Trong đời sống kinh tế hàng ngày, rủi ro luôn luôn tiềm ẩn, nó được coi là những bất trắc, những biến cố không có lợi, nằm ngoài sự mong đợi của con người. Rủi ro nhiều khi mang lại những hậu quả không lường. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng luôn có thể gặp nhiều loại rủi ro nhưng rủi ro điển hình nhất mà Ngân hàng phải luôn đối mặt là rủi ro tín dụng- Rủi ro khách hàng không trả được nợ. Rủi ro này không chỉ gây tác động xấu tới ngân hàng mà ở mức độ trầm trọng hơn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đang là mối quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng và xã hội.
Qua quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, em đã tìm hiểu và chọn đề tài: “Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng
Chương II: Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng trong hai năm 2008-2009
Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng trong thời gian đến.
53 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2601 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng rất đáng kể. Điều đó giúp cho tỉ lệ NQH bq của cả hai ngành đều giảm xuống. Cụ thể: dư nợ bq tăng 6,36% còn NQH giảm xuống còn 7.479 triệu đồng trong đó ngành TM-DV là 6.799 triệu đồng, giảm 39,39%, ngành công nghiệp là 444 triệu đồng, giảm 41,66%, xây dựng là 236 triệu đồng, giảm 44,86%.
NKĐ bq giảm mạnh và chỉ còn 228 triệu đồng, tương đương với tốc độ 86,95%, ngành TM-DV giảm 1.466 triệu đồng với tốc độ 87,00%, ngành công nghiệp giảm 26 triệu đồng với tốc độ 74,28%, ngành xây dựng không còn NKĐ bq. Như vậy, cùng với sự giảm mạnh của NQH bq, NKĐ bq đã làm cho tỉ lệ NQH bq, NKĐ bq giảm nhanh. Cụ thể: tỉ lệ NQH bq của ngành TM-DV giảm từ 1,28% xuống còn 0,72% giảm với tốc độ 43,75%, ngành công nghiệp giảm từ 0,74 xuống còn 0,47%, giảm với tốc độ 36,49%, xây dựng giảm 61,65%. Tỉ lệ NKĐ bq /NQH bq ngành công nghiệp giảm còn 2,03% với tốc độ 55,87%; ngành TM-DV giảm còn 3,22% với tốc độ 78,56%.
Năm 2003, ngân hàng đã có những giải pháp tích cực trong việc thu hồi nợ, thu lãi. Song, NQH giảm cũng phải kể đến sự bám sát tình hình hoạt động của từng đơn vị vay vốn của CBTD và họ đã cho gia hạn kịp thời. Hầu hết các khoản nợ ngân hàng đều được gia hạn nếu trong trường hợp cho phép (nghĩa là còn được phép gia hạn nợ ).
Tóm lại, NQH, NKĐ theo ngành có giảm và chiếm chủ yếu vẫn là ngành TM-DV. Đối với ngành này, rủi ro xảy ra đa số vẫn là nguyên nhân khách quan.
c) Phân tích theo khả năng thu hồi vốn
Bảng 9 : BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CỦA CHO VAY NGẮN HẠN
THEO KHẢ NĂNG THU HỒI VỐN
Đvt: triệu đồng
Năm 2002
Năm 2003
Chênh lệch
ST
TT(%)
ST
TT(%)
ST
TL(%)
1. NQH dưới 6 tháng
10.470
84,39
7.251
96,95
-3.219
-30,75
2. NQH từ 6-12 tháng
190
1,53
-
-
-190
-100
3. NQH trên 12 tháng
1.747
14,08
228
4,37
-1.519
-86,95
Tổng
12.407
100
7.479
100
-4.928
-39,72
Theo quan niệm của các nước thì NQH được gọi chung là nợ xấu, khi tỉ lệ này của một ngân hàng lên đến 5% tổng dư nợ thì được coi là báo động. Ở nước ta thường gọi là NQH trong đó còn được phân chia ra làm các loại: nợ khê đọng, nợ khó đòi... với các khoảng thời gian quá hạn là trên 360 ngày, trên 180 ngày và trên 90 ngày (dưới 6 tháng)
NQH dưới 6 tháng được coi là NQH bình thường và có thể chấp nhận được trong kinh doanh hiện nay. Những khoản NQH này phát sinh do trong điều kiện kinh doanh mua bán hiện nay, việc thanh toán tiền-hàng thường không đồng thời với quá trình giao hàng mà thanh toán theo kiểu thanh toán sau, thanh toán “gối đầu” ( khi giao hàng lần thứ hai thì mới thanh toán tiền hàng cho lần thứ nhất), do đó đối với các đơn vị có vay vốn ngân hàng thì rất dễ xảy ra tình trạng quá hạn. Hoặc cũng có thể ngân hàng định kỳ hạn cho vay không đúng nhu cầu vay vốn của khách hàng, đến thời hạn trả nợ nhưng vì chưa thu được vốn về nên khách hàng chưa trả được nợ là điều tất yếu. Đối với những khoản nợ này, ngân hàng có khả năng thu hồi được rất cao- nguy cơ mất vốn ít.
Đối với Chi nhánh NHCT Đà Nẵng NQH bq của ngân hàng tập trung chủ yếu ở khoảng thời gian dưới 6 tháng, năm 2002 là10.470 triệu đồng chiếm 84,39% và 7.251 triệu đồng năm 2003, chiếm 96,95%. Ta thấy NQH bq dưới 6 tháng giảm 3.219 triệu đồng tương ứng với tốc độ 30,75% mà tỉ trọng vẫn tăng. Đây là điều kiện tốt để thu hồi dễ hơn, biểu hiện đáng mừng của ngân hàng .
NQH bq từ 6-12 tháng được coi là nợ khê đọng đã tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, có khả năng chuyển thành nợ khó đòi. Nếu khoản này cao, nguy cơ mất vốn của ngân hàng là rất lớn. NQH bq từ 6-12 tháng năm 2002:190 triệu đồng chiếm tỉ trọng 1,53%, năm 2003, khoản nợ khê đọng này không còn nữa. Đó là kết quả của việc ngân hàng đã tiến hành thu lãi hàng tháng để tránh lãi chất chồng gây khó khăn cho việc thu hồi và tiến hành thu nợ theo thời hạn nợ quy định ghi trên sổ vay vốn. Tuy nhiên, nếu khách hàng khó khăn, ngân hàng xét gia hạn nợ nếu đủ điều kiện. Có thể NQH giảm một phần do ngân hàng đã gia hạn nợ cho khách hàng. Đó cũng là một biện pháp không để nợ dây dưa sang nợ quá hạn trên 12 tháng.
Qua bảng trên, NQH bq trên 12 tháng đã giảm với tốc độ rất cao là 86,95% từ 1.747 triệu đồng (chiếm 14,08%) năm 2002 xuống còn 228 triệu đồng (chiếm 3,05%) năm 2003. Bên cạnh đó tỷ trọng NQH bq trên 12 tháng cũng không ngừng giảm, từ 14,08% năm 2002 xuống còn 3,05% năm 2003 - điều đó chứng tỏ khả năng mất vốn của ngân hàng đã được hạn chế ở mức thấp thấp. Đối với khoản nợ này thì đã được xem là khó đòi nên ngân hàng khó thu hồi. Nhưng ở ngân hàng, NKĐ bq lại giảm đi. Có lẽ một phần do ngân hàng thu hồi được nợ còn phần lớn là do ngân hàng tiến hành xử lý theo chủ trương của Chính phủ, của ngân hàng cấp trên. Nhưng bằng cách nào đi nữa thì NKĐ bq giảm là đáng mừng. Và bằng những biện pháp thu nợ triệt để hơn nữa ngân hàng nên hạ thấp con số này - như vậy rủi ro mới được đẩy lùi nhanh chóng.
