Đề cương chi tiết:
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nội dung nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH), là trụ cột cơ bản của ASXH. BHXH được hình thành từ hàng trăm năm trước đây, khi kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển. BHXH đã trải qua một quá trình phát triển và thay đổi cả về mô hình nội dung và hình thức thực hiện, từ chế độ BHXH đầu tiên được thực hiện là chế độ bảo hiểm khi ốm đau đến nay đã có 9 chế độ BHXH được thực hiện trên thế giới, đồng thời đối tượng tham gia BHXH cũng được mở rộng theo. Một trong những mục tiêu và triết lý của BHXH là ổn định và phát triển xã hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản, thiết yếu của đời sống con người.
Trong xó hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phỏt huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống ASXH, trước hết là BHXH để giúp cho con người, người lao động có khả năng chống đỡ với các rủi ro xó hội, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xó hội khỏc. Kinh tế ngày càng phỏt triển theo hướng thị trường, thỡ ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn.
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. Chính sách BHXH trong từng thời kỳ đã đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho đất nước.
Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài chính sách BHXH cũng chỉ phục vụ đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đến năm 1995, khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, tại Điều 140 đó quy định các loại hỡnh bảo hiểm xó hội bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp.
Thi hành quy định này, ngày 26/01/2005 Chính phủ đó ban hành Nghị định số 12/CP quy định Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng. Đến nay, dân số cả nước có khoảng 85,2 triệu người, lực lương lao động có khoảng 46,6 triệu người. Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 45,6 triệu người, trong đó đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (lao động làm công ăn lương hay còn gọi là lao động khu vực chính thức) cú khoảng 12,3 triệu người (27% lực lượng lao động). Cũn lại 33,3 triệu lao động (73%) làm việc trong nông nghiệp (nông dân), khu vực phi nông nghiệp trong nông thôn, lao động tự do hành nghề (kể cả lao động nhập cư), lao động trong hộ gia đỡnh sản xuất kinh doanh cỏ thể ở thành thị (lao động khu vực phi chính thức) trong lực lượng lao động chưa tham gia bảo hiểm xó hội. Như vậy, chính sách BHXH mới chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực chính thức còn lại khu vực phi chính thức chưa được tham gia và hưởng các quyền lợi về BHXH.
Trong tiến trỡnh cụng nghiệp húa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thỡ hệ thống an sinh xó hội, nhất là BHXH phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân, là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm nhu cầu về an sinh xó hội, trước hết là nhu cầu về BHXH, là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xó hội phồn vinh, cụng bằng và an toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân". Vì vậy, việc thực hiện chính sách BHXH tự nguyện đối với người lao động khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết.
Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam đó thể chế húa ở mức cao một nhu cầu rất cơ bản về an sinh xó hội của con người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi chính thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia BHXH bắt buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có quyền lợi trong tham gia BHXH và thụ hưởng chính sách BHXH. Việc triển khai BHXH tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng do hệ thống BHXH đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hai năm triển khai thực hiện số lượng người lao động tham gia BHXH ở khu vực phi chính thức còn rất hạn chế (khoảng 65.000 người) chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động khu vực phi chính thức, cũng như định hướng của Đảng, Nhà nước.
Nguyên nhân số lượng người tham gia còn ít do đặc điểm lao động của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta là: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp là những vấn đề ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cho người lao động thuộc khu vực này. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh; Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý, thực hiện. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài"Các giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam" làm nội dung nghiên cứu.
Luận văn sẽ hệ thống hoá và bổ sung những vấn đề lý luận về BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức, làm rừ thực trạng tỡnh hỡnh BHXH tự nguyện thời gian qua, phân tích những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết và khuyến nghị định hướng phát triển, cũng như giải pháp phát triển đối tượng BHXH tự nguyện thời kỳ từ 2010 đến năm 2015.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của luận văn
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu chủ yếu sau đây:
- Đánh giá thực trạng việc tham gia BHXH và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức.
- Đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Chính sách BHXH tự nguyện;
- Hiện trạng BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
BHXH tự nguyện áp dụng đối với khu vực phi chính thức ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến 2015.
6. Đóng góp của luận văn
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC
1.1. Sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam
1.1.1. Khu vực phi chính thức và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm khu vực phi chính thức
1.1.1.2. Vị trí, vai trò khu vực phi chính thức ở Việt Nam
- Về kinh tế
- Về xã hội
1.1.2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức
1.1.2.1. Khái niệm
1.1.2.2. Bản chất
- Bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện
- Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện
1.1.2.3. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội khu vực phi chính thức
1.1.2.4. Vị trí và tầm quan trọng của chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức
1.1.2.5. Mối quan hệ lợi ích giữa người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức với tổ chức bảo hiểm xã hội.
1.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức
1.2.1. Nội dung của chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.1.1. Đối tượng áp dụng
1.2.1.2. Mức đóng góp
1.2.1.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
1.2.1.4. Cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.1.5. Tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động khu vực phi chính thức
1.2.2.1. Nhận thức của người dân
1.2.2.2. Hệ thống luật pháp và chính sách về bảo hiểm xã hội
1.2.2.3. Thu nhập của người lao động
1.2.2.4. Thể chế tài chính
1.2.2.5. Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ
1.3. Kinh nghiệm xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và tổ chức thực hiện của một số nước trên thế giới
1.3.1. Giới thiệu bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước phát triển và đang phát triển
1.3.1.1. Mô hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Cộng hòa Liên bang Đức
1.3.1.2. Mô hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Philippine
1.3.1.3. Mô hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Trung Quốc
1.3.2. Những bài học rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm các nước có khả năng vận dụng cho Việt Nam
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về khu vực phi chính thức ở Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm khu vực phi chính thức
2.1.1.1. Dân số và lao động
2.1.1.2. Môi trường lao động
2.1.2. Tác động đối với sự phát triển kinh tế xã hội
2.2. Thực trạng bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam trước khi có Luật bảo hiểm xã hội
2.2.1. Khả năng và nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động khu vực phi chính thức
2.2.1.1. Khả năng
2.2.1.2. Nhu cầu
2.2.2. Khái quát các hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện đã thực hiện đối với khu vực phi chính thức
2.3. Thực trạng bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam từ khi có Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện
2.3.1. Thực trạng về chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức
2.3.2. Thực trạng về tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức theo Luật bảo hiểm xã hội
2.4. Đánh giá chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức từ khi có Luật bảo hiểm xã hội đến nay
2.4.1. Thành tựu và hạn chế
2.4.1.1. Mức độ bao phủ
- Về không gian
- Tỷ lệ, số lượng
- Chất lượng
2.4.1.2. Tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội
2.4.1.3. Tính bền vững
2.4.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
2.4.2.1. Nguyên nhân của thành tựu
- Hệ thống luật pháp
- Về tài chính
- Về cơ cấu lao động
- Về năng lực thể chế (về tổ chức bộ máy, công tác quản lý; Cơ chế giám sát, đánh giá; Cơ chế hình thành nguồn lực và quản lý sử dụng, .)
- Năng lực đội ngũ cán bộ
2.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
- Hệ thống luật pháp
- Về tài chính
- Về cơ cấu lao động
- Về năng lực thể chế (về tổ chức bộ máy, công tác quản lý; cơ chế giám sát, đánh giá; cơ chế hình thành nguồn lực và quản lý sử dụng, .)
- Năng lực đội ngũ cán bộ
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN KHU VỰC
PHI CHÍNH THỨC Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015
3.1. Quan điểm phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện giai đoạn 2010-2015
3.1.1. Những quan điểm chung
3.1.2. Những quan điểm cụ thể
3.2. Định hướng phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức giai đoạn 2010-2015
3.2.1 Dự báo nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
3.2.2 Định hướng phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức đến 2015
3.3. Một số giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức giai đoạn 2010-2015
3.3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế
- Tạo việc làm, ổn định thu nhập cho người lao động
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho người lao động
- Nhà nước hỗ trợ cho vay để người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
3.3.2. Nhóm giải pháp về luật pháp, thể chế và tổ chức
- Giải pháp về mặt luật pháp
- Giải pháp về quản lý, tổ chức thực hiện và đội ngũ
- Giải pháp về cơ chế giám sát, đánh giá
- Giải pháp về phối hợp đồng bộ chương trình BHXH tự nguyện với các chương trình mục tiêu khác.
