Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ
nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này
không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức
năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền
hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với
việc cấp tín dụng thông thường.
+ Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập
nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt
nhau.
41 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3112 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
¹n
11. Th
anh
to¸n
§¬n vÞ BTT NK
1. H§ b¸n hµng
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
12
Quy trình này thường sử dụng trong bao thanh toán quốc tế (xuất nhập khẩu hàng
hoá). Sau đây là quá trình thực hiện:
(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm bảo
chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
(3) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu cùng
thực hiện hợp đồng bao thanh toán.
(4) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình
hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng.
(5) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán với
đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp thuận tài trợ cho
người bán.
(6) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng
bao thanh toán.
(7) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
(8) Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng hóa, chứng từ bán hàng
và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất
khẩu.
Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tiếp tục chuyển nhượng các chứng từ trên cho đơn
vị bao thanh toán nhập khẩu.
(9) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thỏa
thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
(10) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ
từ người mua.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
13
(11) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
(12) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số tiền
còn lại cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu.
(13) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho
người bán.
1.1.5. Tiện ích và rủi ro khi sử dụng công cụ bao thanh toán
1.1.5.1. Tiện ích của bao thanh toán
a) Đối với người bán
Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn.
Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh phát triển.
Bao thanh toán là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu thành tiền mặt. Đối
với bất kỳ một người bán nào, tiền mặt là quyền lực và sức mạnh. Không có tiền mặt,
người bán không thể tồn trữ nhiều hàng hơn, cũng không có tiền để trả lương cho công
nhân viên. Bao thanh toán không phân biệt khách hàng là ai, đó có thể là một công ty in
ấn, một cửa hàng bán công cụ máy móc, một nhà máy dệt may, một doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ hay bất cứ một chủ thể nào của nền kinh tế. Mỗi
một đơn vị bao thanh toán, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ là một
cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng thuận lợi và phát
triển hơn.
Người bán có thể yên tâm vì các đơn vị bao thanh toán hoàn toàn có đủ năng lực
chuyên môn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết thông thái về từng
lĩnh vực chuyên môn để có thể thực hiện tốt công việc của mình.
Ở một số tổ chức bao thanh toán chuyên nghiệp, người bán thậm chí có thể nhận
được tiền ngay trong ngày đề nghị bao thanh toán. Nói một cách ngắn gọn, các tổ chức
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
14
bao thanh toán giúp người bán lấp được lỗ hỗng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian
từ khi giao hàng đến khi được người mua thanh toán.
Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, hấp dẫn làm mãi lực tăng
mạnh, từ đó nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào càng sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn.
Là một đối tác tài chính, các tổ chức bao thanh toán sẽ đem lại cho người bán nguồn
lực tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ thêm nhiều hàng tồn kho,
cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới. Các tổ
chức bao thanh toán luôn khẳng định mình sẽ luôn sát cánh với khách hàng, thấu hiểu
mọi nhu cầu của họ, và thiết lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ.
Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng thiếu vốn khi muốn phát triển tình hình
kinh doanh của doanh nghiệp mình. Khi đó, bao thanh toán sẽ là phương tiện rất hiệu quả
giúp họ vượt qua khó khăn. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một người
bán đưa ra giá thấp nhất mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng chính điều đó lại đẩy
người bán vào tình thế khó xử, càng phát triển lại càng phải bán chịu nhiều hơn. Thật
không may là phần lớn người bán không thể nào xoay xở được với tất cả các khoản bán
chịu này. Dù việc buôn bán có phát đạt đến thế nào thì tới một lúc người bán cũng nhận
thấy rằng mình đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm.
Các tổ chức bao thanh toán sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển các hóa đơn
chưa thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cấp tín dụng
thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro thanh khoản nữa. Hệ quả trực
tiếp của việc này là người bán nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình nhờ sẵn sàng
chấp nhận khoảng thời gian bán chịu hấp dẫn người mua hơn.
Các tổ chức bao thanh toán cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh vực tín dụng,
thu hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người bán nâng cao được hiệu
quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được mất mát do không thu hồi được nợ,
đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu chuyển tiền tệ. Nhờ mọi rắc rối kể trên đã được
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
15
chuyển sang cho tổ chức bao thanh toán nên người bán có thể toàn tâm toàn ý tập trung
vào việc sản xuất hay cung ứng hàng hóa.
Nói tóm lại, người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ:
o Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà không sợ ảnh hưởng đến dòng lưu chuyển
tiền tệ;
o Tăng doanh số;
o Tăng tồn trữ hàng tồn kho;
o Cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ;
o Tận dụng thế mạnh của chiết khấu thương mại;
o Nâng hạng tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng;
o Tìm kiếm nhiều cơ hội mới, mở rộng giao thương quốc tế.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất.
Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải mất
thời gian quản lý các khoản phải thu từ người mua. Nếu người bán sử dụng bao thanh
toán, công việc này sẽ được chuyển cho đơn vị bao thanh toán. Người bán không còn
phải tốn chi phí để duy trì và điều hành một bộ phận chuyên trách việc xem xét khách
hàng có đủ điều kiện mua chịu hay không, cũng như phải kiểm tra và thu hồi các khoản
nợ này nữa. Với kinh nghiệm, nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản
của mình, các tổ chức bao thanh toán sẽ giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp và hiệu
quả mọi vấn đề liên quan đến các hóa đơn và việc thu hồi nợ. Châm ngôn của các tổ chức
bao thanh toán lúc này là “Hãy để chúng tôi làm những việc mà chúng tôi làm tốt nhất,
còn bạn, hãy làm những việc mà bạn làm tốt nhất !Chúng ta hãy cùng là đối tác tốt của
nhau.”
b) Đối với người mua
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
16
Thứ nhất, nhà nhập khẩu có thể giảm gánh nặng tài chính: do việc nhà nhập khẩu
không phải mở thư tín dụng, không phải trả phí mở thư tín dụng, hay không phải ký
quỹ…
Thứ hai, nhà nhập khẩu được chủ động đối với hàng hóa: được nhận hàng và sử
dụng hàng mà chưa cần phải thanh toán tiền ngay, và chỉ phải thanh toán tiền hàng khi
hàng đáp ứng được các yêu cầu của hợp đồng mua bán.
