Hoạt động nhận tiền gửi: So với các NHTM khác trên thị trường, có
thể nói, Vietinbank Bến Thuỷ là một trong những NHTM đa dạng nhất về sản
phẩm huy động vốn, đặc biệt là bộ sản phẩm tiền gửi tiết kiệm, với 6 loại sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu phong phú của khách hàng. Đó là một trong những lý
do quan trọng giúp cho chi nhánh dù không chạy đua về lãi suất nhưng vẫn
duy trì được tốc độ tăng trưởng huy động vốn: từ 16,77% năm 2010 lên
36,28% năm 2011. Trong đó, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm dân cư luôn chiếm
hơn 70%.
59 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2350 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Bến Thuỷ, th ành phố Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
để tận dụng nguồn tài nguyên công nghệ hiện có trong tương lai. Và số liệu
thực tế qua các năm cũng cho thấy với một ngân hàng có hệ thống công nghệ
thông tin tốt như ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ thì sự tăng trưởng
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Tỷ trọng hoạt động thanh toán và chuyển tiền
Tổ chức kinh tế
Khách hàng cá nhân
Tổ chức kinh tế 73.26 72.13 70.86
Khách hàng cá nhân 26.74 27.87 29.14
2009 2010 2011
27
này chưa thể hiện hết tiềm năng của ngân hàng.
2.1.4 Sự phát triển của hoạt động thẻ
Hoạt động thẻ ATM: Hoạt động thẻ ATM tại Việt Nam đã được ngân
hàng Vietcombank triển khai vào năm 1990, tuy nhiên mới thực sự phát triển
vào khoảng 5 năm trở lại đây, đối tượng sử dụng thẻ ATM hiện nay tập trung
chủ yếu vào giới học sinh – sinh viên. Đây là nhóm khách hàng mục tiêu quan
trọng và đầy tiềm năng mà chi nhánh hướng đến. Trên địa bàn TP.Vinh hiện
có 2 trường đại học, 4 trường cao đẳng và nhiều trường trung cấp, dạy nghề
khác. Hằng năm TP.Vinh thu hút một lượng lớn các sinh viên từ các huyện
trong tỉnh cũng như các tỉnh khác về học tập. Việc sử dụng thẻ đối với những
sinh viên này đã đem lại nhiều thuận tiện trong việc nhận tiền gửi từ gia đình
phục vụ cho mục đích học tập cũng như sinh hoạt khác. Ngoài ra, không ít
sinh viên từ TP.Vinh ra học tập tại Hà Nội cũng như các tỉnh, thành phố khác
cũng có nhu cầu mở thẻ. Để thu hút đối tượng khách hàng này, vào các ngày
lễ, các dịp khai giảng… ngân hàng đã có nhiều chương trình khuyến mãi,
miễn giảm phí phát hành cho khách hàng. Ngoài đối tượng khách hàng là học
sinh, sinh viên, đối tượng sử dụng thẻ còn tập trung vào tầng lớp cán bộ công
nhân viên chức và những người làm nghề tự do. Chi nhánh đang đẩy mạnh
việc thanh toán lương cho các doanh nghiệp qua thẻ và trong tương lai sẽ
cung cấp các dịch vụ thanh toán tiền điện, nước, điện thoại… qua thẻ để thu
hút thêm ngày càng nhiều khách hàng. Hiện chi nhánh đã mở thẻ và làm dịch
vụ thanh toán lương cho nhiều doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu như:
Sở Công an Nghệ An, Trường đại học Sư phạm kinh tế - kỹ thuật Vinh…
Hoạt động thẻ quốc tế: Sản phẩm thẻ quốc tế Visacard và Mastercard
chưa phải là thế mạnh của NHCT Bến Thuỷ. Thị phần thẻ quốc tế của chi
28
nhánh chỉ chiếm chưa đến 10% tổng số thẻ quốc tế lưu hành tại TP.Vinh. Hơn
nữa, loại thẻ quốc tế tại chi nhánh còn quá ít, chỉ mới phát triển được 2 loại
thẻ là Visa và Master (trong khi các NHTM khác như ngân hàng ngoại thương
Vinh đã phát hành và đưa vào sử dụng 5 loại thẻ: Master, Visa, JCB, Dinner -
Club, Amex). Chính điều này đã làm cho thị phần thẻ quốc tế của ngân hàng
Vietinbank Bến Thuỷ còn hạn chế so với các ngân hàng khác.
Thời gian qua, việc triển khai dịch vụ thẻ ngân hàng của Vietinbank
Bến Thuỷ đã có sự tăng trưởng nhất định. Trong năm 2011, phát hành được
5.398 thẻ ATM, tăng 54,23% so với năm 2010, đưa tổng số thẻ lưu hành lên
14.198 thẻ (14.133 thẻ ATM, 28 thẻ Visa và 37 thẻ Master), tiếp nhận và lắp
đặt thêm 2 máy ATM nâng tổng số máy ATM lên 6 máy. Để có được kết quả
này, nguyên nhân chủ yếu là do BGĐ đã định hướng cụ thể và chỉ đạo sát sao
từng bộ phận. Chủ động tiếp cận các đơn vị, cơ quan, trường học để quảng
cáo, tiếp thị… Giao chỉ tiêu thẻ đến từng phòng ban, tất cả các cán bộ công
nhân viên của chi nhánh đều có trách nhiệm quảng bá và tiếp thị thẻ cho ngân
hàng.
Bảng 2.8 Sự phát triển số lượng thẻ E- Partner và thẻ tín dụng quốc tế
ĐVT: Thẻ
Chỉ tiêu 2009 2010 2011
Số thẻ tín dụng quốc tế/ 1 cán bộ chuyên trách 5,0 11,5 10,7
Số thẻ ghi nợ E-Partner/ 1 cán bộ chuyên trách 1.745,0 2.638,5 1.788,7
Để phát triển dịch vụ thẻ, năm 2010, ngân hàng TMCP Công thương
Bến Thuỷ đã tăng thêm một cán bộ chuyên trách dịch vụ thẻ, do vậy tuy số
lượng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ đều tăng lên nhưng chỉ tiêu số lượng thẻ/ 1
29
cán bộ chuyên trách có sự sụt giảm trong năm 2011. Tuy nhiên, việc tăng
thêm cán bộ chuyên trách thẻ là cần thiết, bởi với nhu cầu mở thẻ hiện nay
của khách hàng ngày càng gia tăng.
2.1.5 Sự phát triển của các dịch vụ khác
Ngoài các dịch vụ huy động vốn, cho vay và chuyển tiền là những dịch
vụ chủ yếu dành cho KHCN thì ngân hàng còn cung ứng dịch vụ khác nhằm
nâng cao tiện ích cho khách hàng, đó là dịch vụ Internet Banking – Tư vấn tài
khoản qua mạng Internet. Dịch vụ Internet Banking của chi nhánh ngân hàng
TMCP Công thương Bến Thuỷ TP.Vinh là dịch vụ hỏi thông tin ngân hàng
qua Internet như số dư tài khoản, tỷ giá, lãi suất tiền gửi, tiền vay. Tuy dịch
vụ này được triển khai từ năm 2006 song tiến độ rất chậm. Năm 2007, mặc dù
có tổng số hơn 40.000 khách hàng có tài khoản giao dịch tại ngân hàng song
số khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ chỉ có gần 1000 khách hàng. Đến
năm 2011, số khách hàng sử dụng dịch vụ này có tăng lên đạt trên 2000 khách
hàng song số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ như vậy vẫn cũng là ít ỏi.
Bên cạnh đó, với chỉ dịch vụ Internet Banking thì NHCT Bến Thủy còn
triển khai ít các dịch vụ so với các TCTD khác, như ngân hàng ACB,
VIBank... đã triển khai thêm dịch vụ Mobile Banking, SMS Banking, Home
Banking... Đây là các dịch vụ phụ trợ tạo tiện ích cho khách hàng. Chính vì
vậy, trong thời gian tới, chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa triển khai các dịch
vụ này.
