Đề tài Phát triển bảo lãnh ngân hàng đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại ngân hàng công thương Việt Nam

Các doanh nghiệp phải đảm bảo có một đội ngũ cán bộ chuyên trách, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật thương mại quốc tế và thanh toán XNK đáp ứng cho hoạt động XNK. Doanh nghiệp cần tuyển dụng các cán bộ được đào tạo đúng chuyên môn về ngoại thương. Doanh nghiệp cần tổ chức cho các cán bộ chuyên trách nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, tìm hiểu tư cách pháp lý, năng lực và hành vi kinh doanh của các đối tác nước ngoài, tìm hiểu các thông lệ quốc tế, luật thương mại, luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh của nước đối tác cũng như các thay đổi điều kiện pháp lý trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu này sẽ giúp các doanh nghiệp lựa chọn các hình thức thanh toán cũng như loại hình bảo lãnh phù hợp khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Đội ngũ cán bộ có trình độ sẽ giúp thoả thuận các điều kiện bảo lãnh rõ ràng, hạn chế các trường hợp bị các đối tác lợi dụng hoặc lừa đảo qua việc phát hành bảo lãnh hoặc thực hiện các giao dịch liên quan đến bảo lãnh.

pdf102 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2215 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển bảo lãnh ngân hàng đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3.2. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHCTVN. 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản, quy chế, quy trình nghiệp vụ bảo lãnh. Quy chế bảo lãnh ngân hàng theo quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc NHNN đã ban hành được 2 năm. Nhưng cho đến nay, NHCTVN vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn thực hiện quy chế mới này trong toàn hệ thống. Vì vậy, NHCTVN cần triển khai ngay việc hướng dẫn thực hiện quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của NHNN đến các chi nhánh và Sở giao dịch trực thuộc cũng như các phòng ban liên quan tại TSC. Triển khai thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh trong hệ thống NHCTVN không thể chỉ là việc truyền đạt gần như nguyên văn nội dung quy chế bảo lãnh của NHNN như trước đây mà cần có những quy định cụ thể, chi tiết cho từng phần hành tác nghiệp làm căn cứ cho các bộ phận thực hiện. Điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua việc xây dựng một quy trình nghiệp vụ bảo lãnh đầy đủ, thống nhất xuyên suốt toàn bộ các khâu trong nghiệp vụ bảo lãnh. Quy trình chung này sẽ bao gồm quy trình cụ thể cho từng bộ phận tác nghiệp bao gồm quy trình đối với bộ phận tín dụng, quy trình đối với bộ phận Thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại đồng thời có quy định rõ về trách nhiệm, mối quan hệ, quá trình phối hợp cũng như quy trình luân chuyển chứng từ giữa các bộ phận thuộc chi nhánh, các bộ phận thuộc Trung tâm thanh toán với các phòng ban tại TSC NHCTVN. Bên cạnh việc đi sâu vào nghiệp vụ của từng bộ phận, quy trình bảo lãnh cần đặc biệt quan tâm đến việc phân định trách nhiệm và sự phối hợp giữa các bộ phận mà hầu hết các văn bản trước đây chưa đề cập đến. Cụ thể, cần có quy định rõ ràng việc phát hành bảo lãnh phải được tập trung tại bộ phận Thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại để đảm bảo các hồ sơ bảo lãnh được nhập và quản lý trong chương trình tài trợ thương mại, đảm bảo số liệu bảo lãnh được hạch toán và phản ánh chính xác trên sổ sách kế toán. Cần có các quy định về thời gian luân chuyển chứng từ, cách thức giao nhận chứng từ giữa các bộ phận để tránh sự chậm trễ gây phiền hà cho khách hàng hoặc mất mát chứng từ lưu trữ. Cần có quy định về sự hợp tác của bộ phận thanh 71 toán quốc tế với bộ phận tín dụng trong việc xem xét các rủi ro trong điều khoản bảo lãnh khi xem xét hồ sơ phát hành bảo lãnh của khách hàng, sự phối hợp của bộ phận tín dụng khi xem xét cấp hạn mức cho từng khách hàng hay từng giao dịch bảo lãnh. Về quy trình đối với bộ phận Thanh toán và tài trợ thương mại, cần có sự tách biệt giữa quy định nghiệp vụ với các hướng dẫn kỹ thuật về thao tác thực hiện giao dịch bảo lãnh trong chương trình Tài trợ thương mại. Hiện tại, hoạt động bảo lãnh của bộ phận Thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại được điều chỉnh bởi quy trình xử lý nghiệp vụ bảo lãnh ban hành theo quyết định số 2000/QĐ-NHCT22 ngày 17/11/2006 của Tổng giám đốc NHCTVN. Trong quy trình này hướng dẫn chi tiết các bước thực hiện trong nghiệp vụ bảo lãnh của thanh toán viên như nhận hồ sơ, xem xét hồ sơ, phát hành bảo lãnh…đồng thời đan xen trong các nội dung đó là hướng dẫn các thao tác trong chương trình Tài trợ thương mại. Điều này làm cho các quy định tương đối phân tán, khó ghi nhớ một cách tập trung đối với người sử dụng. Phần hướng dẫn mang tính thao tác kỹ thuật đơn thuần như khi phát hành bảo lãnh phải vào màn hình gì, chọn loại điện nào… nên đưa vào tài liệu hướng dẫn sử dụng chương trình Tài trợ thương mại. NHCTVN cũng cần sớm đưa ra các mẫu thư bảo lãnh một cách đầy đủ, thống nhất, có nội dung chặt chẽ để khách hàng có thể tham khảo, làm cơ sở thoả thuận ngay khi ký kết hợp đồng ngoại thương với đối tác nước ngoài đồng thời giúp các chi nhánh tránh được các rủi ro có thể xảy ra khi cán bộ phát hành theo mẫu của khách hàng. 3.2.2. Soạn thảo, hệ thống hoá và cung cấp các tài liệu chuyên sâu về nghiệp vụ, các tài liệu cảnh báo và hạn chế rủi ro đối với bộ phận thanh toán quốc tế. NHCTVN cần quan tâm đến việc cho ra đời tài liệu chính thức và chuyên sâu về nghiệp vụ bảo lãnh. Trong tài liệu đó có thể tóm tắt một cách khái quát các quy tắc quốc tế áp dụng trong hoạt động bảo lãnh, các nguyên tắc cơ bản và 72 các vấn đề cần lưu ý khi dẫn chiếu từng quy tắc; tập quán và luật pháp về bảo lãnh tại các thị trường lớn, tại các quốc gia có khách hàng và ngân hàng thường xuyên có quan hệ bảo lãnh với NHCTVN; các trường hợp rủi ro, lừa đảo và tranh chấp đã xảy ra trong bảo lãnh quốc tế cũng như quá trình và kết quả xử lý các tranh chấp đó… Bên cạnh đó, để hạn chế các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động bảo lãnh hiện tại của các chi nhánh, NHCTVN cần có các cảnh báo và quy định rõ ràng cho những sai sót đã xảy ra tại các chi nhánh. Tuy nhiên, cũng cần có những quy định mang tính linh hoạt, không cứng nhắc để vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng mà không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với khách hàng. 3.2.2.1 Nghiệp vụ phát hành thư bảo lãnh. Khắc phục những sai sót của cán bộ phát hành trong thời gian