Thứ ba, nhà nhập khẩu đơn giản hóa thủ tục thanh toán: nhờ tập trung thanh toán
về một đầu mối là ngân hàng
Thứ tư, nhà nhập khẩu có thể mua hàng với điều kiện tài khoản ghi sổ như: mua
giao hàng ngay, mua trả chậm, và nhà nhập khẩu có cơ hội đàm phán điều khoản mua
hàng tốt hơn. Hình thức này hỗ trợ rất lớn cho các nhà nhập khẩu về khả năng thanh
khoản cũng như hoạt động ngân quỹ.
Thứ năm, nhà nhập khẩu cũng giảm được công sức và chi phí trong việc quản lý sổ
sách kế toán, quản lý khoản nợ: vì khi ngân hàng đã kí hợp đồng bao thanh toán với nhà
xuất khẩu thì ngân hàng phải có trách nhiệm trong việc theo dõi, giám sát khoản phải thu
từ phía nhà nhập khẩu. Vậy khi đó nhà nhập khẩu có thể thỏa thuận với ngân hàng trong
việc quản lý sổ sách kế toán cũng như khoản nợ của mình.
c) Đối với đơn vị bao thanh toán
Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán cũng có được một
thuận lợi là được hưởng lợi ích theo quy mô. Các lợi ích đó là:
Thứ nhất, doanh thu hoạt động kinh doanh của đơn vị bao thanh toán sẽ tăng lên
nhanh chóng nhờ các khoản tiền thu được khi thực hiện nghiệp vụ này như phí, lãi suất…
Thứ hai, việc thực hiện bao thanh toán làm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cho
đơn vị bao thanh toán, đem lại tiện ích mới cho khách hàng và nguồn thu không nhỏ cho
ngân hàng. Nghiệp vụ bao thanh toán còn cung cấp một số dịch vụ khác như:
Bảo hiểm rủi ro cho doanh nghiệp
Quản lý các khoản phải thu và thu nợ cho khách hàng
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
17
Tài trợ vốn cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, các đơn vị bao thanh toán có thể loại trừ được các khoản nợ xấu thông qua
thực hiện bao thanh toán có truy đòi. Ngoài ra, quy trình thực hiện bao thanh toán đều
yêu cầu đơn vị bao thanh toán xem xét đến khả năng tài chính của bên mua và bên bán,
hoạt động mua bán phải thực hiện đúng những thỏa thuận và không trái pháp luật, đây là
cơ sở vững chắc trong việc thu hồi các khoản phải thu sau khi đơn vị bao thanh toán đã
mua lại từ bên bán.
Thứ tư, các đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ này cùng lúc cho nhiều khách
hàng nên xét về quy mô sẽ giảm được chi phí cố định liên quan đến các khách hàng đó.
d) Đối với nền kinh tế
BTT có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế trong điều kiện
quốc gia đó còn nhiều hạn chế về luật thương mại và thực thi luật thương mại, hệ thống
luật phá sản và kinh nghiệm quản lý. Đối với những quốc gia này, sự hạn chế về pháp
luật, hành lang pháp luật chưa vững chắc và trình độ quản lý yếu kém là trở ngại lớn cho
hoạt động giao thương trong và ngoài nước. Đặc biệt là trong giao thương quốc tế, các
bên bán rất hạn chế giao dịch đối với bên mua tại các quốc gia có luật thương mại yếu
kém vì cơ sở giao dịch không được bảo đảm. Điều này cũng đồng nghĩa với sự phát triển
của quốc gia đó có nhiều hạn chế, sự hấp dẫn đầu tư cũng giảm sút. Thông qua việc thực
hiện BTT, vấn đề này được cải thiện rất nhiều. Với vai trò hoạt động của mình, các đơn
vị BTT phải có trách nhiệm tư vấn, kiểm tra các nghiệp vụ mua bán chung nhằm bảo đảm
có thể kiểm soát theo dõi khoản phải thu trong tương lai được chặt chẽ và loại trừ được
nợ xấu. Điều này cũng góp phần cải thiện hình ảnh của bên mua tại những quốc gia có
luật thương mại yếu kém đối với bên bán, nhờ vào sự đảm bảo về mặt tài chính và uy tín
của các đơn vị BTT (thông thường là các ngân hàng hay các công ty tài chính chuyên
nghiệp).
1.1.5.2. Rủi ro khi thực hiện bao thanh toán:
Rủi ro gian lận
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
18
Rủi ro gian lận là rủi ro hóa đơn được bao thanh toán (có ứng trước) không tương
ứng với một giao dịch thương mại thực tế nào. Vì vậy, hóa đơn đó không có giá trị pháp
lý và đơn vị bao thanh toán không thể thu nợ từ người mua.
Như đã nói ở trên, đơn vị bao thanh toán ứng trước cho người bán trước khi được
nhận thanh toán từ người mua. Người bán sau khi giao hàng sẽ ký phát hóa đơn đòi tiền
người mua và gửi cho đơn vị bao thanh toán một bảo sao hóa đơn. Phần lớn các gian lận
đều xuất phát từ đây. Người bán có thể ký phát hóa đơn trước khi giao hàng thực tế hoặc
thậm chí ký phát những hóa đơn hoàn toàn không có thật để nhận được tiền ứng trước
của đơn vị bao thanh toán.
Rủi ro thu nợ
Rủi ro thu nợ là rủi ro đơn vị thanh toán không thể thu được nợ đúng hạn và hiệu
quả.