3. Rủi ro tín dụng trung và dài hạn:
Ngoài việc mở rộng đa dạng hoá các lĩnh vực cho vay ngắn hạn, trong năm qua ngân hàng đã và đang cố gắng mở rộng cho vay trung và dài hạn, nâng dần tỉ trọng cho vay trung và dài hạn lên để phù hợp với tình hình chung hiện nay.
a) Phân tích NQH, NKĐ cho vay trung dài hạn theo thành phần kinh tế
Bảng 10 : BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CHO VAY TRUNG DÀI HẠN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
Đvt : triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
DN bq
NQH bq
NQHbq/ DNbq
(%)
NKĐbq
NKĐbq/ NQHbq
(%)
- KTNN
- KTNQD
170.127
46.017
3.567
3.800
2,10
8,26
163
244
4,57
6,42
Tổng
216.144
7.367
3,41
407
5,53
- KTNN
- KTNQD
220.487
85.618
2.098
2.324
0,95
2,71
-
92
-
3,96
Tổng
306.105
4.422
1,45
92
2,08
Chênh lệch
-KTNN
-KTNQD
50.360
39.601
-1.469
-1.476
-1,15
-5,55
-163
-152
-4,57
-2,46
Tốc độ tăng giảm
(%)
- KTNN
- KTNQD
29,60
86,06
-41,18
-38,84
-58,76
-67,19
-100
-62,30
-100
-38,32
Qua bảng trên ta thấy, cho vay trung dài hạn bq tại Chi nhánh có số lượng thấp, năm 2002 là 216.144 triệu đồng (chỉ bằng 1/5 dư nợ bq ngắn hạn) trong đó thành phần KTNN 170.127 triệu đồng, chiếm 78,71% và khu vực KTNQD 64.017 triệu đồng, chiếm 21,29%. Vì vậy NQH bq của cho vay trung dài hạn cũng thấp 7.367 triệu đồng, nhỏ hơn so với NQH bq cho vay ngắn hạn. Nhưng ta lại thấy tỉ lệ NQH bq của cho vay trung dài hạn lại cao hơn so với tỉ lệ NQH bq của cho vay ngắn hạn. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi vì về khách quan thì rủi ro tín dụng luôn tỉ lệ thuận với kì hạn của tín dụng, một khoản vay có thời hạn càng dài thì khả năng rủi ro sẽ càng cao. Ở đây ta thấy tỉ lệ NQH bq của cho vay trung dài hạn là 3,41%, đây vẫn là tỉ lệ NQH an toàn (theo quy định thì tỉ lệ NQH dưới 3% dư nợ được coi là an toàn) - Như vậy đây cũng là một kết quả không tồi.
Đối với NQH bq, trong 7.367 triệu đồng NQH bq của năm 2002, thành phần KTNN có 3.567 triệu đồng với tỉ trọng 48,42%, tỉ lệ NQH bq là 2,10%, còn lại là khu vực KTNQD với tỉ lệ NQH bq là 8,26%. Về NKĐ bq, thành phần KTNN có 163 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 40,05%, với tỉ lệ NKĐ bq là 4,57%; KTNQD có 244 triệu đồng NKĐ bq chiếm tỉ trọng 59,95% với tỉ lệ NKĐ bq là 6,42%.
Nhìn vào NQH bq và tỉ lệ NQH bq, ta thấy thành phần KTNN có rủi ro rất thấp mà rủi ro chủ yếu tập trung ở khu vực KTNQD. Sở dĩ xảy ra tình trạng trên một phần là do năm 2002 là năm xảy ra những biến động lớn trên thị trường tài chính thế giới, nhất là việc lãi suất Đôla Mỹ trên thị trường quốc tế giảm xuống đến mức tối thiểu. Lãi suất của FED giảm từ 1,75% (đầu năm) xuống còn 1,25% (từ ngày 6-11-2002), thấp nhất trong vòng 41 năm qua. Ba loại lãi suất đồng euro của ECB cũng bị cắt giảm tới 50 điểm từ đầu tháng 12/2002. Trong khi đó lãi suất Đồng Việt Nam thì diễn biến ngược lại, từ đầu năm đến nay có xu hướng tăng dần và thời điểm cuối năm vẫn ở mức cao. Hơn nữa lĩnh vực tín dụng ngoài quốc doanh là thị trường rất sôi động, đầy tiềm năng chưa được khai thác nhưng cũng rất phức tạp, nơi hội tụ nhiều yếu tố bất ngờ và lừa đảo. Đầu tư vốn vào khu vực này nếu không có những giải pháp hữu hiệu dễ dẫn đến NQH, NKĐ, thậm chí bị mất vốn. Vì phần lớn các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, hộ tư nhân cá thể đều thực hiện mục tiêu lợi nhuận tối đa với bất kỳ giá nào, bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh để đạt được mục tiêu đó. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không chấp hành đầy đủ chế độ kế toán, kiểm toán thông tin, báo cáo. Nếu có chăng cũng chỉ là những con số để làm thủ tục vay vốn ngân hàng như dự án sản xuất kinh doanh, luận chứng kinh tế kỹ thuật, báo cáo cân đối tài khoản, thu chi tài chính, hợp đồng kinh tế… đều là con số ghi trên giấy tờ, thường có khoảng cách so với thực tế hoạt động các doanh nghiệp. Đây là tính đặc thù của KTNQD gây khó khăn, nhiễu loạn trong việc thẩm định cho vay. Mặt khác, "năng động" đồng nghĩa với táo bạo, xem thường pháp luật, sử dụng vốn vay sai mục đích nên dễ đưa ngân hàng thành nạn nhân của những món NQH, NKĐ. Điều đó có thể lý giải phần nào cho sự tồn tại NQH ở ngân hàng.
Năm 2003, dư nợ bq tăng lên rất nhanh 306.105 triệu đồng, tăng 99.961 triệu đồng tương ứng với tốc độ 46,25% - kết quả của mở rộng tín dụng trung dài hạn. Tuy nhiên không vì thế mà NQH bq tăng theo, năm 2002, NQH bq còn lại 4.422 triệu đồng giảm 2.945 triệu đồng tương ứng tốc độ giảm 39,98%. Trong đó NQH bq của thành phần KTNN giảm từ 3.567 triệu đồng xuống còn 2.098 triệu, đạt tốc độ 28,48%, thành phần KTNQD giảm từ 3.800 triệu đồng còn 2.324 triệu đồng với độ giảm 38,84%.
Tỉ lệ NQH bq cũng giảm đáng kể: KTNN giảm từ 2,10% xuống còn 0,95%, đạt tốc độ 58,76%; khu vực KTNQD giảm từ 8,26% xuống còn 2,71% - đạt được tỉ lệ NQH an toàn. Còn đối với NKĐ bq, năm 2003 KTNN không còn NKĐ; KTNQD giảm từ 244 triệu đồng xuống còn 92 triệu đồng, giảm với tốc độ 62,30% so với năm 2002. Như vậy trong năm 2003, về mọi mặt đã có những chuyển biến rất khả quan, chất lượng tín dụng trung dài hạn được cải thiện. Kết quả này cho phép ngân hàng mạnh dạng đẩy mạnh cho vay trung dài hạn, góp phần vào việc sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả hơn, tránh tình trạng ứ đọng vốn không cần thiết.