3.3.3. Nhóm giải pháp thông tin tuyên truyền, vận động làm cho người lao động thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm xã hội
3.4. Một số kiến nghị với Đảng và Nhà nước trong việc phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức
92 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4833 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đang phát triển tốt mặc dù chịu không ít biến động của nền kinh tế thế giới. Năm 2010 dự kiến mức thu nhập bình quân đầu người đạt 1.200 USD/người và sẽ còn tăng nhanh trong thời gian tới. Mức thu nhập tăng lên đồng nghĩa với việc người lao động có nhiều lựa chọn đầu tư cho tương lai, trong đó có việc tham gia nhiều hơn các loại hình bảo hiểm.
Năm 2008, theo số liệu điều tra của Viện khoa học BHXH thuộc BHXH Việt Nam về nhu cầu, khả năng của đối tượng tham gia BHXH, BHYT tự nguyện khu vực phi chính thức và việc tổ chức triển khai trong hệ thống BHXH Việt Nam tại 9 tỉnh, thành phố. Kết quả cuộc điều tra này đã đưa ra được các số liệu cơ bản về thu nhập, nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức như sau:
Bảng 3.2: Nhu cầu tham gia BHXH của lao động khu vực phi chính thức
Đơn vị: %
Các hình thức BHXH
BHXH bắt buộc
BHXH tự nguyện
Không trả lời
Tổng số
1, BHYT
37,38
44,86
17,76
100,0
2, Bảo hiểm hưu trí
23,36
42,06
34,58
100,0
3, Ốm đau
21,50
22,43
56,07
100,0
4, Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
16,82
23,36
59,81
100,0
5, Thai sản
11,21
16,82
71,96
100,0
6, Bảo hiểm thất nghiệp
14,95
24,30
60,75
100,0
7, Chế độ nghỉ dưỡng sức
14,02
23,36
62,62
100,0
8, Chế độ tử tuất
21,50
24,30
54,21
100,0
Chung
20,01
27,70
52,20
100,0
Nguồn: [31, tr.49].
Kết quả trên phản ánh nhu cầu tham gia BHXH, BHYT tự nguyện của người lao động là rất lớn, đối với bảo hiểm hưu trí, 65,42% số người có nhu cầu (42,06% muốn tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện và 23,36% muốn tham gia bảo hiểm hưu trí bắt buộc). Có tới 45,79% số đối tượng khảo sát sẵn sàng tham gia chế độ tử tuất (24,30% muốn tham gia chế độ tử tuất tự nguyện và 21,5% bắt buộc).., tính chung lại, nhu cầu sẵn sàng tham gia các loại hình BHXH là 47,8% là tỷ lệ khá cao, nếu dùng tỷ lệ này suy rộng ra toàn khu vực phi chính thức thì nhu cầu tham gia BHXH tối đa lên tới gần 16 triệu người. Nhu cầu này là rất rõ ràng, song khả năng thực tế là không thể, vì yếu tố quyết định để người lao động có thể tham gia BHXH là khả năng đóng BHXH dựa trên thu nhập của chính người lao động (ngoại trừ yếu tố có sự trợ giúp của bên ngoài như chống, con có việc làm thu nhập cao ở khu vực khác hỗ trợ hoặc được nhà nước hỗ trợ).
3.3.2. Những điều kiện và khả năng tham gia
Theo quy định hiện hành về BHXH tự nguyện tại Thông tư số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện thì mức đóng BHXH tự nguyện tối thiểu là 16% mức lương tối thiểu (bằng 116.800đ/tháng), đây là một số tiền không nhỏ đối với người lao động khu vực phi chính thức. Để làm rõ khả năng thực tế của lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH cần nghiên cứu phân tích kỹ những điều kiện, khả năng tham gia và mong muốn thụ hưởng các chế độ của người lao động khu vực này theo các tiêu chí như sau:
- Về thu nhập:
Bảng 3.3 : Thu nhập hàng tháng của người lao động được điều tra đang làm việc trong khu vực phi chính thức (mẫu 3.305 người)
Thu nhập hàng tháng
Số phiếu điều tra
Số người lao động
Tỷ lệ %
Tổng số
3.305
100,00
Dưới 540.000 đồng
416
12,59
Từ 540.000 đồng đến dưới 1.080.000 đồng
1.107
33,49
Từ 1.080.000 đồng đến dưới 1.620.000 đồng
887
26,84
Từ 1.620.000 đồng đến dưới 2.160.000 đồng
501
15,16
Từ 2.160.000 đồng trở lên
394
11,92
Nguồn: [31, tr. 42].
Qua số liệu trên, chúng ta thấy mức thu nhập/tháng của đại bộ phận người lao động thuộc khu vực phi chính thức nằm trong khoảng từ 540.000 đồng đến 1.620.000 đồng (60,36%), trong đó 33,51% người lao động có thu nhập từ 540.000 đồng đến 1.080.000 đồng và 26,85% có thu nhập từ 1.080.000 đến 1.620.000 đồng, có đến 12,59% người lao động có thu nhập dưới 540.000 đồng/tháng. Trong thời buổi lạm phát tăng cao như hiện nay, với một mức thu nhập thấp như vậy đồng nghĩa với việc đời sống của họ gặp rất nhiều khó khăn, thiệt thòi. Người lao động phải chật vật xoay xở với mưu sinh hàng ngày, chứ chưa nói gì đến việc làm thế nào để có tiền đóng BHXH, BHYT. Nhưng nếu nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, vững chắc, đời sống nâng lên, chắc chắn số người tham gia BHXH sẽ tăng theo.
- Khả năng đóng góp BHXH tự nguyện của người lao động
Bảng 3.4: Khả năng đóng góp BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức
Mức đóng góp mỗi tháng
Lựa chọn
% so với số người mong muốn tham gia
Tổng số
2.793
100,00
1. 90.000 đồng/ tháng
1.685
60,33
2. Từ 90.000 đồng đến dưới 135.000 đồng/ tháng
683
24,45
3. Từ 135.000 đồng đến dưới 180.000 đồng/ tháng
269
9,63
4. T ừ 180.000 đồng/ tháng trở lên
155
5,55
Nguồn: [31, tr. 58].
Bảng số liệu trên cho thấy trong tổng số 3.305 người thì có đến 2.793 người (chiếm 84,5% số người) mong muốn được tham gia chế độ BHXH tự nguyện. Trong đó có đến 60,33% số người mong muốn tham gia lựa chọn mức đóng 90.000 đồng/tháng, 24,45% lựa chọn mức đóng từ 90.000 đồng đến dưới 135.000 đồng/ tháng, chỉ có 5,55% lựa chọn mức đóng trên 180.000 đồng/tháng.
- Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân tháng và khả năng đóng góp:
Giữa thu nhập bình quân/ tháng và khả năng đóng góp BHXH tự nguyện của lao động khu vực phi chính thức có quan hệ tỷ lệ thuận, nghĩa là người lao động có thu nhập càng cao thì khả năng đóng góp của họ càng tăng.
Bảng 3.5: Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân/ tháng và khả năng đóng góp của lao động khu vực phi chính thức có mong muốn tham gia BHXH tự nguyện
Mức thu nhập
Mức đóng/tháng
Tổng số
90.000 đ/ tháng
90.000 - 135.000 đ/ tháng
135.000- 180.000 đ/tháng
>180.000 đ/tháng
Tổng số
2.793
1.685
683
269
155
Dưới 540.000 đồng
357
304
44
5
4
Từ 540.000 đồng đến dưới 1.080.000 đồng
933
645
213
58
17
Từ 1.080.000 đồng đến dưới 1.620.000 đồng
756
423
189
79
65
Từ 1.620.000 đồng đến dưới 2.160.000 đồng
409
192
122
71
24
Từ 2.160.000 đồng trở lên
337
121
115
56
45
Cơ cấu câu trả lời (%)
Tổng số
100.00
60.35
24.46
9.63
5.55
Dưới 540.000 đồng
100.00
85.15
12.32
1.40
1.12
Từ 540.000 đồng đến dưới 1.080.000 đồng
100.00
69.13
22.83
6.22
1.82
Từ 1.080.000 đồng đến dưới 1.620.000 đồng
100.00
55.95
25.00
10.45
8.60
Từ 1.620.000 đồng đến dưới 2.160.000 đồng
100.00
46.94
29.83
17.36
5.87
Từ 2.160.000 đồng trở lên
100.00
35.91
34.12
16.62
13.35
Nguồn: [31, tr. 56].