Khác với các nghiệp vụ tín dụng truyền thống khác, rủi ro trong việc thu hồi nợ phụ
thuộc rất nhiều vào uy tín và năng lực tài chính của người mua hàng chứ không phải
người bán. Bên mua hàng là người chịu trách nhiệm trả nợ chính cho đơn vị bao thanh
toán nhưng vì họ không phải là người trực tiếp yêu cầu khoản tín dụng từ đơn vị bao
thanh toán và do đó họ không có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin và tài liệu liên quan
đến khả năng tài chính và tình hình hoạt động của mình cho đơn vị bao thanh toán. Chính
vì vậy, khó khăn lớn nhất của các đơn vị bao thanh toán trong khi thực hiện nghiệp vụ
này là không chắc chắn thu hồi được nợ.
Ngoài ra, đơn vị bao thanh toán có thể gặp rủi ro nếu học cung cấp dịch vụ bao
thanh toán cho hàng được bán theo phương thức ký gửi, hoặc hàng hóa cần được lắp đăt,
hoặc hàng hóa có điều khoản bảo hành cho phép người mu không có quyền yêu cầu
người bán muc lại hoặc giảm giá nếu hàng hóa không đáp ứng được những yêu cầu nhất
định.
Rủi ro thanh khoản
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
19
ĐVBTT có thể gặp khó khăn về tính thanh khoản khi luồng tiền ra và luồng tiền
vào của đơn vị không tương xứng, cả về lượng và thời gian. Khi đó ĐVBTT sẽ không thể
ứng trước cho người bán cho đến khi thu được nợ.
Rủi ro ngoại hối
Đối với nghiệp vụ bao thanh toán xuất – nhập khẩu, khi ứng trước cho người bán
hoặc khi thu nợ từ người mua bằng ngoại tệ, lợi nhuận của đơn vị bao thanh toán có thể
bị ảnh hưởng khi tỷ giá hối đoái thay đổi
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC
NHTM TẠI VIỆT NAM
2.1. Hoạt động bao thanh toán trên thế giới
Hiện nay trên thế giới BTT đã được hầu hết các nước áp dụng và đặc biệt phát triển
ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật... Điển hình các nước có doanh số lớn như Vương
quốc Anh, Ý, Pháp, Đức, Tây Ban Nha… Cho đến nay số nước thực hiện BTT và tham
gia hiệp hội BTT thế giới đã là 72 quốc gia với doanh số thực hiện năm 2007 lên đến
1.299.127 triệu EUR (số liệu của FCI) tăng 14,53 % so với năm 2006. Đây là một con số
không nhỏ, chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP của các nước. Tuy nhiên doanh số BTT
vẫn tập trung chủ yếu ở các nước phát triển thuộc Châu Âu với tỷ trọng BTT năm 2007 là
71.57% chiếm gần 2/3 doanh số BTT trên thế giới, tiếp sau đó là Châu Á với 13.44% và
Châu Mỹ với 11.56 %.
Một thực tế hiện nay là: bao thanh toán trên thế giới hiện nay vẫn chủ yếu là bao
thanh toán trong nước với tỷ trọng BTT trong nước luôn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2001
doanh số bao thanh toán trong nước mới có 664.659 triệu EUR nhưng con số này đã tăng
gần gấp hai lần lên con số 1.153.131 triệu EUR vào năm 2007. Tuy nhiên bao thanh toán
quốc tế trên thế giới tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ nhưng lại phát triển nhanh chóng năm
2007 so với năm 2001 gấp 3.5 lần từ 41.023 triệu EUR năm 2001 lên con số 145.996
triệu EUR năm 2007. Các các nước có doanh số BTT lớn nhất năm 2007 bao gồm: Anh
(286.496 triệu EUR),Ý (122.800 triệu EUR), Pháp (1210660 triệu EUR), Mỹ (97.000
triệu EUR), Nhật (89.000 triệu EUR)…
BTT đã không ngừng phát triển ở các nước phát triển mà còn đang lan rộng qua các
nước đang phát triển như ở khu vực Châu Á,
Bảng 9: Doanh số bao thanh toán của một số quốc gia châu Á
Đơn vị: triệu euro
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
21
(Nguồn: Báo cáo thường niên của FCI)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy tình hình phát triển của hoạt động bao
thanh toán ở các nước khu vực Châu Á. Doanh số liên tục tăng qua các năm chứng tỏ
hoạt động này đã đem lại một lợi ích quan trọng đối với các doanh nghiệp đang thiếu vốn
như hiện nay.
Năm 2004, khi nghiệp vụ bao thanh toán còn chưa xuất hiện ở nước ta, thì tại một
số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan đã khá phát triển rồi. Tuy
rằng tốc độ tăng doanh số bao thanh toán của Việt Nam là khá ấn tượng, nhưng quy mô
của nghiệp vụ bao thanh toán Việt Nam so với các nước châu Á khác là rất nhỏ bé.
2.2. Thực trạng hoạt động bao thanh toán tại các NHTM Việt Nam:
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1990, nhưng
chưa có điều kiện để phát triển. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động bao thanh toán đối
với các doanh nghiệp Việt Nam, ngày 06/9/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của
các tổ chức tín dụng (sau này, gọi là Quy chế 1096). Sự ra đời của văn bản pháp lý này
bước đầu đã tạo động lực thúc đẩy các tổ chức tín dụng triển khai và phát triển dịch vụ
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Trung
Quốc
2640 4315 5830 1430
0
3297
6
5500
0
6730
0
Singapore 2435 2600 2880 2955 3270 4000 4700
Thái Lan 1425 1500 1640 1925 2240 2367 2107
Malaysia 718 730 532 480 468 550 700
Việt Nam 0 0 2 16 43 85 95
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
22
bao thanh toán. Và mãi đến đầu năm 2005, bao thanh toán mới chính thức được triển khai
tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài là những tổ chức thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán đầu tiên. Deutsche Bank AG là đơn vị đầu tiên triển khai dịch
vụ này vào 01/2005. Tiếp đó, là một số ngân hàng khác cũng đồng loạt triển khai dịch vụ
này, như Far East National Bank (02/2005), UFJ Bank (03/2005), City Bank (10/2005)…
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam triển khai thực hiện dịch vụ
bao thanh toán đã tăng lên: Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Á Châu (ACB),
Ngoại thương (VCB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Phương Đông (OCB), Xuất
nhập khẩu (Eximbank), Quốc tế (VIB), Đông Nam Á (Seabank), Việt Á, Nam Á, Phát
triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB), Phát triển nhà Hà Nội (Habubank), Hàng hải
(MSB)… Trong số này, có 4 ngân hàng tham gia vào FCI: Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Kỹ Thương, Ngân hàng TMCP Á Châu và
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Do còn dè dặt trong bước đầu triển khai nên
hiện nay các ngân hàng chủ yếu thực hiện dịch vụ bao thanh toán trong nước có truy đòi.
