MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu.
4. Cơ cấu của đề tài.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm Ngân hàng, Thanh tra, giám sát Ngân hàng nhà nước.
1.1.1. Khái niệm ngân hàng, đặc trưng của hoạt động ngân hàng.
1.1.2. Vị trí vai trò của NHNN trong hệ thống ngân hàng.
1.1.3 Khái niệm Thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN.
1.2.1. Chức năng.
1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước.
1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thanh tra ngân hàng.
1.3.1. Nhiệm vụ.
1.3.2. Quyền hạn.
1.3.3. Trách nhiệm.
1.4. Pháp luật quy định về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
1.4.1. Nội dung hoạt động.
1.4.2. Phương thức hoạt động.
1.4.3. Điểm mới của Thanh tra giám sát trong luật ngân hàng 2010 so với luật ngân hàng 1997 sửa đổi bổ sung 2003.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
2.1. Thực trạng về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
2.1.1 Thực trạng hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam.
2.1.2. Một số điểm hạn chế của pháp luật đối với NHNN ngân hàng.
2.1.3. Nguyên nhân.
2.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
KẾT LUẬN:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc quan theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực về mọi mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó thì các quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau, giữa các tổ chức tín dụng với Ngân hàng nhà nước (NHNN) và giữa các tổ chức tín dụng với người đi vay ngày càng trở nên cấp thiết bởi sự đa dạng và phức tạp của nó. Các quan hệ này không chỉ mang tính cấp thiết giữa các tổ chức tính dụng trong nước mà nó còn mở rộng tới các tổ chức tín dụng nước ngoài trong hoạt động thương mại quốc tế. Chính vì vậy việc cạnh tranh giữa các Tổ chức tín dụng để giữ chân khách hàng là không thể tránh khỏi và cần phải được quan tâm kịp thời để tránh việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các Tổ chức tín dụng dẫn đến rủi ro của các Tổ chức tín dụng. Do đó với vị trí độc tôn trong hệ thống Ngân hàng. Ngân hàng nhà nước cần phải tiến hành những hoạt động thanh tra, giám sát nhằm kịp thời cứu cánh cho các Tổ chức tín dụng có nguy cơ đổ vở ( phá sản), mặt khác kịp thời xử lý các Tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng.
Hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN ngày càng có những bước phát triển mới và bước đầu khẳng định vị trí của mình trong hệ thống NHNN. Thông qua việc ban hành những văn bản pháp luật, tài liệu chuyên ngành luật điều chỉ ngày một hoàn thiện để đáp ứng hoạt động thực tiễn. Luật NHNN Việt Nam 1997 ra đời đã đánh dấu bước phát triển trong hệ thống pháp Luật NHNN, là tiền đề để phát triển cơ chế Thanh tra, giám sát trong hoạt động Ngân hàng. Cho đến nay khi Luật NHNN Việt Nam 2010 đã được Quốc Hội thông qua ngày 29/06/2010 đã đánh dấu qúa trình hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động Thanh tra, giám sát trong hệ thống NHNN. Bên cạnh đó Luật thanh tra 2010 được ban hành thay thế Luật thanh tra 2004 cũng đã góp một phần nào đó trong hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
Tuy nhiên Luật NHNN 2010 khi nói đến vấn đề Thanh tra, giám sát chủ yếu điều chỉ các quan hệ pháp luật về nội dung còn về luật hình thức không được đề cập mà chủ yếu viện dẫn đến các văn bản pháp luật khác đây là một khó khăn trong việc xử lý vi phạm khi Thanh tra, giám sát phát hiện ra hành vi vi phạm.
Thực tế thời gian qua cơ sở pháp lý quy định về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN còn hạn chế, các quy định của pháp luật về Thanh tra, giám sát của NHNN thiếu đồng bộ. Chính vì vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan chuyên ngành phải có những quy định, hướng dẫn cụ thể trong hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN mà ở đây là cơ quan Thanh tra, giám sát có như thế mới tạo được tính minh bạch, cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống NHNN. Bên cạnh đó việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN hiện nay là một yêu cầu chính đáng nhằm mục đích nhìn nhận rõ hơn về tính hiệu quả của việc áp dụng pháp luật, đồng thời là cơ sở để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
Xuất phát từ lý do trên đã thúc đẩy tôi chọn đề tài “ Pháp luật về hoạt động Thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Niên luận đề cấp đến những nét chính về chức năng, nhiệm vụ của NHNN, Thanh tra NHNN và những quy định của pháp luật về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN. Thực trạng hoạt động Thanh tra, giám sát và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Thanh tra, giám sát NHNN.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài có mục đích tìm hiểu về pháp luật hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN và tìm hiểu thực trạng hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Niên luận sử dụng phương pháp nghiên cứu là phương pháp luận, Phương pháp tổng hợp, phân tích để nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực Thanh tra, giám sát NHNN; và phương pháp so sánh thống kê để vừa đối chiếu các quy định của pháp luật vừa thu thập dử liệu nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần trình bày trong niên luận.
4. Cơ cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục chính của bài niên luận bao gồm 2 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
- Chương II: Thực trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện đối với Thanh tra, giám sát của NHNN.
39 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5835 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về hoạt động thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khác theo quy định của pháp luật;
+ Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đình chỉ việc thi hành hoặc hủy bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện thông qua công tác thanh tra ngân hàng;
+ Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị, Quyết định xử lý về thanh tra, giám sát của Thống đốc NHNN và Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng;
+ Trưng tập cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia Đoàn thanh tra.
- Giám sát chuyên ngành về ngân hàng theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc NHNN;
+ Giám sát các đối tượng giám sát ngân hàng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn hoạt động ngân hàng, về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, các điều kiện cấp phép, các quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hoạt động ngân hàng;
+ Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của đối tượng giám sát ngân hàng; phát hiện, cảnh báo các rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng;
+ Kiểm tra, xác minh, tiến hành tiếp xúc trực tiếp với đối tượng giám sát ngân hàng;
+ Thu thập, tổng hợp, xử lý tài liệu, thông tin có liên quan và xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ giám sát ngân hàng;
+ Yêu cầu đối tượng giám sát ngân hàng báo cáo, cung cấp định kỳ hoặc khi cần thiết các tài liệu, thông tin có liên quan;
+ Yêu cầu đối tượng giám sát ngân hàng phải thực hiện kiểm toán độc lập để phục vụ yêu cầu thanh tra, giám sát ngân hàng trong trường hợp cần thiết;
+ Kiến nghị Thống đốc NHNN, cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm pháp luật, sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ những quy định trái pháp luật hoặc ảnh hưởng đến an toàn hoạt động ngân hàng;
+ Áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng trong trường hợp khẩn cấp.
- Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Giúp Thống đốc NHNN thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn về phòng, chống rửa tiền:
+ Đàm phán, ký kết các thỏa thuận quốc tế trong việc trao đổi thông tin về các giao dịch đáng ngờ có liên quan tới rửa tiền; tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các thỏa thuận quốc tế đó theo quy định của pháp luật;
+ Phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật;
+ Hướng dẫn việc thực hiện các yêu cầu hợp tác quốc tế cho các cơ quan, tổ chức tham gia hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền;
+ Tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp thông tin, tài liệu, hồ sơ về các giao dịch; cảnh báo hoặc khuyến nghị tới các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan về những vấn đề nảy sinh từ các giao dịch được báo cáo; chuyển cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tài liệu, hồ sơ vụ việc có thể liên quan tới rửa tiền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật;
+ Yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu, hồ sơ các thông tin về các giao dịch theo quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trong ngành ngân hàng thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng, khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và phòng, chống rửa tiền trong phạm vi quản lý nhà nước của NHNN.
- Tổng hợp, báo cáo kết quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và phòng, chống rửa tiền thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN.
- Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của hội, tổ chức phi Chính phủ trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của NHNN theo phân cấp, ủy quyền của Thống đốc NHNN.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền; hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền theo phân cấp của Thống đốc NHNN.
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và phòng, chống rửa tiền
- Thực hiện cải cách hành chính trong các lĩnh vực hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo kế hoạch cải cách hành chính của NHNN.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và chế độ, chính sách đãi ngộ, tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nghỉ hưu, thôi việc, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo phân cấp của Thống đốc NHNN.
- Quản lý, sử dụng tài chính, tài sản được giao theo phân cấp của Thống đốc NHNN và quy định của pháp luật.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và phân công của Thống đốc NHNN
1.3.2. Quyền hạn.
Khi tiến hành thanh tra, thanh tra ngân hàng có những quyền hạn sau:
- Yêu cầu đối tượng thanh tra và các bên liên quan cung cấp đầy đủ kịp thời, chính xác thông tin tài liệu theo yêu cầu, và trả lời những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra.
- Lập biên bản thanh tra và đề xuất, kiến nghị biện pháp giải quyết.
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện khác theo quy định của pháp luật ngân hàng trong phạm vi hoạt động của mình.
1.3.3. Trách nhiệm.
Khi tiến hành thanh tra thì Cơ quan thanh tra, thanh tra viên trong phạm vi nhiệm vụ hoạt động của mình phải có trách nhiệm:
- Xuất trình Quyết định thanh tra và thẻ thanh tra viên.
- Thực hiện đúng trình tự thử tục thanh tra, không gây phiền hà sách nhiễu làm cản trở hoạt động bình thường của ngân hàng và gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của Tổ chức tín dụng khác có hoạt động ngân hàng.
- Báo cáo thống đốc NHNN về kết quả Thanh tra, giám sát và kiến nghị biện pháp giải quyết.
- Tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiên trước Thống đốc ngân hàng và trước pháp luật về kết luận Thanh tra, giám sát và mọi hành vi Quyết định của mình.
- Trong quá trình Thanh tra, giám sát thì cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan trong nước như: giữa các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan công an, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm; và phối hợp Thanh tra, giám sát ngân hàng giữa NHNN với cơ quan có thẩm quyền Thanh tra, giám sát của nước ngoài.
- Trong quá trình Thanh tra, giám sát thanh tra viên có hành vi vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ, bao che cho tổ chức cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tùy theo mức độ sẽ bị xử lý kỷ luật, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
1.4. Pháp luật quy định về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
1.4.1. Nội dung hoạt động.
Luật ngân hàng 2010 quy định về nguyên tắc khi tiến hành Thanh tra, giám sát. Theo đó khi tiến hành Thanh tra, giám sát phải thực hiện theo nguyên tắc sau:
Thanh tra, giám sát ngân hàng phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng;
Kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng;
Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng;
Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật NHNN 2010 và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
Thống đốc NHNN quy định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng.
Dựa trên cơ sở đó Luật ngân hàng 2010 quy định nội dung Thanh tra, giám sát như sau:
Nội dung khi tiến hành thanh tra ngân hàng:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép do NHNN cấp.
- Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng.
- Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng.
- Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế, giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phòng ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật.
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
Nội dung khi tiến hành giám sát ngân hàng :
- Thu thập, tổng hợp và xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu theo yêu cầu giám sát ngân hàng.
- Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; việc thực hiện kết luận, kiến nghị, Quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng.
- Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng; xếp hạng các tổ chức tín dụng hằng năm.
- Phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
- Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm pháp luật.
1.4.2. Phương thức hoạt động.
Hiện nay, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, thanh tra ngân hàng điều áp dụng 2 phương thức hoạt động là giám sát từ xa và thanh tra tại chổ. Trước yêu cầu đổi mới về hoạt động thanh tra ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc đổi mới tổ chức, Thanh tra ngân hàng đang dần dần thay đổi phương thức hoạt động của mình, từ thanh tra từng vụ việc là chính sang thực hiện hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra rại chỗ, từng bước kết hợp hai phương thức một phương thức thanh tra hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hàng.