Có đến 85,15% người lao động có mức thu nhập dưới 540.000 đồng có khả năng đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện là 90.000 đồng/ tháng, 12,32% có khả năng đóng 90.000 đồng đến 135.000 đồng/tháng và chỉ có 1,12% có khả năng đóng 180.000 đồng/ tháng. Đối với người lao động có mức thu nhập từ 540.000 đồng đến dưới 1.080.000 đồng thì tỷ lệ % số người có khả năng đóng ở mức thấp 90.000 đồng/ tháng giảm dần (chỉ còn 69,13%), trong khi đó khả năng đóng góp ở các mức cao hơn lại tăng lên tương ứng, cụ thể 22,83% có khả năng đóng góp 90.000 đồng - 135.000 đồng/ tháng, 1,82% có khả năng đóng trên 180.000 đồng/tháng. Còn đối với người lao động có mức thu nhập trên 2.160.000 đồng/ tháng trở lên thì có đến 13,35% số người có khả năng đóng trên 180.000 đồng/tháng.
- Về mức tiết kiệm và mức phí sẵn sàng đóng góp của người lao động
Năm 2008 theo kết quả điều tra của BHXH Việt Nam, so sánh giữa mức tiết kiệm theo tháng (từ 100.000đ đến trên 150.000đ) và mức đóng BHXH có thể có của hộ gia đình khu vực phi chính thức (từ 100.000đ đến trên 150.000đ), cho thấy tỷ lệ rất thấp ở mức tiết kiệm và khả năng đóng ở mức cao (trên 150.000đ/tháng).
Bảng 3.6: So sánh mức phí sẵn sàng đóng góp và mức tiết kiệm có thể của người lao động
Mức tiết kiệm có thể theo tháng
Mức đóng
< 100,000đ
100,000đ đến 150,000đ
150,000đ đến dưới 200,000đ
200,000đ trở lên
Tổng
< 100,000đ
82,9
9,7
3,4
4,1
100,0
100,000đ đến 150,000đ
69,2
17,1
6,4
7,4
100,0
150,000đ đến dưới 200,000đ
61,7
20,0
10,2
8,1
100,0
200,000đ trở lên
57,6
17,0
12,1
13,3
100,0
Chung
65,0
16,3
9,1
9,6
100,0
Nguồn: [31, tr. 59].
Với mức tiết kiệm dưới 100.000đ/tháng và mức đóng BHXH dưới 100.000đ/tháng có tỷ lệ khá cao (82,9%). Tuy nhiên ở mức tiết kiệm trên 200.000đ/tháng và mức đóng trên 200.000đ/tháng, tỷ lệ này giảm đi rất nhanh, chỉ còn 13,3% (giảm khoảng 6,4 lần). Tính chung chỉ có 9,6% có khả năng tham gia BHXH so với mức đóng từ 200.000đ/tháng trở lên. Nếu so sánh với mức đóng theo Luật BHXH hiện nay, thấp nhất là 16% mức lương tối thiểu hiện hành hiện nay là 116.800đ/tháng (730.000 x 16%), thì chỉ có 16,3% lao động khu vực phi chính thức có khả năng tham gia [31]. Với tỷ lệ này, nếu dùng nó để suy rộng ra cho lao động khu vực phi chính thức có khả năng tối đa tham gia BHXH tự nguyện là khoảng 5,1 triệu người. Đây cũng là số khá lớn khi áp dụng chính sách BHXH tự nguyện cho khu vực phi chính thức. Tuy nhiên, trên thực tế 2 năm đầu thực hiện chính sách BHXH tự nguyện, số người tham gia tối đa từ 0,1% đến 0,2%/năm (khoảng 41 nghìn người/năm).
- Sự ổn định của thu nhập và khả năng tham gia BHXH, BHYT tự nguyện
Bảng 3.7: Mức ổn định thu nhập và số tiền tham gia BHXH tự nguyện
của người lao động
Mức độ ổn định
Tổng số
90.000 đ/ tháng
90.000 - 135.000 đ/ tháng
135.000 - 180.000 đ/tháng
≥180.000 đ/tháng
Tổng số
2793
1685
683
269
155
Tăng hàng tháng
55
37
10
5
3
ổn định
1374
765
365
145
99
Lúc tăng, lúc giảm
1350
876
305
119
50
Giảm hàng tháng
13
7
3
0
3
Cơ cấu câu trả lời (%)
Tổng số
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Tăng hàng tháng
1.97
2.19
1.46
1.86
1.94
Ổn định
49.23
45.37
53.44
53.90
63.87
Lúc tăng, lúc giảm
48.34
51.96
44.66
44.24
32.26
Giảm hàng tháng
0.47
0.42
0.44
0.00
1.94
Cơ cấu câu trả lời (%)
Tổng số
100.00
60.35
24.46
9.63
5.55
Tăng hàng tháng
100.00
67.27
18.18
9.09
5.45
Ổn định
100.00
55.68
26.56
10.55
7.21
Lúc tăng, lúc giảm
100.00
64.89
22.59
8.81
3.70
Giảm hàng tháng
100.00
53.85
23.08
0.00
23.08
Nguồn: [31, tr. 60].
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy số tiền tham gia BHXH, BHYT tự nguyện không phụ thuộc nhiều vào mức độ ổn định của thu nhập. Trong tổng số 2.793 người mong muốn tham gia chế độ BHXH tự nguyện, thì phần đông là những người có thu nhập ổn định và thu nhập lúc tăng, lúc giảm, chiếm tỷ lệ tương ứng là 49,23% và 48,34%. Hầu hết người lao động khu vực phi chính thức đều mong muốn tham gia đóng góp ở mức 90.000 đồng/ tháng, chiếm đến 60,35%, và tiếp đến là 24,46% có khả năng đóng góp ở mức 90.000 đồng/tháng - 135.000 đồng/ tháng. Chỉ có một số rất ít người lao động có khả năng đóng góp trên 135.000 đồng/ tháng, 9,63% có khả năng đóng từ 135.000 - 180.000 đ/tháng, 5,55% có khả năng đóng trên 180.000 đồng/ tháng.
- Hình thức làm việc và khả năng tham gia BHXH
Hình thức làm việc cũng có ảnh hưởng nhất định đến khả năng đóng BHXH tự nguyện của người lao động.
Bảng 3.8: Khả năng đóng BHXH tự nguyện của người lao động theo hình thức làm việc
Hình thức làm việc
Tổng số
90.000đ/ tháng
90.000 - 135.000 đ/ tháng
135.000- 180.000 đ/tháng
≥180.000 đồng/tháng
Tổng số
2792
1685
683
269
155
Tự tạo việc làm
1464
905
368
148
43
Làm việc trong hộ gia đình không hưởng lương
190
126
38
17
9
Kinh doanh có thuê lao động
82
26
32
14
10
Thành viên hợp tác xã
132
113
13
3
3
Làm thuê
782
432
202
74
74
Khác
142
83
30
13
16
Cơ cấu câu trả lời (%)
Tổng số
100.00
60.35
24.46
9.63
5.55
Tự tạo việc làm
100.00
61.82
25.14
10.11
2.94
Làm việc trong hộ gia đình không hưởng lương
100.00
66.32
20.00
8.95
4.74
Kinh doanh có thuê lao động
100.00
31.71
39.02
17.07
12.20
Thành viên hợp tác xã
100.00
85.61
9.85
2.27
2.27
Làm thuê
100.00
55.24
25.83
9.46
9.46
Khác
100.00
58.45
21.13
9.15
11.27
Nguồn: [31, tr. 64].
Nhóm có khả năng đóng góp cao nhất là nhóm kinh doanh có thuê lao động ngoài với tỷ lệ tương ứng là: trên 180.000 đồng/ tháng là 12,20%, nhóm lao động làm thuê 9,46%, tiếp đến là nhóm làm việc trong hộ gia đình không hưởng lương là 4,74%, tự tạo việc làm 2,94%, thành viên hợp tác xã 2,27%. Nhóm có khả năng đóng góp thấp nhất là nhóm thành viên hợp tác xã, 85,61% thành viên hợp tác xã lựa chọn mức đóng góp 90.000 đồng/tháng, chỉ 2,27% thành viên nhóm này lựa chọn mức đóng trên 180.000 đồng/ tháng.