Tại Việt Nam, nghiệp vụ Bao thanh toán còn khá mới mẻ. Các ngân hàng Việt Nam
cung cấp dịch vụ Bao thanh toán tập trung vào các ngành xuất khẩu thế mạnh như: Dệt
may, da giày, gỗ, điện tử và linh kiện, thủy hải sản đông lạnh… FCI cho biết, doanh số
Bao thanh toán năm 2011 tại Việt Nam đạt 25 triệu EUR, đạt mức tăng trưởng bình quân
1,8 lần trong giai đoạn 2007-2011. Như vậy so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm
2011 là 203.6 tỳ USD thì doanh số bao thanh toán tại Việt Nam thật quả là khiêm tốn.
2.2.1. Dịch vụ bao thanh toán tại một số ngân hàng tại Việt Nam
Một số NHTM phát triển mạnh dịch vụ bao thanh toán tại Việt Nam có thể kể đến như
ACB, Eximbank, BIDV…
2.2.1.1. Hoạt động bao thanh toán tại ACB:
Bao thanh toán tại ACB gồm 2 loại hình: bao thanh toán trong nước (Domestic
factoring) và bao thanh toán xuất nhập khẩu (International factoring). Bao thanh toán
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
23
trong nước là việc bao thanh toán dựa trên Hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó bên bán
hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Bao thanh toán xuất nhập khẩu là việc bao thanh toán dựa trên Hợp đồng xuất nhập khẩu.
Để được ACB bao thanh toán, khoản phải thu phải phát sinh từ hợp đồng mua bán
hàng hóa hợp pháp và thời hạn thanh toán còn lại không quá 180 ngày. ACB sẽ không
thực hiện bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa bị
pháp luật cấm; các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp/đang có tranh chấp; từ các hợp
đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi; các khoản phải thu được gán nợ hoặc cầm cố, thế
chấp hoặc các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán. Sau khi chấp thuận bao thanh toán,
ACB sẽ ký kết Hợp đồng bao thanh toán với bên bán hàng và bên bán hàng thực hiện
việc chuyển nhượng quyền đòi nợ khoản phải thu cho ACB. ACB sẽ ứng trước một số
tiền cho bên bán hàng. Tỷ lệ (hoặc số tiền) ứng trước này do ACB và bên bán hàng thỏa
thuận và được thể hiện trong Hợp đồng bao thanh toán. Khi đến hạn thanh toán, ACB sẽ
thu lại toàn bộ khoản nợ từ bên mua hàng. Số tiền còn lại giữa số tiền thu được từ bên
mua hàng và số tiền ứng trước (sau khi trừ đi lãi và các chi phí khác) sẽ được chuyển vào
tài khoản tiền gửi thanh toán của bên bán hàng mở tại ACB.
Đối tượng bao thanh toán của ACB
a. Bên mua hàng
Bên mua hàng là những khách hàng thỏa mãn các tiêu chí của ACB về quy mô, uy tín,
ngành nghề kinh doanh cũng như khả năng tài chính
Lợi ích của bên mua hàng khi tham gia bao thanh toán:
- Tăng khả năng mua hàng trả chậm, khai thác tối đa lợi ích từ nguồn vốn chiếm dụng
của bên bán hàng.
- Tăng uy tín của bên mua hàng trên thị trường thông qua mức độ tín nhiệm của ngân
hàng.
b. Bên bán hàng
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
24
Bên bán hàng là những khách hàng thỏa mãn các quy định về bao thanh toán và có khoản
phải thu đủ điều kiện.
Lợi ích của bên bán hàng khi thực hiện bao thanh toán:
- Chuyển đổi khoản phải thu thành tiền để bổ sung nguồn vốn tiếp tục chu kỳ kinh doanh
mới.
- Được ngân hàng kiểm tra, đánh giá khả năng thanh toán của bên mua hàng.
Tỷ lệ ứng trước
Tỷ lệ ứng trước là tỷ lệ phần trăm trên giá trị khoản phải thu mà ACB ứng trước cho bên
bán hàng, tối đa không quá 80% giá trị khoản phải thu.
Quy trình bao thanh toán tại ACB
Lãi bao thanh toán
Lãi bao thanh toán được tính trên số tiền mà ACB ứng trước cho bên bán hàng và được
thu lúc bên mua hàng/bên bán hàng thanh toán tiền cho ACB theo công thức sau:
Lãi = [Số tiền ứng trước x Lãi suất (tháng) x số ngày bao thanh toán]/30ngày
Số ngày bao thanh toán: tính từ ngày ứng trước tiền cho đến ngày bên mua hàng/bán bán
hàng thanh toán tiền cho ACB.
Phí bao thanh toán
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
25
Phí bao thanh toán được tính trên giá trị khoản phải thu (số tiền bên mua hàng phải thanh
toán) và thu một lần ngay khi ứng trước tiền cho bên bán hàng. ACB không hoàn lại lãi
và phí cho bên bán hàng vì bất cứ lý do gì.
Thời hạn bao thanh toán
- Thời hạn còn lại của khoản phải thu bao thanh toán tối đa không vượt quá 90 ngày.
- Thời hạn gia hạn thanh toán trong mọi trường hợp tối đa không vượt quá 30 ngày.
2.2.2.2 Hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
a. Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước tại TCB.
