Thứ nhất, những năm gần đây ngành du lịch phát triển với tốc độ vượt
bậc, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nhiề u
quốc gia cũng như trong nền kinh tế toàn cầu. Nhu cầu về du lịch của con
người ngày càng tăng cao kéo theo những sự phát triển của ngành cũng như
làm thay đổi xu hướng phát triển của du lịch trên thế giới. Đồng thời, là m
phát sinh nhiều loại hình du lịch mô hình kinh doanh du lịch mới. Bên cạnh
những tác động tích cực do sự phát triển của hoạt động du lịch mang lại cho
nền kinh tế và xã hội cũng có không ít những tác động tiêu cực đến kinh tế, xã
hội và môi trường.
90 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3982 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển du lịch quốc tế tại Thái Lan và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng hoá sản phẩm du lịch với các sản phẩm chuyên đề phù hợp với từng
vùng, từng địa phƣơng để thoả mãn nhu cầu đa dạng, ngày càng tăng của các
đối tƣợng khách, nâng cao hiệu quả hoạt động của du lịch.
Cụ thể hoá những định hƣớng nói trên, chúng ta cần có kế hoạch cụ thể
khai thác thị trƣờng quốc tế trọng điểm ở khu vực Đông Á - Thái Bình
Dƣơng, Tây Âu, Bắc Mỹ. Bên cạnh đó khôi phục và khai thác các thị trƣờng
truyền thống các nƣớc SNG, Đông Âu. Mặt khác, cần có những phƣơng án
kịp thời điều chỉnh định hƣớng thị trƣờng khi có biến động.
Một công tác khác cũng không thể lơ là là sát sao đánh giá thực trạng
các sản phẩm du lịch Việt Nam, gắn sản phẩm với thị trƣờng và không ngừng
đa dạng hoá cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch Việt Nam.
Định hướng về đầu tư phát triển du lịch
Cơ sở hạ tầng du lịch gồm các hệ thống giao thông, các địa danh du
lịch trọng điểm, các khách sạn…Chỉ số cơ sở hạ tầng đƣợc đo bằng độ dài và
chất lƣợng đƣờng sá, dịch vụ vệ sinh, cấp nƣớc và xe lửa. Cơ sở hạ tầng yếu
kém là một nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế khó chịu nhất khi đi du
lịch Việt Nam. Cùng với tình trạng tắc nghẽn giao thông, quy định tốc độ giao
thông không hợp lý trên một số tuyến du lịch làm cho chỉ số cạnh tranh về cơ
sở hạ tầng của Việt Nam thấp.
Có năm yếu tố tạo nên sự thành công của ngành du lịch, đó là: phƣơng
tiện giao thông (Accesibility); cơ sở tiện nghi (Amenities); điểm thắng cảnh
(Attraction); các dịch vụ hỗ trợ (Ancilliary services) và điều chỉnh của Chính
phủ (Adjustment).
Đầu tƣ du lịch là đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng du lịch sẽ đáp ứng
đƣợc ba trong số năm điều kiện trên. Vì vậy, cần tạo ra những chuyển biến
tích cực trong công tác đầu tƣ phát triển du lịch với những chính sách ƣu đãi,
hƣớng đầu tƣ vào những điểm còn hạn chế của du lịch Việt Nam và hỗ trợ các
hƣớng phát triển ƣu tiên trong việc xây dựng các khu, tuyến điểm du lịch
trong việc tôn tạo cảnh quan môi trƣờng, các di tích lịch sử, văn hoá…Tập
trung đầu tƣ du lịch vào các địa bàn trọng điểm song song với việc nâng cấp
các khu, điểm du lịch ở các vùng du lịch.
Định hướng về phát triển nguồn nhân lực du lịch
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên du lịch có trình độ và kỹ năng
nghiệp vụ, phẩm chất vững vàng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển
của ngành trong tiến trình hội nhập du lịch quốc tế và khu vực là vấn đề có
tính chiến lƣợc của mọi quốc gia. Đào tạo nhằm nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực du lịch là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất lƣợng
sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, góp phần
nhanh chóng đƣa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nguồn
nhân lực phải phát triển một cách có hệ thống cả về số lƣợng và chất lƣợng.
Định hướng về hợp tác khu vực và hợp tác quốc tế
Trong xu thế hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế cũng nhƣ
đời sống xã hội, Việt Nam không thể đứng ngoài vòng hội nhập đó. Để phát
triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, chúng ta cần tăng cƣờng chủ
động hội nhập và hợp tác quốc tế, nâng cao hình ảnh, vị thế của du lịch Việt
Nam ở khu vực và thế giới. Bên cạnh đó cần đa dạng hoá, đa phƣơng hoá hợp
tác phát triển du lịch với các nƣớc, các cá nhân và các tổ chức quốc tế nhằm
tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tăng nguồn khách, vốn đầu tƣ và kinh nghiệm
cho sự phát triển du lịch Việt Nam.