- Căn cứ đóng và mức đóng BHXH tự nguyện
Bảng 3.9: Căn cứ để tính mức đóng bảo hiểm xã hội
Căn cứ đóng
Số người
Cơ cấu trả lời (%)
Tổng số
1097
100
1. Tiền lương tối thiểu
375
34,18
2. Tiền lương, tiền công của người lao động
435
39,65
3. Tổng thu nhập của người lao động
287
26,16
Nguồn: [11].
Về cơ bản mức tiền lương, thu nhập của người lao động làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện không có sự chênh lệch nhiều, bảng trên cho thấy có 39,65% cho rằng mức đóng BHXH nên được căn cứ trên tiền lương, tiền công của người lao động và 34,18% ý kiến cho rằng nên căn cứ trên tiền lương tối thiểu và 26,16% ý kiến còn lại là nên căn cứ trên tổng thu nhập của người lao động.
- Quyền lợi mong muốn được hưởng:
+ Mức trợ cấp được hưởng: Khi thiết kế một chế độ BHXH bao giờ chúng ta cũng phải tính đến sự tương quan giữa mức đóng và mức hưởng. Với một mức đóng như vậy thì có đến 42,74% người lao động mong muốn được hưởng mức trợ cấp có thể bảo đảm được mức sống trung bình của xã hội tại thời điểm về hưu, 41,87% người lao động mong muốn được hưởng mức trợ cấp tương đương với mức đóng góp của họ, 15,01% thì mong muốn mức trợ cấp được hưởng có thể đảm bảo được mức sống tối thiểu tại thời điểm về hưu.
Bảng 3.10: Mức trợ cấp mong muốn được hưởng hưởng khi về hưu
Các lựa chọn
Số người
Tỷ lệ so với số người mong muốn tham gia
Tổng số
3.105
100,00
1. Bảo đảm mức sống trung bình xã hội tại thời điểm về hưu.
1.327
42,74
2. Mức sống tối thiểu tại thời điểm về hưu
466
15,01
3. Tương đương với mức đóng góp
1.300
41,87
4. Khác
12
0,39
Nguồn: [11].
Để có cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách trong việc thiết kế mức hưởng thì cần phải nghiên cứu, xem xét mức hưởng trợ cấp của người lao động khu vực phi chính thức trên nhiều góc độ như: hình thức làm việc, theo ngành kinh tế, theo mức thu nhập và mức độ ổn định của thu nhập. Và qua tổng hợp và phân tích số liệu ở bảng trên, chúng ta thấy đại bộ phận người lao động đều lựa chọn mức hưởng có thể bảo đảm mức sống trung bình của xã hội tại thời điểm về hưu hay là có mức hưởng tương đương với mức đóng góp mà không phụ thuộc nhiều vào hình thức làm việc, ngành kinh tế, mức thu nhập hay mức độ ổn định của thu nhập.
+ Tuổi nghỉ hưu: Theo quy định của Luật BHXH hiện hành thì người lao động sẽ được hưởng lương hưu khi có có đủ hai điều kiện: nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi và có đủ hai mươi năm đóng BHXH trở lên. Kết quả điều tra về tuổi nghỉ hưu mong muốn của khu vực phi chính thức năm 2008 của Viện Khoa học BHXH như sau:
Bảng 3.11: Tuổi nghỉ hưu mong muốn của lao động khu vực phi chính thức
Độ tuổi
Nam
Nữ
Số người
Tỷ lệ %
Số người
Tỷ lệ %
Tổng số
3.305
100.00
3.305
100.00
Tròn 50 tuổi
129
3.90
1.175
35.54
Tròn 55 tuổi
1.084
32.81
1.414
42.79
Tròn 60 tuổi
1.646
49.81
281
8.50
Phụ thuộc vào sức khỏe và thu nhập
446
13.48
435
13.17
Nguồn: [31, tr. tr. 68].
Bảng trên cho chúng ta thấy nam giới mong muốn nghỉ hưu ở tuổi 60 là: 49,81%, 32,81% mong muốn được nghỉ hưu ở tuổi 55, 13,48% mong muốn tuổi nghỉ hưu của người lao động được xây dựng trên cơ sở phụ thuộc vào sức khỏe và thu nhập, chỉ có 3,9% là mong muốn được nghỉ hưu ở tuổi 50. Cũng tương tự như vậy, đối với tuổi nghỉ hưu của nữ: 42,79% mong muốn được nghỉ hưu ở tuổi 55; 35,54% mong muốn được nghỉ hưu ở tuổi 50; 13,17% mong muốn được nghỉ hưu phụ thuộc vào sức khỏe và thu nhập, và chỉ có 8,5% là mong muốn được nghỉ hưu ở tuổi 60. Như vậy, tuổi về hưu của nam ở tuổi 60 và nữ ở tuổi 55 như quy định hiện nay vẫn được số đông lao động đồng tình.
- Sự hỗ trợ của Nhà nước:
Như chúng ta đã biết lao động khu vực phi chính thường là những người có thu nhập thấp, công việc không ổn định, bấp bênh nên chi tiêu trong cuộc sống thường ngày đã chiếm gần hết thu nhập của họ. Vì vậy để có thể thực hiện được chính sách BHXH cho mọi người lao động, BHYT toàn dân thì không thể thiếu được sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học BHXH Việt Nam với mẫu 3.305 người thì có 35% mong muốn có sự hỗ trợ của nhà nước ở mức từ 20% đến 40% mức đóng.
Như vậy, qua phân tích các tiêu chí cơ bản đối với nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức, cho thấy một số vấn đề sau:
Khả năng tham gia BHXH của người lao động nói chung, khu vực phi chính thức nói riêng phụ thuộc vào mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với chính sách BHXH ở tầm vĩ mô; mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển chính sách BHXH trong nội dung kinh tế của BHXH (tức là vấn đề kinh tế BH) và khả năng đóng vào quỹ BHXH của người lao động.
Ở cấp độ vĩ mô, chung nhất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và chính sách BHXH được phản ánh trong mối quan hệ cơ bản nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội mà Đảng ta đã xác định. Đó là: Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội; Ngược lại, phát triển xã hội là động lực, là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế, Mỗi chính sách kinh tế đều phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội; Mỗi chính sách xã hội đều bao chứa nội dung và ý nghĩa kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài.
Trong mối quan hệ vĩ mô này giữa phát triển kinh tế với chính sách BHXH, như là chính sách cơ bản của hệ thống chính sách xã hội, cần phải rất coi trọng nguyên tắc công bằng trong hoạch định chính sách BHXH để mọi người trong các khu vực, các thành phần kinh tế, kể cả khu vực phi chính thức đều được có cơ hội tham gia BHXH, mặt khác chính sách đó lại phải phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ phát triển. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì chính sách BHXH đó sẽ khó khả thi, vì mới chú ý đến điều kiện cần, mà chưa tính đến điều kiện đủ của nó (về kinh tế, trình độ quản lý, tổ chức, năng lực cán bộ...).
Ở cấp độ của kinh tế bảo hiểm, thì vấn đề cốt lõi nhất của mối quan hệ này là ở hình thành nguồn đóng BHXH. Nguồn này được hình thành trong sản xuất kinh doanh (nếu là khu vực sản xuất kinh doanh), từ thu nhập của người lao động (nếu là khu vực phi chính thức) và từ ngân sách Nhà nước, mà chủ yếu là thu từ thuế (nếu là khu vực hành chính sự nghiệp). Các nguồn này về thực chất đều liên quan đến bài toán về tài chính và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp (khái niệm Doanh nghiệp ở đây theo nghĩa rộng, hợp tác xã phi nông nghiệp cũng được hiểu như là một chủ thể sản xuất kinh doanh), của người sản xuất cá thể, kinh tế hộ gia đình.
Vấn đề cơ bản nhất trong bài toán này là doanh nghiệp, hộ gia đình… phải hoạt động có hiệu quả, phải có lãi và tích lũy để tái sản xuất (giản đơn và mở rộng), thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước và đóng đủ BHXH theo quy định. Nhưng cái chốt, chìa khóa ở đây là khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, của hộ gia đình, trong cơ chế thị trường. Muốn cạnh tranh doanh nghiệp, hộ gia đình, phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ chi phí sản xuất. Bởi vậy, chi phí BHXH trong cơ cấu giá trị sản phẩm và dịch vụ không thể tách rời với các yếu tố chi phí khác của sản xuất và càng không thể quy định tùy tiện, mà phải được tính toán, cân đối chặt chẽ. Nếu không sẽ trở thành gánh nặng không chịu nổi cho doanh nghiệp, cho hộ gia đình.
