CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ . 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức của Trọng tài thương mại quốc tế .4
1.1.1. Khái niệm .4
1.1.1.1. Trọng tài thương mại quốc tế 4
1.1.1.2. Thỏa thuận trọng tài 5
1.1.2. Đặc điểm của trọng tài 6
1.1.2.1. Phát sinh khi có thỏa thuận .6
1.1.2.2. Thủ tục giải quyết đơn giản, nhanh chóng .7
1.1.2.3. Xét xử không công khai 8
1.1.2.4. Trọng tài là tổ chức phi chính phủ .8
1.1.2.5. Phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm 9
1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại quốc tế .9
1.1.3.1. Trọng tài vụ việc .9
1.1.3.2. Trọng tài thường trực 10
1.2. Cơ sở lý luận về vấn đề trọng tài thương mại quốc tế .11
1.2.1. Lược khảo về trọng tài thương mại quốc tế các nước trên thế giới .11
1.2.1.1. Luật trọng tài Mỹ 11
1.2.1.2. Luật trọng tài Pháp .12
1.2.2. Sự cần thiết của trọng tài thương mại quốc tế 13
1.2.2.1. Đảm bảo vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam .14
1.2.2.2. Đa dạng hóa các cơ quan giải quyết tranh chấp - Góp phần giải quyết
hiệu quả các tranh chấp trong kinh doanh thương mại .18
1.2.2.3. Cung cấp cho các nhà kinh doanh một mô hình giải quyết tranh chấp
có khả năng đáp ứng những nhu cầu có tính nghề nghiệp của họ .20
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 22
2.1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại quốc tế 22
2.1.1. Thẩm quyền của Trọng tài thương mại quốc tế 22
2.1.2. Vấn đề chọn luật áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
trong thương mại quốc tế 24
2.1.3. Thi hành quyết định trọng tài 31
2.2. Vấn đề công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài thương mại quốc tế .32
2.2.1. Sự cần thiết của việc công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài
thương mại quốc tế .32
2.2.1.1. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài ở các
quốc gia .32
2.2.1.2. Công nhận và thi hành tại Việt Nam các quyết định của trọng tài nước
ngoài: 35
2.2.2. Các điều kiện công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương
mại 37
2.2.2.1. Vấn đề xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài 38
2.2.2.2. Xác định thẩm quyền của trọng tài 38
2.2.2.3. Vấn đề liên quan thành phần trọng tài và tố tụng trọng tài 41
2.2.2.4. Vấn đề liên quan tới trật tự công cộng 43
2.2.2.5. Vấn đề liên quan tới thời hạn 45
2.2.2.6. Vấn đề liên quan tới quyền miễn trừ các quốc gia .46
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VƯỚNG MẮC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN . 49
3.1. Một số vướng mắc theo quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương
mại quốc tế .49
3.1.1. Thỏa thuận trọng tài 50
3.1.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 52
3.1.3. Quy định về chọn trọng tài viên 53
3.1.4. Các quy định về hủy quyết định trọng tài 55
3.1.5. Vấn đề thi hành phán quyết trọng tài .59
3.2. Hướng hoàn thiện 61
3.2.1. Pháp lệnh trọng tài thương mại cần tiếp tục hoàn thiện 62
3.2.2. Một số đề xuất hoàn thiện .64
65 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7398 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết sâu săc các lĩnh vực hoạt
động của Trọng tài. Mỗi nước có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn để trở thành
Trọng tài viên. Pháp lệnh năm 2003 quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn để trở
thành Trọng tài viên. Nhưng vấn đề đáng quan tâm trong các quy định hiên hành là
đã tạo nên sự bất bình đẳng giữa các bên trong vụ tranh chấp của Việt Nam với nhau
35
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 54
và các bên tranh chấp trong vụ việc có yếu tố nước ngoài về cách thức thực hiện
quyền lựa chọn Trọng tài viên. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, khoản 3
Điều 49 quy định: “Trọng tài viên do các bên chọn hoặc do toà án chỉ định có thể là
Trọng tài viên có tên trong danh sách hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các
Trung tâm Trọng tài của Việt Nam hoặc là Trọng tài viên nước ngoài theo quy định
của pháp luật về trọng tài nước đó”. Tuy nhiên, nếu cả hai bên tranh chấp đều là các
bên Việt Nam thì việc lựa chọn Trọng tài viên nước ngoài không được thừa nhận theo
quy định tại khoản 4 Điều 26 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Do vậy, với các bên
tranh chấp đều là Việt Nam mà thoả thuận chọn Trọng tài viên nước ngoài thì thoả
thuận đó không có giá trị thực hiện. Có thể thấy, theo quy định này thì người nước
ngoài không được làm Trọng tài viên của các Trung tâm Trọng tài Việt Nam. Điều
này sẽ hạn chế quyền tự do lựa chọn của các bên tranh chấp, đồng thời hạn chế sự
tiếp cận của Trọng tài Việt Nam đối với kinh nghiêm và thực tiễn giải quyết tranh
chấp của các trọng tài các nước. Việc mời chuyên gia nước ngoài làm Trọng tài viên
không chỉ bảo đảm quyền tự do định đoạt của các bên tranh chấp mà còn tăng tính
cạnh tranh cho hoạt động Trọng tài, giúp các Trọng tài viên Việt Nam nâng cao trình
độ trong quá trình hội nhập và thúc đẩy sự phát triển của Trọng tài Việt Nam. Luật
Trọng tài của nhiều nước quy định cho phép lựa chọn Trọng tài viên ở phạm vi rộng
theo nguyên tắc bất kỳ cá nhân nào cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên. Bởi lẽ
việc trở thành Trọng tài viên là do nhu cầu của thị trường xác định và việc lựa chọn là
do các bên tranh chấp quyêt định vì chính các đương sự trả thù lao cho các Trọng tài
viên. Trong hoạt động của trọng tài, sự vô tư khách quan là tiêu chí hàng đầu của
Trọng tài viên. Điều này được quy định trong rất nhiều các văn bản pháp luật về trọng
tài của quốc tế và các nước. (Quy tắc trọng tài UNCITRAL; Quy tắc trọng tài của Uỷ
ban kinh tế trọng tài Châu Âu; Quy tắc trọng tài của của Phòng Thương mại quốc tế
Luân Đôn; Luật trọng tài Braxin…).