Phương thức giám sát từ xa:
Giám sát từ xa là quá trình thu thập, xử lý số liệu báo cáo của Tổ chức tín dụng; tiến hành phân tích đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, lập các báo cáo và ra các bản khuyến cáo với Tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của Tổ chức tín dụng, cảnh báo sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, có tác động định hướng cho thanh tra tại chỗ, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng
Theo Quyết định 83/2009 ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng thuộc NHNN Việt Nam, quy định về cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra. Trong đó vụ giám sát ngân hàng thực hiện việc giám sát chuyên ngành theo quy định của NHNN. Trên cơ sở của Quyết định 83/2009, ngày 14/07/2009 NHNN đã ra Quyết định 1650/QĐ-NHNN quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của vụ giám sát. Theo đó vụ giám sát ngân hàng có nhiệm vụ giám sát chuyên ngành theo quy định của NHNN và pháp luật. Quyết định 1650/QĐ-NHNN cũng nhận định: Vụ giám sát ngân hàng “tổ chức thực hiện giám sát thường xuyên đối với hệ thống các Tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ”. Có nghĩa rằng vụ giám sát tổ chức giám sát liên tục theo định kì ngắn, có thể là hàng tháng, hàng quý.
Qua đó cho thấy khi tiến hành giám sát ngân hàng là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp phân tích để đánh giá diễn biến về cơ cấu tài sản nợ và tài sản có, chất lượng tài sản có; vốn tự có; tình hình thu thập, chi phí kết quả kinh doanh; việc thực hiện các quy định và tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính vừa và nhỏ, và các quy định khác của pháp luật.
Việc đánh giá các nội dung trên dựa vào việc phân tích các chỉ số tài chính của Tổ chức tín dụng, tổ chức tài chình vừa và nhỏ. Kết quả thực hiện việc giám sát ngân hàng có vai trò trong việc đánh giá, xếp loại các tổ chức tín dụng và đưa vào những cảnh báo, phòng ngừa rủi ro với các Tổ chức tín dụng trung gian.
Phương thức thanh tra tại chổ.
Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống, là việc thanh tra được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế, cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra xem xét các văn bản, thông tin chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, quy chế của ngành; các báo cáo kế toán, thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp đồng… có liên quan đến hoạt động huy động, sử dụng vốn và công tác kế toán tài chính của đối tượng được thanh tra.
- Trên tinh thành Quyết định 83/2009 ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng thuộc NHNN Việt Nam, quy định về cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra. Cùng với việc ban hành Quyết định 1650 của NHNN về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức của Vụ giám sát. NHNN đã ban hành Quyết định số 1647/QĐ-NHNN ngày 14/07/2009 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và cơ cấu tổ chức của Vụ thanh tra các Tổ chức tín dụng trong nước. Theo Quyết định này vụ thanh tra có nhiệm vụ “thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng trong nước, quỹ tín dụng nhân dân (sau đây gọi chung là “Tổ chức tín dụng”), tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác trong nước theo quy định của NHNN và của pháp luật”. Đồng thời Quyết định cũng nêu rõ Vụ thanh tra “thanh tra, giám sát dài hạn, định kỳ quý, 6 tháng, năm đối với các tổ chức tín dụng trong nước, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác trong nước”.
Trên cơ sở đó thanh tra tại chổ có nhiệm vụ đánh giá tình hình chấp hành chính sách pháp luật, các chế độ, thể lệ của ngân hàng; giúp các tổ chức tín dụng thấy được mặt tích cực, hạn chế còn tồn tại để tiếp tục phát huy những mặt tích cực và khắc phục những tồn tại và kiến nghị biện pháp cần chấn chỉ; phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những quy định chưa hợp lý để kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
Không chỉ dừng lại ở việc thanh tra tại chổ hay giám sát từ xa mà pháp luật còn quy định kết hợp hai phương thức này lại với nhau. Sau khi tiến hành thanh tra “căn cứ vào kết quả thanh tra tại chổ kết hợp với thông tin nhận được từ Vụ giám sát ngân hàng và các thông tin khác để giám sát thường xuyên đối vời từng Tổ chức tín dụng”, qua đó lập báo cáo giám sát tổ chức tín dụng theo định kỳ hoặc đột xuất khi cần thiết để thực hiện hoạt động thanh tra, giám sát và báo cáo Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng.
1.4.3. Điểm mới của Thanh tra giám sát trong luật ngân hàng 2010 so với luật ngân hàng 1997 sửa đổi bổ sung 2003.
Có thể nói hai năm 2009, 2010 là những năm có những điểm mốc pháp lý quan trọng đối với hoạt động thanh tra nhà nước nói chung và hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng. Trong đó hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN là có nhiều chuyển biến nhất trong hoạt động Thanh tra. Từ khi Luật NHNN 1997 có hiệu lực cho đến luật sửa đổi bổ sung 2003 và đến nay là Luật NHNN 2010 có hiệu lực ngày 01/01/2011. Trong giai đoạn từ năm 2009-2010 hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm từ Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam, ngày 16/06/2010, Quốc hội đã thông qua Luật NHNN Việt Nam , thay thế Luật NHNN 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung 2003; trong đó, đã dành trọn Chương V, với 13 Điều quy định về Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Đây là sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn để hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phát huy năng lực, hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và hội nhập ngân hàng trong thời gian tới.
So với các quy định về Thanh tra ngân hàng trong Luật NHNN 1997, Luật NHNN 2010 có nhiều điểm mới quan trọng có tính chất đổi mới cơ bản về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Dưới đây là một số điểm mới này trong Luật NHNN 2010 so với NHNN 1997 sửa đổi bổ sung 2003.
a). Về tổ chức Thanh tra, giám sát ngân hàng
Luật NHNN 2010 tiếp tục khẳng định sự hiện diện của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN như đã quy định tại Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, mà trước đây trong NHNN 1997 chỉ quy định về Thanh tra ngân hàng. Cụ thể:
“Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Luật NHNN, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền” (Khoản 1, Điều 49).
b). Quy định bổ sung về hoạt động giám sát ngân hàng.