3.4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT
Bảo hiểm xã hội tự nguyện tuy đó được thể chế hóa trong luật BHXH, nhưng việc triển khai thực hiện là một quá trình và phải đối mặt với những khó khăn thách thức rất lớn, có thể khái quát như sau:
- BHXH tự nguyện có đối tượng điều chỉnh rất lớn, bao gồm người lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, trước hết là lao động tự làm trong kinh tế hộ gia đình khu vực nông nghiệp (nông dân), lao động tự do (kể cả lao động nhập cư), lao động làm việc trong kinh tế hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp ở nông thôn và thành thị (bao gồm cả lao động trong gia đình và lao động làm thuê), trong các làng nghề… Để mở rộng độ bao phủ cho đối tượng này (giả sử họ có nhu cầu và có khả năng tham gia) cũng phải có một lộ trình và thời gian rất dài. Từ nay đến năm 2015, nếu tổ chức triển khai tốt cũng chỉ có khả năng thực hiện cho từ 5%-8% đối tượng (khoảng gần 3 triệu người) và như vậy, số chưa được tham gia BHXH tự nguyện trong một thời gian dài là rất lớn (trên 90%). Vấn đề đặt ra ở đây là phải có chiến lược từng bước mở rộng độ bao phủ với lộ trình, bước đi thích hợp và các giải pháp tổ chức mạnh, hiệu quả.
- Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện khá cao nhưng khả năng tham gia hạn chế do phần lớn lao động khu vực này có thu nhập thấp, khả năng tiết kiệm không cao là một thách thức rất lớn. Trong khi mức đóng khá cao (thấp nhất là 16% mức lương tối thiểu), lại có xu hướng tăng lên (do mức lương tối thiểu sẽ tăng theo lộ trình cải cách tiền lương và tăng tỷ lệ đóng theo luật định để đạt 22%) thì có thể số người có khả năng tham gia sẽ giảm đi.
- BHXH tự nguyện là lưới an toàn xã hội quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội theo nguyên tắc đóng hưởng. Tuy nhiên, người nghèo, nhóm xã hội yếu thế, người dân tộc miền núi khó khăn… là những đối tượng sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi này trước tiên. Muốn mở rộng độ bao phủ cho nhóm đối tượng này phải có chính sách hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Đây là một thách thức rất lớn đối với nước ta khi mà ngân sách nhà nước còn eo hẹp, khả năng xã hội hóa còn khó khăn.
- BHXH tự nguyện cho khu vực phi chính thức có đối tượng trải rộng trên địa bàn cả nước, chủ yếu là ở nông thôn, do đó việc thuyết phục, vận động và thu tiền đóng BHXH phải tiếp cận đến tận hộ gia đình, là một khó khăn rất lớn đối với cơ quan BHXH, nhất là biên chế cán bộ, mạng lưới cộng tác viên và chi phí hành chính sẽ rất cao.
Tuy nhiên, khả năng tham gia BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức cũng gặp phải những khó khăn rất lớn, cụ thể là:
- Khu vực phi chính thức là khu vực kinh tế - xã hội phát triển chậm so với khu vực chính thức, trình độ xã hội hóa của sản xuất rất thấp, lao động thủ công là chính, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh cũn lạc hậu, năng suất lao động xã hội chưa cao và thu nhập cũng còn thấp. Bởi vậy, điều kiện để họ tham gia BHXH tự nguyện là rất hạn chế, khả năng rủi ro của chính sách BHXH sẽ cao và do đó tính hiệu quả cũng sẽ hạn chế.
- Chủ thể tham gia BHXH xét về mặt quan hệ sản xuất và quan hệ lao động là Hộ gia đình. Họ vừa là chủ tư liệu sản xuất, vừa là chủ sức lao động. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu là quy mô Hộ gia đình (kinh tế hộ gia đình), hoặc làm nghề tự do, hoặc làm thuê ở khu vực phi chính thức. Họ tự hạch toán kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tự quyết định phân phối, quyết định đầu tư và chi tiêu trong ngân sách thu- chi gia đình hoặc nhận tiền công, tiền lương ở mức thấp. Tóm lại, họ là chủ thể của một thực thể kinh tế - "kinh tế Hộ gia đình" hoặc tự làm và làm thuê không có hợp đồng lao động. Từ đó, việc tham gia BHXH là hoàn toàn mang tính cá nhân, tự nguyện. Về cơ bản, họ chưa có dịp tiếp cận và sống quen với đời sống, môi trường BHXH. Bởi vậy, chính sách BHXH đối với họ phải gắn liền với cuộc vận động trong nhân dân, trên cơ sở họ suy nghĩ về " tính lợi ích" của mình khi tham gia BHXH. Đây là vấn đề rất mới và phức tạp. Mọi chính sách BHXH có tính áp đặt, cưỡng chế và bất lợi (cả trước mắt và lâu dài) cho họ đều không khả thi hoặc thất bại. Điều này đòi hỏi phải kiên trì tuyên truyền, thuyết phục, làm từng bước, tạo cho họ quen dần với môi trường BHXH.
- Vấn đề lớn nhất hiện nay là đối tượng cần BHXH trong khu vực phi chính thức rất đông, song khả năng mở rộng đối tượng có thể rất hạn chế. Hiện nay trong xã hội đang diễn ra quá trình phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội rất nhanh chóng. Xét về lý thuyết kinh tế BHXH, để tham gia BHXH theo nguyên tắc đóng BHXH tự nguyện thì chỉ có nhóm hộ khá giả trở lên mới có khả năng này. Phần lớn số còn lại sẽ khó khăn trong việc đóng BHXH. Ở đây rõ ràng, việc thực hiện chính sách BHXH trên nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội, đặc biệt cho nhóm người nghèo và yếu thế là vấn đề rất nan giải, nếu không có chính sách hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng xã hội.
- Điều kiện kinh tế thường là điều kiện tiên quyết và trực tiếp để người lao động ở khu vực này tham gia BHXH. Vấn đề quan trọng nhất để người lao động trong khu vực phi chính thức tham gia BHXH là hoạt động sản xuất kinh doanh (chủ yếu là kinh tế Hộ gia đình) phải có lãi và tích lũy để tái sản xuất mở rộng; Cân đối thu - chi ngân sách gia đình phải dương. Khả năng này cũng chỉ rơi vào số hộ làm ăn giỏi và giàu có. Thực tế cho thấy, số người khá giả ở nông thôn về thực chất cũng mới chỉ cân bằng thu - chi trong ngân sách gia đình. Tỷ lệ tích lũy (tiết kiệm) không đáng kể, nếu có dư dật chút ít thì chủ yếu là dành dụm để xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng sinh hoạt đắt tiền hơn (Tivi, xe máy, bàn, tủ...) hoặc mua vàng để cất trữ làm của để dành phòng khi lúc tuổi già. Trong trường hợp bị thiên tai, mất mùa thì cân đối thu- chi ngân sách bị thâm hụt ngay. Có nghĩa là tính ổn định về kinh tế rất bấp bênh. Trong khi đó, phát sinh nhiều nhu cầu chi tiêu mới rất lớn như: ma chay, cưới xin, thăm hỏi, giỗ tết và các khoản đóng góp xã hội khác (riêng các khoản đóng góp và chi phí xã hội lên tới 35% tổng nguồn thu chưa trừ chi phí sản xuất). Đây là vấn đề cốt lõi nhất mà đến nay vẫn chưa có câu trả lời xác đáng làm cơ sở cho chính sách BHXH đối với lao động khu vực này.
- Những năm vừa qua ở một số địa phương như Hà Tây, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh... đã tiến hành việc tổ chức BHXH cho một bộ phận lao động nông thôn. Song qua nghiên cứu cho thấy các mô hình đó vẫn chưa thấy rõ tính xã hội, tính hiệu quả và bền vững, về cơ bản các thí điểm này là thất bại, trừ BHXH nông dân Nghệ An tồn tại đến ngày nay, song nguy cơ vỡ quỹ trong dài hạn rất cao và Chính phủ cũng đã có quyết định nhập vào hệ thống BHXH tự nguyện chung.
- Người hưởng BHXH với mức rất thấp, không đủ sống khi về hưu.