Nhìn chung, các Trung tâm Trọng tài của Việt Nam hiện nay không có Trọng
tài viên nào là người nước ngoài, trong khi thẩm quyền của Trọng tài không những
chỉ giải quyết tranh chấp thương mại trong nước mà còn giải quyết cả những tranh
chấp trong quan hệ thương mại quốc tế. Điều này ít nhiều tạo nên tâm lý e ngại cho
các bên tranh chấp mang quốc tịch nước ngoài khiến cho họ ít lựa chọn các Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam tham gia giải quyết các tranh chấp. Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Việt Nam là nơi giải quyết nhiều vụ việc nhất hiện nay cũng cho thấy thực
trạng này. Theo báo cáo tổng kết năm 2005 có 18 vụ giải quyết tại Trung tâm thì 15
vụ nguyên đơn là doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác các Trọng tài viên của Việt Nam
chủ yếu là các chuyên gia pháp lý mà ít có những nhà kinh tế có trình độ chuyên môn LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 55
cao và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh giỏi. Trong hoạt động kinh doanh
của kinh tế thị trường yếu tố nghiệp vụ chuyên ngành kinh tế là rất quan trọng, nếu
chỉ giỏi về trình độ pháp lý thì chưa chắc đã đủ khả năng xử lý tốt những vấn đề phát
sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự hiện diện của các chuyên gia kinh tế
trong đội ngũ Trọng tài viên sẽ là một trong những nhân tố làm tăng thêm sức hấp
dẫn của Trọng tài Việt Nam…
3.1.4. Các quy định về hủy quyết định trọng tài
Xung quanh các quy định của Tòa án về hủy quyết định của Trọng tài (Điều
56) hiện nay còn một số vướng mắc, có thể khái quát thành các vấn đề lớn như sau:
Trước hết theo Điều 50 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 (Pháp
lệnh) quy định: "Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài,
nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án
cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài, để yêu cầu huỷ quyết định
trọng tài". Với quy định khá đơn giản trong việc yêu cầu Toà án huỷ quyết định trọng
tài chỉ vẻn vẹn với điều kiện: "không đồng ý với quyết định của trọng tài", đã dẫn đến
ngày càng có nhiều yêu cầu huỷ quyết định trọng tài gửi lên TAND tỉnh thành. Như
chúng ta đều biết, trong quá trình giải quyết vụ việc tranh chấp giữa các bên, phải có
người thắng, kẻ bại. Bên thua tất nhiên là không đồng tình với phán quyết của trọng
tài. Và bên không đồng ý với quyết định của trọng tài chỉ cần chi khoản lệ phí
500.000 đồng cho Toà, nếu kháng cáo là 300.000 đồng, là Toà án sẽ vào cuộc. Lẽ ra,
phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm (có hiệu lực pháp luật ngay), phải được
thi hành ngay(36)
. Nhưng vì có một bên nộp đơn yêu cầu Toà huỷ quyết định của trọng
tài, nên trong khi toà đang xem xét, giải quyết yêu cầu này, quyết định của trọng tài
chưa được thực thi.
Thực tế cho thấy, có không ít vụ việc, trong khi toà án đang xem xét vụ việc,
người nộp đơn yêu cầu huỷ quyết định của trọng tài tranh thủ tẩu tán tài sản và làm
nhiều điều không có lợi cho bên được hưởng từ phán quyết của trọng tài. Nếu quy
định huỷ quyết định trọng tài của nước ta "dễ dãi" bao nhiêu, thì theo Luật Mẫu
UNCITRAL về trọng tài thương mại Quốc tế lại chi tiết và chặt chẽ bấy nhiêu. Khoản
2 Điều 34 Luật Mẫu quy định: Một quyết định chỉ có thể bị toà án theo qui định tại
Điều 6 huỷ trong trường hợp: bên làm đơn yêu cầu đưa ra những bằng chứng khẳng
định: "Một trong các bên ký thoả thuận trọng tài theo qui định tại Điều 7 không đủ
năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo
luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của quốc gia nơi quyết định được
36
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 56
tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ; hoặc bên làm đơn yêu cầu không
được thông báo một cách đầy đủ về việc chỉ định trọng tài viên hoặc tố tụng trọng tài
hoặc nói cách khác không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc quyết định của trọng
tài giải quyết một tranh chấp không được qui định hoặc không nằm trong phạm vi các
điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết, hoặc quyết định này bao gồm
những quyết định về các vấn đề vượt quá phạm vi của thoả thuận đưa ra trọng tài giải
quyết với điều kiện là những quyết định về các vấn đề đưa ra trọng tài giải quyết có
thể tách ra khỏi những vấn đề không được đưa ra trọng tài và chỉ có phần của quyết
định chứa đựng các quyết định về vấn đề để không được nêu ra trọng tài giải quyết có
thể bị huỷ; hoặc thành phần của hội đồng trọng tài hoặc tố tụng trọng tài không phù
hợp với thoả thuận giữa các bên trừ trường hợp thoả thuận này trái với điều khoản
trong Luật này mà các bên không thể vi phạm được, hoặc nếu không có thoả thuận
đó, không phù hợp với luật này; hoặc toà án phát hiện rằng theo luật của nước đó, vấn
đề nội dung tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài được; hoặc quyết định
mâu thuẫn với chính sách công của quốc gia đó".
Bên cạnh đó vấn đề không kém phần bức xúc hiện nay là căn cứ hủy quyết
định trọng tài theo pháp luật Việt nam có phạm vi quá rộng so với thông lệ quốc tế.
Đây là nguy cơ tiềm ẩn cho các doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp. Theo quy định của Pháp lệnh trọng tài, nếu bên yêu cầu chứng
minh được Hội đồng trọng tài đã ra quyết định thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Điều 54, Pháp lệnh trọng tài thương mại thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy
quyết định trọng tài. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, trên thực tế các nước đã dần
hạn chế các căn cứ có thể viện dẫn để khước từ phán quyết trọng tài. Nhiều nước đã
chọn cách đưa Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế vào Luật quốc
gia của mình nhằm hạn chế các căn cứ có thể viện dẫn để khước từ phán quyết trọng
tài. Tiêu biểu ở đây về khía cạnh của vấn đề yêu cầu hủy quyết định trọng tài là tại
thời điểm giải quyết tranh chấp, các bên không khiếu nại về vấn đề thẩm quyền của
trọng tài. Tuy nhiên, sau khi trọng tài ra quyết định, một bên lại có đơn yêu cầu hủy
quyết định trọng tài vì vi phạm thẩm quyền. Trong trường hợp này, nhiều Tòa án vẫn
thụ lý giải quyết theo đơn yêu cầu trên. Điều này là không phù hợp với pháp luật
quốc tế, nhất là với Luật Mẫu. Theo Điều 4 Luật Mẫu: "khi một bên biết rằng bất kỳ
quy định nào của luật này có thể gây bất lợi cho các bên, hoặc bất kỳ yêu cầu nào
theo thoả thuận trọng tài chưa được tuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành trọng tài mà
không tuyên bố sự phản đối của mình về những việc vi phạm đó trong thời hạn cho
phép thì được coi là đã từ bỏ quyền phản đối của mình".LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 57
Theo quy định hiện hành về căn cứ hủy quyết định trọng tài, theo người viết,
có thể nêu ra một số điểm còn hạn chế như sau: sự không thống nhất về cơ sở lý luận
về việc xem xét tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài; trường hợp quyết định trọng
tài bị hủy do Thành phần Hội đồng Trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với
