ta không chú ý một thời gian , là đã có thể không nắm bắt được giá cả của các loại hàng hoá . Vậy điều gì đang xảy ra .
Chúng ta đang nói về lạm phát . Hiện tượng giá cả của các loại hàng hoá có xu hướng tăng lên .
Trong khoảng gần một thập kỉ chúng ta đã có một mức giá khá ổn định với lạm phát thấp . Nhưng bây giờ chúng ta đang đối mặt với một thực tế là giá cả tăng một cách rõ ràng trên mọi hàng hoá . Lạm phát năm sau cao hơn năm trước và chưa có dấu hiệu dừng lại .Vậy thực chất thì lạm phát là gì ? Lạm phát có những đặc điểm gì ? Nó đã trải qua những giai đoạn nào ?
Để trả lời những câu hỏi trên , chúng ta hãy cùng tìm hiểu lạm phát qua các thời kì ở nước ta .
Trong suốt hơn 30 năm qua , nền kinh tế của chúng ta đã có những biến chuyển quan trọng , đi đôi với nó lạm phát cũng có những sự thay đổi dựa trên thực trạng nền kinh tế .
Căn cứ vào những đặc điểm cốt yếu ta có thể chia tình hình lạm phát thành các giai đoạn như sau .
I. Lí luận và thực trạng lạm phát ở nước ta
1. Giai đoạn khó khăn và đòi hỏi đổi mới ( Trước 1989)
1.1. Thời kì trước đổi mới
Trước năm 1975, đất nước ta đang dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến cứu nước. Tất cả cho tiền tuyến. Mọi nguồn lực đều dành hết cho một mục tiêu duy nhất là thống nhất đất nước và giành độc lập dân tộc. Vì thế nên mục tiêu phát triển kinh tế chỉ bó hẹp trong nội dung dồn sức cho tiền tuyến. Không thể đòi hỏi gì hơn ở một nền kinh tế trong chiến tranh . Mặt khác, hai đầu đất nước là hai nền kinh tế khác nhau. Một bên là nền kinh tế thị trường tự do, một bên là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Do những đặc điểm đặc thù của nền kinh tế nên giai đoạn này lạm phát hầu như chưa xuất hiện rõ nét .
Sau năm 1975, chúng ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước . Lúc đó, việc sát nhập hai hệ thống kinh tế, chính trị hoàn toàn khác nhau đã đặt ra những thử thách lớn cho chúng ta . Miền nam là một nền kinh tế thị trường tự do tương đối phát triển, có xuất khẩu .Đặc điểm của nền kinh tế miền nam lúc này là đô thị hoá, phát triển công nghiệp nhẹ và nhập khẩu công nghiệp nặng. Trong khi đó, ở miền bắc nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chủ yếu dựa vào viện trợ và nhập khẩu nước ngoài những hàng hóa tiêu dùng, và tập trung hoá cao tư liệu sản xuất .
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4688 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn . Trên cơ sở đó cho biết nguyên nhân và bịên pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh viên : Phạm Thị Tuyết Mai
Lớp : Nông nghiệp 46 A
Bài tập : Tài chính tiền tệ
Đề tài : Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn . Trên cơ sở đó cho biết nguyên nhân và bịên pháp khắc phục .
* * *
Thời gian gần đây chúng ta đang quan tâm nhiều đến vấn đề giá cả . Bởi vì giá cả có mối quan hệ chặt chẽ đến cuộc sống của chúng ta . Giá cả tăng mà thu nhập không tăng sẽ dẫn tới mức sống của chúng ta giảm xuống . Do đó mà chúng ta phải quan tâm đến vấn đề này . Vì chỉ cần chúng ta không chú ý một thời gian , là đã có thể không nắm bắt được giá cả của các loại hàng hoá . Vậy điều gì đang xảy ra .
Chúng ta đang nói về lạm phát . Hiện tượng giá cả của các loại hàng hoá có xu hướng tăng lên .
Trong khoảng gần một thập kỉ chúng ta đã có một mức giá khá ổn định với lạm phát thấp . Nhưng bây giờ chúng ta đang đối mặt với một thực tế là giá cả tăng một cách rõ ràng trên mọi hàng hoá . Lạm phát năm sau cao hơn năm trước và chưa có dấu hiệu dừng lại .Vậy thực chất thì lạm phát là gì ? Lạm phát có những đặc điểm gì ? Nó đã trải qua những giai đoạn nào ?
Để trả lời những câu hỏi trên , chúng ta hãy cùng tìm hiểu lạm phát qua các thời kì ở nước ta .
Trong suốt hơn 30 năm qua , nền kinh tế của chúng ta đã có những biến chuyển quan trọng , đi đôi với nó lạm phát cũng có những sự thay đổi dựa trên thực trạng nền kinh tế .
Căn cứ vào những đặc điểm cốt yếu ta có thể chia tình hình lạm phát thành các giai đoạn như sau .