- Doanh nghiệp, hộ gia đình, làm ăn thua lỗ nhiều, đặc biệt tỷ lệ hộ gia đình khu vực phi chính thức làm ăn khá giả, giàu có còn ít, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, khả năng tham gia BHXH còn hạn chế.
- Ngân sách Nhà nước còn khó khăn trong việc hỗ trợ Quỹ BHXH tự nguyện khi cần thiết.
3.5. CÁC GIẢI PHÁP
BHXH tự nguyện theo luật định hiện nay gồm hai chế độ là hưu trí và tử tuất. Theo thời gian mức đóng sẽ tăng lên đến 22% và căn cứ thu nhập để đóng BHXH tự nguyện cũng tăng (do mức lương tối thiểu tăng và tăng trưởng kinh tế). Đồng thời cũng mở rộng dần các chế độ BHXH tự nguyện (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp,…). Do đối tượng thực hiện BHXH tự nguyện đa dạng và chủ yếu ở khu vực nông nghiệp, làm việc không có quan hệ lao động, nên để triển khai có hiệu quả BHXH tự nguyện, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp có tính chiến lược để đưa BHXH tự nguyện vào cuộc sống và tăng độ bao phủ đối với lao động khu vực phi chính thức.
3.5.1. Nâng cao nhận thức xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Một trong những nguyên nhân quan trọng của việc nhiều người lao động chưa quan tâm hoặc không muốn tham gia BHXH tự nguyện là họ chưa có hiểu biết, chưa thấy lợi ích của việc tham gia BHXH tự nguyện và chưa tin tưởng vào hệ thống BHXH hiện nay. Qua phân tích thực trạng tham gia BHXH tự nguyện tại Chương 2 cho thấy, bên cạnh những nguyên nhân do việc làm, thu nhập thấp ảnh hưởng đến việc tham gia BHXH tự nguyện ít còn có nguyên nhân lớn là do nhận thức của người dân đối với BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng còn rất hạn chế. Không kể thời gian trước năm 2008, mà trong 02 năm 2008 và 2009 khi Luật BHXH về BHXH tự nguyện có hiệu lực thi hành thì số người tham chỉ ở mức chưa đến 0,2% lao động thuộc khu vực phi chính thức. Do đó, vấn đề đặt ra là phải tăng cường tuyên truyền để người lao động hiểu rõ về chính sách, chế độ BHXH tự nguyện, lợi ích của nó, cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH… để họ hiểu, tin tưởng và tự nguyện tham gia. Hình thức tuyên truyền có thể là:
- Tổ chức các cuộc tập huấn cho các báo cáo viên thuộc hệ thống tuyên giáo cấp cơ sở để họ tuyên truyền lại cho người dân;
- Tổ chức các lớp đào tạo về BHXH cho người lao động và cho người sử dụng lao động.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình…, xây dựng các trang web;
- In ấn và phát hành các tờ rơi…
- Phối hợp với các tổ chức, các chương trình để tuyên truyền cho người lao động, doanh nghiệp hiểu được sự cần thiết và tác dụng của BHXH tự nguyện
- Đưa nội dung BHXH tự nguyện vào nội dung hoạt động của tổ chức tư vấn pháp luật cho nông dân, người nghèo…
3.5.2. Giải pháp về tài chính
Về mặt nguyên tắc, BHXH tự nguyện có nguồn tài chính chủ yếu là từ sự đóng góp của người lao động tự nguyện tham gia. Nguyên tắc đóng - hưởng là nguyên tắc cơ bản để đảm bảo an toàn quỹ. Và người đang đi làm đóng góp để chi trả cho người đó về nghỉ hưu. Mức thu nhập làm cơ sở để tính BHXH tự nguyện tùy thuộc vào khả năng của người lao động ở từng thời kỳ, nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung. Nếu người lao động đầu tiên tham gia BHXH tự nguyện từ 1/1/2008, thì 20 năm sau mới có người đầu tiên về hưu (năm 2028). Vì vậy cần phải có cơ chế quản lý, đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ BHXH tự nguyện sao cho có hiệu quả. Nhiều nước áp dụng biện pháp hạch toán theo tài khoản cá nhân để làm cơ sở tính lương hưu cho họ sau khi hết tuổi lao động và đủ điều kiện về hưu hoặc nếu không đủ điều kiện nghỉ hưu thì trả trợ cấp một lần cho họ.
BHXH tự nguyện hiện nay không có sự chia sẻ đóng góp giữa nhà nước và người lao động. Tuy nhiên, nhà nước có vai trò bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết, nhất là trong các trường hợp rủi ro của Quỹ (do Nhà nước thay đổi chính sách, do lạm phát phi mó, khủng hoảng kinh tế…) để đảm bảo Quỹ không bị vỡ. Quỹ có nguồn bổ sung từ sinh lời do kết quả hoạt động đầu tư là rất quan trọng. Nguồn tiền sinh lời này đảm bảo cho quỹ tăng trưởng. Tuy nhiên, Nhà nước phải quy định các hình thức đầu tư của quỹ để đảm bảo an toàn, có hiệu quả cao và thu hồi được khi cần thiết (đầu tư vào các lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao và giá trị gia tăng cao). Muốn vậy, phải hình thành một tổ chức chuyên kinh doanh đầu tư quỹ BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng. Trong trường hợp để đảm bảo an toàn cho quỹ, tránh rủi ro trong đầu tư có thể áp dụng các biện pháp như mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của ngân hàng thương mại nhà nước; cho ngân hàng thương mại nhà nước vay; đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia hoặc các hình thức đầu tư khác theo quy định của Chính phủ ưu tiên cho quỹ này tham gia.
3.5.3. Tạo mọi điều kiện để người lao động khu vực phi chính thức có thể tiếp cận thuận lợi và dễ dàng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
Theo định nghĩa, khu vực phi chính thức ít có sự kiểm soát của nhà nước. Làm thế nào để nhà nước có thể can thiệp nhằm thiết lập một mối liên hệ với khu vực phi chính thức thực sự là một thách thức lớn. Để khắc phục vấn đề này, nhà nước cần hỗ trợ qua chính sách thuế, hoặc tổng quan hơn là các chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa. Những biện pháp tổng thể nhằm khuyến khích khu vực tư nhân ở Việt Nam dường như chủ yếu hướng tới các doanh nghiệp lớn cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, các cơ sở xuất kinh doanh vi mô cần phải được đặc biệt quan tâm. Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng một khuôn khổ chính thức để phát triển các cơ sở tài chính vi mô đang trong quá trình hình thành và các hộ xuất kinh doanh cá thể với quy mô rất nhỏ có thể là đối tượng được hưởng lợi từ biện pháp như vậy.
Các chính sách thuế vừa là một công cụ phân chia phúc lợi, nhưng đồng thời cũng là một công cụ cải cách khu vực tư nhân. Trên quan điểm hạn chế sự bất bình đẳng, mà vẫn khuyến khích tăng trưởng kinh tế, phân tích tác động các chính sách thuế hiện hành.
Bên cạnh đó, với phương pháp riêng để theo dõi, đánh giá tác động của các chính sách công, chúng ta có thể cùng lúc đánh giá các chính sách thuế, các chính sách khuyến khích hay hỗ trợ doanh nghiệp (ví dụ, có thể phát triển các cơ sở tín dụng vi mô), cũng như các chính sách về việc làm. Đánh giá ảnh hưởng của các chính sách này đối với hiệu quả hoạt động của các cơ sở xuất kinh doanh phi chính thức và rộng hơn nữa là tác dụng của các chính sách này đối với sự phát triển của khu vực phi chính thức là rất cần thiết. Những phương pháp mới nhất để theo dõi, đánh giá các chính sách công được vận dụng ở đây, biết rằng những phương pháp này vẫn chưa được sử dụng rộng rói để phân tích cách thức hoạt động và các phản ứng từ khu vực phi chính thức.
Đặc điểm của lao động khu vực phi chính thức là không nằm trong một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp), mà chủ yếu là làm việc trong hộ gia đình (nhất là ở nông thôn); độ phân tán cao, thường xuyên di chuyển và trình độ dân trí thấp; không hạch toán thu nhập rõ ràng… Do đó, việc tiếp cận BHXH tự nguyện là trực tiếp. Bởi vậy, nếu không tạo điều kiện thuận lợi cho họ thì khả năng tham gia là rất hạn chế.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện, cần phải thực hiện các giải pháp sau:
- Sử dụng sổ BHXH tự nguyện thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Mỗi người lao động tham gia BHXH tự nguyện đều được gán một mã số riêng. Tiến tới sử dụng thẻ điện tử để có thể sử dụng linh hoạt, cơ động trong quá trình di chuyển lao động. Trong trường hợp người lao động từ khu vực chính thức chuyển sang khu vực phi chính thức và ngược lại đều có thể theo dõi được liên tục và thuận tiện.