3. Mục tiêu phát triển du lịch quốc tế trong thời gian tới
Mục tiêu tổng quát
Phát triển nhanh và bền vững làm cho du lịch quốc tế thật sự trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh xúc tiến du lịch, tập trung đầu tƣ có chọn
lọc một số khu, tuyến, điểm du lịch trọng điểm có ý nghĩa quốc gia và quốc
tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hiện đại và phát triển nhanh nguồn
nhân lực, tạo sản phẩm du lịch đa dạng, chất lƣợng cao, giàu bản sắc dân tộc,
có sức cạnh tranh. Từng bƣớc đƣa nƣớc ta trở thành một trung tâm du lịch có
tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 đƣa du lịch Việt Nam vào nhóm
nƣớc có ngành du lịch phát triển hàng đầu trong khu vực; phát triển nhanh
dịch vụ du lịch chất lƣợng cao; đảm bảo quan hệ hài hoà giữa phát triển du
lịch và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trƣờng và văn hoá.
Mục tiêu cụ thể
Để đạt đƣợc những định hƣớng trên, mục tiêu phát triển du lịch của
Việt Nam trƣớc mắt là:
- Tăng cƣờng thu hút khách du lịch quốc tế: Phấn đấu năm 2010 đón
5,5 – 6 triệu lƣợt khách quốc tế, tăng ba lần so với năm 2000, nhịp độ tăng
trƣởng bình quân 11,4%/năm và 25 triệu lƣợt khách nội địa, tăng hơn hai lần
so với năm 2000[40].
- Nâng cao nguồn thu nhập cho du lịch: Dự tính thu nhập du lịch năm
2010 đạt 4- 5 tỷ USD; đƣa tổng sản phẩm du lịch năm 2010 đạt 6,4% tổng
GDP của cả nƣớc. Tốc độ tăng trƣởng GDP bình quân thời kỳ 2001 – 2010
đạt 11 – 11,5%/năm. Kết hợp chặt chẽ với các ngành và địa phƣơng để đẩy
mạnh xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch, tăng nguồn thu ngoại tệ[40].
Với mục tiêu trên, trong năm 2005 du lịch Việt Nam đã nỗ lực phấn
đấu và thu hút đƣợc hơn 3,4 triệu lƣợt khách, tăng 18,4 % so với cùng kỳ năm
2004; 6 tháng đầu năm 2007, lƣợng khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 2,15
triệu lƣợt ngƣời, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm 2006, doanh thu xã hội từ du
lịch đạt 20,7 tỷ đồng[40].
- Xây dựng mới, trang bị lại cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Xây dựng 4
khu du lịch tổng hợp quốc gia và 16 khu du lịch chuyên đề quốc gia; chỉnh
trang, nâng cấp các tuyến, điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch
có ý nghĩa vùng và địa phƣơng, đến năm 2010 cần có 130.000 phòng khách
sạn (xây mới cho thời kỳ 2006 – 2010 là 50.000 phòng). Nhu cầu vốn đầu tƣ
đến năm 2010 cần 2,5 tỷ USD, trong đó đầu tƣ cho kết cấu hạ tầng khu du
lịch là 1,58 tỷ USD[40].
- Tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội: Phấn đấu đến 2010 tạo thêm 1,4
triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp cho xã hội[40].
- Du lịch còn phải đảm bảo mục tiêu về phát triển du lịch quốc tế bền
vững, tăng tốc độ phát triển du lịch đồng thời phải bảo vệ môi trƣờng, gìn giữ
các giá trị truyền thống, giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự xã hội, bảo
tồn các phẩm chất tốt đẹp của ngƣời Việt Nam.
II. Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan và giải pháp đối với Việt Nam
Trong những năm qua, một số nƣớc trong khu vực với xuất phát điểm
và điều kiện tƣơng tự nƣớc ta nhƣng nhờ có những chính sách đầu tƣ, cơ chế
quản lý và những biện pháp phát triển du lịch thích hợp, đã đƣa ngành du lịch
lên mức phát triển khá cao, đƣợc du khách và các chuyên gia về du lịch của
thế giới đánh giá cao. Trong số các quốc gia đó, phải kể đến sự thành công
của Thái Lan. Sự phát triển của du lịch Thái Lan là một tấm gƣơng sáng cho
các nƣớc trong khu vực học hỏi, trong đó có Việt Nam. Những kinh nghiệm
quý báu của ngành du lịch Thái Lan có thể đƣợc rút ra từ các chính sách phát
triển chung của Tổng cục du lịch Thái Lan TAT. Những bài học đó đƣợc rút
ra từ sự thành công cũng nhƣ những hạn chế của ngành du lịch Thái Lan. Và
những bài học đó là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam để Việt Nam xây
dựng những giải pháp và đƣờng lối để phát triển ngành du lịch non trẻ của
mình.
1. Kinh nghiệm từ sự phát triển của Thái Lan
1.1. Chất lượng dịch vụ du lịch hoàn hảo
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân,
Thái Lan đã bắt tay vào làm du lịch từ rất sớm và ngày nay đƣợc mệnh danh
là “cƣờng quốc du lịch” của khu vực.
Chất lƣợng dịch vụ hoàn hảo, cách làm du lịch chuyên nghiệp là một
trong những ƣu thế vƣợt trội thu hút khách du lịch đến Thái Lan. Các dịch vụ
du lịch của Thái Lan, từ dịch vụ chuyên chở khách du lịch, dịch vụ lƣu trú
đến hƣớng dẫn du lịch và các dịch vụ bổ trợ cho ngành du lịch cũng đƣợc
thực hiện một cách chu đáo và hoàn hảo, tạo thuận lợi tối đa cho khách du
lịch.