I. Lí luận và thực trạng lạm phát ở nước ta
1. Giai đoạn khó khăn và đòi hỏi đổi mới ( Trước 1989)
1.1. Thời kì trước đổi mới
Trước năm 1975, đất nước ta đang dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến cứu nước. Tất cả cho tiền tuyến. Mọi nguồn lực đều dành hết cho một mục tiêu duy nhất là thống nhất đất nước và giành độc lập dân tộc. Vì thế nên mục tiêu phát triển kinh tế chỉ bó hẹp trong nội dung dồn sức cho tiền tuyến. Không thể đòi hỏi gì hơn ở một nền kinh tế trong chiến tranh . Mặt khác, hai đầu đất nước là hai nền kinh tế khác nhau. Một bên là nền kinh tế thị trường tự do, một bên là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Do những đặc điểm đặc thù của nền kinh tế nên giai đoạn này lạm phát hầu như chưa xuất hiện rõ nét .
Sau năm 1975, chúng ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước . Lúc đó, việc sát nhập hai hệ thống kinh tế, chính trị hoàn toàn khác nhau đã đặt ra những thử thách lớn cho chúng ta . Miền nam là một nền kinh tế thị trường tự do tương đối phát triển, có xuất khẩu .Đặc điểm của nền kinh tế miền nam lúc này là đô thị hoá, phát triển công nghiệp nhẹ và nhập khẩu công nghiệp nặng. Trong khi đó, ở miền bắc nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chủ yếu dựa vào viện trợ và nhập khẩu nước ngoài những hàng hóa tiêu dùng, và tập trung hoá cao tư liệu sản xuất .
1.2. Thời kỳ bắt đầu đổi mới
Trước đổi mới năm 1979, nền kinh tế nứơc ta được thống nhất từ hai mô hình kinh tế nêu trên vào một nền kinh tế hàng hoá tập trung quan liêu bao cấp với sự kiểm soát và can thiệp tập trung của chính phủ lên tất cả các hoạt động của nền kinh tế. Chúng ta chỉ chấp nhận hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Miền bắc với sự hợp tác hoá cao độ, tất cả các công ty đều thuộc sở hữu nhà nước từ cấp trung ương đến địa phương. Lĩnh vực nông nghiệp thì hợp tác hoá và quản lí theo hình thức hợp tác xã. Cả ngành công nghiệp và nông nghiệp đều dựa vào sự phân bổ vốn và nguyên liệu vật tư sản xuất của Nhà nước. Sản phẩm làm ra được phân phối theo kế hoạch định sẵn, hàng hoá tiêu dùng được định lượng dưới dạng tem phiếu. Điều này đã gây ra sự khan hiếm hàng hoá tiêu dùng. Trong khi đó ở miền Nam nền kinh tế thị trường đã phát triển từ trước năm 1975, còn nền kinh tế kế hoạch tập trung chỉ mới tồn tại từ sau năm 1975. Sự sát nhập giữa hai nền kinh tế khác nhau đã tạo nên hiện tượng phân tầng kinh tế. Mặc dù nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn tồn tại nhưng vẫn có một nền kinh tế thị trường phát triển ngầm trong đó.Và dù giá hàng hoá đã được Nhà nước quy định và hàng hóa được phân phối theo kế hoạch và tem phiếu, nhưng ngoài thị trường ngầm vẫn tồn tại hàng hóa ở một mức giá cao hơn mức giá Nhà nước quy định, hiện tượng lạm phát xuất hiện. Trong khi đó thì hàng hoá được phân phối theo định lượng ngày càng khan hiếm, giá cả thị trường ngày càng leo thang, điều đó dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng trong nền kinh tế. Những khó khăn này không thể khắc phục trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đòi hỏi phải có sự thay đổi trong mô hình kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường hoạt động dưới sự điều tiết của Nhà nước.
Từ năm 1979 đến 1985 nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã bộc lộ nhiều yếu điểm và hạn chế đòi hỏi phải có sự đổi mới. Nhà nước đã có nhiều cố gắng đổi mới trong quản lý của các doanh nghiệp quốc doanh như: áp dụng nhiều những chính sách và biện pháp mới nhằm cải thiện nền kinh tế, nổi bật như hợp đồng khoán sản phẩm trong nông nghiệp , ba loại kế hoạch, trong đó kế hoạch ba cho phép các doanh nghiệp được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng những điều đó không đem lại hiệu quả cao. Nền kinh tế đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Tiếp theo đó nền kinh tế lại có nhiều biểu hiện suy thoái khủng hoảng và lạm phát, sản xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao, thu nhập quốc dân tăng không đáng kể, mức sống của nhân dân giảm sút, giá cả của thị trường chính thức và thị trường chợ đen có một khoảng cách khá xa, lạm phát phi mã đã xuất hiện và ngày càng trầm trọng. Tỷ lệ lạm phát năm 1984 ở mức 164,9%, năm 1985 là 191,6%, trong khi đó tăng trưởng lại giảm sút trông thấy, giảm từ 6% năm 1984 xuống khoảng 3% năm 1985, tăng trưởng và lạm phát thời kỳ này có thể nói là không có quan hệ gắn bó bởi những quy luật kinh tế thị trường trong giai đoạn này chưa hoạt động đúng, mà nhiều khía cạnh còn bị bóp méo do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp.