- Có thể mở rộng thêm phương thức đóng phí BHXH tự nguyện để người lao động lựa chọn tham gia thêm mức đóng 9 tháng hoặc 1 năm/lần.
- Hàng năm định kỳ thông tin cho người lao động biết về sự tham gia BHXH tự nguyện của họ.
- Có thể liên kết và sử dụng hệ thống tổ chức quần chúng, phi chính phủ hỗ trợ người lao động trong việc tham gia BHXH tự nguyện (Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,…).
3.5.4. Phối hợp chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện với các chương trình mục tiêu khác (Chương trình việc làm, Chương trình giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, bãi ngang ven biển…)
Điều kiện cơ bản nhất để người lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện là phải có việc làm với giá trị cao và thu nhập cao, có tích lũy để có khả năng đóng BHXH tự nguyện. Do vậy, chiến lược mở rộng độ bao phủ của BHXH tự nguyện phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược việc làm, xóa đói giảm nghèo và nhất là phối hợp với chương trình việc làm, chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia… Các chương trình này tập trung vào hỗ trợ người lao động khu vực phi chính thức học nghề, vay vốn tự tạo việc làm hoặc hỗ trợ tìm việc làm, xóa đói giảm nghèo. Trong đó, về quan điểm cần quán triệt là:
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp chính sách để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các cấp; hướng việc đào tạo phục vụ theo nhu cầu xã hội. Triển khai thực hiện đề án dạy nghề cho người lao động, nhất là lao động nông thôn, lao động thất nghiệp; mở rộng các hình thức dạy nghề, hỗ trợ cho vay để học nghề, tạo việc làm, cung cấp các dịch vụ tư vấn việc làm, thông tin thị trường lao động… Tiến hành giám sát tác động xã hội thông qua tiến hành điều tra lao động định kỳ. Tiếp tục điều chỉnh tiền lương và phụ cấp xã hội đối với cán bộ, công chức và các đối tượng xã hội khác.
- Tăng cường các biện pháp chính sách thúc đẩy tạo thêm việc làm mới bao gồm khuyến khích đầu tư, kinh doanh, thành lập doanh nghiệp mới, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; phát triển thị trường lao động; tăng cường cho vay giải quyết việc làm; duy trì mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm…
Để phát triển sản xuất khu vực phi chính thức nhà nước cần có sự hỗ trợ như:
+ Chính sách bảo hộ sản xuất
+ Chính sách ưu đãi lãi xuất vốn vay
+ Hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh
+ Hỗ trợ về đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý
+ Hỗ trợ về thông tin thị trường, hỗ trợ đầu ra cho việc tiêu thụ sản phẩm
- Rà soát lại danh sách các hộ nghèo, xã nghèo để đảm bảo việc hỗ trợ người nghèo đúng đối tượng và trong khả năng ngân sách nhà nước. Tập trung giảm nghèo nhanh, bền vững ở các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo. Thường xuyên theo dõi và đánh giá việc thực hiện chương trình này để đảm bảo hỗ trợ đúng mục tiêu và có hiệu quả.
- Khuyến khích làm giàu chính đáng;
- Tích cực hỗ trợ cho người thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động;
- Hỗ trợ người nghèo nâng cao năng lực thị trường, tự mình thoát nghèo vươn lên khá giả, no ấm;
- Hỗ trợ nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số có việc làm và thu nhập, có tích lũy.
Trong quá trình phát triển khu vực phi chính thức, người lao động có việc làm, thu nhập và tích lũy sẽ tham gia BHXH tự nguyện.
Riêng đối với người nghèo, muốn họ tham gia BHXH tự nguyện, cần phải có chính sách hỗ trợ đối với họ (giống như mua BHYT cho người nghèo). Tuy nhiên, hình thức hỗ trợ có thể cho vay hộ nghèo với lãi suất ưu đãi để họ đóng BHXH tự nguyện. Chương trình cho vay cũng phải gắn với chương trình mục tiêu giảm nghèo, để đến khi họ vượt được nghèo, vươn lên khá giả thì họ phải tự đóng BHXH tự nguyện. Nghĩa là phải có chiến lược hỗ trợ và chiến lược "rút lui", khi họ có khả năng tự đóng BHXH tự nguyện. Nguồn quỹ cho vay BHXH tự nguyện đối với người nghèo có thể thông qua thành lập Quỹ ASXH ở cơ sở (thôn, bản, làng, xã) từ nguồn ngân sách nhà ước, đóng góp của nhân dân và hỗ trợ quốc tế (hiện nay Ngân hàng Thế giới rất quan tâm và sẵn sàng giúp đỡ đóng góp vào chương trình này khi chính phủ công bố rõ ràng về chính sách).
3.5.5. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tự nguyện
Theo luật định, BHXH Việt Nam là tổ chức sự nghiệp Nhà nước có nghĩa vụ thực hiện thu - chi BHXH nói chung, BHXH tự nguyện nói riêng. Bộ LĐTB&XH là cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH, kể cả BHXH tự nguyện.
Tuy nhiên, để triển khai BHXH tự nguyện, BHXH Việt Nam phải hình thành tổ chức chuyên quản lý sự nghiệp BHXH tự nguyện từ trung ương đến địa phương. Nhu cầu cán bộ cho sự nghiệp này sẽ rất lớn và tăng dần theo quy mô phát triển của BHXH tự nguyện. Song do đặc điểm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là lao động khu vực phi chính thức nêu trên, nên tổ chức, bộ máy và cán bộ sẽ phải lớn hơn và nhiều hơn mới đảm đương được công việc. Hiện nay, việc thu chi quỹ BHXH bắt buộc thì đơn vị BHXH tỉnh, huyện trực tiếp thực hiện sẽ được trích tỷ lệ % trên tổng mức thu, chi để chi cho các đại lý tại xã, phường làm công tác thu, chi, nhưng riêng việc thu BHXH thuộc đối tượng tự nguyện thì không có cơ chế để trích khoản lệ phí này, do đó không có kinh phí đề chi cho đại lý, cộng tác viên và không khuyến khích đơn vị BHXH cũng như cán bộ tích cực mở rộng đối tượng. Vì vậy, cần phải có sự hỗ trợ kinh phí cho việc mở rộng khai thác đối tượng này bằng cách tăng kinh phí bộ máy, trích từ lãi tăng trưởng để bù đắp những chi phí quản lý, đi lại, chi đại lý...
Vấn đề rất quan trọng về mặt tổ chức để triển khai thực hiện BHXH tự nguyện là hình thành mạng lưới liên kết hoặc cộng tác viên ở cơ sở. Kinh nghiệm của bảo hiểm thương mại là phải xây dựng được mạng lưới marketing tiếp cận từng hộ gia đình để nắm tình hình, khả năng đóng, vận động và khi họ tham gia thì theo dõi, tư vấn, giám sát đối tượng. BHXH Việt Nam cần nghiên cứu mô hình liên kết với các tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội nghề nghiệp và phi chính phủ; đồng thời thiết lập hệ thống cộng tác viên ở cấp cơ sở (có thể sử dụng mạng lưới cộng tác viên là các cán sự xã hội) để thực hiện.
- Cần thực hiện tốt hơn nữa việc đào tạo và tái đào tạo trình độ nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật cho lao động. Giải pháp này tác động trực tiếp giúp cho nhu cầu của nhà tuyển dụng và người lao động gặp nhau. Để thực hiện thành công giải pháp này, phải chi ngân sách hỗ trợ chi phí đào tạo cho người lao động và tuyên truyền mạnh mẽ tầm quan trọng của việc đào tạo và tái đào tạo đến với người lao động, vì lợi ích lâu dài để mọi người tham gia vào các lớp đào tạo nghề. Bên cạnh việc đào tạo tại các trường, trung tâm hướng nghiệp dạy nghề thì cần chú trọng phát triển các hình thức đào tạo tại các làng nghề truyền thống và xây dựng các tiêu chuẩn để định kỳ tổ chức cho người lao động có cơ hội sát hạch để cấp chứng chỉ hành nghề cho lao động.