Ngƣời dân Thái Lan nhận thức đƣợc du lịch là một ngành mang lại
nhiều lợi nhuận cho quốc gia và cá nhân mình nên ý thức làm du lịch của họ
rất rõ ràng. Bản thân ngƣời Thái Lan cũng là những ngƣời có bản tính hiền
lành và thân thiện, điều đấy đƣợc thể hiện qua cách làm du lịch của họ. Đến
với Thái Lan, ta sẽ thấy đó thực sự là mảnh đất của những nụ cƣời (“Land of
Smiles”), bởi đâu đâu, ngƣời làm du lịch hay ngƣời dân cũng đón tiếp khách
du lịch với nụ cƣời rạng rỡ trên môi.
Điều đầu tiên du khách sẽ ấn tƣợng đó là cung cách phục vụ của các
hãng hàng không Thái Lan, đúng nhƣ slogan của Thai Airways “Smooth as
silk” (“mềm mại nhƣ lụa”). Cung cách ấy đƣợc thể hiện trong từng hành động
cử chỉ phục vụ khách du lịch của tiếp viên hàng không Thái. Chỉ riêng cách
nhân viên chắp tay cúi chào đã làm cho hành khách cảm thấy mình đƣợc tôn
kính. Các nam nữ tiếp viên phục vụ nhiệt tình và lịch sự không phân biệt
khách Thái, ngƣời da trắng hay da màu. Cung cách phục vụ ấy là đặc trƣng
của ngƣời Thái Lan trong du lịch. Đến tất cả các điểm du lịch, trên đƣờng
phố, khu giải trí, khách sạn, nhà hàng, khách du lịch đều đƣợc đón tiếp một
cách nồng hậu, cách phục vụ nhiệt tình, chu đáo.
Những điều tƣởng chừng rất đơn giản nhƣ vậy nhƣng du lịch Việt Nam
cũng chƣa làm đƣợc. Nhân viên phục vụ du lịch của chúng ta vẫn cáu gắt với
khách du lịch và đôi khi có sự phân biệt giữa khách hạng sang và khách hạng
thƣờng, hay giữa những ngƣời da trắng và da màu.
Những dịch vụ trong du lịch bao gồm nhƣ: đăng ký visa, vé máy bay,
đăng ký khách sạn, thuê xe, hƣớng dẫn du lịch đều đƣợc thực hiện một cách
chuyên nghiệp hoàn hảo. Chỉ riêng việc làm thủ tục hải quan của Thái Lan
cũng đáng để ta học hỏi. Dù du khách rất đông nhƣng chỉ sau khoảng 10 phút
là đã làm xong thủ tục nhập cảnh, nhân viên hải quan rất cởi mở và nhiệt tình.
Thủ tục đăng ký visa của Thái Lan rất nhanh gọn, không gây phiền toái gì cho
khách du lịch. Đối với khách du lịch đi chữa bệnh, tại bệnh viện còn có dịch
vụ gia hạn visa cho những khách có visa hết hạn.
Hiện nay, chúng ta đã có những bƣớc tiến đáng kể trong việc cải cách
những thủ tục liên quan đến khách du lịch nhƣ thủ tục hải quan, thủ tục
visa…Nhƣng so với Thái Lan thì thủ tục của chúng ta vẫn còn quá rƣờm rà và
phức tạp. Chúng ta cần tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, quá
cảnh đối với ngƣời và hành lý của khách du lịch phù hợp với khả năng quản
lý của nƣớc ta và thông lệ quốc tế. Cải tiến quy trình, tăng cƣờng trang thiết bị
hiện đại tại các cửa khẩu quốc tế trong việc kiểm tra ngƣời và hành lý; sửa
đổi, bổ sung các quy định về đồ giả cổ, đồ thủ công mỹ nghệ dân gian; mở
thêm các dịch vụ thuận tiện cho khách du lịch (đổi tiền, thu trực tiếp ngoại tệ,
cửa hàng miễn thuế, quầy thông tin du lịch…).
Cho đến nay Việt Nam đã miễn thị thực cho công dân của các nƣớc
ASEAN và một số nƣớc khác. Điều này đã có một tác động rất lớn thúc đẩy
sự phát triển của ngành du lịch. Trên cơ sở những bƣớc đầu nhƣ vậy, Việt
Nam cần nghiên cứu và xúc tiến để miễn visa cho khách du lịch ở những thị
trƣờng trọng điểm khác.
Có thể thấy, chất lƣợng dịch vụ là một trong những yếu tố cơ bản tạo
ƣu thế vƣợt trội và lợi thế cạnh tranh to lớn, là nền tảng vững chắc để phát
triển du lịch quốc tế. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam cần thiết phải nâng cao chất lƣợng các dịch vụ du lịch của mình, từ dịch
vụ đón đƣa khách đến các dịch vụ hƣớng dẫn du lịch và lƣu trú nhằm thoả
mãn những nhu cầu của khách, thu hút khách du lịch quốc tế đến với đất nƣớc
xinh đẹp của chúng ta.
1.2. Loại hình du lịch đa dạng
Trong kinh doanh du lịch, quan trọng nhất là biết tạo điều kiện thuận
lợi nhất để thu hút đƣợc nhiều lƣợt khách du lịch, kéo dài thời gian lƣu trú của
khách du lịch. Một trong những biện pháp hữu hiệu là đa dạng hoá sản phẩm
du lịch. Việc đa dạng hoá sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch hƣớng tới làm
phong phú và đảm bảo chất lƣợng của các sản phẩm và dịch vụ có thể kích
thích đƣợc nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch.