1.3. Lạm phát phi mã cuối thập kỷ 80
Cuối thập kỷ 80, cùng với sự cải tổ của Liên Xô, các nước Đông Âu lần lượt bị sụp đổ, nguồn viện trợ cho Việt Nam bị cắt giảm mạnh, giá cả đầu vào của sắt thép, dầu hoả, máy móc thiết bị tăng, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên. Mặt khác, tình hình trong nước khó khân, tiền không đủ chi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, để giải quyết tình trạng này chính phủ phải in thêm tiền để các xí nghiệp quốc doanh mua nguyên vật liệu. Nền kinh tế đã kiệt quệ lại càng khó khăn kiệt quệ hơn. Trước tình hình khó khăn đó, năm 1985 chính phủ đã đổi mới chính sách tiền tệ và thực hiện đổi tiền với tỷ lệ 10 đồng tiền cũ bằng 1 đồng tiền mới nhằm giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Đồng thời với đổi tiền là xoá bỏ bao cấp hàng tiêu dùng và điều chỉnh tiền lương. Giá cả hàng hoá nông nghiệp được tự do hoá theo thị trường. Cơ chế hai giá dần dần được xoá bỏ, tiến tới giá cả được hình thành và hoạt động trên cơ sở trao đổi thương mại. Giữa năm 1989 vai trò của khu vực tư nhân đã được thừa nhận, những quy chế về thúc đẩy và giải phóng mọi tiềm năng sản xuất của khu vực tư nhân được ban hành. Tuy nhiên sự phát triển của khu vực tư nhân vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi môi trường sản xuất kinh doanh của chúng chưa được hình thành. Trong nông nghiệp còn nhiều bất cập trong chế độ khoán sản phẩm, mức đóng góp bắt buộc còn quá cao, chi phí cho sản xuất cao trong khi giá của lương thực thực phẩm lại thấp. Nên nông dân không muốn tăng sản xuất của họ. Hơn nữa, bão lũ lại xảy ra ở một số địa phương, sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, nạn đói xảy ra ở một số nơi. Với những hoàn cảnh nêu trên người dân tích cực tích trữ hàng hoá lương thực, vàng và đô la vì sợ đồng tiền Việt Nam mất giá, tạo nên cầu giả tạo tăng cao, giá cả tăng vọt. Tất cả những điều trên là nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã, trong khi tăng trưởng thì giảm xuống gần như không. Năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên đến 487,2%, năm 1987 là 301,3%, năm 1988 là 308,2%, năm 1989 tỷ lệ lạm phát ở mức 74,3%. Trong khi tăng trưởng kinh tế ở những năm này chỉ khoảng 1% đến 2%. Giai đoạn trước 1989 tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát luôn ngược chiều nhau. Bên cạnh sự đổi tiền là sự phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách, giá cả thì tự do, hàng hoá thì khan hiếm do sản xuất trong nước không tăng, trong khi nhập khẩu bị hạn chế do cơ chế xuất nhập khẩu chưa được tự do hoá. Như vậy một mặt tiền thì dư thừa trên thị trường, nhu cầu hàng hoá cao, cung hàng hoá thấp đưa đến lạm phát tăng nhanh đến chóng mặt, còn tỷ lệ tăng trưởng thì không những không tăng mà còn thụt lùi. Vào thời điểm này, lạm phát và tăng trưởng gần như không có mối quan hệ nào và nếu như có quan hệ thì số liệu cho thấy thì lạm phát càng cao thì tăng trưởng càng thấp.