Theo Luật NHNN 2010 bên cạnh hoạt động thanh tra luật còn có quy định thêm hoạt động giám sát ngân hàng mà trước đây trong Luật NHNN 1997 chỉ quy định về hoạt động thnah tra. Với quy định cụ thể này nó đã và đang hình thành đồng bộ hai hoạt động “thanh tra ngân hàng” và “giám sát ngân hàng” trong hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Khoản 11, 12 – Điều 6 và từ Điều 52 đến Điều 58).
c). Về mục đích hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 50)
Luật NHNN 2010 đã quy định bổ sung Thanh tra, giám sát ngân hàng phải đảm bảo các mục đích sau: Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; Duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống tổ chức tín dụng; Bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; Góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
Trong khi đó tại khoản 2 điều 51 Luật NHNN 1997 chỉ quy định: Mục đích của Thanh tra ngân hàng là góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Qua đó cũng cho thấy, Luật NHNN 2010, quy định vai trò, trách nhiệm của Thanh tra, giám sát ngân hàng lớn hơn so với quy định tại Luật NHNN 1997.
d). Về nguyên tắc thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 51)
Luật NHNN 2010 có quy định về nguyên tắc Thanh tra, giám sát ngân hàng (điều 51). Trước đó Luật NHNN 1997 không có quy định về điều khoản này. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Luật NHNN 1997. Trong đó, có những điểm mới cụ thể như sau:
Quy định nguyên tắc: “Kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng”.
Đây là nguyên tắc chi phối cả nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Khác với quy định trước đây chủ yếu tập trung vào thanh tra chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
Khẳng định rõ: “Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng”.
Trao quyền cho Thống đốc NHNN “quy định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng” (trước đây chủ yếu quy định tại Luật Thanh tra hoặc các văn bản của Thanh tra Chính phủ).
Quy định rõ việc áp dụng pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng. Cụ thể:
“Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật này với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật này”.
e). Về Thanh tra ngân hàng.
Luật NHNN 2010 quy định cụ thể, bổ sung nhiều diểm mới về thanh tra ngân hàng so với Luật NHNN 1997. Những quy định đó được cụ thể hóa qua những điều, khoản sau:
- Về đối tượng thanh tra (Điều 52): quy định bổ sung đối tượng thanh tra như sau:
“Trong trường hợp cần thiết, NHNN yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”;
“Tổ chức có hoạt động ngoại hối, họat động kinh doanh vàng; tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng”.
- Về căn cứ ra Quyết định thanh tra (Điều 54):
Bổ sung căn cứ ra Quyết định thanh tra: “Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng”.
- Về nội dung thanh tra (Điều 55):
Luật NHNN bổ sung các nội dung thanh tra sau:
“Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng”.
“Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng”.
“Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế, giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phòng ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật”.
f). Về giám sát ngân hàng
Đây là một quy định mới trong Luật NHNN 2010. Theo đó giám sát ngân hàng có những quy định sau:
- Về đối tượng giám sát (Điều 56):
Quy định bổ sung đối tượng giám sát như sau:
“Trong trường hợp cần thiết, NHNN yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”.
- Về quyền và nghĩa vụ của đối tượng giám sát (Điều 57):
Quy định bổ sung đối tượng giám sát ngân hàng có các quyền và nghĩa vụ sau:
“Báo cáo, giải trình đối với khuyến nghị, cảnh báo rủi ro và an toàn hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
“Thực hiện khuyến nghị, cảnh báo rủi ro và an toàn hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng”.
- Về nội dung giám sát ngân hàng (Điều 58):
Quy định bổ sung các nội dung giám sát như sau:
“Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; việc thực hiện kết luận, kiến nghị, Quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng”.
“Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng; xếp hạng các tổ chức tín dụng hằng năm”.
“Phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng”.
“Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm pháp luật”.
g). Về xử lý đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 59)
Ngoài các biện pháp xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại, Luật NHNN 2010 đã bổ sung các biện pháp xử lý như sau:
Tuỳ theo tính chất, mức độ rủi ro, NHNN còn áp dụng các biện pháp xử lý sau đây đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng: “Hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản; Hạn chế việc mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động; Hạn chế, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng; Yêu cầu tổ chức tín dụng phải tăng vốn điều lệ để đáp ứng các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng; Yêu cầu tổ chức tín dụng phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần, cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối phải chuyển nhượng cổ phần; Quyết định giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với tổ chức tín dụng trong những trường hợp cần thiết bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng và hệ thống các tổ chức tín dụng; Áp dụng một hoặc một số tỷ lệ an toàn cao hơn mức quy định”.
h). Về phối hợp trong việc thanh tra, giám sát tổ chức tín dụng (Điều 60).
Quy định bổ sung vấn đề: NHNN “phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, giám sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”.
i). Về phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài (Điều 61).
Luật NHNN 2010 đã bổ sung một số quy định sau:
“ NHNN trao đổi thông tin và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài trong việc thanh tra, giám sát đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng của Việt Nam hoạt động ở nước ngoài.
NHNN thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài về hình thức, nội dung, cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp thanh tra, giám sát phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam”.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI THANH TRA, GIÁM SÁT
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
2.1. Thực trạng về hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
2.1.1 Thực trạng hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam.
Từ giữa năm 2008, tình hình khó khăn về thanh khoản và tiếp đó là việc nhiều ngân hàng nước ngoài phá sản do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đã làm ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên với sự tích cực của hoạt động Thanh tra, giám sát các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam, Thanh tra, giám sát đã có nhiều đóng góp vào việc đảm bảo sự an toàn của từng Tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống tài chính-ngân hàng Việt Nam thời gian qua.
Ngày 01/08/2009, cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chính thức đi vào hoạt động theo Quyết định 83/2009 ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở hợp nhất 4 đơn vị của NHNN Việt Nam, gồm Thanh tra ngân hàng, Vụ các ngân hàng, Vụ các Tổ chức tín dụng hợp tác, Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền. Tiếp đó ngày 01/01/2010 Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố đi vào hoạt động theo Quyết định 2989/QĐ-NHNN ngày 14/12/2009 của Thống đốc NHNN. Thanh tra, giám sát ngân hàng ngoài hoạt động Thanh tra, giám sát các Tổ chức tín dụng còn thực hiện nhiệm vụ thanh tra hành chính; giải quyết khiếu nại tố cáo; phòng chống tham nhũng và phòng chống rửa tiền.
Đi vào hoạt động trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, trong đó có hoạt động tiền tệ, ngân hàng, Thanh tra, giám sát ngân hàng nói chung và cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng vừa nổ lực giải quyết, tháo gở những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai công việc của một đơn vị hoàn toàn mới, vừa tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của các đơn vị trước đây; đồng thời thực hiện các nhiệm vụ đột xuất do Thống đốc NHNN giao, phục vụ đắc lực chỉ đạo của Thống đốc NHNN trong điều hành thực thi chính sách tiền tệ.