thỏa thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại hoặc do
trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của trọng
tài viên thì hệ quả tiếp theo sẽ là gì?; trách nhiệm của Trung tâm cũng như trọng tài
viên vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên;…
Thứ nhất, về việc xem xét tính hợp pháp của quyết định trọng tài. Hiện nay,
trong các quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại có hai quy định, suy cho cùng
đều có liên quan đến việc xem xét tính hợp pháp của quyết định trọng tài đó là quy
định tại Điều 30 về việc xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết của Hội
đồng trọng tài và quy định tại chương VI về hủy quyết định trọng tài. Việc tồn tại
đồng thời hai quy định về một vấn đề cho thấy không có sự thống nhất về cơ sở lý
luận. Trong trường hợp thứ nhất, theo quy định tại Điều 30 thì quyết định của Tòa án
là chung thẩm. Trường hợp thứ hai, quyết định của Tòa án lại bị kháng cáo, kháng
nghị. Cơ sở lý luận nào để giải thích về sự khác biệt trong hai trường hợp trên? Có
thể thấy trong cùng một văn bản nhưng quy định lại có sự mâu thuẫn nhau như hiện
nay đã tạo nên khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời cũng làm giảm
đi tính hiệu quả của các văn bản pháp luật. Quy định này có thể cho phép một khả
năng, nếu cơ quan tiến hành tố tụng cố ý vận dụng chương VI thay cho Điều 30, lúc
đó quá trình giải quyết tranh chấp sẽ kéo dài do phải đối mặt với thủ tục kháng cáo,
kháng nghị kéo dài. Điều này trái với mong muốn giải quyết nhanh chóng tranh chấp
của các doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài. Một vấn đề nữa là Các quy định tại Điều
53 và Điều 56 của PLTTTM sử dụng khái niêm Hội đồng xét xử và khái niệm phiên
toà sơ thẩm, phiên toà phúc thẩm cho thủ tục xét đơn yêu cầu huỷ quyết định Trọng
tài là mâu thuẫn với BLTTDS hiện hành và không thể thực hiện được. Bởi lẽ, theo
quy định tại Điều 30 BLTTDS thì đây gọi là yêu cầu về kinh doanh, thương mại (tức
là một việc dân sự) chứ không phải là một tranh chấp kinh doanh, thương mại theo
quy định ở Điều 29 BLTTDS. Vì vậy, theo các quy định từ Điều 311 đến Điều 318
của BLTTDS việc xem xét yêu cầu huỷ quyết định của Trọng tài không thành lập Hội
đồng xét xử, không mở phiên toà mà chỉ mở phiên họp (kể cả thủ tục sơ thẩm và thủ
tục phúc thẩm). Chính vì vậy, khi xây dựng các quy định này trong Luật Trọng tài, tốt
nhất là nên dẫn chiếu đến BLTTDS để các quy định phù hợp và không trở thành hình
thức gây chồng chéo, mâu thuẫn trong thực tiễn áp dụng của Toà án và Trọng tài.LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 58
Thứ hai, là vấn đề quyết định trọng tài bị hủy do nhiều lý do: loại thứ nhất liên
quan đến thỏa thuận trọng tài. Đó là trường hợp “không có thỏa thuận trọng tài”,
“thỏa thuận trọng tài vô hiệu”, “vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng
Trọng tài”. Ngoài ra chúng ta còn các lý do khác là “Thành phần Hội đồng Trọng tài,
tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên” (Khoản 3 Điều 54 của
Pháp lệnh trọng tài thương mại), “trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên”
(Khoản 5 Điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại), “quyết định trọng tài trái với lợi
ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Khoản 6 Điều 54 Pháp
lệnh trọng tài thương mại). Đối với những lý do không liên quan đến thỏa thuận trọng
tài, việc hủy quyết định trọng tài đã buộc các bên phải giải quyết bằng con đường tòa
án. Kết quả này đi ngược lại với ý chí của các bên, đi ngược lại với quyền tự định
đoạt của họ thông qua thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, trong trường hợp quyết định
trọng tài bị hủy theo Khoản 3 và Khoản 5 Điều 54 của Pháp lệnh trọng tài thương mại
thì hệ quả tiếp theo sẽ là gì? Nếu áp dụng Khoản 6 Điều 53 là các bên có quyền đưa
vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Tòa án, theo người viết là không hợp lý. Bởi vì suy
cho cùng, bản chất của hai căn cứ để hủy quyết định trọng tài tại Khoản 3 và Khoản 5
hoàn toàn không ảnh hưởng đến tính hiệu lực của thỏa thuận trọng tài của các bên. Ta
thấy rằng, nếu một trong các bên không thích giải quyết trước trọng tài mặc dù có
thỏa thuận có thể tìm cách để trọng tài mắc sai lầm, rồi xin hủy quyết định trọng tài
và yêu cầu Tòa án can thiệp. Với hướng giải quyết như hiện nay, chúng ta tăng sự
không lành mạnh trong giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, Hội đồng trọng tài này mắc
sai lầm dẫn đến việc hủy quyết định trọng tài không nhất thiết là Hội đồng khác sẽ
cũng mắc sai lầm để dẫn đến hủy quyết định trọng tài như trước. Chúng ta chỉ có thể
suy diễn là trong trường hợp đó thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực và hoạt động giải
quyết của trọng tài lại được giải quyết lại từ đầu? Nhưng vấn đề đặt ra lúc này là chi
phí trọng tài sẽ giải quyết như thế nào? Thủ tục trọng tài lần thứ hai này có gì khác
biệt hay không? Ví dụ: trọng tài viên đã ra quyết định trọng tài bị hủy bỏ có thể được
chọn hay chỉ định lại để tham gia giải quyết tranh chấp hay không? Tất cả những vấn
đề trên cần được quan tâm giải quyết thỏa đáng trong quá trình xây dựng đạo luật mới
về trọng tài thương mại.
Cuối cùng, trong trường hợp Tòa án hủy quyết định trọng tài do trong quá
trình giải quyết vụ tranh chấp có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên,
thì trách nhiệm của Trung tâm, của trọng tài viên đối với các bên thì sao? Trong
trường hợp này, vấn đề bồi thường có được đặt ra hay không? Nếu có thì sẽ dựa trên
cơ sở pháp lý nào để giải quyết? Hơn nữa, vấn đề đặt ra không chỉ ở việc bồi thường
thiệt hại, mà còn về trách nhiệm cá nhân của trọng tài viên. Theo người viết nên LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 59
chăng có những chế tài cụ thể đối với các trọng tài viên, ví dụ như trong trường hợp
quyết định của trọng tài viên đó bị Tòa án ra quyết định hủy lien tục thì sẽ không
được bổ nhiệm nữa, tương tự như trong Tòa án. Như vậy, một mặt có thể nâng cao
trách nhiệm của các trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp; mặt khác
luôn đòi hỏi các trọng tài viên luôn tích cực, chủ động trong việc nâng cao kiến thức
chuyên môn góp phần ngày càng nâng cao chất lượng xét xử.
Tiếp theo, chúng ta cần làm rõ khái niệm “quyết định của tòa án không hủy
quyết định của trọng tài” (Khoản 2 Điều 57) bao gồm các trường hợp nào? Đối với
quyết định của tòa án sơ thẩm thì câu trả lời có thể là rõ ràng vì gồm có các quyết
định đình chỉ và quyết định không hủy quyết định trọng tài (bác đơn yêu cầu hủy
quyết định trọng tài). Nhưng với quyết định của tòa án cấp phúc thẩm thì vấn đề trở
nên phức tạp hơn. Khoản 2 Điều 56 xác định tòa án cấp phúc thẩm có thể ra các loại
quyết định sau:
· Quyết định giữ nguyên quyết định của tòa án sơ thẩm (bác kháng cáo,
kháng nghị);
· Quyết định sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của tòa án sơ thẩm;
· Quyết định đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị.