b) Phân tích NQH,NKĐ của cho vay trung dài hạn theo ngành nghề
Bảng 11 : BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CHO VAY TRUNG DÀI HẠN THEO NGÀNH
Đvt : triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
DN bq
NQH bq
NKĐ bq
NQHbq/ DNbq%
NKĐbq/ NQHbq%
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3. Xây dựng
26.261
179.789
10.094
809
6.258
300
39
355
13
3,08
3,48
2,97
4,82
5,67
4,33
Tổng
216.144
7.367
407
3,41
5,53
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3. Xây dựng
41.294
250.944
13.867
514
3.733
175
9
83
0
1,25
1,49
1,26
1,75
2,22
0
Tổng
306.105
4.422
92
1,45
2,08
Chênh lệch
1. Công nghiệp
2.Thương mại- dịch vụ
3. Xây dựng
15.033
71.155
3.773
-295
-2.525
-125
-30
-272
-13
-1,83
-1,99
-1,71
-3,07
-3,45
-4,33
Tốc độ tăng%
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3. Xây dựng
57,25
39,58
37,38
-36,47
-40,35
-41,67
-76,92
-76,62
-100
-59,42
-57,18
-57,58
-63,69
-60,85
-100
Cũng như trong tín dụng ngắn hạn ngành TM-DV cũng có dư nợ bq chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ bq trung dài hạn. Năm 2002 đạt 179.789 triệu đồng chiếm 83,18% còn ngành công nghiệp đạt mức 26.261 triệu đồng tương ứng 12,15% và xây dựng là 4,67%. Việc ngành TM-DV chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ bq trung dài hạn là điều dễ hiểu bởi Đà Nẵng là thành phố có vị trí địa lý, kinh tế vô cùng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, mua bán phát triển. Nằm ở trung tâm của miền trung và cũng là chính giữa của đất nước, Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, văn hoá của miền trung Đà Nẵng có hệ thống sân bay, bến cảng đạt tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông phát triển, hơn nữa lại nằm trên hành lang kinh tế đông tây, là điểm đến của nhiều khu vực kinh tế khác nhau. Ngoài ra, Đà Nẵng vừa là nơi có rất nhiều danh lam thắng cảnh, khu du lịch, lại vừa là trung điểm của các di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới: động Phong Nha (Quảng Bình), Cố Đô Huế, Phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn của tỉnh Quảng Nam, là môi trường hấp dẫn cho các hoạt động dịch vụ phát triển.
Do đó, NQH bq trung dài hạn cũng chủ yếu tập trung ở ngành TM-DV. Trong 7.367 triệu đồng NQH bq của năm 2002 thì đã có đến 6.258 triệu đồng là NQH bq của ngành TM-DV, chiếm 84,95%, chỉ còn 15,05% bq là của ngành công nghiệp và xây dựng.
Đối với NKĐ bq, ngành TM-DV chiếm 87,22%, còn ngành công nghiệp và xây dựng chỉ có 12,78. Tuy nhiên tỉ lệ NKĐ bq của các ngành lại không chênh lệch nhau nhiều (TM-DV là 5,67%, ngành công nghiệp là 4,82%, còn của xây dựng là 4,33%).
Năm 2003, dư nợ bq ở cả hai ngành đều có tăng đáng kể, ngành TM-DV dư nợ bq tăng từ 179.789 triệu đồng lên 250.944 triệu đồng, với mức tăng 71.155 triệu đồng đạt tốc độ 39,58%; ngành công nghiệp tăng từ 26.261 triệu đồng lên 41.294 triệu đồng, với mức tăng 15.033 triệu đồng đạt tốc độ 57,25%; ngành xây dựng tăng 37,38%. NQH bq giảm xuống còn 4.422 triệu đồng trong đó ngành TM-DV là 3.733 triệu đồng, giảm 40,35%, ngành công nghiệp là 514 triệu đồng, giảm 36,47%, ngành xây dựng là 175 triệu đồng, giảm 41,67%.
Trong lĩnh vực TM-DV, NQH chủ yếu là do nguyên nhân các đơn vị thực hiện chính sách thương mại (bán chịu), nhưng ngoài ra cũng còn có nguyên nhân là sử dụng vốn không đạt hiệu quả gây ra. Các đơn vị, cá nhân khi vay vốn đều muốn vay với mức cao hơn nhu cầu đầu tư để sử dụng cho những mục đích khác không khả thi cộng với vốn tự có ít nên khi hoạt động kinh tế gặp khó khăn thì không có khả năng trả được nợ. Xét về mặt chủ quan, đây thuộc về trách nhiệm của ngân hàng đã không thường xuyên kiểm tra vốn cho vay, nó phản ánh đúng sự thật là khối lượng tín dụng còn chạy theo khoán; một CBTD đảm nhận toàn bộ công việc từ thẩm định dự án, quyết định cho vay đến kiểm tra vốn sau cho vay. Mặc dù phần lớn NQH đều có tài sản thế chấp và không có nguy cơ mất trắng nhưng vẫn là điều đáng lo cho ngân hàng. Do đó ngân hàng cần kiên quyết hơn trong thu nợ, đặc biệt đối với những khoản nợ cố ý kéo dài, cần thiết có thể kết hợp với cơ quan pháp luật.
c) Phân tích NQH của tín dụng trung dài hạn theo khả năng thu hồi vốn
Bảng 12: BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CỦA TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN THEO KHẢ NĂNG THU HỒI VỐN
Đvt: triệu đồng
Năm 2002
Năm 2003
Chênh lệch
ST
TT(%)
ST
TT(%)
ST
TL(%)
1. NQH bq dưới 6 tháng
6.918
93,90
4.330
97,92
-2.588
-37,41
2. NQH bq từ 6-12 tháng
42
0,57
-
-
-42
-100
3. NQH bq trên 12 tháng
407
5,53
92
2,08
-315
-77,40
Tổng
7.367
100
4.422
100
-2.945
-39,98
Cũng giống như NQH bq ngắn hạn, NQH bq trung dài hạn cũng chia làm ba loại: NQH bq dưới 6 tháng, từ 6 đến 12 tháng và trên 12 tháng (khó đòi). So sánh trong ngắn hạn và trung dài hạn ta thấy năm 2002, bq đều có mặt ở ba loại và sang năm 2003 cả NQH bq ngắn hạn và trung dài hạn đều không còn nợ khê đọng (từ 6 đến 12 tháng). Song về chất lượng các loại nợ cũng như khả năng thu hồi các loại có sự thay đổi.
NQH bq dưới 6 tháng là loại nợ có khả năng thu hồi nợ cao nhất – năm 2002, có số lượng 6.918 triệu chiếm 93,90% trong tổng NQH bq. Điều này, chứng tỏ khả năng thu hồi NQH bq trung dài hạn của ngân hàng là rất cao. Năm 2003, cùng với sự giảm của NQH bq từ 7.367 triệu đồng xuống còn 4.422 triệu đồng, NQH bq dưới 6 tháng giảm còn 4.289 triệu đồng chiếm tỉ trọng 97,92% NQH bq. Như vậy, NQH bq dưới 6 tháng đã giảm 2.588 triệu đồng với tốc độ giảm 37,41%. Tốc độ giảm này cùng với tỉ trọng của nó tăng lên 97,92% trong tổng NQH bq cho thấy khả năng thu hồi NQH đã được cải thiện đáng kể.
Nợ khê đọng chiếm tỉ trọng thấp nhất trong tỉ trọng của NQH bq. Năm 2002, nợ khê đọng là 42 triệu đồng với tỉ trọng 0,57% NQH bq trung dài hạn, sang năm 2003 loại nợ này đã được đẩy lùi hoàn toàn.
Nợ khó đòi bq chiếm một tỉ lệ nhỏ so với quy mô NQH bq, chiếm 5,53% trong NQH bq năm 2002 và còn 2,08% cuối năm 2003. Thành phần nợ xấu này giảm với tốc độ 74,28%.
Nhìn chung, NQH của ngân hàng không đáng lo, tỉ lệ nợ có khả năng thu hồi cao và tỉ trọng của nó ngày càng tăng trong NQH.
4. Tổng hợp nguyên nhân gây ra nợ quá hạn của tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn
Nợ quá hạn năm 2003 giảm so với năm 2002 nhưng dù sao nó vẫn còn tồn tại. Nợ quá hạn nói chung được xem như dấu hiệu của vấn đề rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên, thực tế một khoản vay quá hạn cho biết rất ít về các vấn đề. Để xác định bản chất cần tìm hiểu nguyên nhân của nợ quá hạn. Bất kỳ sự việc gì cũng đều có nguyên nhân của nó và rủi ro cũng vậy, không tránh khỏi cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả. Vậy nợ quá hạn của ngân hàng xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản nào, qua đó ngân hàng sẽ tìm ra hướng khắc phục và đưa ra các biện pháp khả thi hơn.