Để thu hút khách du lịch đến với đất nƣớc mình, Thái Lan đã không
ngừng nâng cao chất lƣợng các sản phẩm du lịch và đa dạng hoá các hình
thức du lịch. Trong một tour du lịch Thái thƣờng kết hợp các loại hình du lịch
khác nhau để có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách du lịch. Có thể kể đến
các hình thức du lịch mà Thái Lan có thế mạnh nhƣ:
Du lịch sinh thái (Ecotourism)
Những năm gần đây, xu hƣớng đi du lịch sinh thái ngày càng phát triển
vì du khách ngày càng muốn gần gũi thiên nhiên. Cơ quan quản lý du lịch
Thái Lan và các bộ phận tƣ nhân đã nhanh chóng nắm bắt đƣợc xu hƣớng này
của khách du lịch và đã có những hình thức hợp lý để phát triển hình thức du
lịch này.
Thái Lan đƣợc tạo hóa ban tặng những kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp,
với những cảnh tự nhiên hoang dã thích hợp để phát triển loại hình du lịch
này. Thái Lan đã trở thành một điểm đến quen thuộc của những du khách yêu
thích khám phá và tìm hiểu tự nhiên. Trong suốt những thập kỷ phát triển du
lịch, những hoạt động nhƣ xe đạp leo núi, thả bè trên sông, cắm trại, ngắm
chim chóc, tự nhiên, lặn biển, leo núi đá…đã phát triển trong những khu du
lịch tự nhiên của Thái Lan. Và hiện tại nó lại càng đƣợc chú ý hơn do phần
lớn khách du lịch thích đến những miền đất hoang dã, ít ngƣời đặt chân đến.
Những hoạt động du lịch sinh thái nhƣ vậy có ở hầu hết các vùng miền của
Thái Lan, nổi bật là khu vực núi ở phía Bắc, Đông và Nam của Thái Lan.
Việt Nam cũng có những phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, những
điểm tham quan lý thú nhƣng hiện nay ở Việt Nam, loại hình du lịch sinh thái
chƣa phát triển. Hầu hết chỉ là sự phát triển tự phát và manh mún, chỉ lợi dụng
những gì sẵn có mà không có sự đầu tƣ lâu dài cũng nhƣ kế hoạch bảo vệ và
phát triển những nguồn tài nguyên đó. Vì vậy, trong điều kiện nguồn vốn còn
hạn hẹp, Việt Nam cần phải có kế hoạch phát triển cụ thể cũng nhƣ quy hoạch
địa bàn phát triển loại hình du lịch này.
Du lịch mạo hiểm (Adventure tourism)
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều du khách muốn khám
phá và thử thách bản thân mình qua những hình thức du lịch mạo hiểm. Nắm
bắt đƣợc nhu cầu của khách du lịch, Chính phủ cũng nhƣ Tổng cục du lịch
Thái Lan đã nghiên cứu và đầu tƣ để phát triển các loại hình du lịch mạo
hiểm.
Với tài nguyên rừng núi cũng nhƣ thác ghềnh sông ngòi, Thái Lan đã
đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ những biện pháp đảm bảo an
toàn cho du khách tham gia du lịch mạo hiểm. Các loại hình du lịch mạo hiểm
nhƣ lƣớt sóng, chèo thuyền vƣợt thác ghềnh, leo núi hay đi xe đạp xuyên rừng
đã đƣợc triển khai ở hầu hết các tỉnh thành có tiềm năng phát triển loại hình
du lịch này. Dự báo trong tƣơng lai không xa, đây sẽ là loại hình du lịch phát
triển và thu hút khách nhiều nhất trong các loại hình du lịch của Thái Lan.
Việt Nam với địa hình lắm đồi núi, hệ thống sông ngòi chằng chịt, các
dãy núi đá vôi, nhiều hang động đẹp, nhiều khu rừng nguyên sinh nhiệt đới
cũng nhƣ các khu bảo tồn thiên nhiên, vƣờn quốc gia rộng lớn, với hơn 3000
km bờ biển tạo nên bức tranh phong cảnh sinh động trải dài từ bắc đến nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã bắt đầu khai thác loại hình du
lịch này nhƣng việc phát triển còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Để thúc đẩy sự phát triển của loại hình du lịch này trong thời gian tới,
chúng ta cần tập trung khảo sát và quy hoạch những địa điểm, khu vực thích
hợp cho việc tổ chức các chƣơng trình du lịch mạo hiểm. Đồng thời chúng ta
cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trƣờng, xác định đƣợc các đoạn thị
trƣờng và khách hàng mục tiêu để có chiến lƣợc quảng bá và thu hút khách.
Song song với các công tác trên là sự cần thiết phải hỗ trợ các doanh nghiệp
lữ hành xây dựng, phát triển và chào bán các chƣơng trình du lịch mạo hiểm
và công tác bảo vệ cảnh quan môi trƣờng tại những nơi tổ chức du lịch mạo
hiểm.
Du lịch hoa:
Du lịch hoa là một loại hình du lịch tự nhiên, du khách đƣợc tạo điều
kiện để cảm nhận giá trị cũng nhƣ tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn của các
loài hoa trong thiên nhiên. Tuy nhiên, trong thực tế du lịch hoa không chỉ
nhắm tới giá trị các loài hoa trong tự nhiên mà còn đƣợc hiểu theo nghĩa rộng
với các công viên hoa chuyên đề, các làng hoa cây cảnh truyền thống đặc
trƣng cho mỗi quốc gia, mỗi vùng miền nơi có những đặc trƣng địa lý khác
nhau.