2.2 Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân tại
chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Bến Thủy
Qua phân tích tình hình phát triển dịch vụ KHCN của chi nhánh ngân
hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ, ta có thể thấy chi nhánh cũng đã có
30
nhiều sự cố gắng trong việc phát triển dịch vụ KHCN, xem đó như là một
hướng đi mới cần phát triển và cũng đã đạt được một số kết quả nhất định.
Bên cạnh đó, chi nhánh cũng tồn tại một số hạn chế cần khắc phục để có thể
phát triển hơn nữa dịch vụ KHCN.
2.2.1 Kết quả đạt được
Kết quả đạt được của chi nhánh trong việc phát triển dịch vụ KHCN
được khái quát trong một số điểm sau.
Xem xét thành công về số lượng
Thứ nhất, sự gia tăng số lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng cá
nhân.
Trước năm 2008, chi nhánh mới chỉ cung cấp những dịch vụ truyền
thống thông thường, thì đến nay, chi nhánh đã gia tăng sản phẩm, đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Mặt khác, các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp đã có sự chuyển biến tốt về mặt chất lượng, giới thiệu cho khách
hàng nhiều dịch vụ mới mà trước đây họ chưa bao giờ nghĩ đến như sản phẩm
“cho vay chi phí du học”…
Việc phân loại và đưa ra bộ sản phẩm dịch vụ KHCN mới giúp cho quá
trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng được nhanh chóng hơn, đảm bảo hiệu
quả hơn và chuyên nghiệp hơn. Đồng thời, việc cho ra các dịch vụ mới không
chỉ tăng cường đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và thiết yếu của khách hàng
mà còn tăng khả năng cạnh tranh, thu hút khách hàng, nâng cao doanh thu và
tăng uy tín cho ngân hàng.
Thứ hai, số lượng các đối tượng khách hàng dịch vụ tăng lên.
Năm 2008, chỉ với số khách hàng sử dụng các dịch vụ cá nhân ít ỏi, đặc
biệt là các dịch vụ cho vay tiền lương, cho vay tiêu dùng, số khách hàng chỉ
31
tính ở con số hơn 150 khách hàng thì đến cuối năm 2011, số khách hàng sử
dụng dịch vụ cho vay tiền lương và cho vay tiêu dùng ở chi nhánh đã tăng lên
rõ rệt với 870 KHCN. Bên cạnh đó, đối tượng khách hàng cũng rất đa dạng
như sinh viên, công chức, hưu trí, cựu chiến binh… Điều này là một sự thành
công đối với chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ TP.Vinh
trong việc thu hút các đối tượng khách hàng đến với ngân hàng.
Xem xét thành công về chất lượng
Thành công của chi nhánh là một số dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng liên
tục và khá đều.
Qua thực trạng về tình hình phát triển các dịch vụ KHCN tại chi nhánh
ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ TP.Vinh, chúng ta nhận thấy rằng
chi nhánh cũng đã có nhiều tiến bộ thể hiện qua sự tăng trưởng doanh thu và
lãi, phí của một số dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Cụ thể như gói dịch vụ
cho vay KHCN, dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán và dịch vụ huy động tiền gửi
tiết kiệm dân cư. Điều này chứng tỏ chi nhánh đã có sự đầu tư vào các dịch vụ
KHCN trong thời gian qua và đã đạt được một số thành công nhất định về
doanh thu từ chính các dịch vụ.
Để làm được như vậy, chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương Bến
Thuỷ TP.Vinh đã có sự cố gắng rất lớn và nhờ vào những yếu tố như:
Mục tiêu rõ ràng: Trước đây, ngân hàng TMCP Công thương Bến
Thuỷ chưa có sự định hướng rõ ràng về việc phát triển dịch vụ KHCN, song bắt
đầu từ năm 2008, ngân hàng đã đề ra chiến lược phát triển, có công văn hướng
dẫn cụ thể các sản phẩm triển khai và triển khai đồng loạt các sản phẩm. Điều
này đã làm cho các dịch vụ KHCN tại ngân hàng trở nên bài bản hơn, tạo điều
kiện dễ dàng cho việc phát triển dịch vụ KHCN hơn.
32
Người dân đã có tâm lý và thói quen vay ngân hàng để phục vụ tiêu
dùng: Ngày nay, người dân Việt Nam đang dần có thói quen đi vay ngân hàng
để phục vụ cho những mục đích tiêu dùng của mình chứ không còn xa lạ với
các dịch vụ này như trước đây. Chính vì điều đó, việc ngân hàng TMCP Công
thương Bến Thuỷ triển khai các dịch vụ KHCN được sự ủng hộ của khách
hàng.
Thái độ phục vụ của đội ngũ nhân viên tốt và thủ tục nhanh gọn:
Đến với chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ TP.Vinh, khách
hàng được các nhân viên nhiệt tình giúp đỡ, tư vấn cụ thể từng từng dịch vụ.
Đặc biệt, thủ tục thực hiện các dịch vụ này ở chi nhánh ngân hàng TMCP
Công thương Bến Thuỷ TP.Vinh là khá nhanh gọn, ví dụ như các sản phẩm
cho vay KHCN, từ khi tìm hiểu nhu cầu khách hàng, thu nhận hồ sơ, thẩm
định, quyết định cho vay chỉ không đầy 10 ngày là khách hàng có thể nhận
được quyết định cho vay hay không. Ngoài ra, các nhân viên giao dịch thân
thiện, nhiệt tình, chủ động giới thiệu các sản phẩm tiền gửi cho khách hàng.
Thủ tục nhanh chóng, tiện lợi kèm với thái độ phục vụ niềm nở, nhiệt tình của
đội ngũ nhân viên là một yếu tố giúp cho nhiều khách hàng đến với chi nhánh
và sử dụng nhiều dịch vụ KHCN của chi nhánh hơn.
Môi trường cạnh tranh cao và môi trường kinh tế khó khăn khiến cho
ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Bến Thuỷ
nói riêng phải thực sự vận động, thay đổi và đề ra những chiến lược phát triển
bền vững hơn, tốt hơn. Đó là một yếu tố khiến cho chi nhánh đưa ra định
hướng phát triển dịch vụ KHCN và dần dần hoàn thiện các dịch vụ của mình
để gia tăng tiện ích cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ đó tại đơn vị.
33
2.2.2 Hạn chế đối với dịch vụ KHCN tại Chi nhánh CTBT
Sự phát triển dịch vụ KHCN tại chi nhánh ngân hàng TMCP Công
thương Bến Thuỷ TP.Vinh chưa thực sự xứng tầm với khả năng của ngân
hàng và tiềm năng phát triển của dịch vụ KHCN.
Xem xét hạn chế về số lượng:
Thứ nhất, danh mục dịch vụ khách hàng cá nhân vẫn chưa phong phú,
chủ yếu là các loại dịch vụ truyền thống, các dịch vụ hiện đại còn rất ít, chưa
xứng tầm với một ngân hàng có hệ thống công nghệ hiện đại.
Danh mục dịch vụ KHCN hiện vẫn đang tập trung vào các sản phẩm
truyền thống, chưa phát triển mạnh các dịch vụ mang tính công nghệ và tính
tiện ích cho khách hàng. Bên cạnh đó, các dịch vụ của chi nhánh mới triển
khai không phải là những sản phẩm mới trên thị trường, đó là những sản
phẩm mới đối với chi nhánh, nhưng đối với các ngân hàng trên thị trường thì
đó là những sản phẩm được triển khai từ rất lâu và được KHCN biết đến.
Điều này cũng là một hạn chế rất lớn của chi nhánh ngân hàng TMCP Công
thương Bến Thuỷ.