Bảng 13: BẢNG TỔNG HỢP NGUYÊN NHÂN GÂY RA NQH
Đvt:triệu đồng
NQH 2002
NQH 2003
Mức
%
Mức
%
1.Nguyên nhân bất khả kháng
4.066
20,56
3.309
27,80
0,81
2.Nguyên nhân do khách hàng
15.086
76,29
8.429
70,83
0,56
3.Nguyên nhân do ngân hàng
622
3,15
163
1,37
0,26
Tổng
19.774
100
11.901
100
0,60
Rủi ro có nhiều nguyên nhân nhưng có thể chia thành ba loại chính là nguyên nhân bất khả kháng, nguyên nhân từ phía khách hàng và từ phía ngân hàng. Đối với nguyên nhân bất khả kháng thì thiên tai, dịch bệnh, hay do sự thay đổi cơ chế của Nhà nước là nguyên nhân chủ yếu. Trong những năm qua, trong khi Nhà nước ngày càng có những cơ chế, chính sách thông thoáng hơn, tạo môi trường thông thoáng hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp thì thiên tai, dịch bệnh lại có xu hướng tăng lên và diễn biến ngày càng phức tạp làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy vậy với những chính sách đúng đắn, chi nhánh đã đưa NQH bq do nhóm nguyên nhân này gây ra giảm xuống. Cụ thể: Năm 2003 là 4.066 triệu đồng giảm 18,62% so với năm 2002. Đây là nhóm nguyên nhân tác động đối tượng vay vốn - làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh mà người làm kinh doanh rất khó có thể có biện pháp phòng chống. Vì vậy, đối với nhóm nguyên nhân này, ngân hàng có thể xem xét tiếp tục cho vay để giúp đỡ họ khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc gia hạn nợ, giãn nợ từ đó có cơ hội thu lại vốn hơn.
Đối với nguyên nhân từ phía khách hàng gồm các nguyên nhân như: do sản xuất kinh doanh thua lỗ, do bị chết, bỏ trốn, hàng hoá, sản phẩm chậm tiêu thụ, công nợ chưa thu, sử dụng vốn sai mục đích… Trong đó sản xuất kinh doanh thua lỗ vẫn là nguyên nhân tạo ra NQH chủ yếu. Tín dụng là cầu nối giữa hoạt động kinh doanh của ngân hàng với hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng do đó mỗi biểu hiện xấu hay tốt của khách hàng sẽ ảnh hưởng tương xứng với hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác động của những mối quan hệ tín dụng. Một khi khách hàng bị thiệt hại với tỉ lệ một thì ngân hàng sẽ bị thiệt hại gấp đôi vì không những không nhận được lãi mà còn không có tiền trả nợ cho người gửi tiền. Năm 2002, nguyên nhân từ phía khách hàng gây ra 15.086 triệu đồng NQH chiếm tỉ trọng 76,29%; năm 2003 là 8.429 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 70,83% NQH bq, giảm 6.657 triệu đồng đạt tốc độ 44,13%.
Có những đơn vị kinh doanh không phải thua lỗ mà do thực hiện chính sách thương mại (bán “chịu” cho khách hàng) trong khi tiềm lực tài chính không đủ mạnh nên vốn kinh doanh đã không sinh lời lại trở thành vốn chết - nằm ở khách hàng của cơ sở. Đối với những trường này ngân hàng nên tư vấn cho cơ sở, hỗ trợ thêm vốn để mà cùng nhau phát triển. Những khoản nợ trước đây người đứng tên đi vay chẳng may bị chết mà không có người nhận nợ hầu như không có vì ngân hàng đã tổ chức xem xét kĩ, hạn chế cho vay những người tuổi đời quá cao mà không có người thừa kế.
Ngoài những nguyên nhân trên còn có nguyên nhân do khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Nguyên nhân này có thể bắt nguồn từ ngân hàng thẩm định không chính xác mục đích vay cũng như nhu cầu vốn vay nhưng sâu xa vẫn là do bắt nguồn từ khách hàng. Để được vay vốn, họ lập một kế hoạch vay vốn, phương án sử dụng vốn cũng như mục đích sử dụng vốn thật hợp lý. Không những vậy, họ còn muốn vay lớn hơn nhu cầu vốn thực tế. song một phần vốn vay họ còn sử dụng cho những mục đích khác. Trong thực tế còn có một số trường hợp qua bước đầu kiểm tra việc sử dụng vốn vay đúng mục đích nhưng khi thu hoạch thì thay vì trả vốn cho ngân hàng, họ lại sử dụng vốn cho việc khác. Với nguyên nhân sử dụng vốn sai mục đích, khi CBTD phát hiện ra nếu theo nguyên tắc chế tài tín dụng thì thu nợ trước hạn. Nhưng trong thực tế, thu nợ trước hạn là không thực hiện được bởi vì khách hàng không có nguồn để trả nợ. Ở đây, ngân hàng có thể cho khách hàng gia hạn nợ và tiến hành thu dần dần. Với cách xử lý mang tính vừa nhân đạo vừa kiên quyết như vậy, ngân hàng có thể giữ được khách hàng đồng thời tạo uy tín cho mình.
Nguyên nhân chủ quan của ngân hàng là không đáng kể, 622 triệu đồng chiếm tỉ trọng 3,15% năm 2002. Trong thời gian qua nhờ sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ có năng lực làm công tác tín dụng đã đưa tỉ lệ này còn 163 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 1,37%, giảm 73,79%. Song về cơ bản, ngân hàng vẫn còn những tồn tại như:
+ Đánh giá chưa chính xác tài sản thế chấp, nên có thể mức cho vay cao hơn so với tài sản thế chấp nên khi phát mãi tiền thu được từ tài sản thế chấp không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thêm vào đó, thông tin về khách hàng chủ yếu lấy từ hồ sơ vay vốn, chưa thật phong phú. Cán bộ tín dụng tuy có tinh thần trách nhiệm song trình độ chuyên môn, hiểu biết xã hội cũng còn nhiều hạn chế nên đôi lúc dẫn đến sai sót, thiếu chuẩn xác trong công tác thẩm định, tính toán mức cho vay và thời hạn vay.
Qua những nguyên nhân phân tích trên ta thấy rằng dù là bất khả kháng song có thể hạn chế được tổn thất nếu chúng ta phòng ngừa tốt. Dù là nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì cơ hội thu hồi vẫn còn. Ngoài ra, với lợi thế là người đóng vai trò chủ động hơn - là người quyết định cho vay -thiết lập quan hệ vay mượn trong quan hệ tín dụng giữa khách hàng với ngân hàng nên ngân hàng sẽ rất thuận lợi trong việc giảm thiểu NQH.
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Thuận lợi, thành quả đạt được
- Trước hết, NHCT Đà Nẵng nhận được sự quan tâm thường xuyên của các cấp lãnh đạo của địa phương và TW, của các ban ngành có liên quan.
- Tình hình kinh tế cả nước trong những năm gần đây có những tiến triển tương đối khả quan, các mục tiêu kinh tế cơ bản được được hoàn thành. Tốc độ phát triển kinh tế đều đạt trên 6,5% là thành tựu quan trọng của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giơi suy giảm mạnh. Tình hình kinh tế xã hội của thành phố tiếp tục phát triển và ổn định, GDP đạt trên 12%, cao hơn mức tăng trưởng của cả nước. Các hoạt động văn hoá xã hội tiến bộ, an ninh quốc phòng luôn được giữ vững, cơ sở hạ tầng không ngừng được nâng cấp và xây mới. Với những thành tựu đó, vừa qua thành phố Đà Nẵng đã nhận được danh hiệu đô thị loại một.