Thái Lan với khí hậu và địa hình đa dạng đã tạo ra hệ sinh thái và thảm
thực vật đa dạng phong phú. Nắm bắt đƣợc nhu cầu của khách du lịch muốn
gần gũi với thiên nhiên, Tổng cục du lịch Thái Lan đã phát triển loại hình du
lịch hoa và đƣa vào các tour du lịch. Trong thời gian ngắn, loại hình du lịch
này thu hút đƣợc sự quan tâm, trí tò mò của du khách và đã đạt đƣợc những
thành công đáng kể.
Việt Nam là đất nƣớc có sự đa dạng cao về các hệ sinh thái và tính đa
dạng sinh học. Sự đa dạng này cũng thể hiện ở các loài hoa. Hoa ở Việt Nam
rất đa dạng và phong phú, trong đó ở những lãnh thổ địa lý, các tỉnh thành
khác nhau sẽ có những loài hoa đặc trƣng. Đất nƣớc ta có tiềm năng để phát
triển loại hình du lịch hoa nhƣ vậy nhƣng thực trạng phát triển hoa còn hạn
chế, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng.
Để có thể phát triển loại hình du lịch này, Việt Nam cần chú trọng xây
dựng phát triển các vùng hoa, các công viên của bản địa chuyên đề gắn với
các địa danh nổi tiếng và có truyền thống về hoa; xây dựng những chính sách
khuyến khích phục hồi các làng hoa, cây cảnh truyền thống, các lễ hội gắn với
hoa.
Du lịch MICE
MICE là viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thƣởng),
Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). MICE là loại hình
du lịch hiện đại dựa trên sự kết hợp của các hoạt động hội nghị, hội thảo, triển
lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thƣởng của các công ty cho nhân viên hoặc
đối tác hoặc khách hàng thân thuộc v.v...
Theo thống kê của Tổ chức du lịch thế giới, thị trƣờng du lịch MICE
toàn cầu hàng năm có trị giá khoảng 300 tỷ USD, và tạo ra một guồng máy
hoạt độn kinh tế trị giá 5.490 tỷ USD, chiếm khoảng 10,5% GDP thế giới, thu
hút khoảng 214 triệu việc làm. Lợi điểm của du lịch MICE là mang lại giá trị
cao gấp 6 lần so với loại hình du lịch thông thƣờng vì các đoàn khách MICE
thƣờng rất đông, có khi đến vài trăm khách và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn
khách đi tour bình thƣờng. Đây là ngành đem lại nguồn khách lớn, có gia trị
kinh tế cao, sử dụng tổng hợp các dịch vụ: phòng họp, hội nghị, lƣu trú,
tiệc…tại các khách sạn và dịch vụ của các hãng lữ hành nhƣ phƣơng tiện vận
chuyển, hƣớng dẫn, các tour du lịch tham quan kết hợp…
Nắm bắt đƣợc xu hƣớng này, ngành du lịch đã bắt tay vào làm loại hình
du lịch này từ rất sớm. Một mặt Thái Lan có những tiền đề để phát triển loại
hình du lịch này nhƣ cơ sở hạ tầng hiện đại, có những trung tâm hội nghị, hội
chợ triển lãm lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thêm vào đó là thủ tục xuất nhập
cảnh của Thái Lan thuận tiện, nhanh chóng và đội ngũ nguồn nhân lực hùng
hậu chuyên phục vụ du lịch MICE...
Du lịch MICE đã rất phát triển trên thế giới và Thái Lan, nhƣng đối với
Việt Nam là loại hình du lịch còn mới mẻ. Trong những năm gần đây Việt
Nam đã phát triển loại hình du lịch này nhƣng thực tế, hiện tại Việt Nam đang
vấp phải rất nhiều khó khăn nếu muốn đẩy mạnh khai thác loại hình du lịch
này. Đó là những khó khăn về cơ sở hạ tầng, về kinh nghiệm tổ chức, khai
thác. Đặc biệt là hiện nay tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh các trung tâm
hội nghị, triển lãm nào có đủ tầm cỡ mang tính khu vực và quốc tế nhƣ ở các
nƣớc Thái Lan, Singapore, Malaysia…còn rất thiếu.
Để phát triển loại hình du lịch MICE, Việt Nam không thể chỉ dựa vào
hệ thống khách sạn từ 3 – 5 sao hiện có tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
và một số điểm du lịch khác. Nhất là trong bối cảnh lƣợng khách quốc tế vào
Việt Nam ngày một tăng thì nhanh thì hệ thống khách sạn cao cấp này cũng
thƣờng xuyên hết phòng. Các tổ chức nƣớc ngoài muốn chọn Việt Nam là nơi
tổ chức một hội nghị quốc tế hay một triển lãm tầm cỡ thì cũng khó có thể
chọn đƣợc một nơi nào đáp ứng đƣợc yêu cầu của họ. Điều quan trọng nữa là
Việt Nam vẫn chƣa hình thành đƣợc một tổ chức chuyên nghiệp về MICE để
điều phối hoạt động của loại hình du lịch này. Hiện tại cũng đã có những hoạt
động về MICE nhƣng đó chỉ là những hoạt động đơn lẻ của một số khách sạn,
công ty nên không phát huy đƣợc hiệu quả kinh tế.