Định hướng khách hàng: khách hàng là doanh nghiệp bán hàng trong nước theo phương
thức thanh toán trả chậm cho những người mua hàng uy tín được ngân hàng chấp thuận.
Đối với BTT trong nước, TCB chỉ thực hiện BTT có truy đòi :
Điều kiện thực hiện BTT trong nước:
- Trước hết, doanh nghiệp đó phải có 1 năm kinh nghiệm buôn bán với người mua;
- Khách hàng có tối thiểu 2 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh mặt hàng đề
nghị;
- Có lãi trong hai năm tài chính gần nhất;
- Thực hiện thành công các hợp đồng trước đây;
- Ngòai ra còn có các chỉ tiêu của khách hàng là người mua phải như sau:
+ Báo cáo tài chính phải có cơ quan kiểm toán độc lập.
+ Doanh thu năm tài chính gần nhất >200 tỷ
+ ROE >10%
+ Tổng tài sản : >100 tỷ
+ VCSH/ Tổng tài sản>30%
+ Tài sản lưu động / nợ ngắn hạn > 1,2
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
26
Nhìn chung, TCB đã quy định những chỉ tiêu định lượng về người mua hàng được TCB
chấp nhận. Đây là cơ sở thuận lợi để các chi nhánh của TCB thực hiện việc BTT cho các
khách hàng một cách thống nhất.
Quy trình thực hiện:
Bước 1: khách hàng của TCB ký hợp đồng mua bán với điều khoản thanh toán là thanh
toán trả chậm và giao hàng theo đúng nội dung của hợp đồng.
Bước 2: Bên bán hàng sẽ đem khoản phải thu từ việc bán hàng đến ngân hàng đề nghị
TCB tài trợ dựa trên khoản phải thu đó.
Tại TCB sẽ tiến hành thẩm định những yêu cầu khách hàng, đặc biệt là quan tâm đến uy
tín và năng lực thanh toán của bên mua hàng. Sau khi thẩm định, nếu mức phán quyết
BTT vượt quá chi nhánh, thì hồ sơ được chuyển về hội sở. Khi được và đi đến quyết định
đồng ý bao thanh toán và chuyển quyết định đó về chi nhánh
Bước 3: Sau khi được hội sở chấp thuận, chi nhánh TCB cùng khách hàng (bên bán hàng)
tiến hành ký hợp đồng bao thanh toán
Bước 4 : Chi nhánh TCB sẽ gửi thông báo về việc chuyển nhượng khoản phải thu cho
bên mua.
Bên mua hàng Bên bán hàng
TCB Hội sở
TCB tại chi nhánh
1
2
3 4
5 6
2 2
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
27
Nội dung thư thể hiện :
• Đề nghị Công ty là người mua trực tiếp chuyển tiền thanh toán vào tài khoản của công
ty tại TCB
• Tên chủ tài khoản: [tài khoản của Techcombank gắn với tên khách hàng]
• Số Tài khoản:
• Tại Techcombank - chi nhánh cấp hạn mức BTT
• Nội dung: thanh toán cho Hoá đơn/Đơn đặt hàng/Hợp đồng số… ký ngày…
• Chỉ dẫn thanh toán trên áp dụng cho toàn bộ các khoản phải thu của [nhà cung cấp] từ
Công ty và toàn bộ các khoản phải thu phát sinh trong tương lai (cho đến khi có văn bản
thông báo khác) và không thể huỷ bỏ trừ khi có sự chấp thuận bằng văn bản của
Techcombank
Bước 5: Chi nhánh TCB sẽ ứng tiền cho khách hàng. Thông thường TCB sẽ ứng khoảng
80%-85% giá trị trên hóa đơn đòi tiền.
Bước 6: Người mua hàng sẽ chuyển về TCB, TCB sẽ thu phần ứng trước, lãi phát sinh và
phần còn lại trả lại công ty bán hàng, khi người mua hàng không trả nợ thì TCB sẽ gửi
thông báo đòi nợ.
Về mức phí áp dụng tại TCB: hiện nay mức phí TCB đang áp dụng phí thu hộ các
khoản phải thu từ 20,000 đồng- 50,000 đồng/ khoản phải thu. Nhìn chung phí của TCB
tương đối thấp hơn so với các ngân hàng trên địa bàn. Chẳng hạn tại ACB phí này là
0,5% trên giá trị BTT và tối thiểu 500,000 đồng.
b. Bao thanh toán quốc tế:
Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của TCB:
Sau khi NHNN ban hành quyết định hướng dẫn nghiệp vụ BTT, TCB cũng cho ra đời
quy trình nghiệp vụ BTT quốc tế, mà chủ yếu là BTT xuất khẩu.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
28
Theo TCB quy định, Bao thanh toán xuất khẩu là dịch vụ tài chính trọn gói dành cho nhà
xuất khẩu bán hàng theo phương thức Open account (ghi sổ trả chậm hay còn gọi là T/T
trả sau) hoặc D/A (nhờ thu trả chậm), bao gồm:
Bảo hiểm rủi ro nợ xấu
Ứng trước
Hạch toán và theo dõi các khoản phải thu
Thu hộ
Quy trình như sau:
(1) Nhà xuất khẩu gửi danh sách các nhà nhập khẩu cho Techcombank bao gồm tên, địa
chỉ, hạn mức bao thanh toán yêu cầu cho mỗi nhà nhập khẩu.
(2) Techcombank gửi danh sách các nhà nhập khẩu để đối tác bao thanh toán nhập khẩu
thẩm định và cấp hạn mức bảo lãnh thanh toán.
(3) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thông báo cho Techcombank về hạn mức bảo lãnh
thanh toán và các điều kiện cấp hạn mức. (Điều kiện quan trọng nhất: nhà xuất khẩu phải
chuyển nhượng tất cả các khoản phải thu theo phương thức T/T trả sau từ nhà nhập khẩu
được cấp hạn mức cho Techcombank và cho Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu).