- Ngoài ra, trong vài năm qua, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành nhiều văn bản về điều hành chính sách tiền tệ, điều hành lãi suất trên cơ sở cung cầu thị trường, điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Các cơ chế, quy chế tín dụng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh được tiếp tục hoàn thiện và đơn giản hoá tạo điều kiện kích cầu tín dụng. Người vay dễ dàng tiếp cận nguồn vốn, tổ chức tín dụng được đảm bảo an toàn. NHCT Việt Nam đã linh hoạt điều chỉnh lãi suất huy động vốn ngoại tệ, tăng cường mối quan hệ với các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty, các bộ để các Chi nhánh có điều kiện tiếp cận các doanh nghiệp thành viên tại địa phương.
- NHCT Đà Nẵng có Ban lãnh đạo sáng suốt, giàu nhiệt huyết, nhiều năm kinh nghiệm, với một đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, không ngừng được đào tạo bồi dưỡng, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình không ngừng phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ. Nếu đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ tuổi với ưu thế về kiến thức, sự nhanh nhẹn linh động thì đội ngũ cán bộ lớn tuổi hơn lại có ưu thế về kinh nghiệm, bản lĩnh, và cả hai là sự bổ sung không thể thiếu cho nhau.
- Ngân hàng có trụ sở chính lớn, đẹp, hiện đại xứng đáng với tầm vóc của một ngân hàng lớn, nằm trên vị trí địa lý vô cùng thuận lợi: nằm trên điểm giao của hai con đường rộng, đẹp, thoáng rất dễ nhìn thấy, thuận tiện giao thông, địa bàn hoạt động rất rộng.
- Ngân hàng có hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và không ngừng được đổi mới.
- Sử dụng công nghệ thông tin như là “chìa khoá vàng” nhằm tiếp tục nâng cao năng lực kinh doanh của Chi nhánh.
- Hiện nay, với xu thế hội nhập nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, Nhà nước mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, tạo cơ hội cho ngân hàng về thị trường và công nghệ.
- Ngân hàng luôn thực hiện đúng định hướng của NHCT Việt Nam, phát triển theo hướng trở thành một ngân hàng hiện đại.
- Với mục tiêu tăng trưởng dư nợ đi đôi với việc an toàn lành mạnh tài chính, ngân hàng đã thực hiện nâng cao chất lượng sản phẩm: cải tiến quy trình cho vay, giao dịch “một cửa” nhanh gọn, năng động hiệu quả. Mở rộng và phát triển nhanh các loại hình cho vay và dịch vụ, đẩy mạnh cho vay đồng tài trợ (với tư cách là ngân hàng chủ trì) cùng các NHTM trên địa bàn đối với các dự án lớn trọng điểm của Nhà nước để vừa tăng trưởng tín dụng, vừa phân tán rủi ro.
- Chính sách giá cả, tiếp thị, tuyên truyền, quảng cáo tiếp tục được đẩy mạnh để giữ khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. Ngân hàng điều hành chính sách lãi suất linh hoạt, quy mô nguồn vốn tăng lên, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn từ Trung ương.
- Ngân hàng đã phối hợp với uỷ ban nhân dân, chính quyền trên địa bàn tuyên truyền những kiến thức cơ bản về pháp luật ngân hàng .
- Trong quá trình thẩm định cũng như cấp phát vốn vay, ngân hàng thực hiện đầy đủ các quy trình thể lệ theo quy định của cấp trên. Đó là điều kiện giảm thiểu rủi ro, đặc biệt hơn là ngân hàng luôn xem xét tình hình vay vốn của từng đối tượng để kịp thời giãn nợ, đôn đốc nơ, tích cực kiên quyết xây dựng kế hoạch biện pháp thu hồi nợ tồn đọng, tránh phát sinh NQH và NKĐ quá nhiều.
Từ đó đưa đến kết quả, tỉ lệ NQH năm 2003 giảm nhiều so với năm 2002. NKĐ cũng giảm đi một lượng đáng kể.
2. Khó khăn, hạn chế
- Hoạt động ngân hàng chịu ảnh hưởng nặng của suy thoái kinh tế, chiến tranh, khủng bố trên thế giới; giá vàng và lãi suất USD liên tục thay đổi đã ảnh hưởng lớn đến chính sách lãi suất và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng.
- Hoạt động của ngân hàng gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các NHTM khác trên địa bàn trong cuộc chiến giành thị phần.
- Do chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong khi đội ngũ cán bộ còn ít, việc kiểm tra giám sát không đều khắp, có lúc thiếu chặt chẽ, hiệu quả tín dụng không cao.
- Một cán bộ tín dụng đảm nhận toàn bộ công việc từ thẩm định, quyết định cho vay đến kiểm tra vốn sau khi vay có thể gây quá tải trong quản lý tín dụng.
- Cán bộ tín dụng tuy có tinh thần trách nhiệm cao song trình độ chuyên môn, hiểu biết xã hội không thể không có hạn chế nên đôi lúc dẫn đến sai sót, thiếu chuẩn xác trong công tác thẩm định, tính toán mức vay và thời hạn cho vay - Định kỳ hạn nợ không sát nên có thể phải gia hạn nợ nhiều lần.
- Thông tin tín dụng còn thiếu, hầu như đều chỉ lấy từ hồ sơ xin vay vốn của khách hàng.
- Một bộ phận khách hàng, trình độ quản lý vốn còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm nên sản xuất kinh doanh rất dễ bị thua lỗ, kém hiệu quả.
II. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI
1/ Tập trung cải biến mạnh mẽ chất lượng các sản phẩm, dịch vụ NHCT theo hướng đa dạng đa năng tiện ích. Đẩy mạnh tốc độ triển khai dự án hiện đại hoá, tung ra các sản phẩm mới như: dịch vụ ngân hàng trực tuyến, các sản phẩm ngân hàng điện tử ( Internet banking, phone banking), ngân hàng lưu động (mobile banking); Các sản phẩm thanh toán mới như thẻ tiền lẻ, thẻ thanh toán ICB, ATM, tích hợp các tiện ích; phát hành thẻ tín dụng quốc tế, mở rộng hệ thống đại lý chấp nhận thẻ tín dụng.
2/ Thực hiện cơ cấu lại nguồn vốn huy động có lãi suất đầu vào hợp lý, nguồn vốn ổn định. Cơ cấu lại dư nợ tín dụng theo hướng tăng tỉ trọng nợ có bảo đảm, bằng cho vay kinh tế dân doanh, phân tán rủi ro.
3/ Tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán trong nước, dịch vụ MPQT như nghiệp vụ L/C, D/P, D/A, T/T, các dịch vụ ngoại hối, kiều hối.
4/ Cải cách quy trình, thủ tục, hồ sơ giao dịch đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng. Cải tiến cơ chế theo hướng vừa đúng luật, vừa thông thoáng, linh hoạt.
5/ Xây dựng phong cách giao dịch mang đặc trưng thương hiệu NHCT.
6/ Tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến, tiếp thị và chăm sóc khách hàng
III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
Để tìm giải pháp cho một vấn đề gì chúng ta đều cần phải hiểu rõ nguyên nhân của vấn đề đó. Đối với NQH cũng vậy, để giảm thấp NQH, hạn chế rủi ro tín dụng trước hết ngân hàng phải tìm ra nguyên nhân của NQH để từ đó đưa ra các biện pháp ngăn chặn NQH. Qua quá trình phân tích ở trên ta thấy NQH của ngân hàng tồn tại chủ yếu do những nguyên nhân sau :
Thứ nhất, sử dụng vốn sai mục đích, quản lý vốn kém hiệu quả, khả năng tài chính yếu, sản xuất kinh doanh thua lỗ.
Thứ hai, do khách hàng gặp phải những nguyên nhân bất khả kháng : thiên tai, dịch bệnh, cơ chế chính sách thay đổi.