Nhƣ vậy, việc sớm cho ra đời một tổ chức chuyên nghiệp của loại hình
kinh doan này và sớm xúc tiến, kêu gọi đầu tƣ xây dựng các trung tâm triển
lãm, hội chợ, hội nghị quốc tế mang tầm khu vực và quốc tế nhƣ các nƣớc
trong khu vực và trên thế giới là những việc làm rất cấp thiết. Đây cũng chính
là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam
phát triển trong những năm tới.
1.3. Chính sách xúc tiến quảng bá du lịch hiệu quả của Thái Lan
Theo thống kê của Cơ quan du lịch Thái Lan TAT, hàng năm Thái Lan
đón một lƣợng khách quốc tế trên 10 triệu lƣợt ngƣời, tỷ lệ du khách quay trở
lại nƣớc này khoảng 40 -50 %[47]. Điều này cũng dễ hiểu bởi công nghiệp du
lịch Thái Lan năng động và luôn bắt kịp thị hiếu của du khách. Đóng góp một
phần không nhỏ vào sự thành công đó là chính sách xúc tiến quảng bá du lịch.
Công tác xúc tiến quảng bá phát triển du lịch đƣợc thực hiện bởi Cơ
quan du lịch Thái Lan TAT. TAT hoạt động chuyên nghiệp gồm các đại diện
vùng và các văn phòng đại diện ở nƣớc ngoài. Trong tổ chức bộ máy, TAT có
quy định rất rõ về nhân sự bao gồm số lƣợng và vị trí công tác của các đại
diện tại trung ƣơng và địa phƣơng tại mỗi văn phòng đại diện. Do vậy, các
chính sách và công tác quản lý thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa chính sách vĩ
mô và điều kiện triển khai của từng địa phƣơng.
Công tác xúc tiến quảng bá đặc biệt tại các thị trƣờng quốc tế đƣợc
ngành du lịch Thái Lan rất quan tâm và tổ chức đồng bộ từ việc mở văn
phòng đại diện tại các thị trƣờng trọng điểm đến hoạt động thăm dò ý kiến
khách du lịch để tạo ra sản phẩm đặc trƣng thu hút khách, thống kê các hiệu
ứng thị trƣờng để có những chính sách phù hợp và đem lại hiệu quả cao cho
hoạt động xúc tiến đối với từng thị trƣờng cụ thể.
Thông qua TAT, ngành du lịch Thái Lan dành nguồn kinh phí khá lớn
cho hoạt động xúc tiến thị trƣờng, các văn phòng đại diện hàng năm đƣợc cấp
khoảng 0,5 triệu USD cho hoạt động xúc tiến, vì vậy việc triển khai xúc tiến
quảng bá du lịch tới các thị trƣờng đƣợc tiến hành tƣơng đối đồng bộ[47].
Ngoài ra, để thúc đẩy hoạt động quảng bá hình ảnh quốc gia và thu hút
khách du lịch, còn có sự kết hợp chặt chẽ của cơ quan du lịch Thái Lan với
đại diện cơ quan ngoại giao và hãng hàng không quốc gia thông qua hoạt
động quảng bá truyền thống dân tộc, sự kiện thể thao, đặc biệt tận dụng vai
trò trung tâm trong khu vực ASEAN.
Dịch vụ cung cấp thông tin cho khách du lịch của Thái Lan cũng rất tốt.
Tại các sân bay, các điểm du lịch đều có Trung tâm hỗ trợ thông tin cho
khách, cung cấp nhiều loại ấn phẩm giới thiệu các sản phẩm du lịch cụ thể và
đa dạng.
Xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch là biện pháp quan trọng để tạo
lập và nâng cao hình ảnh du lịch của đất nƣớc. Hiện nay công tác này của
Việt Nam thật sự yếu kém. Từ những kinh nghiệm của Thái Lan, Việt Nam
cần có những biện pháp để giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nƣớc mình
cũng nhƣ cung cấp thông tin du lịch nƣớc ta tới du khách một cách thƣờng
xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Cụ thể:
Thứ nhất, cần nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, tập quán, thói quen tiêu dùng
của các đối tƣợng khách để có những sản phẩm phù hợp với thị trƣờng thông
qua các hình thức tuyên truyền quảng cáo.
Thứ hai, thƣờng xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm, hội nghị, hội
thảo du lịch quốc tế ở nƣớc ngoài; đồng thời tổ chức hội chợ, triển lãm, hội
nghị, hội thảo du lịch quốc tế ở trong nƣớc; phối hợp với các ngành, địa
phƣơng, đơn vị liên quan tiến hành các chiến dịch phát động thị trƣờng.
Thứ ba, đầu tƣ ngân sách hơn nữa trong công tác xúc tiến quảng bá du
lịch Việt Nam. Cần quảng bá du lịch Việt Nam nhƣ một thƣơng hiệu của một
đất nƣớc với cảnh thiên nhiên đẹp và hoang sơ, với một nền văn hoá mang
đậm tính lịch sử truyền thống và nhân văn, một đất nƣớc Việt Nam với “vẻ
đẹp tiềm ẩn” (“The hidden charm”). Nếu không có sự đầu tƣ về ngân sách,
chắc chắn công tác này sẽ không thể thực hiện đƣợc hoặc thực hiện mà không
đạt hiệu quả nhƣ mong đợi. Chúng ta nên đầu tƣ thuê những công ty quảng
cáo quốc tế chuyên nghiệp nhằm quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến với thế
giới; quảng bá trên những phƣơng tiện thông tin đại chúng quốc tế nhƣ
BCC,CNN…và những tạp chí du lịch có tên tuổi trên thế giới.