1986
1987
1988
1989
Lạm phát
487,2
301,3
308,2
74,3
Tăng trưởng
3,4
3,9
5,1
8,0
2. Thời kỳ tăng trưởng kinh tế đi đôi với lạm phát (sau năm 1989)
Trước tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát phi mã nền kinh tế Việt Nam được đẩy mạnh đổi mới thêm một bước nữa, có nhiều đề tài nghiên cứu phân tích tình hình kinh tế, tìm nguyên nhân gây ra lạm phát để kiểm soát nó . Thực tế cơ chế hai giá đã đưa đến tăng đột biến về tổng cầu hàng hóa và dịch vụ do nhiều nhu cầu nảy sinh. Sau khi bãi bỏ cơ chế hai giá, tự do hóa gía cả thì tổng cầu giảm xuống đáng kể do giá chính thức của hàng hóa thấp. Bên cạnh các giải pháp giảm chi tiêu của chính phủ và tự do hoá giá cả, Nhà nước tiến hành cải cách trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, chính sách tiền tệ thắt chặt được áp dụng. Trước tiên là kiểm soát lượng tiền cung ứng, khống chế tổng phương tiện thanh toán, giảm dần việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước. Đến năm 1991 thâm hụt ngân sách đã được trang trải toàn bộ bằng phát hành trái phiếu thay bằng in thêm tiền. Tiếp theo đó là sự thắt chặt tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Biện pháp cơ bản trong chính sách tiền tệ là tăng cao lãi suất. Trong những năm trước đó, lãi suất không những không phản ánh đúng quy luật kinh tế mà còn bị bóp méo quá mức. Việc thay thế lãi suất thực âm bằng lãi suất thực dương đã thu hút một lượng tiền khá lớn của người dân gửi vào hệ thống ngân hàng. Vào tháng 3 năm 1989 những cải cách mạnh mẽ trong chính sách tỉ giá và thương mại để tiến tới một thị trường tự do đã đạt hiệu quả. Hai cơ chế tỉ giá khác nhau được thống nhất vào một tỷ giá đã phản ánh một cách tương đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Việc thống nhất các loại tỷ giá khác nhau thành tỷ giá thị trường tự do đóng một vai trò quan trọng trong kìm chế lạm phát. Tiếp theo đó là thị trường ngoại hối được tự do hoá. Mọi người trước đây tích trữ ngoại tệ thì bây giờ đã giữ tiền đồng và gửi tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng. Lượng tiền tiết kiệm ngày càng gia tăng do sự hình thành và phát triển của những quỹ tiết kiệm tư nhân. Lượng tiền trong lưu thông giảm, lạm phát phi mã giảm xuống. Tuy nhiên, cuối năm 1990 đến đầu năm 1991 nhiều quỹ tiết kiệm tư nhân đã phá sản, tình hình kinh tế khó khăn và tâm lý e ngại gửi tiền tiết kiệm lại tăng lên.
Cải cách kinh tế đã được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước đã được tư nhân hoá một phần, những doanh nghiệp quốc doanh làm ăn không hiệu quả và thua lỗ bị giải thể. Kinh tế hộ gia đình được khuyến khích phát triển, sản xuất trong nền kinh tế được đa dạng hoá. Các hàng rào thương mại được bãi bỏ đặc biệt thương mại ở biên giới Việt – Trung được thông thương không chỉ làm tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu mà còn làm tăng lượng hàng hoá nhập khẩu. Hàng hoá không còn khan hiếm, nhu cầu hàng hoá được đáp ứng, lạm phát giảm đáng kể. Năm 1991 tỷ lệ lạm phát còn là 67,5%, năm 1992 tỷ lệ này giảm xuống còn 17,6%, đặc biệt năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 5,2%. Trong giai đoạn này nhờ kiểm soát được lạm phát nên tỷ lệ tăng trưởng tăng lên.
Đến năm 1996, tình hình lạm phát và tăng trưởng đã bắt đầu có thay đổi, tỷ lệ lạm phát giảm còn 4,5%, tăng trưởng đạt 9,34%, giá cả thị trường trong năm 1996 khá ổn định. Tuy biên động giá trong các tháng còn lớn, nhưng kết quả kiềm chế lạm phát đã vững chắc tạo sự ổn định cho nền kinh tế.
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Lạm phát
67,6
17,6
5,2
14,4
12,7
4,5
Tăng trưởng
6,0
8,65
8,07
8,5
9,5
9,34
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giá cả được giữ ở mức ổn định trong năm 1996, có thể nêu ra một số nguyên nhân như:
- Việc chỉ đạo và theo dõi sát sao kiềm chế lạm phát đã được các bộ ngành địa phương thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả
- Sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì ở mức độ cao
- Bằng nhiều nguồn khác nhau, hàng hoá trên thị trường đã được cung cấp đầy đủ, vượt nhu cầu
- Việc nhập khẩu hàng hoá nhất là hàng tiêu dùng theo hình thức mở L/C trả chậm tăng nhanh đã gây nhiều tiêu cực cho nền kinh tế
- Tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ chặt chẽ
- Giá cả thị trường thế giới biến động theo chiều hướng giảm đối với nhiều loại hàng cũng ảnh hưởng đến mặt bằng giá của nước ta. Việc hoà nhập với các nước trong khu vực tạo những thuận lợi cho phát triển kinh tế ở nước ta.