Ngoài ra, việc NQH của ngân hàng tồn tại một phần là do ý thức của khách hàng về trách nhiệm trả nợ và một phần trách nhiệm của ngân hàng. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, kết hợp những thuận lợi cũng như khó khăn của Chi nhánh trong thời gian qua cùng với những định hướng trong thời gian tới, Chi nhánh có thể áp dụng những giải pháp sau nhằm hạn chế rủi ro tín dụng :
1. Hoàn thiện quy trình cho vay:
Thiết lập và thực hiện quy trình tín dụng là một bộ phận căn bản của quản trị ngân hàng. Làm tốt công việc này sẽ góp phần đáng kể trong việc hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Trước hết phải tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc và tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ trình tự của quy trình cho vay: từ lập hồ sơ xin cấp tín dụng cho đến công đoạn cuối cùng. Không được bỏ qua một giai đoạn nào vì các giai đoạn có mối quan hệ qua lại, hỗ trợ cho nhau. Kết quả của giai đoạn trước là cơ sở thực hiện giai đoạn tiếp theo và tác động đến chất lượng công việc của các giai đoạn sau.
a) Nâng cao chất lượng công tác thẩm định:
Để có thể đưa ra quyết định cho vay đúng đắn nhưng đồng thời giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của ngân hàng, giữa an toàn tài sản ngân hàng và sự thuận tiện của khách hàng, thì chất lượng công tác thẩm định là nhân tố tiên quyết. Bởi trong thực tế vì sự an toàn cho tài sản của mình, ngân hàng kéo dài thời gian làm thủ tục vay vốn cũng như ra quyết định cho vay từ đó có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh của khách hàng. Mục tiêu thẩm định ở đây là hiệu quả kinh tế của công tác vay vốn, đánh giá kiểm tra kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương án vay vốn có phù hợp với thị trường hay không ? Các điều kiện cần thiết để xây dựng phương án, các số liệu về thu nhập và chi phí, tính toán xác định các nguồn trả nợ của khách hàng.
Quá trình thẩm định dự án đầu tư được tiến hành ở các nội dung:
- Thẩm định các văn bản pháp lý là khâu đầu tiên cán bộ thẩm định cần phải thẩm tra. Trước hết, cần xem xét hồ sơ trình duyệt đã đủ chưa, có hợp lý không, sau đó tiến hành thẩm tra tư cách pháp lý và năng lực chủ đầu tư.
- Thẩm định mục tiêu của sdự án trong đó xem xét mục tiêu có phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước hay không, có nằm trong nhóm dự án Nhà nước cho phép hay không, có thuộc đối tượng ưu đãi hay không.
- Thẩm định về thị trường: kiểm tra cách thức tính toán về thị trường tiêu thụ, kiểm tra giá cả, tìm hiểu thị trường mà dự muốn hoạt động, đối tượng khách hàng của dự án.
- Thẩm định tính cách và uy tín khách hàng: mục tiêu của việc thẩm định này là hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro do chủ quan của khách hàng gây nên như rủi ro về đạo đức, năng lực quản lý và tài chính, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường. Đề phòng phát hiện những âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Do đó phải thu thập kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin từ nhiều nguồn về khách hàng:
+ Nguồn thông tin từ trung tâm thông tin khách hàng.
+ Nguồn thông tin từ các tổ chức, ban ngành có liên quan, các tổ chức tín dụng bạn để trao đổi và kiểm tra thông tin của nhau.
+ Nguồn thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Thông tin từ khách hàng:
> Từ hồ sơ vay.
> Qua phỏng vấn.
> Qua điều tra tình hình thực tế của khách hàng.
Qua thu thập thông tin từ bên ngoài, tiến hành "xử lý" các thông tin đó phục vụ cho quyết định cấp tín dụng của mình.
- Cần coi trọng công tác thẩm định tính khả thi của các dự án bởi lẽ điều này không kém phần quan trọng. Dự án có khả thi thì chủ nhân của dự án mới có lãi và từ đó làm tròn nghĩa vụ với ngân hàng.
b) Giám sát khách hàng vay và theo dõi trả nợ:
Ngân hàng nên theo dõi, quản lý nợ sau cho vay chặt chẽ; đôn đốc, kiểm soát khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Công đoạn này cũng hết sức quan trọng bởi qua theo dõi, giám sát tình hình nợ, CBTD mới có thể kịp thời phát hiện những khoản nợ có vấn đề - dấu hiệu NQH. Từ đó, CBTD có thể đưa ra những giải pháp hạn chế khắc phục, hạ thấp rủi ro. Có thể giám sát bằng viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động kinh doanh hoặc nơi cư trú của khách hàng đi vay. Bằng cách này, ngân hàng có những thông tin bổ ích như sự duy trì ý muốn trả nợ của khách hàng, thực trạng sản xuất kinh doanh, chất lượng tài sản đảm bảo. Ngoài ra có thể giám sát qua những thông tin khác từ phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan thuế, toà án…
Ngân hàng tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng để đánh giá chất lượng tín dụng nhằm phát hiện các rủi ro để có hướng xử lý kịp thời như:
+ Nghiên cứu, dự đoán những khả năng đối lập với hiện trạng tài chính của khách hàng, đặc biệt là những khả năng gây bất lợi cho ngân hàng .
+ Thẩm định khả năng trả nợ của khách hàng và những biến động về nguồn trả nợ.
Tất cả nhằm mục đích đánh giá đúng về khách hàng và nhận định đúng về hiện trạng hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng. Qua quá trình này, ngân hàng sẽ xếp loại những khoản tín dụng được xem xét và xếp theo chất lượng tín dụng như: tốt, trung bình, xấu hoặc theo khả năng thu hồi nợ.
c) Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ:
Đối với những khoản vay lớn đặc biệt là những khoản vay dài hạn, rủi ro là rất lớn, do đó cần sự quan tâm đặc biệt của ngân hàng. Ngân hàng nên đưa ra thời hạn trả nợ theo từng tháng, quý, năm để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hồi nợ, đồng thời nâng cao trách nhiệm của khách hàng đối với khoản nợ của họ. Không nên đưa ra thời hạn trả nợ trùng với thời điểm kết thúc dự án sẽ gây khó khăn cho công tác thu hồi nợ vì dễ phát sinh NQH. Kèm theo đó là chính sách khen thưởng ưu đãi đối với những khoản nợ trả đúng và trước hạn. Còn đối với những trường hợp quá hạn, tuỳ từng trường hợp cán bộ tín dụng có thể nghiên cứu, xem xét cho gia hạn nếu đủ điều kiện.
Hàng tháng phải tiến hành phân loại NKĐ theo nguyên nhân để kịp thời có biện pháp xử lý và rút ra bài học kinh nghiệm cho những trường hợp sau.
2. Nâng cao tỉ trọng cho vay có đảm bảo bằng tài sản để hạn chế rủi ro
Điều này đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô tín dụng nhưng dư nợ phải lành mạnh. Để thực hiện tốt vấn đề này đòi hỏi ngân hàng phải đề ra những định hướng và mục tiêu cụ thể:
- Ưu tiên cho vay đối với các món có tài sản đảm bảo
- % dư nợ có đảm bảo bằng tài sản năm sau cao hơn năm trước
- Tăng cường cho vay đối vớidự án trọng điểm
- Đẩy mạnh quan hệ với các ngành có thế mạnh như Điện Lực, Bưu chính Viễn thông, Thuỷ điện...
Đây được coi là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để hạn chế rủi ro cho ngân hàng, thể hiện được sự chủ động của ngân hàng trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Tuy nhiên, hiệu quả chỉ cao khi đánh giá đúng giá trị của tài sản đảm bảo, do đó trong quá trình thẩm định cần phải kiểm tra các điều kiện:
- Tài sản phải thuộc về sở hữu của khách hàng vay hoặc bên bão lãnh - Tài sản được phép giao dịch.
- Tài sản không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ hợp pháp trong quan hệ pháp luật tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm.