Thứ tư, tiến hành thiết lập những đại diện du lịch Việt Nam ở những
nƣớc là đầu mối giao lƣu quốc tế và thị trƣờng trọng điểm nhƣ Nhật Bản, Mỹ,
Châu Âu. Tại mỗi văn phòng đại diện cần có những chiến lƣợc hoạt động cụ
thể để không ngừng quảng bá du lịch Việt Nam.
Thứ năm, nhóm các giải pháp quảng bá qua các công cụ chính nhƣ
quảng bá qua website, email nhằm giới thiệu về hình ảnh đất nƣớc con ngƣời,
những cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập quán, lễ hội sự kiện văn hoá du
lịch nổi tiếng, hấp dẫn của Việt Nam, kết nối các đoạn chƣơng trình để khách
hàng dễ truy cập, nắm bắt thông tin cũng nhƣ liên hệ; kết nối với các trang
web nổi tiếng nhƣ Google, MSN…
1.4. Chính sách giá cả trong du lịch Thái Lan
Giá du lịch Thái Lan có thể nói là một trong những giá du lịch hấp dẫn
nhất thế giới. Từ vé máy bay đến khách sạn, rồi đến các dịch vụ, mua sắm
trên đất nƣớc Thái Lan đều rất rẻ. Đó là lý do tại sao du khách trong khu vực
từ Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc đến các nƣớc ở lục địa khác đều đổ xô
đến Thái Lan.
Vậy lý do vì sao giá du lịch Thái Lan lại rẻ nhƣ vậy? Câu trả lời đó là:
cùng xuất phát điểm nhƣ Việt Nam nhƣng chính phủ Thái Lan đã sớm bắt tay
vào làm du lịch từ nhiều năm trƣớc. Ngành du lịch luôn nhận đƣợc sự hỗ trợ
từ phía chính phủ, từ việc đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, đƣờng sá, khách
sạn, các điểm du lịch cho đến việc ban hành các chính sách và thể chế hợp lý
khuyến khích mọi thành phần kinh tế cũng nhƣ nhân dân làm du lịch. Hơn
nữa, các công ty du lịch của Thái Lan đƣợc chuyên môn hoá và có mối liên
kết rất chặt chẽ với nhau tạo thành những chuỗi, những tập đoàn du lịch.
Chính phủ Thái Lan còn có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch. Điều này đã khiến các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh mà
không phải lo đƣơng đầu với những biến động trên thị trƣờng thế giới nhƣ giá
xăng dầu tăng hay giá thực phẩm, các mặt hàng tiêu dùng tăng. Chính vì
những lý do trên mà các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Thái Lan luôn
giữ mức giá tour ổn định. Các khách sạn, nhà hàng và các cơ sở hạ tầng khác
cũng đƣợc đầu tƣ lâu dài và đang trong quá trình khai thác, chịu mức khấu
hao thấp, không nhƣ ở Việt Nam các khách sạn phải chịu mức khấu hao rất
lớn. Điều này cũng làm giảm giá thành của các tour du lịch đến Thái Lan.
Để có thể cạnh tranh với các nƣớc trong khu vực, đặc biệt với Thái Lan
về chính sách giá cả, Việt Nam cần có những biện pháp về tài chính, về đầu tƣ
cũng nhƣ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành liên quan.
Cụ thể:
Chính sách tài chính: ƣu tiên thuế nhập khẩu với thuế suất bằng thuế
nhập khẩu tƣ liệu sản xuất đối với các trang thiết bị khách sạn, cơ sở vui chơi
giải trí, phƣơng tiện vận chuyển khách du lịch, vật tƣ phục vụ du lịch mà
trong nƣớc chƣa sản xuất đƣợc hoặc không đáp ứng đƣợc yêu cầu hiện đại
hoá cơ sở du lịch theo nhu cầu du khách. Trƣớc mắt ƣu tiên vốn vay đầu tƣ
đối với các dự án ƣu tiên và tại các vùng trọng điểm phát triển du lịch, khu du
lịch quốc gia. Nhà nƣớc cần có chế độ hợp lý về thuế, về giá điện, nƣớc trong
kinh doanh khách sạn đồng thời phải tiến hành rà soát điều chỉnh các phƣơng
pháp tính thuế, các loại phí, lệ phí, các hình thức vé liên quan đến du lịch.
Tăng cƣờng quản lý áp dụng thống nhất chính sách một giá trong phạm vi cả
nƣớc. Hoạt động du lịch là hoạt động xuất khẩu tại chỗ, Do đó, cho phép kinh
doanh du lịch quốc tế đƣợc hƣởng chế độ ƣu đãi khuyến khích xuất khẩu.
Chính sách đầu tư: Nhà nƣớc cần có chính sách đầu tƣ hợp lý phát
triển kết cấu hạ tầng tại các vùng du lịch trọng điểm, các khu du lịch quốc gia
cũng nhƣ các điểm du lịch quốc gia, các điểm du lịch tiềm năng ở các vùng xa
xôi, hẻo lánh; đồng thời chú trọng đầu tƣ xúc tiến quảng bá du lịch. Trên cơ
sở xem xét các thế mạnh và tốc độ phát triển của từng vùng, từng lĩnh vực,
tạo cơ chế thông thoáng về đầu tƣ cho sự phát triển du lịch ở từng địa phƣơng,
áp dụng chính sách ƣu đãi đầu tƣ trong nƣớc đối với các lĩnh vực, ngành
nghề, dự án trọng điểm đầu tƣ du lịch.