Vậy trong các loại quyết định trên thì quyết định nào là “quyết định của tòa án
không hủy quyết định trọng tài”? Đối với trường hợp đầu có thể trả lời “có” hoặc
“không”, nó phụ thuộc vào quyết định của tòa án cấp sơ thẩm là quyết định gì. Nếu
quyết định của tòa án cấp sơ thẩm là quyết định không hủy quyết định trọng tài thì
câu trả lời là “có”. Nếu quyết định của tòa án cấp sơ thẩm là hủy quyết định của trọng
tài thì câu trả lời là “không”. Trường hợp thứ hai, thì trước hết cần xác định khái niệm
“sửa toàn bộ quyết định của tòa án sơ thẩm” có đồng nghĩa với khái niệm “hủy quyết
định của tòa án sơ thẩm” hay không? Nếu cho rằng là đồng nghĩa thì câu trả lời cũng
có thể là “có” hoặc “không” và cũng phụ thuộc vào quyết định của tòa án sơ thẩm là
quyết định gì. Việc phân tích trên cho thấy có nhiều quy định của pháp luật còn chưa
có tính khái quát, cần có sự giải thích chính thức để tránh sự suy diễn tùy tiện trong
quá trình áp dụng.
3.1.5. Vấn đề thi hành phán quyết trọng tài
Trên thực tế việc thi hành phán quyết trọng tài còn nhiều bất cập,thông thường
nó phụ thuộc vào vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong vụ tranh chấp. Tuy nhiên,
vấn đề bức xúc hiện nay vẫn là vướng mắc trong việc thi hành phán quyết trọng tài.
Mặc dù theo Pháp lệnh trọng tài thương mại và Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định
của trọng tài có giá trị thi hành như một bản án tức là trình tự, thủ tục và thời hạn thi
hành theo quy định của pháp luật về thi hành án được quy định trong Pháp lệnh thi LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 60
hành án dân sự. Nhưng việc thực thi nó trên thực tế không mấy khả quan. Và như
vậy, khách hàng lại tin tưởng vào Tòa án nhiều hơn. Điều này hoàn toàn không phù
hợp với thiết chế trọng tài trên thế giới. Chính điều này đã khiến cho các doanh
nghiệp do dự lựa chọn trọng tài giải quyết khi có tranh chấp phát sinh vì e sợ phán
quyết của trọng tài có thể sẽ không được công nhận và thi hành ở nước ngoài hay
không? Còn đối với các doanh nghiệp nước ngoài khi ký kết hợp đồng với đối tác
Việt Nam, nếu có lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp, sẽ rất khó để có thể lựa
chọn tổ chức trọng tài và luật Việt Nam để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Thông
thường, phía đối tác nước ngoài sẽ chọn những tổ chức trọng tài quốc tế và pháp luật
quốc tế, hoặc tập quán thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp, để hạn chế rủi ro
do sự không tương thích giữa các quy định trọng pháp luật Việt Nam mang lại.
Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn cũng
như sự rủi ro do không được bảo hộ trên chính quốc gia của mình, phải tốn kém nhiều
chi phí, thời gian để theo đuổi vụ tranh chấp, và khó khăn lớn nhất là chưa có sự am
hiểu đầy đủ pháp luật quốc tế, yêu cầu của trọng tài trong quá trình xét xử. Chính vì
vậy, trên thực tế nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã phải trả “học phí” không nhỏ khi
xảy ra tranh chấp thương mại với các đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề cần có sự
tham quan thỏa đáng không phải là những thiệt hại về vật chất, mà là những thiệt hại
không thể đo đếm được, đó là làm ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị trường
cũng như thương hiệu, uy tín và khả năng cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp.
Ví dụ: Cách đây không lâu, Công ty Dâu tằm tơ Việt Nam đã bị trọng tài
Geneva (Thụy Sỹ) buộc phải thanh toán gần nửa triệu USD cho Công ty Kyunggi
Silk (Hàn Quốc) trong một vụ tranh chấp kéo dài 3 năm, kèm theo đó, Công ty Dâu
tằm tơ Việt Nam phải thanh toán gần 40.000 USD tiền phí trọng tài. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến con số thiệt hại nói trên là do sơ suất khi lựa chọn trọng tài
nước ngoài giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, do không hiểu biết pháp luật cũng như
những gì mà trọng tài Geneva yêu cầu cung cấp trong quá trình xét xử, Viseri đã
không có cơ hội để trình bày cũng như cung cấp chứng cứ (37)
.
Bên cạnh những bất cập nêu trên, hiện nay theo quy định của pháp luật Việt
Nam, các bên liên quan đến tranh chấp cảm thấy không thỏa đáng thì sẽ được kiện lên
tòa án. Quy định này đã phủ quyết lại quyết định của trọng tài. Trong khi đó, một
trong những đặc trưng của tố tụng trọng tài là phán quyết của trọng tài có giá trị
chung thẩm. Nếu trong thời hạn luật định các bên tranh chấp có kháng cáo, kháng
nghị lên tòa án, thì trong quá trình giải quyết, tòa án không xem xét lại nội dung vụ
37
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 61
tranh chấp mà chỉ xem xét việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục tố tụng để ra quyết
định.
Tóm lại, sự không thống nhất giữa các quy định pháp luật về trọng tài thương
mại đã và đang gây ra khó khăn cho việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Hơn nữa,
nó còn là rào cản đối với sự phát triển của trọng tài thương mại. Các quy định của
pháp luật hiện nay vô hình chung đã khiến cho các doanh nghiệp mất lòng tin vào
phương thức giải quyết tranh chấp này. Điều này hoàn toàn trái với xu hướng của thế
giới. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về trọng tài thương mại
và các văn bản có liên quan là vấn đề vô cùng cấp thiết.
3.2. Hướng hoàn thiện
Để góp phần vào xử lý tranh chấp trong thương mại một cách có hiệu quả thì
chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan về vấn đề áp dụng cơ chế giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài để từ đó có những bước hoàn thiện phù hợp nhằm phát huy
vai trò của trọng tài thương mại trong thời kỳ hội nhập.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài kinh tế ngày càng
thông dụng ở châu Á, bởi nó chứng minh được sự hiệu quả, đồng thời đáp ứng được
nhu cầu của các bên tuân theo những mục tiêu kinh doanh. Các doanh nghiệp Việt
Nam cũng cần theo cách này để tránh các vụ kiện kinh tế không cần thiết trước tòa
mà vẫn bảo toàn mối quan hệ hợp tác với bên tranh chấp(38)
.