Ví dụ: hạn mức khách hàng yêu cầu là 1.000.000 USD, Đơn vị BTT nhập khẩu
cấp hạn mức bảo lãnh thanh toán 500.000 USD -> TCB cấp hạn mức BTT cho khách
hàng 500.000 USD, tỷ lệ ứng trước 80% (~hạn mức ứng trước 400.000 USD), phí bao
thanh toán 1,2%/trị giá hóa đơn. Các khoản phải thu trong hạn mức đều được ứng trước
không cần TSĐB và được cung cấp đủ 3 dịch vụ quản lý, thu hộ và bảo lãnh thanh toán.
Ở một thời điểm nào đó cho dù số dư các khoản phải thu của khách hàng phát sinh vượt
500.000 USD thì khách hàng vẫn phải chuyển nhượng các khoản phải thu vượt hạn mức
cho TCB, các khoản phải thu này chỉ được cung cấp dịch vụ quản lý và thu hộ với mức
phí phải đóng cũng thấp hơn (0,6%/trị giá hóa đơn), nếu muốn được ứng trước thì phải có
TSĐB. Các khoản phải thu này sẽ được chuyển vào hạn mức và hưởng đủ các dịch vụ
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
29
nếu sau đó có khoản phải thu nào đó được tất toán, trường hợp này KH phải đóng bổ
sung phí BTT.
Nếu uy tín nhà nhập khẩu tốt thì Đơn vị BTTNK có thể cấp hạn mức lên đến 100% hạn
mức yêu cầu, nhưng với những KH được BTT lần đầu tiên thì không được như vậy.
Nhưng cũng có thể khắc phục bằng cách: sau một vài giao dịch mà nhà nhập khẩu thanh
toán nghiêm túc có thể xin Đơn vị BTT nhập khẩu tăng hạn mức.
(4) Nếu nhà xuất khẩu nhất trí với hạn mức và các điều kiện BTT, Techcombank và nhà
xuất khẩu ký một hợp đồng bao thanh toán duy nhất cho tất cả các khách hàng của nhà
xuất khẩu.
Techcombank hướng dẫn nhà xuất khẩu gửi thư thông báo cho nhà nhập khẩu về việc ký
kết hợp đồng bao thanh toán, trong đó nêu rõ việc nhà xuất khẩu chuyển giao quyền thu
nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn nhà nhập khẩu thanh toán trực tiếp cho đơn vị
bao thanh toán.
Techcombank hướng dẫn khách hàng quy định lại một số điều khoản trong hợp đồng
xuất nhập khẩu cho phù hợp với dịch vụ bao thanh toán.
- Không cản trở việc chuyển nhượng khoản phải thu phát sinh từ HĐ XNK cho bên thứ
ba
- Cho phép bên thứ ba tiến hành thu hộ khoản phải thu
- Cho phép và bảo vệ bên thứ ba tiến hành các thủ tục pháp lý khác để khởi kiện trong
những trường hợp không thu hồi được khoản phải thu.
- Bộ chứng từ gửi cho Techcombank sau đó Techcombank gửi cho nhà nhập khẩu.
(5) Nhà xuất khẩu tiến hành giao hàng, xuất trình bộ chứng từ cho Techcombank kiểm tra
và đề nghị giải ngân tiền ứng trước nếu có nhu cầu.
(6) Techcombank gửi bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu đi nhận hàng. Techcombank thông
báo cho đối tác bao thanh toán nhập khẩu về khoản phải thu mới phát sinh, đối tác bao
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
30
thanh toán nhập khẩu sẽ chấp thuận bao thanh toán khoản phải thu này nếu không có gì
trái với các điều kiện đã đặt ra khi xét duyệt cấp hạn mức.
(7) Techcombank tiến hành giải ngân cho nhà xuất khẩu theo các điều kiện đã quy định
trong hợp đồng bao thanh toán.
(8) Đối tác bao thanh toán nhập khẩu của Techcombank tiến hành thu nợ khi khoản phải
thu đến hạn thanh toán và chuyển tiền cho Techcombank để ghi Có cho nhà xuất khẩu.
Techcombank sẽ thông báo ngay cho nhà xuất khẩu nếu có bất cứ việc khấu trừ thanh
toán hoặc tranh chấp nào phát sinh từ phía nhà nhập khẩu.
Trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán và không gây tranh chấp nào
đối với khoản phải thu, Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu sẽ thực hiện thanh toán thay
100% số tiền của khoản phải thu thuộc hạn mức BTT cho nhà xuất khẩu qua
Techcombank. Khi đó Techcombank sẽ tất toán với nhà xuất khẩu sau khi trừ đi số tiền
đã ứng trước và các khoản lãi, phí chưa nộp khác.
Với các khoản phải thu ngoài hạn mức BTT, Đơn vị BTT nhập khẩu vẫn thu nợ nhưng
không thực hiện thanh toán thay nếu nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán. Sau một số
ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán mà nhà nhâp khẩu không thanh toán, TCB có quyền
truy đòi số tiền đã ứng trước cho nhà xuất khẩu.
2.2.2 Đánh giá về hoạt động bao thanh toán của NHTM tại VN:
Hiện nay Việt Nam đang có 11 ngân hàng tham gia vào dịch vụ bao thanh toán, trong đó
4 ngân hàng là ACB, Vietcombank, Sacombank và Techcombank là những ngân hàng
đầu tiên áp dụng dịch vụ này vào thanh toán. Trong đó ACB là nổi bật nhất trong việc
thực hiện bao thanh toán. Tuy nhiên cho đến nay vẫn đơn thuần là áp dụng với khách
hàng trong nước với doanh số thực hiện còn khá thấp.
- Nhiều doanh nghiệp vẫn còn xa lạ với loại hình dịch vụ bao thanh toán, nhất là các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu vẫn ưu tiên sử dụng các hình thức như gửi tiền, tín
dụng chứng từ… hơn là bao thanh toán.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
31
- Lãi và phí của loại hình dịch vụ này tương đối cao so với các doanh nghiệp trong
nước. Đi liền cùng với mức độ tín nhiệm bảo lãnh, phí lại càng cao, ACB có thể là
ví dụ điển hình trong vấn đề này khi thu phí cao hơn hẳn các ngân hàng khác.