- Khả năng tài sản sẽ bị lạc hậu trong thời gian cho vay
- Kiểm tra khả năng thanh khoản của tài sản đảm bảo
3. Các giải pháp về nhân sự:
Như chúng ta đã biết, mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực kinh doanh ngân hàng nói riêng, con người luôn một trong những nhân tố quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của một đơn vị kinh tế. Hơn nữa, hoạt động ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao mà hoạt động tín dụng là một trong những lĩnh vực tiềm tàng nhiều rủi ro nhất. Chất lượng tín dụng thể hiện trên báo cáo tài chính của ngân hàng và nó nằm trong từng khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng lành mạnh sẽ kéo theo chất lượng tín dụng tốt và ngược lại. Để tìm kiếm và lựa chọn khách hàng có những khoản đầu tư hiệu quả thì cán bộ ngân hàng phải nắm được những thông tin, dự đoán được xu hướng của thị trường và biết xử lý những thông tin đó. Vì vậy, đòi hỏi ngân hàng trước tiên phải có đội ngũ cán bộ mạnh, có đủ năng lực, kiến thức, hiểu biết kinh tế, xã hội, có năng khiếu trong lĩnh vực ngân hàng và tâm huyết với công việc được giao.
Điều quan trọng là lãnh đạo ngân hàng phải đánh giá được sở trường của mỗi cán bộ, bởi vì mỗi cán bộ đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau. Mặt mạnh sẽ được phát huy nếu ta biết đặt họ đúng chỗ. Điều đó đòi hỏi người lãnh đạo ngân hàng phải là người sáng suốt, chí công vô tư để từ đó sắp xếp, bố trí cán bộ hợp lý. Muốn biết khả năng và sở trường của từng người cần phải luân chuyển cán bộ qua từng phần hành nghiệp vụ. Thêm vào đó, định hướng đúng cho cán bộ ngân hàng luôn là công việc cần thiết quan trọng, ngân hàng thông qua tổ chức quán triệt triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định chế độ của ngành để tất cả cán bộ đều hiểu và thực hiện tốt.
Ngân hàng cần phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức làm chủ tập thể của từng cán bộ nhân viên, giáo dục ý thức cộng đồng trách nhiệm và đặc biệt qua quá trình làm việc giúp mỗi thành viên thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa ổn định và phát triển kinh tế của ngân hàng với việc tăng thu nhập, cải thiện nâng cao đời sống của mỗi thành viên.
Tăng cường tuyển chọn thêm một số nhân viên có năng lực nghiệp vụ cho các bộ phận, phòng ban còn thiếu. Hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau, đối mặt với nhiều thủ đoạn, nhiều loại cám dỗ. Vì vậy CBTD phải được tuyển chọn kỹ lưỡng, là người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước việc mình làm. CBTD không chỉ là người cho vay vốn và thu hồi nợ vay mà còn phải là người tiếp thị, tư vấn cho khách hàng từ địa điểm sản xuất kinh doanh đến khả năng phát triển của sản phẩm. Do đó đòi hỏi CBTD phải được đào tạo chính quy ở các trường đại học có các khoa có thế mạnh về kinh tế, tài chính, ngân hàng và phải có hiểu biết ở nhiều lĩnh vực .
Không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng nói chung và CBTD nói riêng thông qua công tác đào tạo và đào tạo lại. Đối với những nhân viên mới được tuyển dụng cần phải được đào tạo chuyên sâu về công việc sẽ giao. Đối với những nhân viên đang làm cũng phải thường xuyên được cập nhật kiến thức về chuyên môn, pháp luật, khả năng giao tiếp ứng xử với các tình huống giao tiếp để từ đó nhận biết được sự trung thực khi tiếp xúc với khách hàng. Đặc biệt CBTD cần phải luôn được bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường, phương pháp thẩm định dự án đầu tư, giúp cho CBTD có đủ trình độ kiểm soát các khoản vốn đầu tư do mình phụ trách, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Song song với việc nâng cao trình độ chuyên môn, các tổ chức Đảng, Đoàn thể cần tổ chức các lớp để bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, giữ gìn và tu dưỡng phẩm chất đạo đức bởi công tác lựa chọn nhân sự đáp ứng cho nhu cầu hiện tại cũng như tương lai phải đảm bảo về mặt đạo đức và mặt nghề nghiệp chuyên môn. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngân hàng, phải coi trọng chất lượng đào tạo, tránh tình trạng đào tạo đại trà, đào tạo cho phù hợp lương bậc..... dẫn đến chất lượng kém.
Bên cạnh đó, mức độ cụ thể của công việc được giao ảnh hưởng đến chất lượng cũng như hiệu quả công việc của CBTD. Công việc càng lượng hoá cụ thể bao nhiêu thì càng dễ thực hiện và việc đánh giá đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ của CBTD càng chính xác bấy nhiêu. Do đó ngân hàng cần phải giao trách nhiệm một cách rõ ràng cụ thể khoa học và thực hiện chuyên môn hoá đến từng CBTD.
Ngân hàng nên đưa ra những tiêu chuẩn để đánh giá CBTD- những tiêu chuẩn cần có của một CBTD giỏi:
+ Có kiến thức thực tiễn kinh doanh phong phú, có khả năng nâng cao uy tín của mình trong quan hệ giao tiếp với khách hàng, làm khách hàng tôn trọng và sẵn sàng tiếp nhận sự tư vấn.
+ Biết thông cảm và quan tâm chu đáo đến những khó khăn cũng như những thành công của khách hàng. Biết nhìn nhận khó khăn cũng như những triển vọng của khách hàng để tìm cách giải quyết tốt nhất.
+ Phải có khả năng thương lượng với khách hàng- cần có sự linh hoạt, khả năng nhận biết các yếu tố thay thế và sự khéo léo. Phải có khả năng làm cho khách hàng hài lòng mà không vi phạm chính sách tín dụng của ngân hàng hay gây ra những thiệt hại cho ngân hàng.
Trong công việc thông qua đánh giá, ngân hàng cần phải có những hình thức tuyên dương khen thưởng đồng thời phải có kỷ luật thích đáng để khuyến khích sự tích cực của cán bộ. Ngoài ra, việc quan tâm đến lợi ích của CBTD là việc làm tối cần thiết.
4. Đa dạng hoá đầu tư tín dụng để phân tán rủi ro
Ngân hàng nên mở rộng cho vay trung dài hạn, khuyến khích đối tượng ngoài Quốc doanh. Cho vay với thời hạn dài thì độ rủi ro càng lớn, ngân hàng cần phải thẩm định kĩ càng hơn. Để kích thích khách hàng đến vay vốn, trong việc thẩm định, ngân hàng cần phải tế nhị, khéo léo để nhận biết về khách hàng, tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi đi vay, phải đưa ra những lời tư vấn hoặc những thông tin cần thiết có liên quan đến lĩnh vực đầu tư của họ. Đối với khách hàng truyền thống thường xuyên đến giao dịch với ngân hàng cần tạo điều kiện đặc biệt thuận lợi hơn so với các khách hàng khác như thực hiện ưu đãi về lãi suất, nhu cầu vốn, kỳ hạn gia hạn nợ.
Đẩy mạnh hơn nữa cho vay tiêu dùng đối với cán bộ nhân viên vì loại hình tín dụng này ít rủi ro hơn các loại hình tín dụng khác. Cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục, tuyên truyền hướng dẫn khách hàng vay vốn. Đối với những ngành có thu nhập thường xuyên, ổn định như: bưu điện, công an, giáo dục, điện lực, ngân hàng … nên nghiên cứu nâng mức cho vay lên hoặc định kỳ hạn dài hơn. Hoặc có thể:
+ Về thời hạn cho vay: để dễ dàng trong công tác quản lý rủi ro cần phân nhỏ thời hạn cho vay thành nhiều mức thời hạn nhằm bảo đảm những nguyên tắc tín dụng như hoàn trả, đảm bảo mục đích sử dụng vốn, tạo điều kiện cho việc kiểm tra, theo dõi. Tuỳ theo nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng mà ấn định thời hạn vay
+ Về phương thức tính lãi và thu hồi nợ cần đơn giản, dễ hiểu và có lẽ tốt nhất là thu theo kỳ trả nợ. Điều này không chỉ thích hợp với kỳ thu nhập của người vay như lĩnh lương mà còn cho khách hàng sự thoải mái trong tâm lý trả nợ cho ngân hàng. Đồng thời với phương thức này cho phép việc kiểm tra sử dụng vốn cũng như khả năng trả nợ của khách hàng được thường xuyên hay không, qua đó phát hiện sớm những mầm mống của sự rủi ro.