Trong xu thế chung của thế giới- giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài
đã được các quốc gia, giới luật gia và thương nhân quan tâm vì lợi ích hợp pháp của
nó. Ở Việt Nam, hoạt động trọng tài còn khá trầm lặng, mặc dù yêu cầu trong hoạt
động đầu tư và ngoại thương thì bức xúc. Hiện nay, cả nước có 6 Trung tâm Trọng tài
với tổng số Trọng tài viên là 165, trong đó riêng Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam có 123 Trọng tài viên. Thực tế các tranh chấp giải quyết bằng Trọng tài chủ yếu
tập trung tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Năm 2004 Trung tâm này thụ lý
26 vụ, trong đó tranh chấp có yếu tố nước ngoài là 18 vụ chiếm 69%, còn lại 08 vụ
tranh chấp trong nước, kể cả tranh chấp công ty liên doanh; Trung tâm Trọng tài
Thương mại Hà Nội giải quyết được 02 vụ, các Trung tâm còn lại chưa giải quyết vụ
nào. Năm 2005 thụ lý 18 vụ, (giảm 25% so với năm 2004) đã giải quyết 05 vụ. Hầu
hết các tranh chấp giá trị không lớn và nguyên đơn phần lớn là doanh nghiệp trong
nước. Nếu so với thực tế giải quyết ở các Trung tâm Trọng tài các nước (Ví dụ: Hiệp
hội Trọng tài Mỹ năm 1981 đã giải quyết 38.421 vụ, năm 1999 giải quyết tới 140.000
vụ; Toà án Trọng tài Quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Quốc tế năm 2000 giải
38
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 62
quyết xét xử 540 vụ; Hội đồng Trọng tài Thương mại và Kinh tế Trung Quốc năm
1999 xử trên 700 vụ…) thực tế trên đây cho thấy hoạt động giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại các Trung tâm Trọng tài Thương mại Việt Nam là bức
tranh ảm đạm, không mấy lạc quan(39)
. Ở đây chúng ta cần nhìn nhận vấn đề một cách
trực tiếp cần phải thấy được việc phát triển tổ chức trọng tài ở nước ta chưa được nhất
quán. Có cần thiết phải thành lập nhiều tổ chức trọng tài không? Theo người viết nên
tăng cường chất lượng trọng tài viên là chính, không hạn chế số lượng trọng tài viên
kể cả người nước ngoài đang kinh doanh tại Việt Nam cũng như ở nước họ là phù
hợp với xu thế chung… Để góp phần vào việc hạn chế và hoàn thiện hệ thống pháp lý
ở Việt Nam, với phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết xin có một vài đề xuất sau:
3.2.1. Pháp lệnh trọng tài thương mại cần tiếp tục hoàn thiện
Sự kiện Pháp lệnh trọng tài được ban hành năm 2003 đã đánh dấu cho sự hoàn
thiện về khung pháp lý của trọng tài thương mại Việt Nam. Tuy nhiên qua nhiều năm
triển khai thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập. Hoạt động trọng tài gặp nhiều khó khăn
khi thực hiện pháp lệnh này, do có nhiều quy định quan trọng còn thiếu cụ thể, chi
tiết, đòi hỏi phải có sự hướng dẫn bổ sung, sửa đổi, hoặc có nhiều quy định còn quá
chi tiết khiến các trung tâm trọng tài không có cơ hội được xây dựng các quy tắc tố
tụng mang tính hấp dẫn, cạnh tranh, bởi vì trên thực tế trọng tài vốn là phương thức
giải quyết tranh chấp linh hoạt do chính các bên thỏa thuận thiết lập nên. Vì thế nó
phải là một cơ chế hoàn hảo để hoạt động trọng tài ngày càng phát huy hiệu quả cũng
như phải thống nhất được một số các quy định trong Pháp lệnh như việc xác định một
số điều khoản không rõ ràng, cơ chế phối hợp giữa tòa án và trọng tài chưa đồng
bộ…đó là vấn đề mà các nhà làm luật của chúng ta cần phải quan tâm thực hiện.
Theo người viết Pháp lệnh Trọng tài thương mại có những điểm cần sửa đổi như sau:
Thứ nhất, đối với các quy định về thỏa thuận trọng tài. Như đã phân tích ở trên
những quy định về hình thức và nội dung của thỏa thuận trọng tài của pháp luật nước
ta không rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, để phù hợp với các quy định của trọng tài thế giới thì
nên xây dựng theo hướng tiếp nhận quy định trong Luật Mẫu UNCITRAL. Mặt khác,
việc xác định phạm vi thẩm quyền của trọng tài theo khoản 3 Điều 1 của Pháp lệnh
trọng tài thương mại là cách liệt kê. Nó không bao quát, dự liệu được các tranh chấp
có thể giải quyết bằng trọng tài nên sẽ hạn chế quyền lựa chọn của các bên và cả hiệu
quả hoạt động của trọng tài nên theo người viết nên sửa đổi thành cách liệt kê các loại
việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài như một số nước đã quy định.
39
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 63
Thứ hai, đối với thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do quy
định của pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận cho Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng
tài đã thụ lý vụ tranh chấp có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nên trong
quá trình áp dụng đã gặp phải nhiều khó khăn. Vì vậy, theo người viết các trung tâm
trọng tài nên đặt thêm văn phòng đại diện tại một số tỉnh, thành phố khác đề tạo điều
kiện cho các đương sự dễ dàng khởi kiện và đưa đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương
mại nên chăng có thêm các quy định về tăng thẩm quyền cho trọng tài viên trong vấn
đề này. Có thể thấy, những quy định đó sẽ hữu ích trong một số tranh chấp nhất định,
khi cần có những biện pháp cần lưu giữ đối tượng của vụ tranh chấp, ví dụ như trong
các hợp đồng bán hàng, hợp đồng xây dựng. Để đảm bảo các quy định này phát huy
tác dụng, trong trường hợp trọng tài viên ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, nhưng bên buộc phải thi hành không tự nguyện chấp hành, thì bên kia có
quyền nhờ Tòa án quốc gia có thẩm quyền để ra lệnh thi hành những biện pháp này.
Thứ ba, mở rộng danh sách trọng tài viên, nâng cao trình độ trọng tài viên.
Để tăng thêm sự hấp dẫn và đáp ứng tốt hơn sự lựa chọn của các bên tranh chấp, cần
phải tạo một đội ngũ trọng tài viên phong phú và đa dạng hơn. Để làm được điều đó
thì trung tâm trọng tài (VIAC) cần mời thêm các chuyên gia có uy tín trong nước và
cả một số chuyên gia nước ngoài vào danh sách trọng tài viên để từ đó có thể tiếp thu
những kinh nghiệm và nâng cao trình độ cho trọng tài viên.