Trong 9 tháng đầu năm 2010, Thanh tra, giám sát ngân hàng của Trung ương và địa phương tiến hành 929 cuộc thanh tra, kiểm tra, trong đó có 585 cuộc thanh tra theo kế hoạch, 46 cuộc thanh tra, kiểm ta đột xuất và 265 cuộc kiểm tra khác, trong đó tập trung vào việc kiểm tra tình hình chấp hành chủ trương của Chính phủ nằm ổn định phục hồi kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội như cho vay hỗ trợ lãi suất, cho vay theo lãi suất thỏa thuận; đồng thời tập trung vào cá nội dung hoạt động chủ yếu là các hoạt động tiềm ẩn rủi ro của các Tổ chức tín dụng như tín dụng, ngoại hối, kinh doanh vàng… Bên cạnh các cuộc thanh, kiểm tra trực tiếp, Thanh tra, giám sát ngân hàng đã thành lập các tổ công tác hoặc tổ chức các cuộc tiếp xúc, làm việc với các Tổ chức tín dụng, nắm bắt kịp thời các vấn đề về tình hình tổ chức và hoạt động; cũng như các vấn đề phát hiện qua hoạt động giám sát để có những cảnh báo, khuyến nghị với các Tổ chức tín dụng nhằm tránh và hạn chế những rủi ro trong quá trình hoạt động
Hoạt động Thanh tra, giám sát đã tập trung triển khai dự án “xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ hoạt động, giám sát từ xa”; đồng thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thành các biểu báo cáo, các chỉ tiêu phân tích, đánh giá và hệ thống công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng công nghệ giám sát từ xa, từng bước hướng đến mục tiêu cảnh báo sớm rủi ro cho Tổ chức tín dụng phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, xây dựng chính sách của NHNN. Ngoài ra Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng đã tích cực nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, trao đổi với các vụ thanh tra Chính phủ, xây dựng nội dung thanh tra hành chính để trình Thống đốc phê duyệt, làm căn cứ cho việc thực hiện nhiệm vụ này trong hệ thống ngân hàng.
Về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và các đề án, trong thời gian qua Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tham gia vào việc xây dựng dự thảo Luật, các văn bản hướng dẫn Nghị định, thông tư, và đang tập trung nghiên cứu, rà soát, lên danh mục các văn bản cần xây dụng để hướng dẫn thực hiện Luật Ngân hàng. Ngoài ra cơ quan Thanh tra, giám sát cũng đã nghiên cứu tham mưu trình Thống đốc NHNN về việc cấp phép thành lập; mở rộng mạng lưới; tăng vốn điều lệ, kiện toàn về tổ chức, nhân sự… của các Tổ chức tín dụng. Với mục tiêu xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam phát triển an tòa trên cơ sở đủ năng lục tài chính; năng lực quản trị, điều hành tốt với công nghệ hiện đại.
Với vai trò là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng và tội phạm ngân hàng, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tham mưu cho các cấp trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 của ngành ngân hàng; kiện toàn Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng và tội phạm ngành ngân hàng; xây dựng và hoàn thành việc triển khai kế hoạch tổng kết thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Bên cạnh đó Thanh tra, giám sát ngân hàng cũng nghiêm túc thực hiện các quy định về quy chế tổ chức tiếp dân; định kỳ các cuộc kiểm tra trách nhiệm thủ trưởng trong việc giải quyết khiếu, nại tố cáo tại các đơn vị thuộc NHNN. Đồng thời bố trí tổ thường trực đường dây nóng tiếp nhận các phản ánh của nhân dân và doanh nghiệp liên quan đến chủ trương, chính sách của nhà nước thuộc lĩnh vực ngân hàng, kịp thời xử lý hoặc trình lãnh đạo NHNN xử lý theo thẩm quyền.
Trong thời gian qua cơ quan Thanh tra, giám sát đã thực hiện tốt vai trò là đầu mối giúp việc cho NHNN thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thường trực giúp việc Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền, cũng như thực hiện vai trò đầu mối của Việt Nam trong nhóm Châu Á- Thái Bình Dương về phòng, chống rủa tiền.
Bên cạnh đó hoạt Thanh tra, giám sát còn có nhiều hạn chế, vướng mắc chưa thực hiện được.
- Về công tác giám sát từ xa.
Hệ thống thông tin số liệu sử dụng trong giám sát từ xa còn sơ sài, chưa có chương trình giám sát cảnh báo sớm, kết quả đánh giá, phân tích đối với Tổ chức tín dụng chỉ có tác dụng để báo cáo, và mới chỉ dừng ở việc cung cấp số liệu để tham khảo khi xây dựng chính sách, cơ chế và hỗ trợ cho hoạt động thanh tra tại chổ trong việc đánh giá khái quát tình hình hoạt động của Tổ chức tín dụng còn yêu kém, nên gần như chưa phát huy được tác dụng trong việc phát hiện rủi ro, để cảnh báo và có biện pháp phòng ngừa.
Mặc dù hoạt động giám sát từ xa đã phân tích, đánh giá Tổ chức tín dụng theo CAMELS, nhưng các tiêu chí đánh giá còn chưa đạt chuẩn mực quốc tế về nội dung và chưa đảm bảo tính kịp thời. Do đó chức năng cảnh báo sớm những rủi ro có thể xảy ra của Tổ chức tín dụng của giám sát từ xa gần như không thực hiện được một cách hiệu quả.
Nội dung giám sát phân tích còn rườm rà, bao gồm: thống kê số liệu trong kỳ, so sánh tăng giảm một số chỉ tiêu thuộc nguồn vốn, sử dụng vốn, khả năng thanh khoản, thu nhập, chi phí…
Phối hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chổ còn bất cập nên xử lý những vấn đề tồn tại đối với Tổ chức tín dụng còn chậm. Giám sát từ xa hầu như chưa phát hiện và chỉ ra Tổ chức tín dụng nào cần thanh tra, kiểm tra. Giám sát từ xa đối với các chi nhánh của Tổ chức tín dụng ở các địa phương khá tốn kém nhưng chưa phát huy hiệu quả. Chưa thực hiện được việc đánh giá xếp loại Tổ chức tín dụng , do chưa xác định nguồn thông tin để tính toán các chỉ tiêu và chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu làm chuẩn mực trong đánh giá xếp loại Tổ chức tín dụng.