Với ưu thế là ngân hàng loại một, và là ngân hàng chủ trì của các NHTMQD trên địa bàn tham gia chương trình cho vay đồng tài trợ, ngân hàng có nhiều thuận lợi trong loại hình cho vay này. Do đó, ngân hàng nên đẩy mạnh cho vay đồng tài trợ để tìm kiếm lợi nhuận và đảm bảo an toàn tài sản, phân tán rủi ro. Từ khi có Quy chế đồng tài trợ của những TCTD được ban hành theo Quyết định số 154/1998/QĐ-NHNN4 ngày 29/4/1998 của Thống đốc NHNN, phương thức cho vay hợp vốn bước đầu đã đem lại những lợi ích trong việc đầu tư tín dụng. Tiến hành cho vay theo phương thức đồng tài trợ sẽ đảm bảo cung ứng đủ vốn theo nhu cầu của khách hàng vay, duy trì mức dư nợ ở trạng thái tốt, đồng thời khi cho vay đồng tài trợ thì những ngân hàng thành viên hợp vốn cùng tiến hành thẩm định dự án, đánh giá khách hàng… cho nên xác suất xảy ra rủi ro thấp từ đó cho phép hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể gặp phải. Nếu rủi ro xảy ra cũng được san sẻ cho nhiều ngân hàng - Rủi ro phân tán.
Thực chất, đây là một giải pháp mang tính nghệ thuật trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Bởi vì bất kỳ một sự việc nào cũng đều có mặt trái của nó. Ở đây, phương thức cho vay đồng tài trợ với sự tham gia của nhiều ngân hàng, do đó đồng thời với việc giảm thấp rủi ro thì lợi nhuận thu được cũng giảm bởi được san sẻ cho những bên cùng hợp vốn. Điều này đặt ra yêu cầu Ban lãnh đạo Chi nhánh cần có phương án lựa chọn linh hoạt và chuẩn xác khi quyết định cho vay, bởi có lúc phải lựa chọn sự an toàn nhưng có lúc cũng nên biết chấp nhận rủi ro.
5. Tiếp tục thực hiện phân tích NQH và đề ra những giải pháp tương xứng
Tiếp tục thực hiện phân tích từng món nợ theo đối tượng khách hàng, CBTD quản lý rút ra nguyên nhân, xác định khả năng hoàn trả để có kế hoạch bám sát khách hàng kể cả bám sát quá trình diễn biến sản xuất kinh doanh và biến động tài sản của từng khách hàng. Thực hiện phân loại khách hàng có NQH ra nhiều loại để áp dụng các biện pháp xử lý tương xứng:
+ Khách hàng có gia hạn nợ nhưng còn sản xuất kinh doanh, có tài sản thế chấp có trách nhiệm hoàn trả nợ vay thì yêu cầu khách hàng làm cam kết trả nợ dần theo từng thời hạn cụ thể hoặc tự bán tài sản, cùng ngân hàng bán tài sản, giao toàn bộ tài sản cho ngân hàng xử lý để thu hồi nợ.
+ Khách hàng không còn sản xuất kinh doanh nhưng còn tài sản thế chấp, khách hàng có ý thức trả nợ vay thì vận động khách hàng dùng nguồn thu khác để trả nợ dần hoặc xử lý bán tài sản để thu nợ.
+ Khách hàng chây ỳ nếu xét tính pháp lý hồ sơ chặt chẽ có thể đưa ra khiếu kiện để nhờ cơ quan pháp luật thu hồi nợ.
Tuyên truyền luật ngân hàng thông qua các cuộc thi tìm hiểu luật.
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là Nguyễn Văn Hoàng, em xin cam đoan bài viết sau đây là của mình, là kết quả của việc đi sâu tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập- không sao chép của bất kỳ ai. Nếu thầy cô phát hiện đây là bản sao chép, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Đà Nẵng, ngày 08 tháng 05 năm 2004.
SINH VIÊN CAM ĐOAN
Nguyễn Văn Hoàng
LỜI NÓI ĐẦU
Trong đời sống kinh tế hàng ngày, rủi ro luôn luôn tiềm ẩn, nó được coi là những bất trắc, những biến cố không có lợi, nằm ngoài sự mong đợi của con người. Rủi ro nhiều khi mang lại những hậu quả không lường. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng luôn có thể gặp nhiều loại rủi ro nhưng rủi ro điển hình nhất mà Ngân hàng phải luôn đối mặt là rủi ro tín dụng- Rủi ro khách hàng không trả được nợ. Rủi ro này không chỉ gây tác động xấu tới ngân hàng mà ở mức độ trầm trọng hơn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đang là mối quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng và xã hội.
Qua quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, em đã tìm hiểu và chọn đề tài: “Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng
Chương II: Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng trong hai năm 2002-2003
Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng trong thời gian đến.
Với sự hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như kinh nghiệm thực tế nên chuyên đề không thể tránh khỏi những sai xót, hạn chế nhất định. Do vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, các anh chị và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo Ths. Nguyễn Đức Hoa, các cô chú và anh chị phòng tín dụng ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
Đà Nẵng, ngày 08/5/ 2004
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Hoàng
KẾT LUẬN
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại được thì đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải không ngừng mở rộng và phát triển. Nhưng quá trình mở rộng kinh doanh cũng chính là quá trình mở rộng rủi ro. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng không thoát khỏi quy luật này. Do vậy vấn đề đặt ra là giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển với hạn chế rủi ro theo phương châm “Phát triển- An toàn và hiệu qủa” của Chi Nhánh trong thời gian tới.
Do thời gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên không thể phân tích một cách tốt nhất về tình hình rủi ro tín dụng của Chi nhánh. Do đó những giải pháp của em đưa ra chưa thể là giải pháp tốt nhất và chuyên đề thực tập tốt nghiệp không thể tránh khỏi thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được sự cảm thông góp ý của thầy giáo hướng dẫn, các cô chú, anh chị ở Chi Nhánh NHCT Đà Nẵng và bạn đọc gần xa.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Ths. Nguyễn Đức Hoà và các cô chú, anh chị tại phòng Tín Dụng Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tạp chí
1. Tạp chí ngân hàng
2. Tạp chí ngân hàng công thương Đà Nẵng
3. Tạp chí thông tin ngân hàng công thương Việt Nam.
4. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ.
5. Tạp chí lý luận và nghiệp vụ.
II. Giáo Trình:
1. Lý thuyết tiền tệ ngân hàng. Tác giả: TS Nguyễn Ngọc Hùng. NXB tp.HCM 1995
2. Tín dụng ngân hàng. Tác giả: TS - Hồ Diệu . NXB Thống kê năm 2001
3. Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng. PGS Mai Siêu. NXB Thống kê năm 2002
4. An ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. TS Vũ Đình Ánh. NXB Tài Chính năm 2001
III. Bài giảng:
1. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại- thầy Hồ Hữu Tiến
2. Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ - cô Trịnh Thị Trinh
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là Nguyễn Văn Hoàng, em xin cam đoan bài viết sau đây là của mình, là kết quả của việc đi sâu tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập- không sao chép của bất kỳ ai. Nếu thầy cô phát hiện đây là bản sao chép, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Đà Nẵng, ngày 31 tháng 05 năm 2004.
SINH VIÊN CAM ĐOAN
Nguyễn Văn Hoàng
NHN XẸT CUÍA C QUAN THỈC TP
NHN XẸT CUÍA GIẠO VIN HỈNG DN
NHN XẸT CUÍA GIẠO VIN PHAÍN BIN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng.doc