Hiện nay, tại chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ
nguồn thu phí dịch vụ KHCN chủ yếu từ hoạt động chuyển tiền. Các dịch vụ
hiện đại cũng rất hạn chế, chỉ dừng lại ở một số dịch vụ như thẻ ngân hàng,
dịch vụ Internet Banking. Ngay trong dịch vụ thanh toán, các hình thức thanh
toán phi tiền mặt mới chỉ dừng lại là chuyển tiền trong và nước ngoài. Các
hình thức thanh toán điện tử như Internet Banking, Home Banking, Mobile
Banking là một khái niệm khá mới mẻ có sức hút khá mạnh mẽ đối với giới
trẻ, giới tri thức - một thị phần tiềm năng của các ngân hàng nhưng chi nhánh
mới chỉ triển khai được Internet Banking. Điều này dẫn đến một việc là ngân
34
hàng còn chưa tận dụng hết các công nghệ hiện đại mà ngân hàng đang có và
đang triển khai.
Riêng đối với dịch vụ thẻ ghi nợ, chi nhánh ngân hàng TMCP Công
thương Bến Thuỷ TP.Vinh mới chỉ dừng lại ở thẻ ghi nợ thẻ E – Partner 12
Con giáp, E – Partner 12 C – Card và thẻ tín dụng quốc tế. Mặt khác, hiện chi
nhánh vẫn chưa lắp đặt máy POS nào, thẻ NHCT chưa phát huy được hết tiện
ích. Điều này càng chứng tỏ ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ còn
hạn chế trong công tác triển khai các dịch vụ gắn liền với công nghệ hiện đại
đang là xu hướng của xã hội ngày nay. Do vậy, để cạnh tranh với các ngân
hàng bạn và chiếm lĩnh thị phần, chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương
Bến Thuỷ TP.Vinh cũng cần phải phát triển hơn những sản phẩm có ứng dụng
công nghệ hiện đại.
Thứ hai, quy mô và phạm vi cung ứng còn nhỏ.
Đối với các dịch vụ tín dụng cho KHCN, quy mô các khoản vay khá
nhỏ, mỗi sản phẩm cho vay chỉ dừng lại ở khoảng 50% - 70% giá trị tài sản
đảm bảo. Điều này sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó,
việc cung cấp các dịch vụ KHCN mới chỉ thực hiện tại TP.Vinh mà chưa mở
rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ của mình đến các địa phương khác trong
tỉnh Nghệ An.
Xem xét hạn chế về chất lượng phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân
Thứ nhất, doanh thu từ dịch vụ khách hàng cá nhân tuy có sự tăng
trưởng song nhìn chung vẫn còn thấp so với tổng thu nhập của chi nhánh.
Theo báo cáo kết quả 15 năm xây dựng và phát triển của chi nhánh thì
tỷ trọng doanh thu từ dịch vụ KHCN so với tổng thu nhập trong 3 năm từ
2009 đến 2011 lần lượt 15,13%; 15,48%; 16,29% tương ứng 14.837.781.000
35
VND; 18.382.450.000 VND; 27.274.114.000 VND. Tuy có sự tăng trưởng
liên tục nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đối tượng KHCN.
Thứ hai, tỷ trọng dư nợ dịch vụ khách hàng cá nhân trong tổng dư nợ còn rất
ít.
Năm 2011 đánh dấu một bước chuyển mới trong quá trình phát triển
dịch vụ tín dụng KHCN, một số sản phẩm mới được triển khai tại chi nhánh
TMCP Công thương Bến Thuỷ, và một điều tất yếu là dư nợ đối với các dịch
vụ KHCN tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN trên
tổng dư nợ cho vay cũng tăng lên, từ 7,83% vào năm 2009 đã lên 10,2% vào
năm 2011. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, tỷ trọng này còn rất thấp so với chỉ
tiêu này ở một số ngân hàng thương mại như ngân hàng Á Châu là 51%, ngân
hàng NN & PTNT Việt Nam là 57%... chứng tỏ việc triển khai và giới thiệu
sản phẩm mới đến khách hàng chưa hiệu quả.
2.2.3 Nguyên nhân
Việc phát triển các dịch vụ KHCN tại chi nhánh ngân hàng TMCP
Công thương Bến Thuỷ, TP.Vinh còn tồn tại nhiều hạn chế như trên là do một
số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, định hướng phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân chưa dài
hạn, nhiều dịch vụ hiện đại còn chưa được ban lãnh đạo ngân hàng chú trọng.
Trong 3 năm trở lại đây, việc phát triển dịch vụ KHCN đã được BGĐ
hết sức quan tâm và là một trong những mục tiêu hàng đầu, song mới chỉ
dừng lại ở kế hoạch kinh doanh hàng năm. Một phần là do chi nhánh Bến
Thuỷ là một đơn vị hạch toán phụ thuộc Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam nên kế hoạch kinh doanh lập ra đều phải dựa trên kế hoạch chủ trương,
36
đường lối của Hội sở chính. Chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ không thể tự ý
đưa ra một sản phẩm dịch vụ hoàn toàn mới mà không có sự chấp thuận của
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Tuy nhiên, đối với những danh
mục sản phẩm dịch vụ được cung cấp thì chi nhánh cũng chưa xây dựng được
một chiến lược phát triển dịch vụ dài hạn, chưa xem xét đến những yếu tố
khách quan, chủ quan tác động đến hoạt động dịch vụ KHCN trong một vài
năm tới để có những bước đi dài hạn phù hợp, có sự chuẩn bị trước cho sự
biến động trong tương lai. Hơn nữa, kế hoạch phát triển cũng chưa cụ thể.
Ngân hàng mới chỉ dừng lại ở định hướng chung là đẩy mạnh phát triển dịch
vụ KHCN nhưng phát triển theo hướng nào, cụ thể là những dịch vụ nào sẽ
được phát triển trọng tâm, lịch trình thực hiện và sự chuẩn bị triển khai như
thế nào thì chưa có kế hoạch cụ thể.
Mặt khác, ban lãnh đạo ngân hàng cũng chỉ mới đưa ra định hướng
phát triển các dịch vụ mang tính chất truyền thống như cho vay, chuyển tiền...
mà chưa có những định hướng phát triển các dịch vụ KHCN hiện đại như các
loại hình Phone Banking, Mobile Banking... những dịch vụ mang lại nhiều
tiện ích cho khách hàng. Điều này là nguyên nhân chính dẫn tới danh mục các
dịch vụ KHCN của chi nhánh còn thiếu vắng các DVNH hiện đại.
Bên cạnh đó, nguyên nhân sâu xa là dịch vụ KHCN, đặc biệt là một số
dịch vụ như cho vay, thẻ tín dụng... đòi hỏi sự quản lý khoản vay khó khăn
hơn so với doanh nghiệp đồng thời rủi ro cao hơn. Ví dụ, khi một khách hàng
tới vay vốn, họ chỉ cần trình một số giấy tờ như chứng minh nhân dân, sổ hộ
khẩu... tuy nhiên các giấy tờ pháp lý này nhiều khi chưa thực sự đáng tin cậy,
đến khi đòi nợ thì mới biết rằng những thông tin trên giấy tờ đó là không đúng
sự thật, điều này dẫn tới rủi ro cho chính ngân hàng. Chính vì vậy mà ban
37
lãnh đạo ngân hàng còn rất e dè với các khoản cho vay này và hình thức cho
vay KHCN phát triển nhất là hình thức cho vay tiền lương đối với cán bộ
nhân viên của các đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước vì
hình thức này ít rủi ro hơn.
Thứ hai, chính sách marketing ngân hàng và các biện pháp hỗ trợ nhằm
thu hút khách hàng còn hạn chế.
Tại chi nhánh Công thương Bến Thuỷ hầu như chưa có sự quan tâm
đến hoạt động marketing ngân hàng, chi nhánh không có cán bộ marketing
chuyên trách. Trong khi đó, một số ngân hàng khác như ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn đã thành lập phòng marketing từ năm 2004 với
nhiệm vụ là triển khai và xúc tiến các hoạt động marketing ngân hàng nhằm
thu hút khách hàng, phát triển sản phẩm và nâng cao hiệu quả kinh doanh
ngân hàng.