- Về thanh tra tại chỗ
Công tác thanh tra tại chỗ của NHNN được thực hiện bởi năm vụ thanh tra tại chỗ, các tổ chức tín dụng được phân chia thành năm nhóm theo hình thức sở hữu và đựơc phân công cho mỗi vụ thực hiện chức năng thanh tra tại chỗ.
Về nguyên tắc giám sát từ xa cũng như thanh tra tại chỗ cần được thực hiện với các Tổ chức tín dụng trên cơ sở tổng hợp, nghĩa là chỉ cần giám sát đối với trụ sở chính của Tổ chức tín dụng mà không nhất thiết phải giám sát với các chi nhánh của Tổ chức tín dụng, bởi các chi nhánh của Tổ chức tín dụng không hạch toán độc lập, mọi chỉ tiêu cần giám sát chỉ mang đầy đủ ý nghĩa khi chúng được tổng hợp tại hội sở chính. Vì vậy việc giám sát từ xa với các chi nhánh của Tổ chức tín dụng tại các tỉnh thành phố không đem lại hiệu quả còn gây tốn kém. Và việc thanh tra tại chỗ với chi nhánh các Tổ chức tín dụng cũng không đem lại bức tranh toàn cảnh của Tổ chức tín dụng , việc đánh giá một chi nhánh trong khi Tổ chức tín dụng có rất nhiều chi nhánh không đem lại nhiều ý nghĩa.
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Về nguyên tắc, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, nhưng sự phối hợp này tại thanh tra ngân hàng chưa được như mong muốn, bởi kết quả giám sát từ xa không cập nhật, không phục vụ đắc lực cho không tác thanh tra tại các vụ thanh tra tại chỗ, ngược lại kết quả thanh tra tại chỗ cũng không được thông báo cho phòng giám sát từ xa.
Việc áp dụng phương pháp thanh tra tại chỗ chưa hợp lý. Trong thanh tra tại chỗ, hiện tại thanh tra ngân hàng đang nỗ lực cải tiến phương pháp thanh tra, nhưng chưa đến đích cần đạt tới. Trong hầu hết các cuộc thanh tra, thanh tra ngân hàng vẫn tiến hành theo phương pháp truyền thống, đó là phương pháp thanh tra cụ thể, nghĩa là thường tập trung vào xem xét liệu các Tổ chức tín dụng có tuân thủ các quy định của luật pháp và quy chế hay không vào việc đánh giá chất lượng tài sản của Tổ chức tín dụng tại một thời điểm nào đó. Trong khi đó, rủi ro tổng thể mà Tổ chức tín dụng đang và sẽ đối mặt chưa được thanh tra ngân hàng đánh giá và cảnh báo sớm. Đây là một trong những tồn tại và hạn chế lớn nhất của thanh tra ngân hàng. Mặc dù phương pháp truyền thống đó cũng có thể giúp Tổ chức tín dụng giảm rủi ro nhưng ngày nay việc xem xét kiểm tra những vấn đề đó là chưa đủ khi mà sự cải cách tài chính đã đem lại nhiều thị trường và công cụ tài chính mới khiến cho các Tổ chức tín dụng và nhân viên của họ có thể dễ dàng đầu cơ một cách mạo hiểm. Do đó việc kiểm tra nếu chỉ tập trung vào tình trạng của Tổ chức tín dụng tại một thời điểm nào đó có thể không khẳng định được liệu trong thực tế sẽ phải chịu rủi ro quá mức trong tương lai gần hay không. Vì vậy cần áp dụng phương pháp thanh tra kiểm tra quy trình là chính, kết hợp với phương pháp thanh tra cụ thể để đem lại hiệu quả tốt nhất.
2.1.2. Một số điểm hạn chế của pháp luật đối với NHNN ngân hàng.
Luật NHNN 2010 ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 nhưng đến nay chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện. trong khi đó Luật NHNN đã sửa đổi bổ sung thêm nhiều điều khoản mới, trong đó có Thanh tra, giám sát ngân hàng, gây khó khăn cho cơ quan thanh tra trong quá tình thực hiện Thanh tra, giám sát.
Các văn bản pháp luật quy định về Thanh tra, giám sát NHNN còn rời rạc thiếu tính thống nhất, các văn bản còn mâu thuẩn với nhau. Nên khi có vấn đề phát sinh lại dẫn chiếu đến nhiều văn bản pháp luật khác gây mất thời gian trong việc xử lý công việc đang phát sinh.
Trình tự thủ tục khi tiến hành thanh tra, giám sát còn nhiều vướng mắc do chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể trình tự thủ tục khi tiến hành thanh tra, giám sát. Mặt khác khi một văn bản mới có giá trị pháp lý cao đã có hiệu lực rồi thì vẫn áp dụng những văn bản hướng dẫn trước đó chưa được thay thế dẫn đến mâu thuẩn giữa văn bản mới với những văn bản trước đó.
Cơ cấu tổ chức của cơ quan Thanh tra, giám sát chưa được kiện toàn, các khâu trong hệ thống Thanh tra, giám sát chưa tập trung về một mối. Chưa có sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động Thanh tra, giám sát giữa các Vụ thực hiện chức năng Thanh tra, giám sát.
Việc tuân thủ phương thức giám sát theo quy định của pháp luật còn yếu kém không theo kịp sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN chưa thống nhất được nội dung giám sát, nội dung trong tất cả các báo cáo cho các bên liên quan, mặt khác vụ thanh tra và vụ giám sát chưa phối hợp được trong việc xây dựng báo cáo giám sát.
Đội ngũ Thanh tra, giám sát trẻ chưa có trình độ chuyên môn và còn thiếu kinh nghiệm.
Chúng ta chưa tuân thủ hoặc mới chỉ tuân thủ một phần các nguyên tắc giám sát ngân hàng theo tiêu chí Basel 2 trong lộ trình cam kết gia nhập WTO, đây là một đòi hởi khách quan.