Nhiệm vụ kiềm chế lạm phát năm 1996 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
3. Thời kỳ thiểu phát (1997-2005)
Bước vào năm 1997 tình hình lạm phát chuyển sang thiểu phát. Tỉ lệ lạm phát tháng 1/1997 là 0,8%, hai tháng lạm phát 2,6% nhưng đến hết tháng 3 chỉ số giá chỉ ở mức 2,1%, tiếp đó tỷ lệ lạm phát tiếp tục giảm, 10 tháng đầu năm tỷ lệ lạm phát ở mức 2,3%, đến tháng 11 và 12 tỷ lệ lạm phát mới nhích lên chút ít. Tuy nhiên năm 1997 nói chung đã xuất hiện dấu hiệu trì trệ. Sở dĩ năm 1997 tình hình lạm phát diễn ra như trên do nền kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng, cơ chế quản lý theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước tuy chưa đồng bộ song từng bước đã phát huy tác dụng, sản xuất trong nước đã dần ổn định và phát triển. Một số chủ trương, biện pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước đã bắt đầu đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Hoạt động thương mại và dịch vụ trên thị trường trong và ngoài nước đã đạt kết quả tốt. Trong năm 1997 công tác điều hành chống lạm phát được chuẩn bị chu đáo và chỉ đạo sát sao nên khi triển khai đã đạt được hiệu quả tốt. Bên cạnh đó đầu năm 1997 tình hình quốc tế và thị trường thế giới không có những biến động lớn, xu hướng hợp tác cũng tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Nhưng giữa năm 1997 một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á đã nổ ra gây bất lợi cho nền kinh tế nước ta. Tình hình thiểu phát kéo dài trong các năm 1999 đến 2003.
3.1. Thời kỳ khởi đầu thiểu phát 1997
Năm 1997 giá cả thị trường trong nước ở mức khá ổn định, chỉ số lạm phát ở mức 103,6% tăng 3,6% so với cuối năm 1996. Đây là mức lạm phát thấp nhất ở nước ta cho đến trước năm 1997. Tuy nhiên, cùng với những thành công trong việc kiềm chế lạm phát đã xuất hiện hiện tượng thiểu phát trong những tháng đầu năm. Có thể nêu ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
- áp dụng một số kinh nghiệm kiềm chế lạm phát trong một số năm trước
- sản xuất kinh doanh vẫn được duy trì ở mức độ cao
- hàng hoá trên thị trường đủ đáp ứng mọi nhu cầu của tầng lớp nhân dân
- tốc độ tăng của xuất khẩu có xu hướng chậm lại là một trong những yếu tố làm giảm giá trong nước
- thực thi chính sách tài chính tiền tệ chặt chẽ
- giá cả thị trường thế giới biến động theo chiều hướng giảm đối với nhiều loại hàng cũng ảnh hưởng đến mặt bằng giá trong nước
3.2. Thời kỳ chịu tác động khủng hoảng kinh tế khu vực
Sang năm 1998 tình hình kinh tế xã hội trong khu vực có những biến động dẫn đến lạm phát cũng có nhiều biến đổi, tỷ lệ lạm phát thấp kéo theo tình hình tăng trưởng kinh tế có chiều hướng không thuận lợi, có những yếu tố tích cực kiềm chế lạm phát:
- Sản xuất trong nước từng bước đi vào ổn định và phát triển, nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động
- Một số chủ trương và biện pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước bắt đầu đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng
- Hoạt động thương mại và dịch vụ trên thị trường trong và ngoài nước đã đạt nhiều kết quả tốt
- Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của nhân dân sau một số năm tăng mạnh đã có xu hướng chuyển sang chất
- Công tác điều hành chống lạm phát được chuẩn bị chu đáo và chỉ đạo sát sao.
Bên cạnh đó có những yếu tố tác động làm cho giá tăng và tình hình lạm phát biến chuyển không tốt như:
- Tình hình khủng hoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam á và Đông Bắc á lan rộng và đe doạ sự ổn định của nền kinh tế nước ta
-Những giải pháp kích cầu trong năm 1997 đã tiêu tốn một lượng tiền khá lớn, mặt khác để khác phục hậu quả của cơn bão ở các tỉnh phía Nam. Những điều trên là nguồn tiềm ẩn gây ra lạm phát cao
-Một lượng tiền lớn đã tăng nhanh trong năm 1997 đã gây lạm phát vào đầu năm 1998
-Người dân giảm gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam mà chuyển sang gửi bằng ngoại tệ
- Dư nợ cho vay nền kinh tế chủ yếu dồn vào các tháng cuối năm trong đó là vay trung và dài hạn đã tác động đẩy giá lên
- Tỷ giá tăng làm giá hàng nhập khẩu tăng, giá nguyên vật liệu sản xuất tăng làm chi phí sản xuất tăng dẫn đến làm tăng giá bán
- Nền kinh tế năm 1997 vẫn phát triển với tốc độ cao nhưng chứa đựng khả năng chững lại làm cho năm 1998 tình hình hàng hoá giảm sút
-Việc tăng cường chống buôn lậu, dán tem hàng nhập làm tăng giá một số hàng hóa như: rượu, thuốc lá…
- Hậu quả cơn bão ở các tỉnh phía Nam đòi hỏi một lượng chi phí lớn từ ngân sách Nhà nước để khắc phục hậu quả nên góp phần đẩy giá hàng hóa tăng
3.3. Thời kỳ thiểu phát bắt đầu
Tình hình lạm phát trong các năm từ 1999 đến 2003 diễn ra ở mức thấp và dấu hiệu thiểu phát kéo dài đến hết năm 2000 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên, chấm dứt thời kỳ tốc độ tăng trưởng đi xuống. Số liệu cho thấy chỉ số giá tiêu dùng trong các tháng ở các năm từ 1999 đến 2003 là rất thấp kéo theo tỷ lệ lạm phát thấp làm tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng ở mức thấp.