Về cơ bản, hoạt động marketing bao gồm các nhiệm vụ như: quảng bá
thương hiệu, tiếp thị và xúc tiến thương mại, phát triển công nghệ và nghiệp
vụ tiên tiến, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, phát triển sản phẩm dịch vụ gắn
liền với phát triển thị trường, xác định mức chi phí hoàn vốn cho từng nhóm
khách hàng và loại dịch vụ để có thể xác định được mức giá hợp lý (lãi suất,
tỷ giá, hoa hồng, phí dịch vụ...)
Mặc dù hiểu được rằng hoạt động marketing là rất cần thiết đối với việc
phát triển các dịch vụ mới, tuy nhiên, hoạt động marketing của chi nhánh
ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ TP.Vinh chưa rõ ràng, cụ thể. Hoạt
động marketing của chi nhánh do cán bộ ngân hàng kiêm nhiệm và chỉ dừng
lại ở nghiên cứu đề xuất phí dịch vụ, lãi suất trên cơ sở biểu phí quy định của
Ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ, có tham khảo biểu phí của các
38
ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Còn các công việc khác như quảng bá
thương hiệu, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh hay phát triển công nghệ, phát
triển sản phẩm dịch vụ gắn với phát triển thị trường thì chưa có. Mặt khác,
sau khi có danh mục các dịch vụ mới, chi nhánh cũng chưa thực hiện tìm hiểu
thị trường, nên triển khai, tìm kiếm nguồn khách hàng ở đâu, mà chỉ dừng lại
ở việc tư vấn và cung ứng dịch vụ khi khách hàng có nhu cầu đến ngân hàng
giao dịch.
Tóm lại, hoạt động marketing DVNH còn yếu, việc khảo sát đánh giá
nhu cầu thị trường và hoạt động phát triển thị trường chưa được quan tâm
đúng mức.
Thứ ba, cơ sở vật chất và công nghệ chưa được sử dụng hiệu quả.
Năm 2001, ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là một trong sáu
ngân hàng đầu tiên của Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) lựa chọn và
tài trợ để tham gia Dự án Hiện đại hoá ngân hàng và Hệ thống thanh toán.
Như vậy, có thể nói ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam nói chung và
chi nhánh Bến Thuỷ nói riêng có thế mạnh về khoa học – công nghệ hiện đại,
tiên tiến. Tuy nhiên chính ngân hàng lại chưa tận dụng hết thế mạnh của
mình. Các dịch vụ thanh toán của ngân hàng còn hạn chế, đối với KHCN mới
chỉ có dịch vụ chuyển tiền truyền thống mà các ngân hàng không có công
nghệ hiện đại đều có thể làm được. Điều này dẫn đến sự lãng phí trong việc
sử dụng công nghệ. Trong tương lai ngân hàng cần có những định hướng phát
triển các dịch vụ ứng dụng công nghệ, “đi tắt đón đầu”, nâng cao khả năng
cạnh tranh và phát huy thế mạnh của ngân hàng mình so với các ngân hàng
khác.
39
Thứ tư, chi nhánh thiếu kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực phát triển
các dịch vụ khách hàng cá nhân cũng như phạm vi cung ứng dịch vụ tới khách
hàng cho phép chỉ gói gọn trong thành phố Vinh.
Ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ có một lịch sử hình thành rất
dài, là một trong số những ngân hàng được ra đời rất sớm tại TP.Vinh, nên có
uy tín rất lớn đối với các khách hàng trên địa bàn TP. Tuy nhiên, đối với các
dịch vụ KHCN thì với chi nhánh lại là một lĩnh vực mới phát triển. Vì mới
thực hiện triển khai các sản phẩm mới nên các cán bộ ngân hàng còn thiếu
kinh nghiệm, việc giới thiệu và cung ứng dịch vụ còn lúng túng dẫn đến ảnh
hưởng tới việc đánh giá tính chuyên nghiệp từ phía khách hàng.
Mặt khác, theo quy định của hệ thống chi nhánh NHTM Công thương
thì Vietinbank Bến Thuỷ chỉ được phép cung ứng dịch vụ tới những khách
hàng trong địa bàn thành phố mà không được cung ứng tới các khách hàng ở
những vùng phụ cận. Điều này hạn chế rất nhiều đối với chi nhánh, bởi có
nhiều khách hàng ở những vùng phụ cận, tin tưởng vào uy tín của ngân hàng
đã tìm đến nhưng chi nhánh đành phải từ chối phục vụ.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, môi trường pháp luật chưa thực sự hoàn thiện để phát triển
các dịch vụ khách hàng cá nhân một cách an toàn.
Khung pháp luật của nước ta chưa có những văn bản pháp lý mang tính
điều chỉnh chung cho các DVNH như trong các lĩnh vực thanh toán quốc tế,
ngân hàng điện tử. Mặt khác, nhà nước ta chưa có những chính sách quản lý
công dân một cách chặt chẽ, thông tin cá nhân chưa được quản lý nên rất khó
khăn cho các ngân hàng trong việc đối phó với các hành vi vi phạm, gian lận
trong DVNH, điều này sẽ làm hạn chế việc sử dụng các dịch vụ và ảnh hưởng
40
sự phát triển dịch vụ KHCN.
Hơn nữa, khi tranh chấp xảy ra giữa KHCN và ngân hàng, tòa án dân
sự sẽ phân xử tranh chấp đó, song nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ
mà tòa đã tuyên thì cũng chưa có một chế tài nào có thể xử lý sự việc và phần
thiệt sẽ thuộc về chính các NHTM.
Thứ hai, trong một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, các
ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai các dịch vụ mới và
chiếm lĩnh thị trường.
Môi trường kinh doanh hiện nay là môi trường cạnh tranh mạnh mẽ
giữa các NHTM trong việc triển khai các dịch vụ, gia tăng tiện ích, thu hút
khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Sự cạnh tranh mạnh mẽ này khiến cho
các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng.
Thứ ba, thói quen dùng tiền mặt của người dân Việt Nam ảnh hưởng
xấu tới việc phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân
hàng.
Nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế sử dụng phương tiện thanh
toán bằng tiền mặt, lượng tiền mặt lưu thông rất lớn do các phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam chưa thực sự tiện ích và chưa tiếp cận
được mọi người dân, do thu nhập thấp và do trình độ am hiểu về thanh toán
không dùng tiền mặt còn hạn hế nên tâm lý người Việt vẫn thích sử dụng tiền
mặt trong lưu thông, đối với nhiều cán bộ công chức thì việc sử dụng thẻ
ATM chủ yếu chỉ để lĩnh lương và ngay sau đó họ rút tiền mặt để chi tiêu.
Mặt khác, hiện tại, chi nhánh chưa cho lắp đặt máy POS, dẫn đến tiện
ích của thẻ ngân hàng chưa được khai thác, hạn chế hơn rất nhiều so với thẻ
của ngân hàng Vietcombank và Agribank chi nhánh TP.Vinh (hai ngân hàng
41
này đã cho lắp đặt một số máy POS trên địa bàn).
Thứ tư, thái độ lừa đảo của khách hàng khiến cho ngân hàng cẩn thận
hơn, dè dặt hơn trong việc phát triển các dịch vụ khách hàng cá nhân.