2.1.3. Nguyên nhân.
Khung pháp lý về hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng chưa được hoàn thiện là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trên. Chưa thống nhất được nội dung các văn bản trong hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Đội ngũ kế cạnh còn trẻ, thiếu kinh nghiệm và chưa có trình độ chuyên môn trong việc thanh tra, giám sát hoạt động các tổ chức tín dụng trong khi đó việc cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diển ra ngày càng mạnh mẽ, phức tạp và sử dụng nhiều hành vi khó có thể phát hiện ra dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác giám sát chưa được kiện toàn còn lạc hậu, hệ thống thông tin xử lý số liệu sử dụng trong giám sát còn sơ sài, chưa có chương trình giám sát cảnh báo sớm, kết quả đánh giá, phân tích đối với các tổ chức tín dụng chỉ có tác dụng để báo cáo và chỉ dừng lại ở việc cung cấp số liệu.
Do Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng còn trực thuộc Ngân hàng nhà nước nên kết quả thanh tra tại chổ còn bị chi phối bởi các cấp có thẩm quyền, chính vì vậy làm cho kết quả thanh tra không phản ánh trung thực thực tại của các tổ chức tín dụng.
Thanh tra tại chổ còn áp dụng phương pháp truyền thống nên phương pháp đánh giá của thanh tra tại chổ hiện nay chỉ có tác dụng tại thời điểm kiểm tra, khó có thể đưa ra những nhận định, đánh giá, cảnh báo về mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng trong tương lai.
Việc thực hiện các cam kết quốc tế còn yếu kém trong lộ trình cam kết gia nhập WTO.
2.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh tra, giám sát của NHNN.
a). Về mặt lập pháp:
Có thể nói Luật NHNN 2010 đã đặt nền móng pháp lý có hiệu lực cao và căn bản về tổ chức, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN. Tuy nhiên, với nhiều quy định mới như vậy sẽ đặt ra những thách thức, khó khăn không nhỏ cho NHNN trong việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật để triển khai thực hiện các quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng khi Luật NHNN 2010 có hiệu lực. Dưới đây là một số giải pháp hoàn thiện về mặt phát lý đối với hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng.
Nhanh chống ban hành Nghị định hướng dẫn Luật NHNN 2010, trong lĩnh vực Thanh tra, giám sát cần ban hành nghị định mới để thay thế Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04/09/1999 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng theo quy định tại Khoản 2, Điều 49, Luật NHNN 2010.
Trong đó, cần xem xét thêm một số vấn đề sau:
+ Nghiên cứu tổ chức mô hình Thanh tra, giám sát ngân hàng ở cả Trung ương và địa phương phù hợp với nguyên tắc, đối tượng, nội dung thanh tra, giám sát ngân hàng và các biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng quy định tại Luật NHNN 2010; đặc biệt là các quy định tại Khoản 2, 3 (Điều 51); Khoản 2 (Điều 55); Khoản 2, 3, 4 (Điều 58); Khoản 2 (Điều 59).
+ Quy định xử lý mối quan hệ giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố về phân cấp trách nhiệm thanh tra, giám sát và quan hệ chỉ đạo, điều hành.
+ Xử lý vấn đề thực hiện chức năng thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng theo quy định của Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật về phòng, chống tham nhũng.
Rà soát lại các quy định tại Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ và các Quyết định của Thống đốc NHNN về chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và các đơn vị thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng để xử lý phù hợp; bảo đảm về tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và các đơn vị trực thuộc được thiết kế phù hợp với quy định của Luật NHNN 2010 về Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Thống đốc NHNN cần kịp thời nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thanh tra ngân hàng theo Khoản 5, Điều 51, Luật NHNN 2010. Đồng thời nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng theo Khoản 5, Điều 51, Luật NHNN 2010 để thay thế cho Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999.
Nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng, tùy theo tính chất, mức độ rủi ro theo Khoản 2, Điều 59, Luật NHNN 2010.
Tăng cường công tác Thanh tra, giám sát theo chỉ thị số 03 của Ngân hàng nhà nước ngày 22/04/2008.
Xem xét đổi mới hệ thống ngân hàng nhà nước theo Quyết định 112/2006 của Thủ tướng Chính phủ về đề án phát triển ngành ngân hàng đến 2010 và định hướng đến 2020. Trong đó chú trọng đến cơ quan thanh tra giám sát.
Cần phải áp dụng 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng của Ủy ban BASEL. Theo đó một nội dụng quan trọng của hoạt động thanh tra giám sát là thanh tra, giám sát viên, giám sát các tập đoàn ngân hàng trên cơ sở hợp nhất. Đồng thời học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới về mô hình cũng như phương thức hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng.
b). Về mặt tổ chức và hoạt động.
Nâng cao tính độc lập của thanh tra ngân hàng: Làm thế nào để nâng cao tính độc lập của thanh tra ngân hàng là một vấn đề quan trọng, với định hướng tổ chức lại hệ thống NHNN gọn nhẹ hơn theo khu vực có thể giảm bớt tốn kém trong giám sát từ xa, thanh tra chi nhánh NHNN không thực hiện công tác giám sát từ xa mà nhiệm vụ này dành cho thanh tra NHNN thực hiện đối với trụ sở chính của các tổ chức tín dụng.
Sắp xếp lại chức năng thanh tra tại chỗ: Hiện tại, các phòng thanh tra thực hiện thanh tra theo các nhóm tổ chức tín dụng, được phân theo hình thức sở hữu.
Cho phép thanh tra ngân hàng được uỷ nhiệm một số công việc cho kiểm toán độc lập: Với nhân lực có hạn trong khi khối lượng thanh tra của ngân hàng ngày càng nhiều, cần có quy định thanh tra ngân hàng được ủy nhiệm một số công việc của mình cho kiểm toán độc lập như ở một số nước phát triển, tất nhiên một khi kiểm toán độc lập đạt được chuẩn mực nhất định.
Đổi mới phương pháp giám sát: Hiện nay, phương pháp giám sát tuân thủ với các nội dung giám sát theo các quyết định vẫn đang có hiệu lực đã tỏ ra kém hiệu quả và không theo kịp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như không phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, NHNN đẩy nhanh việc tiến hành xây dựng và thực hiện triển khai phương pháp giám sát theo CAMELS. Vì việc thực hiện giám sát theo CAMELS sẽ đảm bảo được tính đơn giản, dể thực hiện cho các cán bộ giám sát NHNN, đảm bảo tính đồng bộ với các công việc khác khi không đòi hỏi sự thay đổi quá lớn trong các hoạt động giám sát hiện tại phù hợp với Việt Nam hiện nay.