vừa qua, NHCTVN cần quy định các nội dung sau: Nếu cán bộ tại chi nhánh còn chưa rõ, chưa chắc chắn về một số nội dung của thư bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng thì có thể tham khảo ý kiến của Phòng Thanh toán XNK tại TSC NHCTVN. Các chi nhánh chỉ phát hành một bản gốc duy nhất để gửi cho người hưởng một cách trực tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo, tuyệt đối không phát hành một bản khác có chữ ký gốc và chuyển cho khách hàng trong nước vì sự thất lạc bản gốc này có thể khiến thư bảo lãnh bị đòi tiền 2 lần. Trường hợp phát hành thư bảo lãnh tiền đặt cọc cho hợp đồng nhập khẩu thì thư bảo lãnh chỉ có giá trị hiệu lực khi khoản tiền đặt cọc được ghi có vào tài khoản của khách hàng tại NHCTVN và tính toán xác định để thư bảo lãnh hết hạn sau ngày giao hàng muộn nhất một khoảng thời gian hợp lý. Nếu giao hàng nhiều lần thì giá trị thư bảo lãnh sẽ giảm dần tương ứng với giá trị hàng hoá của mỗi lần giao hàng. Điều này để tránh các kẽ hở nếu thư bảo lãnh phát hành trước khi khoản tiền đặt cọc được chuyển vào tài khoản khách hàng yêu cầu thì người đặt cọc có thể lợi dụng thời gian này để không chuyển tiền đặt cọc mà vẫn có thể lạm dụng để đòi tiền theo bảo lãnh do bảo lãnh đã có hiệu lực hoặc đòi tiền vượt 73 giá trị thiệt hại vì giá trị bảo lãnh không giảm thiểu tương đương với giá trị hàng đã giao. Nếu phát hành thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng và hợp đồng đó được thanh toán bằng thư tín dụng thì thư bảo lãnh và thư tín dụng phải có giá trị và hiệu lực song hành với nhau, đảm bảo nghĩa vụ người mua phải được thực hiện song song và cân bằng với nghĩa vụ của người bán, tránh trường hợp người mua không mở thư tín dụng hoặc mở thư tín dụng với giá trị thấp nhưng vẫn có quyền đòi tiền theo giá trị thư bảo lãnh. Khi phát hành bảo lãnh thanh toán cho hợp đồng nhập khẩu hàng hoá dịch vụ thì bảo lãnh đó phải là bảo lãnh có điều kiện, yêu cầu tuyên bố vi phạm và thư đòi tiền phải được gửi kèm các chứng từ chứng minh người bán đã hoàn thành nghĩa vụ cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo hợp đồng như hoá đơn, biên bản giao nhận hàng để hạn chế các trường hợp không giao hàng nhưng vẫn đòi tiền bồi thường theo bảo lãnh. Khi phát hành bảo lãnh cho các hợp đồng xuất khẩu dịch vụ xây dựng, xuất khẩu máy móc thiết bị đòi hỏi nhiều bảo lãnh như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh bảo hành thì cần chú ý đến tính liên tục của thời hạn hiệu lực các thư bảo lãnh, đảm bảo không để thời hạn các thư bảo lãnh trùng lắp nhau. Cụ thể như bảo lãnh thực hiện hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực khi bảo lãnh bảo hành có hiệu lực. Nếu phát hành bảo lãnh gián tiếp trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của ngân hàng nước ngoài thì cần lưu ý đến thời hạn của 2 bảo lãnh: bảo lãnh đối ứng phải có thời hạn dài hơn bảo lãnh gián tiếp mà NHCTVN phát hành để đảm bảo có thời gian đòi tiền theo bảo lãnh đối ứng khi NHCTVN phải thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh gián tiếp. 3.2.2.2. Nghiệp vụ xử lý thư bảo lãnh đến. Trong quy trình xử lý bảo lãnh của NHCTVN có quy định rất rõ là không xác thực các thư bảo lãnh gửi đến bằng đường thư cho người hưởng, không tài trợ và chuyển tiền dựa trên các thư bảo lãnh phát hành bằng đường thư. Quy 74 định này hoàn toàn có lý do việc gửi bảo lãnh bằng đường thư rất khó xác thực được chữ ký ngân hàng phát hành, tiềm ẩn nhiều rủi ro do các đối tượng lừa đảo có thể giả mạo chữ ký các ngân hàng mà việc xác thực chữ ký nhiều khi không phân biệt được. Thực hiện quy định này, nhiều chi nhánh dứt khoát từ chối xác thực các thư bảo lãnh do khách hàng mang đến hoặc đề nghị khách hàng yêu cầu đối tác nước ngoài làm việc lại với ngân hàng của họ để phát hành một bảo lãnh tương tự bằng điện SWIFT có khoá mã. Tuy nhiên, thái độ từ chối của ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng nhất định đến quan hệ với khách hàng trong nước vì chẳng có ngân hàng nước ngoài nào chấp nhận phát hành thêm một bản gốc bảo lãnh. Ngoài ra, có rất nhiều ngân hàng đặc biệt là ngân hàng Châu Âu thường gửi thư bảo lãnh bằng đường thư cho ngân hàng Việt Nam hoặc gửi trực tiếp cho người thụ hưởng theo tập quán mà không vì lý do gian lận. Để giải quyết vấn đề này, NHCTVN có thể quy định linh hoạt hơn: Đối với các thư bảo lãnh mà khách hàng chỉ yêu cầu xác thực thì có thể tư vấn cho khách hàng làm việc lại với đối tác nước ngoài đề nghị ngân hàng của họ gửi một thông báo bằng điện SWIFT có xác thực qua NHCTVN trong đó có xác nhận đã phát hành một thư bảo lãnh như vậy về ngày giá trị, nội dung, người hưởng… và đề nghị thông báo cho người hưởng. Đối với các thư bảo lãnh có liên quan đến các khoản tài trợ tín dụng của NHCTVN thì ngoài yêu cầu khách hàng liên hệ lại với đối tác nước ngoài, NHCTVN có thể gửi điện trực tiếp cho ngân hàng phát hành, đề nghị xác nhận lại bằng điện SWIFT có khoá mã rằng họ đã phát hành một thư bảo lãnh như vậy và đề nghị NHCTVN thông báo thư xác nhận lại cho người hưởng. Chỉ trong trường hợp mà ngân hàng nước ngoài không gửi lại điện xác nhận hoặc trả lời là họ không phát hành một thư bảo lãnh như vậy thì khi đó hãy thực hiện việc từ chối đối với khách hàng và nói rõ lý do từ chối của ngân hàng. Như vậy vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng đồng thời vẫn thể hiện sự hợp tác với khách hàng. 75 3.2.3. Hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý. Hiện nay, giống như các hoạt động thanh toán quốc tế khác, hoạt động bảo lãnh XNK được xử lý theo mô hình bán tập trung: Các chi nhánh loại 1 được phép phát hành bảo lãnh nước ngoài trực tiếp, bảo lãnh của các chi nhánh loại 2 được phát hành tại phòng Thanh toán XNK TSC. Do nghiệp vụ bảo lãnh nước ngoài tương đối phức tạp, phát sinh không thường xuyên nên trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của cán bộ thanh toán quốc tế tại các chi nhánh loại I vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu công việc. Nội dung các thư bảo lãnh phát hành bởi chi nhánh loại I còn nhiều sai sót, có nhiều rủi ro và chỉ được phát hiện khi thư bảo lãnh qua khâu kiểm soát của Phòng Thanh toán XNK TSC. Nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế, Sở giao dịch III với mô hình xử lý tập trung các giao dịch TTQT và TTTM của toàn hệ thống NHCT đã được thành lập theo nghị quyết số 003/BB-HĐQT-TCCB- 2008 ngày 23/01/2008 của Hội đồng quản trị NHCTVN, dự kiến đi vào hoạt động trong năm 2008. Theo mô hình mới này, tất cả các giao dịch thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại trong đó bao gồm hoạt động bảo lãnh của cả hệ thống NHCT sẽ được xử lý tập trung tại Sở giao dịch III. Dựa trên hồ sơ của các chi nhánh, Sở giao dịch III sẽ thực hiện toàn bộ các khâu phát hành, chuyển điện, nhận chứng từ khiếu nại… sau đó chuyển hồ sơ lưu cho chi nhánh. Mô hình này khắc phục được nhược điểm của mô hình hiện đang áp dụng là hạn chế được những rủi ro và sai sót do chi nhánh. TSC kiểm soát được toàn bộ các giao dịch bảo lãnh phát sinh. Tuy nhiên, mô hình này cũng phát sinh nhiều vấn đề: Để thiết lập hệ thống máy móc công nghệ đáp ứng được nhu cầu xử lý tập trung đòi hỏi phải có thời gian và đầu tư vốn rất lớn; Khối lượng giao dịch tập trung tại Sở III quá lớn sẽ ảnh hưởng đến công tác kiểm soát, dễ nhầm lẫn, sai sót, ảnh hưởng đến chất lượng công việc; cán bộ tại TSC khó nắm bắt thông tin trực tiếp từ khách hàng nên sẽ kém linh hoạt hơn trong việc xử lý các tình huống phát sinh, nếu nội dung hồ sơ cần có sự sửa đổi và phải liên hệ với khách hàng 76 thì rất bất tiện vì phải thông qua một khâu trung gian là chi nhánh, thời gian chờ đợi để phát hành được một thư bảo lãnh là quá dài, đặc biệt đối với các bảo lãnh trong nước. Chẳng hạn, trong trường hợp khách hàng đề nghị phát hành bảo lãnh nhận hàng theo L/C khi chưa nhận được vận đơn gốc. Nếu phát hành tại chi nhánh, chi nhánh chỉ cần nhận giấy đề nghị, bản copy chứng từ từ khách hàng, kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện thanh toán của khách và phát hành bảo lãnh cho khách đi nhận hàng sau 20 đến 30 phút. Nếu phát hành tại Sở III, chi nhánh sẽ phải scan toàn bộ các chứng từ liên quan, thông báo cho Sở III về việc điều kiện thanh toán lô hàng đã được đáp ứng… Thời gian để cán bộ TSC nhận chứng từ, xem xét, phát hành sau đó gửi bảo lãnh gốc về cho chi nhánh là không thể thực hiện được trong một ngày. Một hạn chế nữa của mô hình tập trung là việc phân chia thu nhập từ các giao dịch thanh toán quốc tế cũng như giao dịch bảo lãnh do các chi nhánh là nơi chịu trách nhiệm thẩm định, ký kết hợp đồng tài trợ tín dụng còn Sở giao dịch III là nơi phát hành và xử lý các giao dịch liên quan. Như vậy thì việc sẽ phân chia phí thu như thế nào? tỷ lệ ra sao? cũng là việc cần xem xét kỹ. Để giải quyết những vấn đề này, mô hình xử lý tập trung tại Sở III chỉ nên áp dụng đối với các giao dịch bảo lãnh trực tiếp nước ngoài và tái bảo lãnh theo bảo lãnh đối ứng của các ngân hàng khác. Toàn bộ các giao dịch bảo lãnh trong nước vẫn nên thực hiện tại các chi nhánh. Như vậy đảm bảo hạn chế các rủi ro trong việc phát hành các bảo lãnh nước ngoài, giảm tải khối lượng công việc quá lớn tập trung tại Sở III vừa đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng trong việc phát hành các bảo lãnh trong nước. Riêng về việc phân chia phí giao dịch thu được, các chi nhánh là người trực tiếp giữ tài khoản khách hàng sẽ có trách nhiệm thu phí trực tiếp từ khách sau đó định kỳ (tháng, quý) trích một tỷ lệ nhất định trên tổng doanh số bảo lãnh nước ngoài để chuyển trả cho Sở giao dịch III. 77 3.2.4. Xây dựng và thực hiện chiến lƣợc khách hàng. Chiến lược khách hàng của NHCTVN cần tập trung vào 3 nội dung: tăng cường mối quan hệ với các khách hàng XNK hiện có, thu hút các khách hàng XNK mới và mở rộng đối tượng khách hàng đến các ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong nước mà không chỉ dừng ở các khách hàng là doanh nghiệp XNK. Đối với các khách hàng đang sử dụng dịch vụ bảo lãnh của NHCT, ngân hàng cần chủ động tổ chức các lớp tập huấn cho các doanh nghiệp này về nghiệp vụ bảo lãnh như tìm hiểu các văn bản, quy tắc điều chỉnh hoạt động bảo bảo lãnh, các nguyên tắc cơ bản để tránh bị người hưởng lợi dụng hoặc lừa đảo trong từng loại hình bảo lãnh cũng như những trường hợp lừa đảo điển hình đã từng xảy ra trong hoạt động bảo lãnh quốc tế. Ngân hàng nên tăng cường công tác cố vấn cho các doanh nghiệp: Tham gia tư vấn cho các doanh nghiệp ngay từ khi chuẩn bị ký kết hợp đồng, đặc biệt là những hợp đồng giá trị lớn để tránh bị đối tác lợi dụng, áp đặt những điều kiện bảo lãnh rủi ro. Đối với các hợp đồng XNK đã được ký kết, NHCTVN cần xem xét kỹ hồ sơ bảo lãnh, phát hiện những điều kiện bất lợi để đề nghị khách hàng thoả thuận lại với đối tác nước ngoài. Trong vai trò là ngân hàng thông báo bảo lãnh, cho dù thư bảo lãnh đó là đối tượng tài trợ tín dụng hay không, NHCTVN cũng cần kiểm tra kỹ nội dung bảo lãnh, phát hiện những điều kiện bất lợi để nhanh chóng thông báo và tư vấn cho khách hàng yêu cầu phía nước ngoài sửa đổi bảo lãnh kịp thời. Để đa dạng hoá khách hàng, đảm bảo cơ cấu khách hàng hợp lý trong tài trợ tín dụng hoạt động bảo lãnh, NHCTVN cần quan tâm hơn nữa đến công tác tiếp thị, quảng bá dịch vụ của mình đến khách hàng như tranh thủ tiếp xúc với các doanh nghiệp XNK, giới thiệu dịch vụ thanh toán quốc tế cũng như hoạt động bảo lãnh; xây dựng biểu phí ưu đãi đối với các doanh nghiệp vừa thiết lập quan hệ và có sử dụng dịch vụ trọn gói… NHCTVN cũng cần quan tâm đến các công việc cụ thể như giới thiệu đầy đủ các dịch vụ của mình trên trang thông tin của ngân hàng. Trên trang thông tin đó cần 78 cập nhật kịp thời các hoạt động của ngân hàng, có phần mục riêng dành cho khách hàng trong đó công khai tỷ giá ngoại tệ, biểu phí đồng thời có hướng dẫn chi tiết các thủ tục giao dịch cần thiết cho các dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ bảo lãnh nói riêng. Ngoài đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp XNK, NHCTVN nên quan tâm đến đối tượng khách hàng là các ngân hàng cổ phần mới được thành lập do hầu hết các ngân hàng này chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cho khách hàng giao dịch. Sở dĩ như vậy vì hoạt động thanh toán quốc tế có những yêu cầu đặc biệt hơn các hoạt động khác. Nó đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân sự có trình độ về thanh toán quốc tế và kinh nghiệm, có hệ thống kỹ thuật thích hợp, có quan hệ đại lý rộng khắp với các ngân hàng nước ngoài, là thành viên mạng SWIFT, có uy tín nhất định trên thị trường ngân hàng quốc tế… Đây là cơ hội để NHCTVN có thể mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động bảo lãnh XNK nói riêng bằng việc cung cấp trọn gói các dịch vụ thanh toán quốc tế trong đó có hoạt động bảo lãnh nước ngoài cho các ngân hàng cổ phần có nhu cầu. Đây là hoạt động bán buôn các dịch vụ ngân hàng mà nhiều ngân hàng, nhiều tập đoàn tài chính lớn trên thế giới đang thực hiện. Việc phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế trong đó