Theo khoản 3 Điều 49 Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định: Trọng tài viên
do các bên chọn hoặc do tòa án chỉ định có thể là trọng tài viên có tên trong danh
sách hoặc ngoài danh sách của các trung tâm trọng tài của Việt Nam hoặc là trọng tài
viên của nước ngoài theo quy định của pháp luật trọng tài nước đó”. Vấn đề chọn
trọng tài viên nước ngoài là một vướng mắc rất lớn của Pháp lệnh, mặc dù quy định
tại Điều 49, Điều 25 Pháp lệnh trọng tài lại quy định rằng: “Trọng tài viên sẽ được
lựa chọn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài”. Một thực tế xảy ra là
phần lớn các trung tâm trọng tài ở Việt Nam chỉ có người Việt Nam là thành viên trừ
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam mới kết nạp 6 thành viên là người nước ngoài,
đây là điều sẽ làm cho bên nước ngoài e ngại. Họ không thể chọn người nước ngoài
làm trọng tài viên vì không có tên trong danh sách, nên họ phải chọn trọng tài là
người Việt Nam thì họ chắc chắn sẽ tự hỏi rằng: “Tôi có thể tin trọng tài viên đó
không?, trọng tài viên đó có vô tư không?”. Nếu họ không chắc chắn những vấn đề
đó sẽ rất khó thuyết phục các bên chọn một trung tâm trọng tài Việt Nam để giải
quyết tranh chấp. Việc không cho phép chọn trọng tài viên ngoài danh sách trọng tài
của trung tâm điều đó cũng có lý do vì họ cho rằng nếu cho phép chọn trọng tài viên LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 64
ngoài danh sách thì trung tâm không thể nào chịu trách nhiệm về chất lượng cũng như
tư cách đạo đức của trọng tài viên. Các lo ngại này không phải là không có cơ sở. Tuy
nhiên, họ có thể tránh chịu trách nhiệm bằng quy định “Trung tâm sẽ không chịu
trách nhiệm về hành vi của trọng tài viên trong trường hợp trọng tài viên đó do một
bên chọn ngoài danh sách trọng tài viên của trung tâm”
(40)
. Đây cũng là cách mà quy
tắc trọng tài ICC đã chọn (Điều 34). Thiết nghĩ, để cho nhất quán với Điều 49, Điều
25 của Pháp lệnh trọng tài nên quy định rằng các bên có quyền chọn trọng tài viên
ngoài danh sách. Đi xa hơn nữa các trung tâm trọng tài trong nước có thể mời các
chuyên gia nước ngoài vào danh sách các trọng tài viên của mình. Bên cạnh đó trong
điều kiện kinh tế thị trường thì tranh chap kinh tế là một thuộc tính mang tính quy
luật, ngày một gia tăng và phức tạp, vì thế trọng tài phải tăng năng lực chuyên môn,
nhất là thông lệ thương mại quốc tế và giỏi ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp
liên quan đến yếu tố nước ngoài. Việc hiệu quả hoạt động trọng tài sẽ giúp giảm việc
đối mặt với các vụ kiện tụng ở Tòa án các nước.
Thứ tư, đối với vấn đề hủy phán quyết trọng tài và thi hành phán quyết trọng
tài. Có thể nói các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề hủy quyết định trọng
tài và các căn cứ hủy quyết định trọng tài có phạm vi quá rộng so với thong lệ quốc
tế. Đây là nguy cơ tiềm ẩn cho các doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp. Vì vậy, theo người viết nên đưa Luật Mẫu UNCITRAL về
trọng tài thương mại quốc tế vào Luật quốc gia của mình nhằm hạn chế các căn cứ có
thể viện dẫn để khước từ phán quyết trọng tài. Đối với vấn đề thi hành phán quyết
trọng tài thì thiết nghĩ pháp luật Việt Nam nên có sự quy định thống nhất giữa các
luật có liên quan nhằm đảm bảo cho việc thực thi các phán quyết của trọng tài trên
thực tế được khả thi hơn. Bên cạnh đó cần có quy định mang tính chất chế tài chặt
chẽ đối với các hành vi cố ý không thực hiện các phán quyết mà trọng tài đã đưa ra.
Có như vậy thì cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mới thực sự đáp ứng được
nhu cầu của nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh, điều đó đồng nghĩa với việc
nguy cơ phát sinh các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại cũng ngày càng gia tăng
về số lượng cũng như tính chất phức tạp.
3.2.2. Một số đề xuất hoàn thiện
Ngoài việc hoàn thiện Pháp lệnh trọng tài thương mại để phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng có hiệu quả hơn thì phải tuyên truyền cho
các doanh nghiệp Việt Nam tránh khỏi các vụ tranh chấp đang có xu hướng ngày
càng nhiều do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi thực hiện các hợp đồng thương
40
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 65
mại doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến tính kỹ thuật để giảm thiểu tối đa những rủi
ro. Thực tế là số vụ tranh chấp mà “nguyên đơn” là doanh nghiệp Việt Nam chiếm
đến 80% các vụ tranh chấp thương mại liên quan tới đối tác nước ngoài những năm
qua. Vì thế, trong những năm tới, việc các doanh nghiệp sử dụng hình thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài là tất yếu. Đây là hình thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp
mà doanh nghiệp các nước đang sử dụng hiện nay. “Cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam cần thay đổi tư duy, bởi không chỉ tòa án mà các trung tâm trọng tài cũng là cơ
quan tài phán giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả. Các trung tâm trọng tài luôn
có các chuyên gia giỏi, am hiểu sâu những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang vướng
mắc nên họ sẽ giúp đỡ doanh nghiệp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhưng vẫn
giữ được bí mật kinh doanh”
(41)
. Bên cạnh đó, theo người viết cần có thêm một số
biện pháp hỗ trợ như sau:
Thứ nhất, cần có sự hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà Nước đối với các tổ chức phi
Chính phủ, trong đó có trọng tài. Đây là một giải pháp quan trọng. Nếu có sự hỗ trợ
thích đáng thì trọng tài thương mại có thể phát huy mạnh được chức năng và vai trò
của mình. Ở các nước trên thế giới người ta chỉ giải quyết các tranh chấp thương mại
bằng trọng tài là chủ yếu, giải quyết qua tòa án chiếm tỉ lệ không lớn. Có một thực
trạng là các tổ chức phi Chính phủ không được tiếp cận nhiều chính sách của Đảng và
Nhà nước. Thiết nghĩ, cần có cơ chế hỗ trợ đúng mức thì trọng tài mới phát huy hết
vai trò của mình trong việc thực hiện chức năng quản lý xã hội dân sự. Bên cạnh đó
cần có. sự trợ giúp ban đầu về mặt vật chất. Chỉ cần có sự hỗ trợ một phần nhỏ nguồn
kinh phí Nhà nước đang cấp cho các cơ quan quản lý hiện nay thì các tổ chức phi
Chính phủ thuộc ngành luật pháp, cũng như các ngành nghề khác sẽ làm “nên
chuyện”, sẽ gánh vác một phần lớn chức năng quản lý của Nhà nước, tiết kiệm trong
chi phí quốc dân. Nguồn này có thể khai thác từ việc giảm bớt biên chế tại các tổ
chức Nhà nước. Có thể ban hành cơ chế cho thuê trụ sở đối với các tổ chức phi Chính
phủ được khai thác và tự quản lý nguồn tài chính viện trợ của các tổ chức Chính phủ
và phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế.
Thứ hai, chúng ta nên tiếp tục tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao kiến thức
trọng tài cho các doanh nghiệp dưới nhiều hình thức như: đào tạo, hội nghị, hội thảo,
phát hành ấn phẩm, bản tin…Bên cạnh đó cần phối hợp cơ quan chức năng mà chủ
yếu là các doanh nghiệp để triển khái các hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, nâng
cao kiến thức trọng tài; cụ thể:
41
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 66
+ Tổ chức khảo sát, tìm hiểu thực trạng nhu cầu và việc sử dụng trọng tài
trong khối doanh nghiệp.
+ Tổ chức các khóa học tuyên truyền về trọng tài tại một số tỉnh thành
trên toàn quốc nói chung cũng như các doanh nghiệp nói riêng.
+ Tái bản sách: “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc” và “trọng tài
và phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn”
+ Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ rơi,
thong qua hoạt động của đoàn luật gia, hội luật sư, đưa môn học trọng tài vào trường
để đào tạo các luật gia, luật sư.