Trong bất kỳ hình thức dịch vụ nào mà ngân hàng cung cấp cho khách
hàng đều tiềm ẩn rủi ro do thái độ lừa đảo của khách hàng. Tuy nhiên, đối với
KHCN lại rủi ro cao hơn do ngân hàng khó có thể kiểm soát được các cá nhân
khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân hàng. Ví dụ, đối
với dịch vụ cho vay, nếu cho các doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng có thể
xuống kiểm tra thực tế, kiểm tra khách hàng thông qua trung tâm thông tin tín
dụng của ngân hàng Nhà nước và thông qua các giấy tờ pháp nhân của khách
hàng. Tuy nhiên, nếu cho KHCN vay vốn hay sử dụng thẻ tín dụng, ngân
hàng chỉ có thể biết khách hàng thông qua chứng minh nhân dân hay sổ hộ
khẩu, tuy nhiên nếu khách hàng có thái độ lừa đảo thì ngân hàng khó có thể
tìm được khách hàng và buộc khách hàng thực hiện nghĩa vụ đối với ngân
hàng. Chính vì rủi ro lớn từ thái độ lừa đảo của KHCN mà ngân hàng TMCP
Công thương Bến Thuỷ có thái độ e dè trong việc triển khai các dịch vụ này
cộng thêm các khoản nợ xấu do chính các rủi ro đó gây tổn thất cho ngân
hàng khiến cho dịch vụ KHCN khó có thể phát triển được.
2.3 Giải pháp phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân tại chi nhánh
ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Bến Thủy
2.3.1 Chi nhánh cần nghiên cứu, xây dựng một chiến lược, định
hướng dài hạn về việc phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân.
Chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương Bến Thuỷ, TP.Vinh chỉ mới
dừng ở việc nhận các chỉ định từ trên xuống, chưa tự định hướng cho mình
một chiến lược phát triển dịch vụ KHCN một cách lâu dài mà mới chỉ dạng kế
42
hoạch hàng năm hoặc nhất thời. Điều này sẽ gây ra một số hạn chế như:
Không khai thác được hết các yếu tố nhân lực, vốn và công nghệ.
Không có điều kiện nghiên cứu xem xét hiệu quả của chiến lược sản
phẩm cũng như sự phù hợp và quy mô của ngân hàng.
Không nghiên cứu một cách thấu đáo nhu cầu thị trường về sản
phẩm trong hiện tại và tương lai xa.
Để khắc phục hạn chế đó, chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ cần tổ chức
thiết lập chiến lược mang tính dài hạn, đảm bảo hiệu quả và đồng bộ. Chi
nhánh cần xây dựng chiến lược trước hết phải dựa trên mục tiêu và định
hướng phát triển của Hội sở chính ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
đưa ra.
Tiếp theo, nghiên cứu một cách tổng thể nhu cầu thị trường, đồng thời
nghiên cứu chiến lược, động thái của đối thủ cạnh tranh trên thị trường dịch
vụ khách hàng tại địa bàn TP.Vinh, kể cả sự gia tăng của các đối thủ tiềm
năng.
Trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển của Hội sở chính, nhu cầu
thị trường, mục tiêu chiến lược lâu dài mà chi nhánh cần xác định bao gồm:
sản phẩm chủ yếu, đối tượng khách hàng, phương châm hoạt động, quy mô và
các hình thức cung cấp, triết lý phục vụ khách hàng… Thông qua chiến lược
đó, từng bộ phận, từng nhân viên nhận thức được mục tiêu và luôn ưu tiên
hướng tới mục tiêu trong mọi tình huống.
Muốn vậy, cần xác lập các dịch vụ cơ bản, dịch vụ mũi nhọn để tập
trung phát triển trên cơ sở khai thác các lợi thế cạnh tranh của chi nhánh. Tiếp
đến là lưu ý các dịch vụ hỗ trợ, những dịch vụ này có thể mang lại nguồn thu
nhập ít hoặc thậm chí không mang lại thu nhập song có tác động thu hút
43
khách hàng, tạo điều kiện cho sự phát triển của các dịch vụ trọng điểm.
Trong quá trình triển khai chiến lược cần có lộ trình cụ thể, phân công
phân nhiệm và giao chỉ tiêu thực hiện cho từng bộ phận, từng nhân viên một
cách rõ ràng. Bên cạnh đó, tạo ra cơ chế khuyến khích tính chủ động, sáng tạo
cho nhân viên tìm tòi những cách thức tốt nhất cho thực thi chiến lược của
ngân hàng.
Định kỳ đánh giá hiệu quả của chiến lược và tình hình thị trường để có
sự điều chỉnh chiến lược và các yếu tố tiềm năng cho phù hợp với tình hình
thực tế, nhu cầu khách hàng và khả năng thực thi của chiến lược, hạn chế thấp
nhất tính bảo thủ của chiến lược mà không tính đến hiệu quả.
Đồng thời, để nâng cao tính thực thi và hiệu quả của chiến lược cần
hình thành bộ phận chuyên môn tham mưu chiến lược để có thể tham mưu
cho BGĐ trong công tác xây dựng chiến lược cho toàn chi nhánh.
Trước mắt, khi chưa có một chiến lược hoàn chỉnh để phát triển một số
sản phẩm dịch vụ mới có hiệu quả, chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ cần:
Thứ nhất, trao đổi thống nhất trong BGĐ về các định hướng chủ yếu
phát triển các DVNH, đặc biệt là đối với các sản phẩm dịch vụ mới.
Thứ hai, thiết lập một bộ phận chuyên nghiên cứu phát triển các sản
phẩm dịch vụ mới (có thể trực thuộc phòng tín dụng) do Phó giám đốc trực
tiếp chỉ đạo. Bộ phận này cần có kế hoạch nghiên cứu kỹ lưỡng về các thị
trường của các sản phẩm mới nổi lên trong hoạt động ngân hàng ở nước ta để
đánh giá khả năng và xây dựng đề án phát triển những sản phẩm có tính khả
thi và hiệu quả, rồi trình lên BGĐ để được thực hiện.
Thứ ba, thiết lập danh mục các sản phẩm dịch vụ hiện có, so sánh với
danh mục các sản phẩm DVNH trong nước, trong khu vực và thế giới, tìm
44
hiểu đánh giá triển vọng các xu hướng nhu cầu của khách hàng, khả năng và
điều kiện cụ thể của ngân hàng để xác định các sản phẩm dịch vụ có khả năng
phát triển trong thời gian tới.
2.3.2 Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ khách hàng cá nhân, đặc
biệt là phát triển các dịch vụ khách hàng cá nhân hiện đại
Phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng
“Theo nghiên cứu của Công ty dịch vụ toàn cầu McKingsey thì những
người trẻ tuổi ở Việt Nam hiện nay tỏ ra thích thú hơn với việc vay tiền ngân
hàng so với thế hệ đi trước, 45% trong số được hỏi cho rằng việc vay tiền có
thể giúp họ cải thiện phong cách sống, so với 31% số người ở độ tuổi già hơn.
Họ cũng ít cho rằng, vay ngân hàng là nguy hiểm hoặc thiếu khôn ngoan hơn
so với người già. Khoảng cách thế hệ trong vấn đề vay tiền ngân hàng ở Việt
Nam cũng nổi bật hơn tại bất kỳ quốc gia nào khác được điều tra, bao gồm cả
Trung Quốc và Ấn Độ” (trích dẫn từ Nguyễn Thị Kim Dung, 2009). Đây
chính là điểm thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ tín dụng tiêu dùng. Tuy
nhiên có thể nhận thấy hiện nay tại chi nhánh, tín dụng tiêu dùng dù đã có
những thành công bước đầu nhưng chưa xứng với tiềm năng phát triển. Để
phát triển dịch vụ này chi nhánh có thể thực hiện các biện pháp như:
- Thực hiện các gói sản phẩm trọn gói mang tính tiện ích cho khách hàng.
- Đặt tên cho từng gói sản phẩm tạo sự khác biệt so với những ngân hàng
khác.
- Giảm bớt một số thủ tục giấy tờ, hành chính cũng như hạn chế một số
những quy định tạo khó khăn cho khách hàng khi vay vốn như trong khoản
vay tiền lương có quy định là tại cơ quan công tác phải thực hiện trả lương
qua thẻ ngân hàng Vietinbank là điều không cần thiết...
45
- Tiến hành tìm hiểu nhu cầu của khách hàng đối với từng sản phẩm...