có bảo lãnh nước ngoài như vậy là một hướng đi hiệu quả cho NHCTVN: vừa đảm bảo tăng nguồn thu dịch vụ, vừa không phải gánh chịu các rủi ro về các hoạt động tín dụng liên quan. 3.2.4.Làm tốt công tác nguồn nhân lực. Để đáp ứng một nguồn nhân lực có trình độ, kinh nghiệm vững vàng cho các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng, NHCTVN cần phải quan tâm đến nhiều vấn đề: bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao ý thức tinh thần làm việc, sắp xếp vị trí phù hợp trình độ, năng lực đồng thời có chế độ đãi ngộ thích hợp. NHCTVN hiện có một đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế tương đối vững vàng về chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. Tuy nhiên, số cán bộ có trình độ về 79 nghiệp vụ bảo lãnh không nhiều. Trước năm 2003 toàn bộ bảo lãnh trong nước do bộ phận tín dụng phát hành còn bảo lãnh nước ngoài được phát hành tại phòng Thanh toán quốc tế TSC nên thời gian thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các thanh toán viên tại chi nhánh chưa dài, hoạt động bảo lãnh phát sinh không thường xuyên dễ làm cho các thanh toán viên có tâm lý ít quan tâm đến việc tìm hiểu, học tập nghiệp vụ hơn các nghiệp vụ thanh toán quốc tế khác. Ngay cả đối với những người quản lý, nghiệp vụ bảo lãnh cũng ít được chú trọng hơn: nhiều lớp tập huấn, hội thảo về L/C, các quy tắc áp dụng trong thanh toán bằng L/C, về chuyển tiền… nhưng hầu như chưa có lớp tập huấn nào về bảo lãnh được tổ chức ngoài một buổi hội thảo của Dresdner Bank. Do vậy, có rất nhiều cán bộ chỉ hiểu lơ mơ về nghiệp vụ bảo lãnh, không nắm được nội dung cơ bản của một bảo lãnh phải bao gồm những gì, không nắm được cả tên các quy tắc áp dụng chứ chưa nói đến việc nắm được nội dung các quy tắc đó. Ngôn ngữ của bảo lãnh nước ngoài bằng tiếng Anh với cấu trúc và cách diễn đạt phức tạp khiến một số cán bộ không hiểu được chính xác các nội dung và điều kiện của bảo lãnh để tư vấn cho khách hàng, không kịp thời yêu cầu điều chỉnh hoặc từ chối phát hành đối với các điều khoản bất lợi, thậm chí có thanh toán viên đưa toàn bộ điều kiện bảo lãnh của khách hàng vào trong thư bảo lãnh mà không cần hiểu nội dung các điều kiện đó là gì. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của cán bộ trong nghiệp vụ bảo lãnh, NHCTVN cần có chiến lược đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cũng như trang bị các kiến thức về kinh tế, luật pháp cũng như nâng cao trình độ công nghệ tin học và ngoại ngữ cho cán bộ. Về hình thức đào tạo, ngoài việc soạn thảo các tài liệu chuyên sâu về nghiệp vụ để cán bộ tham khảo như đã trình bày trong mục 3.2.2, NHCTVN cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo về nghiệp vụ bảo lãnh với sự tham gia giảng dạy của các chuyên gia ở các ngân hàng nước ngoài, thường xuyên thông tin kịp thời về các vụ tranh chấp xảy ra trong nghiệp vụ bảo lãnh để cán bộ tham khảo, tổ chức các khoá học về tin học và ngoại ngữ với các giảng 80 viên có trình độ hoặc gửi cán bộ đi thực tập tại các ngân hàng nước ngoài để vừa tham khảo quy trình làm việc, học tập nghiệp vụ vừa nâng cao trình độ ngoại ngữ. Đối tượng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ không chỉ giới hạn trong các thanh toán viên của bộ phận thanh toán quốc tế mà cần mở rộng sang các cán bộ tín dụng làm công tác thẩm định và ký kết hợp đồng bảo lãnh, giúp cho các cán bộ tín dụng hiểu được các điều khoản, điều kiện trong thư bảo lãnh nước ngoài cũng như các quy tắc áp dụng để chủ động và hiệu quả hơn khi ký kết hợp đồng bảo lãnh với khách hàng trong nước về việc phát hành bảo lãnh nước ngoài. Ngoài ra, NHCTVN cần chú trọng đến việc nâng cao tinh thần, ý thức làm việc cho cán bộ vì sự thiếu ý thức, lơ là trong hoạt động bảo lãnh có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng. Hiện nay, nhiều các ngân hàng cổ phần tìm cách thu hút các cán bộ có khả năng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh bằng vị trí quản lý và mức lương cao, đặc biệt là các cán bộ có kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán quốc tế. Trước thực tế này, NHCTVN cần có biện pháp để bảo toàn được đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế của mình bằng việc sắp xếp vị trí phù hợp với trình độ của cán bộ, có chế độ trả lương, khen thưởng thích hợp. Để làm được điều này đòi hỏi không chỉ các cán bộ lãnh đạo của NHCTVN mà còn từ ngay các cấp quản lý trực tiếp tại các bộ phận thuộc chi nhánh cần có sự công minh, khách quan và có khả năng đánh giá chính xác năng lực, trình độ nhân sự . 3.2.5. Tăng cƣờng đầu tƣ và cải tiến công nghệ ngân hàng. Trước hết của NHCTVN cần tiếp tục hoàn thiện chương trình Tài trợ thương mại đã được triển khai từ năm 2003, đặc biệt là phần hành kỹ thuật đối với nghiệp vụ bảo lãnh: Cài đặt phông tiếng Việt trong giao diện phát hành bảo lãnh để đảm bảo các bảo lãnh trong nước bằng tiếng Việt cũng được phát hành và quản lý trong chương trình, đảm bảo số liệu được báo cáo và phản ánh chính xác trên sổ sách kế toán, thuận tiện cho việc tra soát và lưu trữ hồ sơ. 81 Hoàn thiện giao diện đối với hoạt động tái bảo lãnh để thực hiện việc phát hành và quản lý bảo lãnh gián tiếp trong hệ thống, đáp ứng yêu cầu kết nối trực tiếp với bảo lãnh đối ứng của nó về điều kiện bảo lãnh, số tiền, người thụ hưởng; đảm bảo số liệu tái bảo lãnh được báo cáo và hạch toán chính xác. Hệ thống báo cáo bảo lãnh trong chương trình TF hiện không cung cấp được các báo cáo theo tiêu chí cần để quản lý. Việc lấy số liệu báo cáo NHNN được thực hiện bằng việc vào sổ tay theo dõi thủ công. Ngoài ra, hệ thống thường xuyên báo cáo sai số liệu: bảo lãnh đã hết hạn vẫn nằm trong số dư bảo lãnh còn hiệu lực, sai số liệu ký quỹ… Khắc phục tình trạng này, NHCTVN cần hoàn thiện ngay hệ thống báo cáo bảo lãnh trong chương trình Trade Finance, đảm bảo số liệu báo cáo được phản ánh chính xác và theo đúng các tiêu chí báo cáo mà NHNN yêu cầu. Tăng cường sự kết nối giữa chương trình Trade Finance với các chương trình khác: Trong phần cấp hạn mức của chương trình quản lý tín dụng cần bỏ yêu cầu kết nối với phần hạch toán ký quỹ của chương trình TF. Vì khi chưa cấp hạn mức cho giao dịch bảo lãnh của khách hàng trong chương trình tín dụng thì cán bộ thanh toán không thể nhập giao dịch bảo lãnh vào chương trình TF. Điều đó có nghĩa là số tiền ký quỹ chưa hạch toán được vào TF thì cũng không thể kết nối thông tin với chương trình tín dụng. Phần thông tin về ký quỹ có thể cho phép cán bộ tín dụng tự nhập tay theo đúng hồ sơ bảo lãnh Sau khi triển khai dự án hiện đại hoá năm 2003, do yêu cầu công nghệ và phần mềm từ đối tác chuyển giao, số liệu ngoại bảng của bảo lãnh không được hạch toán chi tiết theo từng khách hàng như trước mà chỉ được phân loại chung theo loại hình bảo lãnh. Vì vậy, chương trình hạch toán cần sớm tách số dư ngoại bảng bảo lãnh theo từng khách hàng, đáp ứng cho việc giám sát hạn mức và số dư của khách hàng, đảm bảo sự thuận tiện, dễ dàng giữa việc đối chiếu số liệu kế toán với số liệu bảo lãnh được thống kê trong chương trình Trade Finance. 