Thứ ba, tăng cường quảng bá phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài:
Mỗi năm trọng tài thương mại nước ta chỉ giải quyết được mấy chục vụ tranh
chấp thương mại (con số này ở Mỹ là gấp 5.000 lần). Và có không ít cảnh “dở khóc,
dở cười” vì chuyện một số doanh nghiệp Việt Nam do không chọn trước trọng tài
(hay tòa án), khi có phát sinh tranh chấp trong vụ kiện có yếu tố nước ngoài, họ
không biết quyết định như thế nào. Chọn trọng tài thì đã quá muộn, vì đối tác không
hợp tác, chọn tòa án nước ngoài của đối tác thì không biết thủ tục pháp luật, chi phí,
quy trình tố tụng. Chọn tòa án trong nước thì không biết bản án có được chấp nhận…
Đây là điều mà các doanh nghiệp khi giao kết hợp đồng cần quan tâm(42)
.
Để phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài càng trở nên phổ biến
hơn đòi hỏi trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cần phải cung cấp một cách
phổ biến, rộng rãi về quy tắc tố tụng trọng tài và điều khoản trọng tài mẫu cho các
doanh nghiệp. Bên cạnh đó tiếp tục đầu tư, nâng cấp trang web nhằm cung cấp thông
tin, văn bản pháp luật liên quan đến trọng tài cho doanh nghiệp và các đối tượng có
liên quan. Song song đó cũng cần có các biện pháp giáo dục, tuyên truyền cho nhân
dân hiểu biết vai trò và ý thức của tổ chức xã hội dân sự đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đã hội nhập.
Thứ tư, Xây dựng cơ chế phối hợp với Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi
hành án, Bộ tư pháp, Hội luật gia…Chọn trọng tài cũng gần như loại trừ thẩm quyền
xét xử của tòa án (mặc dù sẽ cần sự hỗ trợ của Tòa án khi có khiếu nại về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chỉ định trọng tài
viên và khi có căn cứ pháp luật để đề nghị Tòa án tuyên bố hủy quyết định trọng tài.
Nếu các thẩm phán áp dụng Pháp lệnh một cách nghiêm túc, khách quan thì
Tòa án sẽ là một trụ cột để trọng tài phát triển, ngược lại sẽ làm cho trọng tài “suy
42
Nguồn: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 67
tàn”. Do đó Tòa án không được coi trọng tài là “đối thủ cạnh tranh” với chính mình.
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho thấy trọng tài sẽ không phát
triển nếu không có sự hỗ trợ của Tòa án, nhưng để trọng tài nước ta phát triển thì
không những cần xây dựng cơ chế phối hợp với Tòa án mà còn cần phải phối hợp với
Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, Bộ tư pháp, Hội luật gia…Để xây dựng cơ chế
phối hợp hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho các trung tâm trọng tài trong mối quan hệ
với Tòa án và trọng tài. Qua đó cập nhật những thông tin mới nhất cũng như tìm hiểu,
nghiên cứu những thay đổi hoặc xu hướng phát triển trọng tài thương mại để trọng tài
nước ta ngày càng hoàn thiện hơn.
Bên cạnh đó, cùng với việc kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao ban hành
nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều khoản trong Pháp lệnh trọng tài thương mại
cho phù hợp với tình hình mới. Đồng thời kiến nghị xây dựng luật trọng tài thương
mại, nhằm bảo đảm có một văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực trọng tài thương
mại hoàn thiện, đồng bộ, phù hợp với pháp luật quốc gia và thông lệ trọng tài quốc tế.
Chính sự nhìn nhận thực tế về tầm quan trọng của vấn đề nêu trên mà ngày
nay trọng tài thương mại Việt Nam VIAC đã trở thành “điểm tựa” của các doanh
nghiệp. Hoạt động của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng
thương mại và công nghiệp Việt Nam trong năm 2005 đã để lại nhiều dấu ấn đáng ghi
nhận. VIAC đã giải quyết 26 vụ tranh chấp (so với 32 vụ của năm 2004), trong số đó,
số vụ tranh chấp mà bên bị đơn là các doanh nghiệp Việt Nam giảm đáng kể, chỉ còn
7 vụ (so với 13 vụ của năm 2004).
Đối với các lĩnh vực khác, con số hoặc các chỉ số tăng trưởng giảm thường là
điều đáng lo. Còn đối với VIAC, con số giảm lại là điều đáng mừng. Mừng vì số
lượng các vụ tranh chấp giảm cũng có nghĩa là các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp Việt Nam đã thực sự khởi sắc. Các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện các
giao dịch thương mại, tiến hành ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh doanh quốc tế
ngày càng bày bản hơn, có tầm chiến lược hơn, có kinh nghiệm hơn và cũng am hiểu
và tuân thủ pháp luật tốt hơn.
Nhưng nhìn chung, trong bối cảnh toàn cầu hóa đang là xu thế, là dòng chảy
của thời đại, đồng thời công nghệ thông tin đang ngày càng làm thay đổi cuộc sống
của chúng ta, trong đó có hoạt động thương mại quốc tế thì vấn đề xây dựng một cơ
chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của thế giới là điều hết
sức cần thiết. Để hội nhập ngày càng sâu rộng trong hoạt động thương mại quốc tế,
Việt Nam cần mở rộng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng cơ
chế giải quyết tranh chấp thương mại ngày một tốt hơn, phù hợp với thông lệ chung
của thế giới. LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 68
KẾT LUẬN
Trên thế giới hiện nay, trọng tài không còn là cơ chế giải quyết tranh chấp xa
lạ đối với các nhà kinh doanh, bởi vì hiệu quả mà nó mang lại đã ngày càng khẳng
định được rằng đây là một cơ chế giải quyết tranh chấp thích hợp nhất trong nền kinh
tế thị trường, khi nhu cầu giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế phát triển, giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh cũng cần được thực hiện một cách kịp thời, nhanh chóng, đảm
bảo bí mật kinh doanh cũng là vấn đề được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. Giải
quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
môi trường thương mại quốc tế. Vì đây là một lĩnh vực khá rộng và phức tạp, cần các
chuyên gia giàu kinh nghiệm, có kiến thức về các lĩnh vực chuyên ngành. Nắm bắt
được những mong muốn đó của các doanh nghiệp nên trọng tài đã từng bước nâng
cao chất lượng trọng tài viên, đạo đức nghề nghiệp để giúp các nhà kinh doanh lựa
chọn đúng đắn, giúp cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng phát
triển, giúp cho giới kinh doanh an tâm thúc đẩy giao lưu, mua bán hàng hóa quốc tế.
Từ đó làm cho môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng sôi động, trong đó Việt
Nam là một minh chứng điển hình cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong
điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế của
mình trên thương trường quốc tế; thể hiện nhất quán quan điểm: “Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở hợp tác, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
cùng nhau phát triển”. Điều này đã được chứng minh rõ nét trên con đường hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết hiệp
định song phương Việt-Mỹ, hiện nay là thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại thế giới WTO, trên con đường hợp tác kinh tế sẽ không tránh khỏi phát sinh tranh
chấp. Điều quan trọng phải thể hiện được trong quá trình giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh đó là sự công bằng, tính khách quan và văn hóa trong kinh doanh của các
doanh nghiệp, của các quốc gia thông qua hệ thống pháp luật rõ ràng, cụ thể, thống
nhất và tiến bộ.