- Về tỷ lệ đóng và chế độ hưởng: Nên để mở về tỷ lệ đóng và chế độ hưởng BHXH tự nguyện cho người lao động được lựa chọn. Theo đó, mức đóng sẽ không cố định ở 16%, 18% hay 22% nữa mà có thể có những tỷ lệ cao hơn, đồng thời chế độ hưởng cũng được mở ra tương ứng, không hạn chế ở hai chế độ. Trước mắt, cần thiết phải mở thêm chế độ BHYT cho người tham gia BHXH tự nguyện, cho dù có thể phải tăng mức đóng. Vì, theo điều tra nghiên cứu và phân tích ở trên, nhu cầu được tham gia BHYT tự nguyện của người lao động là rất lớn. Nếu kết hợp giữa BHXH tự nguyện và BHYT tự nguyện thì sẽ khuyến khích người lao động khu vực phi chính thức tham gia nhiều hơn.
- Về mức hưởng chế độ hưu trí: Hiện nay, mức hưởng chế độ hưu trí của người tham gia BHXH bắt buộc cũng quy định theo mức đóng và thời gian đóng, nhưng nếu mức hưởng hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu thì được điều chỉnh lên bằng mức lương tối thiểu. Điều này xét trên tổng thể các đối tượng tham gia BHXH thì hợp lý, vì BHXH thực hiện trên nguyên tắc đóng - hưởng. Nhưng nếu xét theo một bộ phận cụ thể nào đó thì sẽ thấy sự mất công bằng. Ví dụ, một bộ phận người lao động làm việc cho các doanh nghiệp thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc với mức lương tham gia BHXH chỉ tương đương mức lương tối thiểu. Khi đủ điều kiện về hưu, mức lương hưu tính trên cơ sở mức đóng của họ thấp hơn lương tối thiểu và họ được điều chỉnh lên bằng mức lương tối thiểu. Trong khi đó, người tham gia BHXH tự nguyện đóng trên cơ sở mức lương tối thiểu nhưng khi nghỉ hưu nếu thấp hơn lương tối thiểu thì họ cũng không được điều chỉnh. Ngoài ra người lao động tham gia BHXH bắt buộc theo mức lương tương đương mức lương tối thiểu, còn được hưởng thêm các chế độ khác như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
3.5.6. Nghiên cứu khảo sát trên quy mô rộng, toàn diện
Trong thời gian qua, mặc dù đã có một số cơ quan tiến hành điều tra khảo sát về lao động khu vực phi chính thức và sự tham gia BHXH, BHYT của khu vực này nhưng quy mô chỉ giới hạn ở mức điểm, thí điểm, điển hình nên chưa có một đánh giá có độ chính xác cao. Do đó, cần có những cuộc điều tra khảo sát quy mô toàn quốc, toàn diện đối với khu vực phi chính thức nói chung và các nhân tố ảnh hưởng đến việc tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức nói riêng thì mới có cơ sở để ban hành chính sách được sát với thực tế, đảm bảo quyền lợi cho người dân.
KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Triển khai thực hiện chính sách BHXH để đảm bảo về mặt vật chất, tinh thần cho mọi người tham gia và hưởng các chế độ BHXH ở mọi thành phần, khu vực kinh tế. BHXH tự nguyện đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ASXH của một quốc gia trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, nhất là những quốc gia đang phát triển, ở đó, lực lượng lao động làm việc trong khu vực phi chính thức đang chiếm một tỷ lệ lớn. Một quốc gia đang phát triển trong điều kiện hiện nay, muốn tồn tại và phát triển nhanh, vượt ra khỏi tình trạng kém phát triển, không thể không quan tâm giải quyết vấn đề ASXH, trong đó BHXH tự nguyện được xem là một trong những vấn đề trọng tâm.
Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống BHXH và ASXH tiến tới áp dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Chính vì vậy, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành BHXH nhằm mục tiêu cụ thể hóa chủ trương đó. Luật BHXH quy định về BHXH tự nguyện cũng đã được ban hành và thực hiện, tuy nhiên kết quả tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức còn quá ít.
Với thực trạng đó, luận văn đã đi sâu phân tích, chứng minh làm rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện; Đánh giá được thực trạng của lao động khu vực phi chính thức, đánh giá nhu cầu, điều kiện khả năng và phân tích, đánh giá được các nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia BHXH; Dự báo khả năng, định hướng phát triển BHXH đến năm 2015 và đưa ra một số giải pháp để phát triển BHXH tự nguyện trong thời gian tới.
Từ thực tế nghiên cứu của đề tài "Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến năm 2015", tác giả xin kiến nghị một số vấn đề sau:
1. Đối với Chính phủ và các Bộ, Ngành liên quan
- Chính phủ cần có sự quan tâm hỗ trợ cụ thể cho người lao động tham gia BHXH.
- Cần sớm nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện BHXH tự nguyện nói chung và khu vực phi chính thức nói riêng qua 2 năm thực hiện và có những điều chỉnh kịp thời về chính sách cho phù hợp.
- Có cơ chế trích lệ phí cho công tác thu, chi BHXH tự nguyện.
2. Đối với BHXH Việt Nam
- Tổ chức, khảo sát trên quy mô cả nước về nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện đối với người lao động khu vực phi chính thức.
- Tăng cường, khuyến khích BHXH các tỉnh, thành phố đẩy mạnh việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.
- Tăng cường công tác tuyên truyền để người lao động có nhận thức rõ hơn về BHXH tự nguyện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam - IOS Partners (2005), Báo cáo kết quả điều tra nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm xã hội của lao động khu vực phi chính thức, Hà Nội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007), Điều tra hộ gia đình khu vực phi chính thức tại 12 tỉnh, thành phố, Hà Nội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2008), Bảo hiểm xã hội các nước trên thế giới, Hà Nội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2009), Báo cáo quyết toán năm 2008, Hà Nội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2010), Báo cáo quyết toán năm 2009, Hà Nội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2010), Báo cáo đánh giá kết quả 15 năm thực hiện bảo hiểm xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Ngân hàng Thế giới (2007), Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam: Kiến nghị chính sách, Hà Nội.
Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2002) (2006) Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Chính phủ (2007), Nghị định số 190/2007/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện, Hà Nội.
Chính phủ, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
Mai Ngọc Cường (Chủ nhiệm đề tài), Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2007-2015, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng (1999), "Bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn", Bảo hiểm xã hội, (4).
Trần Công Dũng (2007), "Một số vấn đề về quyền lựa chọn và khả năng kết nối của loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện", Bảo hiểm xã hội, (1).
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bùi Văn Hồng (Chủ nhiệm đề tài) (2002), Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Hồ Xuân Hùng (1999), "Bảo hiểm xã hội cho nông dân là cần thiết trong tình hình hiện nay", Bảo hiểm xã hội, (10).
Luật Bảo hiểm xã hội và những quy định pháp luật hiện hành về chế độ bảo hiểm xã hội (2006), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Kiều Văn Minh (Chủ nhiệm đề tài) (2003), Giải pháp mở rộng đối tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Lưu Bích Ngọc (2008) "Người lao động với bảo hiểm xã hội tự nguyện", Tạp chí Kinh tế và phát triển
Đào Thị Hải Nguyệt (Chủ nhiệm đề tài) (2007), Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Pháp luật bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới (2005), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Nguyễn Tiến Phú (Chủ nhiệm đề tài) (2001), Cơ sở lý luận về việc thực hiện các loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Tiến Phú (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Nghiên cứu xây dựng lộ trình tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Lê Thị Hoài Thu (2004), "Thực trạng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam", Bảo hiểm xã hội, (6).
Tổng cục Thống kê (2008), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2007, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2009), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2008, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2010), Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2009, Hà Nội.
Viện Khoa học Lao động xã hội (2007), Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam, Hà Nội.
Viện Khoa học Lao động xã hội (2007), Báo cáo nghiên cứu chuyển đổi bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An sang bảo hiểm xã hội tự nguyện quốc gia, Hà Nội.
Viện Khoa học bảo hiểm xã hội Việt Nam (2008), Điều tra khảo sát về nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam tại 9 tỉnh, thành phố, Hà Nội.
Viện Xã hội học Việt Nam (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của việc kiến tạo hệ thống an sinh xã hội tam nông ở Việt Nam - Tầm nhìn 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
Nguyễn Anh Vũ (Chủ nhiệm đề tài) (2003), Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Hà Nội.