Diễn biến giá cả và tình hình thiểu phát từ năm 1999 đến 2003 có nhiều nguyên nhân:
- Do khủng hoảng tài chính tiền tệ làm cho nhu cầu tiêu thụ hàng hoá trên thị trường giảm đi dẫn đến việc xuất khẩu hàng hóa ở nước ta bị tác động không tốt, hàng hoá đọng lại trong nước tăng lên, tiêu thụ hàng hoá ở thị trường trong nước tăng chậm, giá hàng hoá giảm.
- Khủng hoảng tài chính tiền tệ làm FDI, du lịch và các loại hình dịch vụ vào nước ta giảm làm giảm sút đáng kể nhu cầu hàng hoá.
- Các doanh nghiệp trong nước mặc dù còn yếu kém nhưng đã đi vào sản xuất tạo sản phẩm cho thị trường làm tăng cung hàng hoá.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động tạo hàng hóa trên thị trường .
- Nhu cầu hàng hoá dịch vụ của nhân dân chuyển từ lượng sang chất dẫn đến việc tiêu thụ hàng hoá chậm lại.
- Chính phủ đã có một số biện pháp khắc phục nhưng triển khai còn chậm trễ nên hiệu quả không như ý muốn.
- Lượng vốn huy động của ngân hàng tăng cao nhưng lượng vốn cho vay tăng chậm.
- Cán cân thanh toán quốc tế 6 tháng đầu năm 1999 bội thu nhưng ngân hàng phải có một khối lượng tiền cung ứng lớn để đáp ứng nhu cầu chuyển số ngoại tệ đó.
- Giá cả một số mặt hàng trên thị trường thế giới giảm đồng thời tình hình ứ đọng hàng hoá và khủng hoảng thừa ở một số nước cũng gây bất lợi cho ta.
- Sức mua của xã hội tăng chậm
Tình hình thiểu phát còn thể hiện ở lĩnh vực tiền tệ
Thực tế chúng ta đã có nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát như:
- Nhà nước áp dụng giải pháp hỗ trợ cán bộ công chức Nhà nước, cải thiện đời sống, tiền tệ hoá tiền lương
- chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm nhà
- chính phủ hỗ trợ các gia đình liệt sĩ
- thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ
Trong 7 năm từ 1997 đến 2003 nền kinh tế nước ta nằm trong tình trạng lạm phát thấp nhưng tốc độ tăng trưởng cũng thấp, đây thực sự là điều không mong muốn.
4. Lạm phát sau thời gian thiểu phát (2004 – 2005)
Chỉ số giá 9,5% năm 2004 là một giới hạn mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát được và lạm phát cao.
Nền kinh tế nước ta đã phát triển đến một mức độ tương đối, nhiều yếu tố thị trường đã được định hình rõ nét, các quy luật vận hành của nền kinh tế đã được phát huy tác dụng. Mặt khác mặt bằng dân trí đã được nâng cao. Nền kinh tế nước ta đang chuẩn bị hội nhập với nền kinh tế quốc tế, chúng ta đã có mối quan hệ ngoại giao và thương mại với nhiều nước, xuất khẩu đã lớn mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, nền sản xuất đã phát triển toàn diện, hệ thống tài chính ngân hàng đã được đổi mới nhiều cả về số lượng lẫn chất lượng, trình độ hoạch định và điều hành chính sách tài chính tiền tệ đã được nâng cao. Tuy vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, không chỉ từ nguyên nhân chủ quan mà còn do nguyên nhân khách quan như thiên tai, hạn hán, dịch bệnh…
Thoạt nhìn thì điều đập vào mắt mọi người trước tiên về lạm phát là giá cả các mặt hàng trên thị trường thế giới tăng nhanh dẫn đến tăng giá hàng hóa trong nước hay nói cách khác đây là lạm phát chi phí đẩy. Tuy nhiên, khi nghiên cứu chúng ta lại thấy có sự khan hiếm tương đối về hàng hóa trong nước, tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu. Ví dụ: cung nhà đất thấp hơn cầu nhà đất hoặc do dịch cúm gà dẫn đến tổng cung thực phẩm giảm mạnh. Như vậy, lạm phát ở đây có tính chất cầu kéo.