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong thương mại quốc tế cũng gặp
phải những khó khăn nhất định, xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan, khách
quan, có thể do sự khác nhau về nhiều lĩnh vực như quốc tịch, luật pháp của nước sở
tại…Bên cạnh đó cũng xuất phát một phần từ sự hạn chế về mức độ am hiểu luật
pháp của các đối tác với nhau. Yêu cầu đòi hỏi là tự mỗi quốc gia phải thống nhất
trong cách nhìn nhận, đánh giá tầm quan trọng của cơ chế “trọng tài” phù hợp với xu
thế thời đại để từ đó có thể từng bước hoàn thiện hơn nữa các quy định về trọng tài LVTN: Pháp luật về Trọng tài thương mại quốc tế GVHD:Ths. Bùi Thị Mỹ Hương
SVTH: Nguyễn Thúy Vi Trang 69
thương mại.Từ đó sẽ tìm được sự thống nhất trong cơ chế giải quyết chung trong điều
kiện hội nhập nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian qua với những nổ lực không ngừng, Việt Nam đã có những
bước phát triển đáng kể trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là kinh doanh quốc tế. Hoàn
thiện pháp luật thương mại là một yêu cầu, một đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Đây
cũng là một trong những yếu tố quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh
tế, góp phần quan trọng giúp Việt Nam tự tin bước vào con đường hội nhập, phát
triển đất nước trong giai đoạn mới. Giai đoạn phát triển đất nước, làm bạn với các
nước với tinh thần hợp tác, hữu nghị, phát huy các bản sắc văn hóa dân tộc, với
những bước đi thật vững vàng, nhanh chóng nắm bắt những thời cơ, những vận hội
mới thúc đẩy kinh tế ngày càng phát triển và phồn vinh.
Dựa trên phần trình bày các vấn đề đặt ra của đề tài: “ Pháp luật về trọng tài
thương mại quốc tế” hy vọng rằng ở mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam ta nói riêng
sẽ tự xây dựng, hoàn thiện cho mình một hệ thống pháp luật về trọng tài không chỉ
phù hợp với pháp luật quốc gia mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế. Có như vậy thì
cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mới thật sự mang lại hiệu quả cho các
doanh nghiệp bởi các doanh nghiệp sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn, đúng đắn hơn để trọng
tài hoạt động tốt hơn. Đây cũng là điều kiện để giúp các nhà kinh doanh ở các quốc
gia khác nhau tham gia vào mối quan hệ quốc tế tránh những “thiệt thòi” mà trước
đây do sự thiếu hiểu biết về đối tác kinh doanh, cũng như còn xa lạ với cơ chế giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài khi mở rộng giao thương với đối tác nước ngoài.
Khắc phục được những nhược điểm trên, tin chắc rằng trong tương lai thì cơ chế giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài không những phát triển rộng rãi ở nhiều quốc gia mà
còn được hoàn thiện một cách tốt nhất, giúp cho doanh nghiệp ngày càng tin tưởng
lựa chọn trọng tài giải quyết ngày một nhiều hơn, thúc đẩy quá trình hợp tác, phát
triển kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Do hạn chế về thời gian, kiến thức pháp luật và nhiều yếu tố khách quan nên
đề tài chỉ tập trung vào vấn đề: “Pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế”. Đồng
thời chỉ đưa ra một số hạn chế khiến tính khả thi của những quy định Pháp luật chưa
cao khi áp dụng vào thực tế và những ý kiến có tính chất tham khảo và gợi mở mà
theo quan điểm cá nhân cho là phù hợp, có thể khắc phục được những hạn chế đó. Vì
vậy, người viết rất mong được sự đóng góp ý kiến quý thầy cô và các bạn có quan
tâm để giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
«
* VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2001)
2. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 (phần có yếu tố nước ngoài)
3. Luật thương mại 2005
4. Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước
ngoài được Ủy ban thường vụ Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 14 tháng 09 năm 1995
5. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày
25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại
6. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 13/2004 PL-UBTVQH11 ngày
14 tháng 01 năm 2004 về thi hành án dân sự
7. Quyết định số 204/TTg (ngày 28 tháng 04 năm 1993) của Thủ tướng Chính
phủ về tổ chức Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
8. Công ước New York về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài
nước ngoài 1958
9. Các Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tương trợ tư pháp
về công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài thương mại.
10.Luật mẫu của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL) về trọng tài thương mại quốc tế
năm 1976.
* SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ:
1. Dương Nguyệt Nga – Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo pháp luật Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế -
Tạp chí Tòa án nhân dân - Số 16 (08/2007)
2. Dương Thanh Mai, Việc tiếp nhận Luật Mẫu của UNCITRAL về trọng tài
thương mại quốc tế ở một số nước và việc xây dựng dự thảo pháp lệnh trọng
tài thương mại ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/1998
3. Đặng Hoàng Oanh – Một số điểm bất câp của pháp lệnh trọng tài thương mại
Việt Nam về tuyên quyết định trọng tài theo nguyên tắc đa số - Tạp chí luật
học – Số 5/2006 (trang 47)
4. Giáo trình Luật Thương Mại – Trường Đại học luật Hà Nội – Nhà xuất bản
An ninh Nhân dân Hà Nội 2006 5. Giáo trình tư pháp quốc tế, Đại học Huế, NXB Giáo dục 1999
6. Nguyễn Chúng – Kinh nghiệm thực tế giải quyết tranh chấp hợp đồng thương
mại, hàng hải – NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2005
7. Nguyễn Đình Thơ – Những điểm khác biệt của pháp luật về trọng tài thương
mại của Việt Nam so với một số nước trên thế giới – Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật – Số 9/2006 (trang 56)
8. Nguyễn Hồng Tuyến – Về những điểm mới của pháp lệnh trọng tài thương
mại – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật – NXB Lao động và xã hội – số 4/2003
9. Nguyễn Thị Hằng Nga – Thẩm quyền của trọng tài thương mại và những lưu ý
trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thỏa thuận trọng tài – Tạp chí Luật
học – Số 7/2006 (trang 32).
10.Nguyễn Thị Hoài Phương – Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ tố tụng trọng tài thương mại – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật – Số
03/2006
11.Nguyễn Trung Tín – Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài
thương mại tại Việt Nam – NXB Tư pháp Hà Nội 2005
12.Nguyễn Trung Tín – Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tòa án Việt Nam, phán quyết của trọng tài nước ngoài – Tạp chí
Luật học – Số 12/2006 (trang 50)
13.Tập bài giảng thương mại quốc tế - Trường Đại học Cần thơ, khoa luật 2002
14.Trần Hữu Huỳnh, Một số vấn đề cơ bản về thỏa thuận trọng tài thương mại
quốc tế, Tạp chí Luật học số 1/2000
15.Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) – 50 phán quyết trọng tài quốc
tế chọn lọc – Nhà xuất bản Hà Nội 2002
* WEBSITE:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63646 kilobooks.com.doc
- 63646 kilobooks.com.pdf