82 Cần cài đặt sự kết nối giữa chương trình Trade Finance với chương trình kế toán trong việc nhập và kiểm soát các tài khoản trên hệ thống Trade Finance. Hiện tại, việc nhập tài khoản khách hàng vào chương trình TF chỉ cần một thanh toán viên thực hiện mà không cần qua khâu kiểm soát. Do không có sự kết nối giữa chương trình Trade Finance và chương trình kế toán, nên chương trình Trade Finance không phân biệt được tài khoản được nhập vào có đúng là số tài khoản của khách hàng đó hay không. Nếu thanh toán viên có nhập số tài khoản của khách hàng này cho khách hàng kia, nhập số tài khoản của cùng một khách hàng nhưng được mở tại chi nhánh khác… thì giấy báo nợ, báo có được in ra vẫn dưới tên đúng của khách hàng tại chi nhánh nên rất khó phát hiện ra sai sót. Trên thực tế, sai sót này đã xảy ra tại rất nhiều chi nhánh và rất nghiêm trọng nhưng chưa được khắc phục trong suốt 5 năm triển khai dự án hiện đại hoá ngân hàng. Với sai sót này, khách hàng gian lận có thể chiếm đoạt tiền nếu số tiền báo có bị hạch toán nhầm quá lớn. Ngay cả trong trường hợp khách hàng không gian lận thì việc hạch toán sai như vậy sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự đảm bảo an toàn của ngân hàng. Để khắc phục vấn đề này, bộ phận kỹ thuật cần sớm thiết lập sự kết nối giữa chương trình kế toán với chương trình Trade Finance trong việc kiểm soát số tài khoản được nhập vào hệ thống Trade Finance, đảm bảo chương trình Trade Finance sẽ nhận biết được số tài khoản đúng của từng khách hàng. Khi tài khoản được nhập vào sai, chương trình sẽ tự động không chấp nhận. Ngay cả khi có sự nhận biết của chương trình, thiết kế kỹ thuật cũng phải đảm bảo việc nhập tài khoản phải qua khâu kiểm tra của cán bộ kiểm soát để kịp thời phát hiện sự nhầm lẫn, sai sót của thanh toán viên. Ngoài ra, NHCTVN cũng cần quan tâm đầu tư phát triển công nghệ cho các hoạt động liên quan: Sớm hình thành và đưa vào sử dụng một chương trình quản lý công văn, văn bản do NHCTVN ban hành, có kết nối với các chi nhánh để đảm bảo việc gửi và nhận công văn nhanh chóng, chắc chắn. Chương trình sẽ thực hiện lưu trữ các văn bản, công văn theo từng mảng hoạt động nghiệp vụ, 83 từng thời gian ban hành…phục vụ nhu cầu tra cứu một cách thuận tiện và nhanh chóng các văn bản, chế độ áp dụng cho từng hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng trong đó bao gồm cả hoạt động bảo lãnh. 3.2.7. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, kiểm soát. Thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ trong từng khâu, từng bước của nghiệp vụ bảo lãnh. Ngoài các khâu kiểm soát của các cán bộ lãnh đạo phòng Thanh toán quốc tế tại TSC và tại chi nhánh, những phòng có khối lượng giao dịch thanh toán quốc tế lớn có thể chia ra làm nhiều tổ: tổ bảo lãnh, tổ L/C nhập, tổ L/C xuất, tổ chuyển tiền… mỗi tổ đều có cán bộ kiểm soát cấp 1 kiêm tổ trưởng có trình độ, có ý thức tốt để kịp thời phát hiện ra các sai sót về chuyên môn nghiệp vụ, nhắc nhở các cán bộ khác trong các trường hợp bị quên, nhầm trong quy trình xử lý nghiệp vụ. Bộ phận kiểm tra kiểm soát chuyên trách của NHCTVN chủ yếu chỉ có các cán bộ có nghiệp vụ tín dụng và kế toán. Bộ phận này cần bổ xung thêm các cán bộ có trình độ thanh toán quốc tế, am hiểu nghiệp vụ bảo lãnh XNK phục vụ cho việc kiểm tra kiểm soát nghiệp vụ này, đảm bảo phát hiện ra các sai sót về mặt nghiệp vụ cũng như các bất cập về mặt tổ chức để có biện pháp hạn chế và khắc phục kịp thời. 3.3 GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XNK. Phát triển bảo lãnh nói chung và bảo lãnh XNK nói riêng không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà nó còn phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp XNK. Trình độ thanh toán quốc tế cũng như sự am hiểu thương mại, luật và tập quán quốc tế của các doanh nghiệp XNK có ảnh hưởng trực tiếp đến độ an toàn cho cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh XNK . Rất nhiều doanh nghiệp XNK hiện nay còn thiếu một đội ngũ cán bộ XNK chuyên trách. Ngay cả khi có cán bộ XNK thì kiến thức về bảo lãnh của cán bộ cũng còn hạn chế. Nhiều cán bộ không nắm được các thông lệ điều chỉnh bảo lãnh như URDG 458, ISPB và các nguyên tắc cơ bản của nó, không nắm được tập quán cũng như luật áp dụng tại nước của đối tác, không nắm được bảo 84 lãnh được sử dụng trong những trường hợp nào và những yêu cầu đặc thù của từng loại hình bảo lãnh. Nhiều doanh nghiệp lại không ý thức được vai trò của bảo lãnh khi ký kết hợp đồng. Họ quan niệm đơn giản rằng bảo lãnh chỉ là một hình thức cần phải có vì nó không liên quan trực tiếp đến việc thanh toán, phát hành bảo lãnh để đáp ứng theo yêu cầu của khách hàng nước ngoài mà không ý thức được rằng bảo lãnh có thể là phương tiện để lạm dụng và lừa đảo của đối tác nước ngoài. Có những doanh nghiệp ý thức được vai trò đảm bảo của bảo lãnh và yêu cầu đối tác nước ngoài phát hành bảo lãnh nhưng vì thiếu kiến thức về thanh toán quốc tế nên chấp nhận cả bảo lãnh do khách hàng nước ngoài phát hành, chấp nhận các bảo lãnh phát hành bằng đường thư mà không cần qua ngân hàng xác thực chữ ký. Nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến vấn đề giá cả mà không cẩn thận đúng mức trong việc lựa chọn đối tác nước ngoài. Thấy công ty nước ngoài chào bán với giá thấp, có doanh nghiệp vội vàng chuyển tiền khi nhận được bảo lãnh tạm ứng bằng thư trong khi công ty nước ngoài là khách hàng giao dịch lần đầu, mọi thông tin về khách hàng nước ngoài, doanh nghiệp chỉ được biết qua trang web của công ty với tư cách pháp nhân chưa được kiểm định. Khi ngân hàng tư vấn nên đề nghị với ngân hàng nước ngoài phát hành bảo lãnh xác nhận lại bằng điện SWIFT có xác thực thì doanh nghiệp cho rằng ngân hàng gây khó dễ, giả làm bản sửa đổi hợp đồng và chuyển tiền tại ngân hàng khác. Hậu quả là đối tác nước ngoài nhận tiền mà không giao hàng theo như hợp đồng đã ký. Đòi tiền theo bảo lãnh thì ngân hàng nước ngoài thông báo chữ ký trên bảo lãnh là chữ ký giả mạo mà không phải chữ ký của ngân hàng. Sự thiếu hợp tác với ngân hàng, chưa đánh giá đúng vai trò tư vấn và hỗ trợ của ngân hàng cũng là một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp XNK dễ gặp rủi ro trong hoạt động bảo lãnh XNK tương tự như trường hợp đã đề cập ở trên. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động bảo lãnh XNK, tránh các rủi ro có 85 thể xảy ra đối với ngân hàng cũng như đối với chính các doanh nghiệp, các doanh nghiệp XNK Việt Nam cần quan tâm thực hiện tốt các vấn đề sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp phải quan tâm thích đáng đến công tác cán bộ. Các doanh nghiệp phải đảm bảo có một đội ngũ cán bộ chuyên trách, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật thương mại quốc tế và thanh toán XNK đáp ứng cho hoạt động XNK. Doanh nghiệp cần tuyển dụng các cán bộ được đào tạo đúng chuyên môn về ngoại thương. Doanh nghiệp cần tổ chức cho các cán bộ chuyên trách nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, tìm hiểu tư cách pháp lý, năng lực và hành vi kinh doanh của các đối tác nước ngoài, tìm hiểu các thông lệ quốc tế, luật thương mại, luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh của nước đối tác cũng như các thay đổi điều kiện pháp lý trong và ngoài nước... Việc nghiên cứu này sẽ giúp các doanh nghiệp lựa chọn các hình thức thanh toán cũng như loại hình bảo lãnh phù hợp khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Đội ngũ cán bộ có trình độ sẽ giúp thoả thuận các điều kiện bảo lãnh rõ ràng, hạn chế các trường hợp bị các đối tác lợi dụng hoặc lừa đảo qua việc phát hành bảo lãnh hoặc thực hiện các giao dịch liên quan đến bảo lãnh. Để nâng cao trình độ cán bộ, đảm bảo cập nhật kiến thức mới, các doanh nghiệp XNK cần quan tâm đến việc đào tạo nghiệp vụ ngoại thương cho cán bộ XNK như cử cán bộ đi học tại các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học, các tổ chức trong và ngoài nước tổ chức. Doanh nghiệp có thể thuê các chuyên gia giảng dạy, mở các lớp chuyên đề về các phương thức thanh toán quốc tế trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh nhằm giúp cán bộ nâng cao trình độ về thanh toán quốc tế, mối quan hệ giữa bảo lãnh với các phương thức thanh toán khác, các nguyên tắc của bảo lãnh cũng như các tập quán và luật áp dụng trong nghiệp vụ bảo lãnh. Doanh nghiệp cũng như các cán bộ chuyên trách của doanh nghiệp cần có sự quan tâm đến nghiệp vụ bảo lãnh tương đương như các phương thức thanh 86 toán quốc tế khác để có ý thức học tập, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm về nghiệp vụ này vì nghiệp vụ bảo lãnh tuy ít phát sinh nhưng lại tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do các đặc trưng như tính vô điều kiện, mức độ chi phối của luật áp dụng lớn hơn nhiều các phương thức thanh toán khác, các tập quán và quy tắc áp dụng có nhiều sự khác biệt thậm chí mâu thuẫn với nhau. Thứ hai, các doanh nghiệp XNK cần có sự cẩn thận trong việc lựa chọn đối tác nước ngoài. Trước khi ký hợp đồng các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ đối tác của mình, nắm đủ thông tin để lựa chọn đối tác có uy tín trên thị trường. Khi tiến hành cần cân nhắc, xem xét và tìm hiểu thật kỹ điều khoản, điều kiện ký kết đ ể tránh trường hợp bị lừa đảo, gian lận cho dù là người phát hành bảo lãnh hay thụ hưởng bảo lãnh. Bởi vì nếu gặp những đối tác lừa đảo, gian lận thì việc tranh chấp hoặc kiện tụng sẽ rất tốn kém, mất thời gian và thiệt hại là rất khó bù đắp được. Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần giữ uy tín trong quan hệ XNK với đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp không nên vì lợi nhuận trước mắt mà có những hành vi lạm dụng, thiếu trung thực như không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng nhưng không chịu thanh toán theo thư bảo lãnh khi bị đòi bồi thường, lợi dụng các điều khoản, điều kiện chưa chặt chẽ trong thư bảo lãnh để đòi tiền trong khi đối tác đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình… Có quan niệm đúng đắn trong hoạt động kinh doanh XNK cũng như làm tốt được vấn đề này cũng sẽ giúp doanh nghiệp tìm được các đối tác tốt, thiết lập quan hệ mua bán lâu dài, hạn chế bị gian lận, lừa đảo. Thứ tư, các doanh nghiệp XNK Việt Nam cần có sự kết hợp chặt chẽ với ngân hàng. Sự kết hợp với ngân hàng phải được thực hiện ngay từ trước khi ký kết hợp đồng, đặc biệt đối với các hợp đồng giá trị lớn, đối tác mới: doanh nghiệp có thể nhờ ngân hàng tư vấn trước khi ký hợp đồng về các vấn đề như: có cần sử 87 dụng bảo lãnh trong hợp đồng như vậy hay không, nếu có thì thời hạn bảo lãnh như thế nào, số tiền bảo lãnh ra sao, sự kết hợp với các phương thức thanh toán được thoả thuận trong hợp đồng cũng như các điều khoản, điều kiện của bảo lãnh... Khi đàm phán với đối tác nước ngoài nên dựa trên cơ sở những ý kiến tư vấn của ngân hàng, không để đối tác áp đặt các điều khoản, điều kiện bất lợi, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng cần có sự trao đổi thông tin thường xuyên với ngân hàng: nếu phát hiện người thụ hưởng có dấu hiệu lợi dụng, gian lận trong quá trình thực hiện hợp đồng thì cần thông báo kịp thời cho ngân hàng để cùng tìm biện pháp ngăn chặn, tránh tình trạng do ngân hàng thiếu thông tin, thực hiện thanh toán ngay cho người hưởng khi bị đòi tiền theo thư bảo lãnh. Trường hợp doanh nghiệp Việt Nam là người thụ hưởng bảo lãnh, doanh nghiệp cần tham khảo ý kiến tư vấn của ngân hàng về nội dung thư bảo lãnh do ngân hàng nước ngoài phát hành có tuân thủ đúng các quy định trong hợp đồng hay không, điều kiện bảo lãnh đã hợp lý chưa. Nếu phát hiện thấy các điều kiện bất lợi hoặc không đúng thoả thuận trong hợp đồng thì phải yêu cầu đối tác nước ngoài chỉnh sửa kịp thời. Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần thực hiện đúng trách nhiệm của mình theo hợp đồng bảo lãnh đã ký với ngân hàng cũng như chịu trách nhiệm về nội dung thư đề nghị phát hành bảo lãnh: Nếu bị người hưởng đòi tiền do vi phạm hợp đồng thì cần phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình theo đúng quy định, nếu bị lợi dụng hoặc lừa đảo thì có thể tìm kiếm bằng chứng chứng minh sự lừa đảo của đối tác nước ngoài với ngân hàng để ngân hàng tạm thời không thanh toán, trong trường hợp cần thiết có thể cung cấp bằng chứng và xin lệnh không thanh toán từ toà án. Trong bất kỳ trường hợp nào doanh nghiệp cũng không nên lảng tránh trách nhiệm của mình bằng việc lợi dụng hoặc viện dẫn những điều khoản chưa chặt chẽ trong hợp đồng bảo lãnh đã ký với ngân hàng để trốn trách nhiệm thanh toán. Việc lảng tránh trách nhiệm, thiếu sự kết hợp với ngân hàng trong những trường hợp như vậy chỉ tạo điều kiện cho người hưởng 88 nếu người hưởng gian lận hoặc gây tổn thất về tài chính cũng như về uy tín cho chính bản thân doanh nghiệp nếu doanh nghiệp vi phạm hợp đồng nhưng lại đổ trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Trường hợp doanh nghiệp là người thụ hưởng bảo lãnh và bị đối tác nước ngoài vi phạm hợp đồng, doanh nghiệp cần thông báo ngay cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của thư bảo lãnh và nhờ ngân hàng thực hiện thủ tục đòi tiền theo đúng quy định trong thư bảo lãnh. Việc quan tâm thực hiện tốt các vấn đề trên của doanh nghiệp sẽ giúp cho hoạt động bảo lãnh XNK có hiệu quả hơn, hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cho cả doanh nghiệp cũng như ngân hàng đồng thời tăng cường mối quan hệ và sự hợp tác giữa ngân hàng và khách hàng không chỉ giới hạn trong hoạt động bảo lãnh. 3.4 KIẾN NGHỊ VỚI NHNN. Có thể nói, tại Việt Nam hiện còn thiếu một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh nước ngoài. Ngoài các bộ luật như luật Dân sự, luật Thương mại, luật Ngân hàng, hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại hiện tại được điều chỉnh bởi “Quy chế bảo lãnh ngân hàng” ban hành kèm theo quyết định số 26/2006/QĐ - NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc NHNNVN. Trong quy chế, NHNN chỉ đưa ra các quy định chung cho hoạt động bảo lãnh, còn thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể cho hoạt động bảo lãnh nước ngoài. Quy chế chưa thực sự phát huy hết tác dụng điều chỉnh, hướng dẫn các ngân hàng thương mại khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh nước ngoài. Để xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động bảo lãnh, NHNNVN cần quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống văn bản dưới luật điều chỉnh nghiệp vụ, là đầu mối kiến nghị với chính phủ, nhà nước trong việc bổ sung các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động bảo lãnh. Thứ nhất, cần sửa đổi một số quy định trong quy chế bảo lãnh ngân hàng: 89 Điều 5, chương I của Bảo lãnh nên được phân loại ít nhất là 4 tiêu chí: theo đối tượng thụ hưởng bảo lãnh (bảo lãnh nước ngoài và bảo lãnh trong nước); theo điều kiện thanh toán (bảo lãnh có điều kiện và bảo lãnh vô điều kiện); theo mối quan hệ trong bảo lãnh (bảo lãnh trực tiếp và bảo lãnh gián tiếp…) và theo tiêu chí cuối cùng như đã quy định trong quy chế hiện hành. Việc phân loại như vậy là cần thiết do trên thực tế việc phân loại bảo lãnh phục vụ cho công tác quản lý, báo cáo, định hướng phát triển bảo lãnh… không chỉ theo đối tượng bảo lãnh mà còn theo nhiều tiêu chí khác. Thứ hai, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các thông lệ và quy tắc quốc tế vào giao dịch bảo lãnh nước ngoài như URDG 458, ISP 98. Hiện tại, điều 22 chương 2 quy chế bảo lãnh có quy định: “Các bên có thể thoả thuận áp dụng các quy tắc, tập quán và thông lệ quốc tế về bảo lãnh ngân hàng nếu các quy tắc, tập quán và thông lệ đó không trái với quy định của pháp luật Việt Nam”. Với quy định này, cán bộ thực hiện nghiệp vụ tại các ngân hàng thương mại rất khó khăn để xác định nội dung các thông lệ có trái với quy định của luật pháp hay không, trái ở những quy định nào? NHNN là cơ quan quản lý với đội ngũ chuyên viên, cán bộ nghiên cứu để ban hành các văn bản chế độ áp dụng trong toàn nghành sẽ có điều kiện để xác định chính xác hơn việc thông lệ nào được phép áp dụng, quy định nào trong thông lệ không được phép áp dụng để đảm bảo phù hợp với quy định của luật pháp Việt Nam và đưa ra quy định, hướng dẫn cụ thể đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc vận dụng quy tắc, điều khoản của các tập quán, thông lệ quốc tế. Việc ban hành văn bản hướng dẫn việc vận dụng các thông lệ, quy tắc trong hoạt động bảo lãnh còn là cơ sở để toà án, trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp trong giao dịch bảo lãnh. Mặc dù theo nguyên tắc của ICC- nơi ban hành các quy tắc điều chỉnh hoạt động bảo lãnh- thì luật quốc gia luôn vượt lên trên các quy tắc do ICC ban hành, nhưng khi xét xử các vụ tranh chấp bảo 90 lãnh tại Việt Nam. Nhưng nếu các cơ quan xét xử chỉ hoàn toàn dựa vào luật pháp Việt Nam mà bỏ qua các quy tắc được dẫn chiếu trong thư bảo lãnh sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của các ngân hàng và các doanh nghiệp trong nước do các đối tác nước ngoài sẽ mất lòng tin khi quy tắc được thoả thuận dẫn chiếu không còn ý nghĩa điều chỉnh giao dịch khi tranh chấp phát sinh. Do vậy, NHNN khi ban hành văn bản về việc vận dụng các thông lệ, các quy tắc quốc tế vào giao dịch bảo lãnh còn cần có quy định cụ thể về trường hợp nào cần tuân thủ theo đúng các nguyên tắc đã dẫn chiếu trong giao dịch, trường hợp nào thì vận dụng các quy định trong luật pháp của Việt Nam. Thứ ba, NHNN cần ban hành các mẫu biểu bảo lãnh thống nhất để các ngân hàng thương mại làm cơ sở áp dụng. Các mẫu thư bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại hiện tại được sử dụng trên cơ sở tham khảo các mẫu thư bảo lãnh của ICC, hoặc theo mẫu mà khách hàng yêu cầu. Điều này tạo ra sự không thống nhất giữa các ngân hàng, là tiền đề tạo ra những rủi ro và tranh chấp trong các giao dịch bảo lãnh. Với vai trò hướng dẫn các ngân hàng thương mại, NHNN cần nghiên cứu các mẫu biểu của ICC cũng như thực tế tại Việt Nam để ban hành các mẫu thư bảo lãnh thống nhất, làm cơ sở để các ngân hàng thương mại vận dụng vào thực tế. Các bảo lãnh trong nước do các ngân hàng thương mại phát hành còn liên quan đến quy định của rất nhiều bộ ngành như các quy định của Bộ Xây dựng, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế …Vì vậy, NHNN nên là đầu mối phối hợp với các ban ngành liên quan xây dựng các quy định chung về các thủ tục, các mẫu biểu văn bản thống nhất phát sinh trong mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng và ngân hàng, trong đó có các mẫu thư bảo lãnh, hạn chế sự phiền hà, mất thời gian cho các doanh nghiệp XNK trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình. Thứ tư, NHNN cần kết hợp với các cơ quan chức năng như bộ Thương mại, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam… dự thảo và kiến nghị đưa 91 vào hệ thống luật các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng. Việc xác định hợp đồng bảo lãnh (giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng bảo lãnh) và hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo lãnh (giữa ngân hàng và người đề nghị phát hành bảo lãnh) là hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự còn chưa rõ ràng. Một số quan điểm cho rằng, theo quy định của Bộ luật Dân sự thì tất cả hợp đồng bảo đảm là hợp đồng dân sự, điều đó có nghĩa là hợp đồng bảo lãnh giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng phải được được coi là hợp đồng dân sự. Trong khi có một số quan điểm cho rằng nếu coi hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng dân sự sẽ không phù hợp với pháp luật về hợp đồng kinh tế: Nếu người đề nghị phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng đều là doanh nghiệp thì cả hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng cung cấp dịch vụ đều thoả mãn các điều kiện của hợp đồng kinh tế vì các hợp đồng này đều được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh, các bên tham gia đều có đủ tư cách pháp nhân và đều nhằm mục đích kinh doanh. Bên cạnh đó, việc coi các hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo lãnh có độc lập với hợp đồng cơ sở hay không cũng là vấn đề còn gây tranh cãi. Một số quan điểm cho rằng vì hợp đồng cung cấp dịch vụ và hợp đồng bảo lãnh phát sinh dựa trên hợp đồng cơ sở nên nó phụ thuộc vào hợp đồng cơ sở. Nếu ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì người thụ hưởng phải tiến hành kiện người đề nghị phát hành bảo lãnh theo hợp đồng cơ sở mà không có quyền kiện ngân hàng. Ngân hàng chỉ tham gia với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Một số quan điểm khác lại cho rằng, mặc dù phát sinh dựa trên hợp đồng cơ sở nhưng các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong từng hợp đồng lại độc lập với các hợp đồng khác nên không thể coi các hợp đồng này phụ thuộc với nhau khi xảy ra tranh chấp. Chẳng hạn khi ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nghĩa là đã vi phạm hợp đồng bảo lãnh với người thụ hưởng, người thụ hưởng hoàn toàn có quyền khởi kiện ngân hàng theo các cam 92 kết mà ngân hàng đã đưa ra trong thư bảo lãnh. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của ICC và thông lệ giao dịch bảo lãnh trên thị trường quốc tế. Như bất kỳ hoạt động kinh tế nào, trong hoạt động bảo lãnh luôn có khả năng xảy ra các tranh chấp cần có sự can thiệp của luật pháp. Vì vậy, việc đưa vào hệ thống luật pháp các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp trong hoạt động bảo lãnh như việc xác định các hợp đồng trong giao dịch bảo lãnh thuộc loại nào? các hợp đồng đó độc lập hay phụ thuộc lẫn nhau...là hết sức cần thiết. Nó đảm bảo tạo ra một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động bảo lãnh, sự yên tâm cho các bên tham gia từ đó thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. 93 KẾT LUẬN Cùng với việc mở rộng cửa thị trường tài chính ngân hàng sau hội nhập WTO, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ diễn ra ngày càng gay gắt. Trong chiến lược phát triển đến năm 2010 của NHCTVN, bên cạnh việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại thì việc đầu tư để tiếp tục mở rộng, phát triển các loại hình dịch vụ truyền thống cũng là một hướng đi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường sức cạnh tranh của ngân hàng. Phát triển hoạt động bảo lãnh XNK trong sự phát triển đồng bộ các dịch vụ phục vụ hoạt động XNK của nền kinh tế là một phần trong hướng đi chiến lược đó. Với mong muốn đóng góp vào việc đẩy mạnh phát triển bảo lãnh của NHCTVN đối với hoạt động bảo lãnh XNK, luận văn đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, hệ thống hoá cơ sở lý luận về bảo lãnh ngân hàng bao gồm: khái niệm, đặc điểm, các loại hình bảo lãnh, cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo lãnh quốc tế, vai trò, chức năng của bảo lãnh đối với hoạt động XNK, sự phát triển bảo lãnh đối với hoạt động XNK và các nhân tố ảnh hưởng. Thứ hai, nghiên cứu và phân tích thực trạng bảo lãnh của NHCTVN đối với hoạt động XNK. Đưa ra các đánh giá về dịch vụ bảo lãnh của NHCTVN đối với hoạt động XNK, nêu những thành công và tồn tại đồng thời chỉ ra một số nguyên nhân căn bản dẫn đến những hạn chế đó. Thứ ba, đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy mạnh phát triển dịch vụ bảo lãnh đối với hoạt động XNK tại NHCTVN đồng thời kiến nghị với các doanh nghiệp XNK, NHNN một số vấn đề nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ bảo lãnh của NHCTVN đối với hoạt động XNK. Hy vọng rằng những vấn đề mà luận văn đưa ra sẽ có ý nghĩa nhất định đối với thực tiễn phát triển bảo lãnh đối với hoạt động XNK tại NHCTVN. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như hạn chế về khả năng của tác giả nên chắc chắn luận văn không tránh khỏi các thiếu sót. Tác giả luận văn rất mong nhận được sự 94 chỉ dẫn từ các nhà khoa học cũng như các ý kiến đóng góp từ các đồng nghiệp và độc giả. 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Quốc hội, Luật dân sự , Hà nội 2. Quốc hội, Luật thương mại, Hà nội 3. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2007), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2008, Hà nội. 4. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2006), Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2007, Hà nội. 5. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2006), Quy chế Tài trợ thương mại và các quy trình, quy định về nghiệp vụ tài trợ thương mại, Hà nội. 6. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2007), Tài liệu tổng kết 15 năm hoạt động kinh doanh đối ngoại 1991-2006, Hà nội. 7. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên, Hà nội 8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Quyết định số 26/2006/QĐ - NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng, Hà nội. 9. Nguyễn Trọng Thuỳ (2000), Bảo lãnh - Tín dụng dự phòng và những điều luật áp dụng, Nxb Thống kê, Hà nội. Tiếng Anh 10. Dresdner Bank (2005), International Guarantee Business, Frankfurk, Germany 11. ING - BHF Bank (2005), Bank Guarantee Seminar, Frankfurk, Germany 12. International Chamber of Commerce (1998), The International Standby Practices, Paris 13. International Chamber of Commerce (1992), Uniform Rules for Demand Guarantee 458, Paris 96 14. International Chamber of Commerce (1993), Uniform Rules for Contract Bond 325, Paris 15. The US Uniform Commercial Code, Revised Article 5 16. Union bank of Switzerland (2003), Bank Guarantee, Switzerland Các trang Web 17. www.vietinbank.com.vn 18. www.iccbooks.com 19. www.sbv.gov.vn 20. www.dddn.com.vn 21. www.investopedia.com 22. www.bankofamerica.com 23. www.ec.europa.eu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3206_054.pdf
Luận văn liên quan