Phát triển hoạt động ngân hàng điện tử
Những DVNH điện tử bao gồm các dịch vụ: Phone Banking - giao dịch
ngân hàng qua điện thoại với tiện ích để kiểm tra tài khoản, chuyển tiền, hỏi
thông tin về lãi suất và tỷ giá hối đoái. Internet Banking - giao dịch ngân hàng
trên Internet là một cách thức tiện lợi và an toàn, đi kèm với việc sử dụng
Internet ngày càng gia tăng thì càng có nhiều ngân hàng sử dụng các trang
Web để cung cấp sản phẩm và dịch vụ của mình hoặc tăng cường giao tiếp
với khách hàng. Mobile Banking - giao dịch ngân hàng qua điện thoại di
động. Dịch vụ “ngân hàng trực tuyến” với những tiện ích vượt trội, khách
hàng có thể mở tài khoản ở một nơi nhưng thực hiện giao dịch ở bất kỳ chi
nhánh nào thuộc hệ thống NHTM đó trên toàn quốc hoặc có thể truy cập tài
khoản vào mọi thời điểm, vấn tin tài khoản trực tuyến, chuyển tiền, nhận và
thanh toán hóa đơn trực tuyến mà không phải đến ngân hàng... Việc phát triển
DVNH điện tử không chỉ tạo thuận tiện cho khách hàng mà còn tạo ra doanh
thu cho chính ngân hàng, giúp ngân hàng mở rộng thị phần mà chi phí bỏ ra ít
hơn rất nhiều so với việc ngân hàng mở thêm các chi nhánh hay điểm giao
dịch mới.
Ở Việt Nam hiện nay, các sản phẩm của ngân hàng điện tử ngày càng
trở nên rộng rãi và phổ biến: nếu như năm 2004 chỉ có 3 NHTM triển khai
dịch vụ Internet Banking thì đến năm 2008, con số này lên tới 25. Riêng ngân
hàng TMCP Á Châu đã triển khai cả dịch vụ Home Banking, Mobile
Banking, Internet Banking và Phone Banking tới tất cả KHCN. Điều đó cho
thấy xu hướng phát triển DVNH E – Banking hiện nay. Đặc biệt, theo thống
kê tính đến hết tháng 12/2011 số thuê bao điện thoại cả nước đạt 133,1 triệu
46
thuê bao, bao gồm 15,5 triệu thuê bao cố định (tăng 0,1%) và 117,6 triệu thuê
bao di động (tăng 4,4%), đồng thời số người sử dụng internet tại thời điểm
cuối tháng 9/2011 đạt 31,7 triệu người, tăng 23% so với cùng kì năm trước.
Có thể thấy, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này sẽ là một con số khổng
lồ nếu như khách hàng tiếp cận và hiểu rõ các tiện ích từ dịch vụ này.
Tiềm năng phát triển lớn như vậy nhưng hiện nay Vietinbank Bến Thuỷ
mới chỉ triển khai dịch vụ Internet Banking và hiệu quả vẫn còn rất thấp. Tuy
nhiên, để chi nhánh có thể triển khai tốt hơn dịch vụ này cũng như triển khai
thêm các dịch vụ như MobileBanking, HomeBanking, PhoneBanking, thì chi
nhánh lại phụ thuộc rất nhiều vào Hội sở chính về công nghệ, trang thiết bị...
Hiện tại, với dịch vụ Internet Banking đã được triển khai, chi nhánh cần quan
tâm một số vấn đề sau:
- Xây dựng một nhóm cán bộ chủ chốt chuyên về công nghệ thông tin,
một mặt am hiểu nghiệp vụ ngân hàng, mặt khác phải đủ trình độ nắm bắt
nhanh các công nghệ ngân hàng mới và vận dụng vào thực tế hoạt động kinh
doanh.
- Chi nhánh ngay từ bây giờ cần thiết lập hệ thống giao dịch bảo mật,
quản lý chữ ký, chứng từ điện tử để đảm bảo an toàn trong quá trình hoạt
động.
- Giới thiệu dịch vụ rộng rãi đến khách hàng thông qua các hoạt động
marketing.
Phát triển hoạt động chuyển tiền và thanh toán
Hiện tại, do người dân chưa có thói quen thanh toán không dùng tiền
mặt nên dịch vụ thanh toán không chỉ tại chi nhánh mà ngay ở các ngân hàng
khác trên địa bàn cũng chưa được sử dụng. Người dân vẫn đang sử dụng tiền
47
mặt trực tiếp thanh toán tại các đơn vị cung cấp các dịch vụ điện, nước, viễn
thông... Tuy nhiên, cùng với sự phát triển dịch vụ E – Banking và việc Chính
phủ phê duyệt đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 – 2010,
định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg ngày
29/12/2006 thì nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng chắc chắn
sẽ gia tăng. Để “đón đầu” nhu cầu này, Vietinbank Bến Thuỷ nên gia tăng
liên kết với các đơn vị cung cấp điện, nước, dịch vụ viễn thông… cũng như
các đơn vị cung cấp các dịch vụ khác. Tiến hành lắp đặt các máy POS, ATM
tại các cửa hàng và hệ thống siêu thị có lượng khách hàng đông đảo… Việc
lắp đặt máy POS, ATM có thể làm tăng chi phí của chi nhánh nhưng đúng
như tổng giám đốc Sacombank Phan Thị Bích Vân đã nhận định “lợi nhuận là
ngắn hạn, thị phần là vĩnh viễn”. Việc lắp đặt này khiến hình ảnh của
Vietinbank luôn luôn xuất hiện trước người dân tạo ấn tượng quen thuộc cũng
như tiện ích do DVNH mang lại.
2.3.3 Ban lãnh đạo chi nhánh cần mạnh dạn triển khai các dịch vụ
khách hàng cá nhân đồng thời quản lý tốt các rủi ro.
Một sự thật là đối với các dịch vụ KHCN, ngân hàng khó có thể kiểm
soát được khách hàng chặt chẽ như đối với KHDN, tuy nhiên không phải vì
thế mà ngân hàng lại bỏ qua đối tượng khách hàng này mà phải xem đó là một
đối tượng tiềm năng, cần khắc phục các khó khăn để có thể quản lý chặt chẽ
và phát triển các dịch vụ đó. Điều quan trọng là tìm ra các giải pháp thích hợp
để hạn chế rủi ro, đặc biệt là trong thời gian sắp tới, khi mà ngân hàng có định
hướng tăng trưởng tín dụng và cũng dự báo nợ xấu sẽ tăng lên nhiều so với
các năm trước. Chi nhánh có thể áp dụng một số biện pháp cụ thể như:
48
- Thay đổi quy trình và quy chế đối với KHCN cho chặt chẽ hơn, đảm bảo
khả năng hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân hàng của khách hàng.
2.3.4 Chú trọng công tác tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân viên
Đội ngũ nhân viên luôn là một yếu tố quan trọng và quyết định tới mọi
thành công của doanh nghiệp cũng như của ngân hàng. Bất kể đối với nghiệp
vụ hay phát triển dịch vụ nào, ngân hàng cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ
có năng lực chuyên môn tốt, ban lãnh đạo phải là những người có khả năng
quản lý và có tầm nhìn chiến lược tốt. Vì vậy, việc quan tâm hàng đầu của chi
nhánh là cần một đội ngũ nhân viên có khả năng trong việc triển khai các dịch
vụ mới. Chi nhánh cần có các chính sách thu hút nhân tài, cung cấp điều kiện
làm việc tốt nhất cho nhân viên và thường xuyên tổ chức lấy ý kiến, khuyến
khích sáng tạo trong công việc và khen thưởng kịp thời.