Thống nhất nội dung giám sát: Nội dung trong từng báo cáo giám sát cần được thống nhất theo phương pháp giám sát được lựa chọn trong từng thời kỳ. Trong giai đoạn NHNN triển khai phương pháp giám sát theo CAMELS thì nội dung trong từng báo cáo giám sát cần được xây dựng theo các cấu phần của CAMELS.
Trước mắt, các nội dung trong các báo cáo giám sát sẽ được thống nhất theo phương pháp giám sát theo CAMELS như sau:
+ Thống nhất nội dung trong báo cáo giám sát vĩ mô.
+ Thống nhất nội dung trong báo cáo đánh giá xếp hạng.
+ Thống nhất nội dung trong báo cáo cảnh báo sớm.
+ Thống nhất nội dung trong báo cáo tiền thanh tra.
Hoàn thiện quy trình giám sát: Quy trình giám sát cần có sự kết hợp của hai bộ phận chính là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Cơ quan Thanh tra, giám sát của NHNN. Ngoài vị trí và vai trò của từng bộ phận trong hệ thống giám sát nói chung, trong đó bộ phận giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ cần phối hợp hoạt động và xây dựng các báo cáo giám sát như đã mô tả, quy trình giám sát cụ thể cũng cần được xây dựng nhằm chỉ rõ các bước công việc và đảm bảo tính chặt chẽ và hiệu quả cho công tác giám sát.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát, đào tạo cán bộ giám sát có chuyên môn và đội ngũ kế cận: Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực luôn là yếu tố được NHNN quan tâm và đề cao. Tuy nhiên, kế hoạch cụ thể cần được xây dựng theo hướng: NHNN cần có một chuyên gia tư vấn thường trú có kinh nghiệm để hướng dẫn và đào tạo trực tiếp cho các cán bộ thanh tra tại chỗ và các cán bộ phân tích từ xa; NHNN cần phát triển một chương trình chuẩn về đào tạo, cấp chứng chỉ và đánh giá cán bộ; Việc đào tạo tại các chi nhánh cần nhận được sự chú ý đặc biệt ngay từ đầu; NHNN cần bố trí việc hợp tác đào tạo và đào tạo ở nước ngoài với mục tiêu xác đáng và rõ ràng.
Tiếp tục tăng cường công tác Thanh tra, giám sát theo chỉ thị số 03/2008/CT-NHNN ngày 22/04/2008 về việc tăng cường công tác thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước, nhằm phát hiện và cảnh báo sớm các tổ chức tín dụng nguy cơ phá sản.
KẾT LUẬN:
Hiện nay nước ta đang trên đà đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó tạo ra cho đất nước ta muôn vàn thuận lợi, bên cạnh đó cũng không ít thách thức đối với nền kinh tế. Thời gian qua nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, nhiều ngân hàng thương mại bị phá sản và còn nhiều ngân hàng đang đứng trước bờ vực phá sản có thể dẫn đến một khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng đến các nước trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Trước tình hình đó vai trò của Ngân hàng nhà nước càng được chú trọng hơn trong việc việc duy trì, ổn định nền kinh tế hiện nay. Mặt khác hiện nay ở nước ta có nhiều tổ chức tín dụng hoạt động, cạnh tranh lãnh nhau, có thể dẫn đến việc phá sản của một tổ chức tín dụng nào đó do cạnh tranh không lành mạnh. Trước vấn đề đó đòi hỏi Ngân hàng nhà nước với chức năng của mình cần phải tiến hành Thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng nhằm phát hiện và phòng ngừa rủi ro cho nền kinh tế.
Cùng với việc Thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng Ngân hàng nhà nước cần phải đổi mới cơ chế Thanh tra, giám sát và tăng cường Thanh tra, giám sát trong tình hình mới, mặt khác là tích cực áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào trong quá trình Thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng một mặt vừa đánh giá khách quan tình hình của các tổ chức tín dụng; mặt khác vừa thực hiện cam kết quốc tế trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời xây dựng hệ thống Thanh tra, giám sát ngân hàng hoàn thiện cả về mặt pháp luật lãnh cơ cấu, tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu Ngân hàng nhà nước trong tình hình mới. Quan trọng hơn cả là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về Thanh tra, giám sát ngân hàng là rất cần thiết để tăng cường phục vụ cho công tác Thanh tra, giám sát ngân hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi bổ sung 2002.
Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Luật Ngân hàng nhà nước 2010 số 46/2010/QH12 ngày 16/06/2010.
Luật Ngân hàng nhà nước 1997 sửa đổi bổ sung 2003.
Luật thanh tra số 56/2010 ngày 15/11/2010.
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010.
Nghị định 91/1999/NĐ-CP ngày 04/09/1999.
Quyết định 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/05/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra,giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nghị định Số: 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26/08/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Quyết định Số: 1647/QĐ-NHNN ngày 14/07/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của vụ thanh tra các tổ chức tín dụng trong nước.
Quyết định số 1650/QĐ-NHNN ngày 14/07/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của vụ giám sát ngân hàng.
Quyết định Số: 2989/QĐ-NHNN ngày 14/07/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Quyết định 1649/QĐ-NHNN ngày 14/07/2009 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành
Chỉ thị Số: 03/2008/CT-NHNN ngày 22/04/2008 về việc tăng cường công tác thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước.
Nghị định của Chính phủ số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/03/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thanh tra.
Thông tư số 02/2010/TT-TTCP ngày 02/03/2010 của thanh tra Chính phủ quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.
Quyết định Số: 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 09/11/1999 Về việc ban hành Quy chế giám sát từ xa đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam
Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Giáo trình luật tài chính – ngân hàng nhà viện đại học mở Hà Nội.
Giáo trình đào tạo từ xa Luật ngân hàng đại học Huế.
Tập bài giảng Luật ngân hàng khoa luật – đại học Huế.
Google.com.vn.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Pháp luật về hoạt động thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước.doc