Nhìn lại cả một quá trình kích cầu của chúng ta từ ngân sách Nhà nước đến hệ thống ngân hàng đã bơm ra một lượng tiền đáng kể để kích cầu và vòng quay tiền tệ đã tăng trở lại nên kết quả hiện nay tổng cung tiền tệ lớn hơn tổng cầu tiền tệ, giá cả tăng lên là điều khó tránh khỏi.
Nhìn tổng thể sản xuất đầu tư của chúng ta cũng còn nhiều bất cập, đầu tư dàn trải kém hiệu quả và thất thoát lớn. Trong quản lý điều hành cũng còn nhiều điểm cần đổi mới và hoàn thiện.
Tóm lại khi lạm phát diễn ra không thể nói chỉ một nguyên nhân riêng lẻ nào mà phải xem xét toàn diện các nguyên nhân có thể có .
II. Các giải pháp và chính sách vĩ mô
Trong thời kì mà lạm phát là một vấn đề như hiện nay thì những giải pháp của chính phủ đưa ra dù ít hay nhiều cũng đem lại những kết quả cụ thể .
Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách để kiềm chế lạm phát như sau :
1.Một số vấn đề chung
Như trên đã nói, những mất cân đối về kinh tế vĩ mô ( lạm phát , thâm hụt ngân sách , chênh lệch tỉ giá cao của thị trường không chính thức ) có tương quan ngược chiều rất rõ ràng đối với sự tăng trưởng .Nhiệm vụ của chính sách là làm thế nào để giảm thiểu được được các tác động làm suy giảm sản lượng , đồng thời tạo khả năng để tăng trưởng lâu dài . Mục tiêu quan trọng của nó là làm sao vẫn giữ được mức tăng trưởng cao trong khi đó thì tỉ lệ lạm phát phải giữ ở mức một con số . Tăng trưởng cao gắn liền với các yếu tố là duy trì mức lạm phát thấp và chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt . Đầu tư vào nguồn nhân lực thông qua các khoản chi tiêu cho giáo dục , khuyến khích áp dụng lãi suất tiết kiệm thực dương , bảo vệ có hiệu quả các khoản tiền gửi ở các khoản tiền gửi ở các tổ chức tài chính , hạn chế những méo mó xuyên tạc về giá cả , khuyến khích tiếp thu công nghệ mới từ nước ngoài , tránh những bất lợi cho sản xuất nông nghiệp . Nâng cao tỉ lệ tiết kiệm .
Tuy nhiên cũng phải tránh những yếu điểm có thể gặp phải như : phải hạn chế tối đa việc đầu tư trung và dài hạn bằng vốn ngắn hạn , đặc biệt vốn ngắn hạn vay của nước ngoài , tránh làm mất các giá trị truyền thống , khai thác các nguồn lực phải có quy hoạch không khai thác bừa bãi làm lãng phí tài nguyên .
Đẩy mạnh việc chấn chỉnh doanh nghiệp nhà nước , thanh lọc bộ máy , để cho các doanh nghiệp này càng ngày càng làm ăn hiệu quả hơn, xứng đáng giữ vai trò chủ chốt trong nền kinh tế . Sắp xếp mạng lưới lưu thông đủ mạnh , hoạt động có hiệu quả . Tạo điều kiện để mọi doanh nghiệp hoạt động bình đẳng , cạnh tranh lành mạnh , góp phần cho hàng hoá lưu thông thông suốt .
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp lí cho hoạt động sản xuất kinh doanh .
2.Chính sách tiền tệ tín dụng
Cần xử lí hợp lí các vấn đề sau : nhu cầu về vốn để tăng trưởng kinh tế cao , khả năng đáp ứng vốn và kiềm chế lạm phát ở mức hợp lí với ổn định đồng tiền .
-Hàng năm ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế một lượng vốn cho đầu tư phát triển . Thực tế , nhu cầu tăng tín dụng rất cấp bách so với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng tín dụng .
-Tình hình cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp ở khu vực và thế giới cộng với sự khó khăn của nội tại nền kinh tế , việc các doanh nghiệp trong nước đòi hỏi giảm mức lãi suất là một điều chính đáng nhưng với tình hình hiện tại thì điều đó là rất khó khăn .
-Vốn vay tăng nhanh, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng không nhiều .
Để xử lí tốt các vấn đề trên , cần tiếp tục thực thi các chính sách tiền tệ thận trọng và hợp lí , song cần phải điều chỉnh linh hoạt kịp thời theo những biến đổi của thị trường , để góp phần kiềm chế lạm phát , hoặc chống giảm phát . Các công cụ lãi suất , tỉ giá , hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc ……phải được sử dụng nhạy bén , phù hợp với diễn biến cung cầu hàng hoá và giá của thị trường .
Cần khống chế mức tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lí , từ đó tính toán tổng lượng tiền cung ứng của ngân hàng trung ương .
Khống chế dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ở mức vừa phải , bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả , nâng cao chất lượng tín dụng , tăng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh . Cần chuẩn bị phát hành tín phiếu thu hút lượng tiền dư thừa ngoài thị trường khi bắt đầu có dấu hiệu lạm phát .