Những loại thực phẩm nông sản, đồ tươi khó bảo quản nếu chấp nhận bao thanh
toán cho bên mua thì cần phải xem xét kỹ lưỡng.
- Ngân hàng đòi hỏi khá cao đối với khách hàng để chứng minh uy tín của bên mua
hàng hóa. Đối với các nhà sản xuất ở trong nước, trình độ hiểu biết về thị trường
nước ngoài còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều nên khó có thể đáp ứng vấn đề
này.
- Sản phẩm chưa hoàn thiện, chưa đa dạng, chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp lớn.
2.3 Nguyên nhân của một số tồn tại khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt
Nam:
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng
tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết
những ưu điểm vốn có của nó. Hoạt động của dịch vụ này còn khá mới mẻ đối với các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Đối tượng khách hàng hiện nay sử dụng
dịch vụ Bao thanh toán tại các ngân hàng còn rất hạn chế, chủ yếu là các khách hàng
quen, đã từng sử dụng nghiệp vụ này hoặc có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì mới
tham gia dịch vụ này. Bên cạnh đó hoạt động bao thanh toán quốc tế cũng còn nhiều hạn
chế nên chưa phát triển được. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ
phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực
hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cụ thể:
2.3.1 Khung pháp lý
Hoạt động bao thanh toán cũng được quy định trong nhiều quy định như
1096/2004/Q Đ- NHNN, 30/2008/QĐ- NHNN .Tuy nhiên, những quy chế này vẫn còn
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
32
nhiều bất cập và hạn chế. Chính vì thế, các ngân hàng thương mại, công ty tài chính vẫn
chưa mạnh dạn triển khai rộng rãi hoạt động này.
- Theo Quy chế 1096, bao thanh toán được định nghĩa “là một hình thức cấp tín dụng
của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát
sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
hợp đồng mua bán hàng hóa”.
+ Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ
nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này
không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức
năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền
hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với
việc cấp tín dụng thông thường.
+ Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập
nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt
nhau.
+ Theo Quy chế 1096, nghiệp vụ bao thanh toán chỉ áp dụng cho các khoản phải thu xuất
phát từ hợp đồng mua bán hàng hóa, không đề cập gì đến khoản phải thu phát sinh từ việc
cung ứng dịch vụ.
- Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng trước chỉ
đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của người
bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán đã dẫn
đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi
nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định
liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.
- Theo mục c, d, đ, e, khoản 1, điều 13 của Quy chế 1096 có viết:
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
33
“c. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh
toán.
d. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng
bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán
hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng
thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
đ. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán và đơn vị bao thanh toán xác nhận về việc đã
nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho đơn vị bao thanh toán.
e. Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và
các chứng từ khác liên quan đến khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán”.
Điều này đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng Việt Nam khi thực hiện nghiệp
vụ bao thanh toán. Khi người bán và đơn vị bao thanh toán đồng ký gửi văn bản thông
báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, mà bên mua hàng không đồng ý,
không gửi văn bản xác nhận về việc đã nhận thông báo thì sẽ gây khó khăn cho cả người
bán và đơn vị bao thanh toán. Bởi vì, pháp luật sẽ không thừa nhận dịch vụ bao thanh
toán nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng phải trả nợ.
Cũng theo đề mục trên, khi người bán và đơn vị bao thanh toán thỏa thuận, kí kết
hợp đồng bao thanh toán, sẽ phải đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh
toán cho bên mua hàng. Như vậy, chưa đủ cơ sở để xác định thông báo có hiệu lực thi
hành cho tất cả các bên.
- Cũng theo Quy chế 1096, chỉ các tổ chức tín dụng mới được thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán. Quy định trên không hợp lý vì nó gây khó khăn cho các doanh nghiệp có uy
tín, có năng lực về tài chính và thẩm định khách hàng muốn cung cấp dịch vụ này.
- Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết mọi
tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được đóng
dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương mại
khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được đưa ra
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
34
trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam,
hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án
thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ
phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại,
một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp
của ta chưa nghiêm.
- Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối cùng và
hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh nghĩa
vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa thực sự là phương
thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự còn quá
phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Sau một
chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy
cơ không thu hồi được khoản nợ.
2.3.2 Khái niệm bao thanh toán còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày
01/10/2004, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán vẫn còn rất
mơ hồ nhất là các doanh nghiêp nhỏ lẻ.
Tại các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế , các doanh nghiệp chỉ
đựơc giới thiệu một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái
niệm sử dụng dịch vụ cũng như lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh
nghiệp mình.
2.3.3 Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp
Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người
mua. Vì vậy, dịch vụ bao thanh toán có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 – 5%
doanh thu. Chi phí cao bởi vì ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản
lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại
cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
35
2.3.4 Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tế
Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho
sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ
chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều
tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo
GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao
thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt Nam thì phải có xác nhận
này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán mới có hiệu lực.
Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh toán.
Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy, để
nắm bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính việc
không am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa.
2.3.5 Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế
Trong bao thanh toán quốc tế, người mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở hai
quốc gia khác nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có
sự tham gia hỗ trợ của một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia người mua (đơn vị bao
thanh toán nhập khẩu). Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế tốt,
cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức bao thanh toán khác trên thế giới.
Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mở các chi nhánh
tại nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán nước
ngoài còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng Việt
Nam.
Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát triển
ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán
chỉ được thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen thuộc
và cũng chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này
đến khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển
sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
36
2.3.6 Nguyên nhân khác:
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên tài
sản thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là
vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài
sản đảm bảo không những được các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng
nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam
đầy rủi ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn
mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính
của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài
chính không thể tin tưởng được.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản
đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi
bản chất của dịch vụ này.
Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các
doanh nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống
thông tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện
rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên
mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế
tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch
vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao
thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất khẩu)
sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu
điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận
tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và
để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi. Điều này
cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm
cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
37
Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách hàng
của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng. Điều
này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao
thanh toán.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
38
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM
VIỆT NAM
3.1 Thiết lập mối quan hệ giữa các Ngân hàng, các Ngân hàng nên làm đại lý bao
thanh toán cho nhau.
Các Ngân hàng có thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán nên chủ động liên hệ với
nhau và thảo luận về những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động bao thanh toán do thiếu
thông tin về khách hàng, phải nhìn nhận những khó khăn chung mà hầu hết các ngân
hàng đều gặp phải, từ đó nhấn mạnh tính chất đôi bên cùng có lợi từ sự liên kết này. Sau
đó các ngân hàng hợp tác và trao đổi thông tin về khách hàng để xác minh cả bên bán và
bên mua hàng; hoặc có những hợp đồng tài trợ theo phương thức: “đồng bao thanh toán”.
Bên cạnh đó, để có thể sử dụng hệ thống hai đại lý bao thanh toán nhằm khắc phục
những khó khăn về thiếu thông tin để thẩm định người mua cũng như để cung cấp dịch
vụ thu hộ hiệu quả hơn, các ngân hàng nên thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý bao thanh
toán cho nhau. Các ngân hàng phải đưa ra những quy định chặt chẽ về những ràng buộc
giữa hai bên, nhất là về tính trung thực của thông tin về khách hàng mà ngân hàng đã
cung cấp.
3.2 Khuyến khích và tiếp thị bên mua hàng ký hợp đồng liên kết với Ngân hàng .
Ngân hàng để có thêm thông tin về người mua hàng, ngoài việc liên kết với các
ngân hàng đại lý cũng có thể liên kết với chính người mua hàng thông qua việc thương
lượng với họ về việc ký kết hợp đồng liên kết với mình. Và đương nhiên hai bên phải
cùng có lợi qua sự liên kết này:
Về phía người mua:
- Có được khoản hoa hồng phí theo một tỷ lệ phần trăm giá trị khoản phải thu cho việc
giao dịch bao thanh toán với ngân hàng và được thông báo về việc bao thanh toán. (khoản
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
39
hoa hồng phí này bên mua chỉ có được khi có tham gia vào hợp đồng mua bán hàng hoá
với bên bán được ngân hàng bao thanh toán).
- Tập trung thanh toán về một mối là Ngân hàng
Về phía Ngân hàng:
- Được người mua cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động và khả năng tài chính
ngay khi ký kết hợp đồng và trong suốt quá trình thu nợ khi ngân hàng có yêu cầu. Từ đó,
ngân hàng có thể nắm được tình hình của con nợ để có biện pháp xử lý và thu nợ.
- Được người mua cung cấp danh sách các bên bán hàng mà họ đang có giao dịch mua
bán. Do đó, ngân hàng có thêm thông tin của bên bán để có chiến lược tiếp thị hiệu quả
hơn.
- Người mua ký xác nhận thông báo về hợp đồng bao thanh toán mà ngân hàng đã ký kết
với bên bán hàng và việc chuyển giao quyền đòi nợ. Và đây sẽ là cơ sở quan trọng để
ngân hàng tiến hành giao khoản tiền ứng trước cho bên bán hàng
3.3 Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định chất lượng khoản phải thu và bên mua hàng,
đặc biệt cần nâng cao kỹ năng thẩm định hợp đồng thương mại :
Đối với khoản phải thu:
- Trên cơ sở các số liệu và thông tin phân tích, ngân hàng có thể xây dựng được các chỉ
số an toàn phù hợp.
- Kiểm tra cẩn thận các khoản phải thu với nhiều hình thức, trên các hợp đồng và các sổ
phụ, trên các hoá đơn chứng từ và các tài khoản tại các NHTM khác.
- Phân tích có dự báo tình hình các đối tác, tình hình thị trường có ảnh hưởng đến mặt
hàng liên quan đến khoản phải thu.
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
40
- Tận dụng tối đa các kênh thông tin khác như C.I.C. các Chi nhánh NHTM khác, thông
tin qua các khách hàng là bạn hàng của nhau để phòng ngừa rủi ro đạo đức.
- Tính toán lịch thu nợ, trả nợ liên quan đến các khoản phải thu trên cơ sở cân đối dòng
tiền phải trả cho ngân hàng và cho khách hàng. Ngoài ra, hoá đơn bán hàng là chứng từ
người bán phát hành để đòi tiền người mua thanh toán những khoản nợ phát sinh từ việc
mua bán hàng giữa hai bên. Do đó, ngân hàng nên quy định rõ những điều kiện của hoá
đơn của các sản phẩm có thể bao thanh toán được.
Đối với người mua hàng
- Cần sử dụng nhiều nguồn thông tin chính thống và phi chính thống để tìm hiểu uy tín,
tư cách và lịch sử tín dụng của bên mua. Quan trọng nhất là nguồn thông tin từ các ngân
hàng đại lý – ngân hàng mà người mua có quan hệ giao dịch thường xuyên; hoặc từ
những thông tin do chính người mua cung cấp theo như những cam kết mà họ đã ký với
ngân hàng trong hợp đồng liên kết.
- Đối với các hợp đồng thương mại: Khi thẩm định hợp đồng cần chú ý hai vấn đề quan
trọng sau: Tính chặt chẽ và hình thức của hợp đồng
3.4 Một số giải pháp khác
- Đào tạo đội ngũ nhân viên có tính chuyên nghiệp cao, đồng thời nhanh chóng tuyển
dụng nhân viên pháp lý chứng từ có kinh nghiệm trong việc lập và thẩm định các hợp
đồng thương mại.
- Tăng cường các hoạt động Marketing
- Các ngân hàng cần phải thiết lập nên bộ phận chuyên trách để thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán có hiệu quả hơn
- Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng theo mặt bằng trình độ quốc tế
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tieu_luan_cua_nhom_9_6938.pdf