2.3.5 Triển khai các chính sách marketing nhằm thu hút khách
hàng
Hoạt động marketing giữ một vai trò ngày càng quan trọng trong chiến
lược phát triển dịch vụ của các NHTM Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Trong khi đó, hoạt động này tại chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ còn rất hạn
chế và mờ nhạt. Chính vì vậy, chi nhánh cần phải đẩy mạnh hoạt động
marketing, có thể thành lập 1 tổ hoặc 1 ban Marketing, tham mưu cho BGĐ
trong việc phát triển DVNH nói chung và dịch vụ KHCN nói riêng. Bộ phận
này phải nghiên cứu và cung cấp được thông tin và quyết sách có lợi nhất
nhằm phục vụ cho BGĐ trong việc đưa ra các quyết định. Khi nhận được các
quyết định và để triển khai các dịch vụ nào, chi nhánh cần phải thực hiện các
công việc sau:
49
Thứ nhất, phát triển sản phẩm dịch vụ gắn với phát triển thị trường
Sau khi đã thực hiện tìm hiểu các dịch vụ đang trên đà phát triển trên thị
trường và nhu cầu của khách hàng, cán bộ marketing sẽ tham mưu cho BGĐ
về những chính sách phát triển của ngân hàng trong ngắn hạn và dài hạn như
các dịch vụ nào đang thịnh hành, các dịch vụ nào sẽ phát triển trong tương lai,
chi nhánh cần tập trung triển khai những sản phẩm nào… Từ đó, chi nhánh có
hướng đi đúng đắn trong việc phát triển các dịch vụ KHCN, đáp ứng tối đa
được nhu cầu của khách hàng và thị trường nhằm chiếm lĩnh thị phần. Ví dụ
như, có thể nhận thấy hiện nay, nhu cầu người dân trên địa bàn đối với các
dịch vụ như dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ môi giới chứng
khoán… là chưa có nên việc phát triển các dịch vụ này vào thời điểm hiện tại
là chưa thích hợp. Tuy nhiên, các dịch vụ này mang lại phí cho ngân hàng mà
các chi phí bỏ ra không thực sự lớn, đồng thời điều quan trọng nhất là mang
lại niềm tin cho khách hàng và uy tín đối với ngân hàng. Vì vậy, việc phát
triển các dịch vụ này sẽ mang lại nhiều lợi thế cho ngân hàng. Cán bộ
marketing cần thường xuyên tiến hành nghiên cứu nhu cầu của khách hàng
đối với dịch vụ này như thế nào, tránh rơi vào tình trạng “đi sau” như việc
phát triển một số dịch vụ trước.
Bên cạnh đó, ngoài thái độ niềm nở cũng như chất lượng dịch vụ tốt, chi
nhánh cũng cần thiết phải xem xét các hình thức hỗ trợ cho khách hàng khi sử
dụng các dịch vụ của chi nhánh để khách hàng cảm thấy hài lòng.
Thứ hai, quảng bá cho các dịch vụ ngân hàng
Muốn đạt được mục tiêu phát triển thì cần tìm biện pháp để khi khách
hàng có nhu cầu sử dụng một dịch vụ nào đó họ sẽ phải nghĩ và tìm đến với
chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ - một địa chỉ đáng tin cậy. Để đạt được điều
50
đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau song hoạt động marketing sẽ là
chiếc cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng.
Chính vì vậy, sau khi xác định được cần tập trung phát triển dịch vụ
KHCN nào thì chi nhánh tiến hành quảng bá các dịch vụ của ngân hàng để
tìm kiếm khách hàng. Muốn khách hàng biết và hiểu rõ về ngân hàng cần tăng
cường các hình thức quảng bá như phát hành bản tin, Website, quảng cáo trên
truyền hình… Nếu có vướng mắc, cán bộ marketing phải tìm nguyên nhân,
đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục để tham mưu cho BGĐ nhằm đổi
mới phương thức điều hành để đạt được các mục tiêu và giữ uy tín cho ngân
hàng.
2.3.6 Xây dựng hình ảnh, văn hóa và uy tín của chi nhánh
Chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ mặc dù có uy tín trong lĩnh vực ngân
hàng nhưng trong việc cung cấp các dịch vụ KHCN thì còn là một ngân hàng
mới mẻ, chưa có kinh nghiệm cũng như uy tín như một số ngân hàng đi đầu
hiện nay. Vì vậy, chi nhánh cần xây dựng cho mình một hình ảnh tốt, văn hóa
và nâng cao uy tín của mình đối với khách hàng.
Xây dựng văn hóa ngân hàng
Một cán bộ nhân viên tại ngân hàng phải luôn giải quyết các mối quan hệ
như: quan hệ với đồng nghiệp, quan hệ với cấp trên, quan hệ với các cơ quan,
tổ chức liên quan và đặc biệt là mối quan hệ với khách hàng.
Trong công việc ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chuyên môn và nội
quy của ngân hàng, mỗi nhân viên phải đảm bảo duy trì lợi ích của ngân hàng
khi giao dịch với các cơ quan, tổ chức, với khách hàng; phải luôn có thái độ
tôn trọng khách hàng, không nói to, không cáu gắt với khách hàng, luôn mỉm
cười với khách hàng kể cả khi gặp phiền toái, chỉ dẫn tận tình cho khách với
51
phương châm luôn biết lắng nghe và thấu hiểu khách hàng…
Hiện tại, chi nhánh Vietinbank Bến Thuỷ chưa xây dựng hệ thống phong
cách làm việc cho nhân viên nên quá trình xử lý các mối quan hệ hoàn toàn
theo cảm nhận thức tế của nhân viên. Do vậy, để khắc phục những hạn chế
trên nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển dịch vụ, cần thiết lập tiêu
chuẩn, quy tắc hành xử các mối quan hệ nêu trên.
Thứ nhất, trong quan hệ với đồng nghiệp cần xây dựng lối hành xử giữa
các đồng nghiệp: thái độ cư xử, cơ chế phối hợp công việc, thời gian, quy
trình, nhiệm vụ giữa các nhân viên trong một phòng, giữa các bộ phận một
cách rõ ràng; phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận trong một chi
nhánh.
Thứ hai, trong quan hệ với khách hàng: ngoài việc nâng cao kỹ năng giao
tiếp cần cụ thể hóa lề lối làm việc, cụ thể hóa thái độ cư xử với khách hàng,
giới hạn những việc nhân viên không được làm, những việc nhân viên cần
phải làm để giữ uy tín và luôn phải vì lợi ích của ngân hàng mọi lúc, mọi nơi.
Nâng cao uy tín của ngân hàng bằng cách nâng cao chất lượng dịch
vụ
Không có uy tín nào mà không được xây dựng bằng chất lượng của sản
phẩm mà doanh nghiệp hay ngân hàng cung ứng và chi nhánh Vietinbank Bến
Thuỷ cũng vậy. Để nâng cao uy tín của mình trong việc cung cấp các dịch vụ
KHCN – một lĩnh vực khá mới của ngân hàng thì việc đầu tiên và quan trọng
nhất là nâng cao chất lượng dịch vụ KHCN mà chi nhánh cung cấp. Có được
như vậy, khách hàng mới tin tưởng, thấy dịch vụ của chi nhánh có chất lượng tốt
kèm theo thái độ phục vụ khách hàng nhã nhặn, nhiệt tình, chắc chắn khách hàng
sẽ thường xuyên sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
52
Để nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, chi nhánh cần thực hiện:
- Học hỏi quy trình cung cấp dịch vụ KHCN mà các ngân hàng đi trước
có kinh nghiệm; cải tiến, sáng tạo, nghiên cứu, triển khai quy trình đó sao cho
phù hợp; xác định phí dịch vụ hợp lý; thủ tục cần nhanh gọn.
- Áp dụng các hình thức khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều dịch vụ
của ngân hàng. Thường xuyên tham khảo ý kiến và tiếp nhận những thắc mắc
và yêu cầu của khách hàng để giải đáp, cải tiến quy trình cho phù hợp.
53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hiện tại, DVNH dành cho KHCN tại NHTM cổ phần Công thương Bến
Thuỷ bao gồm cả DVNH truyền thống và DVNH hiện đại.