Bảo đảm việc mua bán ngoại tệ được thực hiện bình thường , ổn định ở các tổ chức tín dụng .Tỉ giá phải được điều hành theo cung cầu và diễn biến của thị trường ở mức hợp lí bảo đảm khuyến khích phát triển sản xuất , kiểm soát nhập khẩu , ổn định tiền tệ , làm lành mạnh cán cân thanh toán .
Thực hiện tái cấp vốn ở mức hợp lí , mức lãi suất tái cấp vốn cần được thực hiện theo hướng nâng cao hiệu quả tín dụng và làm cơ sở để điều hành lãi suất thị trường .
Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn .
Lãi suất được điều hành một cách linh hoạt , theo sát cung cầu vốn phục vụ phát triển và tăng trưởng kinh tế , bảo đảm yêu cầu huy động vốn và kiềm chế lạm phát
Bên cạnh đó cần xúc tiến các biện pháp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng . Lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng để có một sự tăng trưởng bền vững . Cụ thể : tiến hành đánh giá một cách có hệ thống và kịp thời để sớm vạch ra một kế hoạch sắp xếp lại, tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước . Khắc phục các vấn đề về vốn và nợ của các ngân hàng hoạt động yếu kém.
Ngoài những chính sách trên còn phải tính đến hàng loạt biện pháp khác về lãi suất tiền tệ , chính sách đối với người nghèo : hạ lãi suất xuống để khuyến khích đầu tư , nhưng vẫn phải giữ mức lãi suất thực dương để tránh lạm phát , ổn định chính sách tỉ giá và duy trì mức độ hấp dẫn tín dụng . Các biện pháp kích thích chi tiêu ngân sách hướng vào các hoạt động sử dụng nhiều lao động , bảo hộ tiêu dùng cho người nghèo có thể tiếp cận với các dịch vụ công cộng .
3.Chính sách tài khoá
Giữ mức bội chi ngân sách nhà nước ở mức hợp lí so với GDP trên cơ sở phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi và hiệu quả . Quản lí chặt chẽ các khoản chi , chống tham nhũng một cách quyết liệt .l
Tăng tỉ lệ thu ngân sách bằng việc khai thác các nguồn thu , tích cực chống thất thu , tiết kiệm , chống lãng phí .
Chính sách tài khoá cũng đặc biệt quan trọng đối với ổn định và phát triển kinh tế . Bù đắp thâm hụt ngân sách phải thông qua đi vay chứ không được phát hành tiền . Tài trợ cho thâm hụt ngân sách gia tăng phải tránh gây thêm tác động đến tỉ lệ lãi suất trong nước và phải giảm thiểu chi phí đi vay .Trước mắt phải huy động tối đa nguồn lực trong nước .
4. Các giải pháp thương mại
Bảo đảm cung ứng hàng hóa đủ nhu cầu thị trường , cân bằng cung cầu . Xuất khẩu phải nhiều hơn nhập khẩu , ngày càng lành mạnh hóa cán cân thương mại.
Thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nước để tăng cung ứng hàng hoá . Nâng cao chất lượng hàng hoá , tăng nhanh sản xuất các loại hàng thay thế hàng nhập khẩu .
Tăng cường dự trữ quốc gia và dự trữ lưu thông để có đủ khả năng can thiệp vào thị trường , bình ổn giá cả .
Tìm kiếm thị trường , tìm hiểu nhu cầu thị trường để ngày càng tăng lượng hàng xuất khẩu .
5.Các giải pháp khác
Huy động triệt để cơ sở vật chất và lao động hiện có , huy động thêm nguồn vốn , tăng nhanh khả năng đầu tư , tăng tiêu dùng hợp lí hàng hóa , dịch vụ của các tầng lớp dân cư . Cụ thể , giải phóng nâng cao hiệu quả của các nhân tố sản xuất , nâng cao hiệu quả sử dụng đất , tạo công ăn việc làm, nâng cao trình độ , năng lực cho người lao động . Nâng cao công suất sử dụng cơ sở vật chất . Mở rộng thị trường , nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường , thúc đẩy hội nhập trên thị trường quốc tế .Thúc đẩy phát triển đồng bộ hệ thống thị trường , tăng cường hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô , đẩy mạnh thu hút nguồn vốn từ bên ngoài .
Để đảm bảo có tăng trưởng cao và lạm phát hợp lí thì phải có tổng hợp một hệ thống biện pháp hài hoà , thống nhất . Không thể chỉ đơn lẻ một biện pháp nào .
Trong khuôn khổ một bài ngắn không thể suy xét tất cả mọi vấn đề . Nên bài viết này chỉ đề cập đến một khía cạnh rất nhỏ của lạm phát . Mong rằng thời gian sau chúng ta có thể được tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn Trên cơ sở đó cho biết nguyên nhân và bịên pháp khắc phục.docx