1.1 Dịch vụ ngân hàng truyền thống dành cho khách hàng cá nhân: Là
một ngân hàng hình thành từ rất sớm và tạo được uy tín trên thị trường nên
các DVNH truyền thống ở chi nhánh Bến Thuỷ luôn dành được sự quan tâm
của khách hàng.
- Hoạt động nhận tiền gửi: So với các NHTM khác trên thị trường, có
thể nói, Vietinbank Bến Thuỷ là một trong những NHTM đa dạng nhất về sản
phẩm huy động vốn, đặc biệt là bộ sản phẩm tiền gửi tiết kiệm, với 6 loại sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu phong phú của khách hàng. Đó là một trong những lý
do quan trọng giúp cho chi nhánh dù không chạy đua về lãi suất nhưng vẫn
duy trì được tốc độ tăng trưởng huy động vốn: từ 16,77% năm 2010 lên
36,28% năm 2011. Trong đó, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm dân cư luôn chiếm
hơn 70%.
- Hoạt động cho vay thương mại: Bao gồm sản phẩm cho vay vốn kinh
doanh tại gia đình và sản phẩm cho vay kinh doanh tại chợ. Thế mạnh của
Vietinbank là cho vay thương mại nên trong nhóm sản phẩm tín dụng khách
hàng cá nhân, dư nợ cho các hộ sản xuất – kinh doanh vay thương mại luôn
chiếm tỷ trọng lớn, trên dưới 80% trong tổng dư nợ KHCN.
- Hoạt động thanh toán và chuyển tiền: Hiện tại, chi nhánh chưa triển
khai được dịch vụ thanh toán tiền điện, nước, thuế, thanh toán hàng hoá - dịch
54
vụ tiêu dùng khác... mà KHCN mới chủ yếu sử dụng dịch vụ này để thanh
toán tiền hàng kinh doanh của các hộ sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên,
doanh thu từ dịch vụ này đều tăng dần lên qua từng năm: năm 2009: 288,319
triệu đồng; năm 2010: 486,868 triệu đồng; năm 2011: 505,539 triệu đồng đã
cho thấy chi nhánh và người dân đã quan tâm hơn đến dịch vụ này của ngân
hàng.
1.2 Dịch vụ ngân hàng hiện đại: Dù đã có định hướng phát triển DVNH
hiện đại dành cho KHCN nhưng thực sự tại chi nhánh Bến Thuỷ số lượng
DVNH hiện đại còn ít, không phải là sản phẩm mới, chưa tạo được sự khác
biệt so với các NHTM khác... dẫn đến doanh thu từ dịch vụ KHCN tuy có sự
tăng trưởng song nhìn chung vẫn còn thấp so với tổng thu nhập, chỉ chiếm
dưới 17%.
- Hoạt động cho vay tiêu dùng: Chi nhánh đã triển khai một số các sản
phẩm trong bộ sản phẩm tín dụng tiêu dùng. Dù mới chỉ triển khai nhưng bộ
sản phẩm này đã chứng tỏ được sức hút đối với khách hàng với tốc độ tăng
trưởng năm 2011 là 117,13%, từ 7.990 triệu đồng năm 2009 lên 22.143 triệu
đồng. Tuy nhiên, các sản phẩm này đã được các NHTM khác giới thiệu đến
với khách hàng dưới các tên gọi cụ thể như: ngân hàng An Bình (Abbank) có
một chuỗi sản phẩm bán lẻ riêng biệt được bắt đầu bằng chữ “YOU”, mang ý
nghĩa “ngân hàng của bạn” - Ví như YOUhouse; YOUcar; YOUcarPlus...
Trong khi đó, các sản phẩm của Vietinbank Bến Thuỷ vẫn chỉ được gọi với
mục đích cho vay.
- Hoạt động thẻ ngân hàng: Hiện nay, NHTM cổ phần Công thương
Bến Thuỷ đã phát hành được 14.198 thẻ ATM, 28 thẻ Visa và 37 thẻ Master.
55
Nhưng do sản phẩm thẻ tại chi nhánh chưa đa dạng so với các NHTM khác
nên số lượng thẻ phát hành chưa xứng với tiềm năng phát triển của dịch vụ.
- Hoạt động ngân hàng điện tử: Chi nhánh Bến Thuỷ mới chỉ triển khai
dịch vụ Internet Banking trong khi một số NHTM khác đã triển khai Home
Banking, Mobile Banking... như NHTM ACB, VIBank, EAB... và số khách
hàng sử dụng tuy có tăng từ 1000 khách hàng lên 2000 khách hàng nhưng so
với tổng số 40.000 khách hàng có tài khoản giao dịch tại ngân hàng thì vẫn
còn khiêm tốn.
3. Để khắc phục các hạn chế, tiếp tục phát triển dịch vụ KHCN, NHTM
cổ phần Công thương Bến Thuỷ cần nghiên cứu, xây dựng chiến lược, định
hướng dài hạn; chú trọng công tác tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân viên;
triển khai các chính sách marketing, xây dựng hình ảnh, văn hóa, uy tín của
chi nhánh...
2. Kiến nghị
2.1 Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, NHNN cần rà soát, kịp thời bổ sung, sửa đổi các văn bản
pháp lý liên quan để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi nhằm thúc đẩy
và hỗ trợ phát triển các sản phẩm dịch vụ mới của các NHTM. Ví dụ như giao
dịch ngân hàng qua điện thoại cố định, qua mạng điện thoại đi động hay qua
Internet…
Thứ hai, hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến việc phát triển
dịch vụ của các NHTM Việt Nam ra nước ngoài như các dịch vụ thanh toán
quốc tế cũng như cơ chế quản lý giám sát hoạt động của NHNN và của các
NHTM đối với các chi nhánh trực thuộc.
56
2.2 Kiến nghị đối với Hội sở chính ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Bến Thuỷ Việt Nam
Các chi nhánh của ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam có mặt dọc
theo chiều dài của đất nước, ở mỗi địa phương có những điều kiện môi trường
kinh tế, môi trường xã hội và thói quen tiêu dùng khác nhau. Chính vì vậy, Hội
sở chính chỉ nên đưa ra định hướng và cho các chi nhánh được chủ động phát
triển dịch vụ KHCN tuỳ theo khả năng và điều kiện của từng chi nhánh, cả về
các loại hình dịch vụ. Các chi nhánh có trách nhiệm báo cáo lại Hội sở chính về
những vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của chi nhánh. Từ đó, các chi nhánh
có thể tự phát triển các dịch vụ của mình một cách tốt hơn.
57
3. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Dung (2009) Giải pháp tăng thị phần và nâng cao chất
lượng các hoạt động dịch vụ của NH NN & PTNT TP.Vinh Nghệ An. Luận
văn thạc sỹ, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
2. Hội đồng từ điển Quốc gia. “Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam”, tập
1.
Q9MzQ3OTcmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1leGFjdCZrZXl3b3JkPUQlZTEl
YmIlOGFDSCtWJWUxJWJiJWE0&page=1.
3. Lê Thị Thu Hồng (2006) Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng
tại NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam. Chuyên đề tốt nghiệp, trường Đại
học Kinh tế Quốc dân.
4. Trịnh Thanh Huyền (2009). “Dịch vụ ngân hàng hiện đại ở Việt Nam: Kết
quả đạt được và những hạn chế”. Bản tin ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam ngày 14/11/2009.
5. Trần Nguyên Linh (2007) Phát triển hoạt động thanh toán thẻ tại Ngân
hàng Ngoại thương Hà Nội. Chuyên đề tốt nghiệp, trường Đại học Kinh tế
Quốc dân.
6. Nguyễn Thị Mơ (2005) Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở
cửa về dịch vụ thương mại. Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội.
7. Lê Hoàng Nga (2009). “Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ giai đoạn 2010 –
2015”. Bản tin ngày 02/12/2009 tại trang Web
58
7&Itemid=134.
Peter S.Rose (2001). “Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng”,
phần 2. Chuyên đề ngày 7/12/2006.
59
đề ngày 07/12/2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_tttn_c_0854027545_4256.pdf