Tăng cường phối hợp liên ngành: Là một ngành kinh tế tổng hợp mang
tính liên ngành, liên vùng nên muốn du lịch phát triển đem lại lợi ích quốc gia
cần có sự phối hợp hành động giữa các ngành với ngành Du lịch dƣới một sự
chỉ đạo tập trung thống nhất. Chúng ta cần nghiên cứu tiếp tục đổi mới vai trò
và hoạt động của ban chỉ đạo nhà nƣớc về du lịch, nhất là sự phối hợp đồng
bộ hiệu quả trong công tác hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện. Hơn
nữa, các bộ, ngành nhƣ môi trƣờng, đầu tƣ, giáo dục, chính quyền địa phƣơng
phải tham gia vào hoạt động xây dựng thể chế, các quy định và cử đại diện
vào các Uỷ ban liên ngành để cùng phối hợp quản lý, giám sát sự hoạt động
và kịp thời có những điều chỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển.
Nhƣ vậy, nếu có sự liên kết giữa các ngành hàng không, các cơ sở lƣu
trú và các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch thì việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh về giá cả là một điều không quá khó để thực hiện.
1.5. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong phát triển du lịch
Công nghệ thông tin hiện đang phát triển cả về cơ sở hạ tầng và dịch vụ
viễn thông, công nghiệp phần cứng và công nghiệp phần mềm. Rất nhanh
chóng, công nghệ thông tin và du lịch đã trở thành hai đối tác gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật và để đáp ứng
đƣợc nhu cầu thu hút, đảm bảo vị trí trong thế phát triển cạnh tranh, du lịch
Thái Lan áp dụng nhanh chóng tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại trong
các lĩnh vực hoạt động, từ quy hoạch thiết kế công trình du lịch, các công
nghệ dịch vụ du lịch đến các dịch vụ hạ tầng giao thông, bƣu chính viễn
thông, ngân hàng…để tạo sự hài lòng cho khách du lịch. Đặc biệt là trong lĩnh
vực vui chơi giải trí và mua sắm đƣợc các nhà đầu tƣ áp dụng triệt để nhằm
tạo cảm giác “bằng lòng trả tiền” của du khách.
Chính quyền tại các khu vực phát triển du lịch đầu tƣ lớn để ứng dụng
công nghệ hiện đại trong quản lý du lịch nhƣ Hội đồng thành phố Pattaya có
hệ thống camera khá hiện đại để giám sát quản lý nhiều điểm tập trung đông
khách du lịch trên địa bàn để đảm bảo an ninh trật tự.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tổ chức và vận hành các
Trung tâm thông tin du lịch để cung cấp các sản phẩm du lịch ấn tƣợng đã
thực sự tạo môi trƣờng thuận lợi cho du khách.
Thực tế việc ứng dụng khoa học kỹ thuật ở nƣớc ta hiện nay còn rất
nhiều tồn tại do nguồn vốn của Việt Nam còn hạn chế, ứng dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại một cách đồng bộ chƣa thể thực hiện một sớm một chiều. Vì
vậy, trƣớc mắt chúng ta chỉ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào những khâu cơ
bản của quá trình phát triển du lịch nhƣ công tác tuyên truyền quảng bá du
lịch.
Để ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền quảng bá
du lịch có hiệu quả chúng ta cần:
Phối hợp chặt chẽ giữa các trung tâm xúc tiến du lịch – thƣơng mại tại
các địa phƣơng với các trung tâm tin học trong việc thống nhất cơ chế cung
cấp thông tin trên website chung của Tổng cục du lịch, đồng thời với việc duy
trì và quảng bá website du lịch riêng của các địa phƣơng.
Tiếp tục duy trì các hoạt động hỗ trợ miễn phí cho hoạt động của các
doanh nghiệp trong ngành qua việc cung cấp các thông tin cơ bản của doanh
nghiệp trên các website chính thức của Tổng cục du lịch Việt Nam với cơ chế
linh hoạt; quảng bá rộng rãi hơn đối với các website mới lập để đông đảo
khách du lịch đƣợc biết đến.
Giới thiệu rộng rãi hơn nữa các giải pháp, công nghệ đã nghiên cứu và
ứng dụng, sẵn sàng chuyển giao công nghệ khi các đơn vị có nhu cầu.
Chủ động hơn nữa trong việc hỗ trợ các Hiệp hội du lịch tại các tỉnh
trong công tác tuyên truyền quảng bá ứng dụng công nghệ thông tin.
Ngoài ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong công tác quảng bá
xúc tiến du lịch, chúng ta cần đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc quy hoach, thiết kế và quản lý các công trình du lịch cũng nhƣ phát
triển các ngành dịch vụ bổ trợ nhƣ ngân hàng, bƣu chính viễn thông…
1.6. Phát triển nguồn nhân lực
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, muốn hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới nói chung và ngành du lịch quốc tế nói riêng, chúng ta
phải huy động các nguồn lực cho sự phát triển, trong đó nguồn lực quan trọng
nhất, mang tính quyết định là nguồn lực con ngƣời.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của yếu tố con ngƣời trong sự phát
triển, ngay từ rất sớm Thái Lan đã có những chính sách để phát triển nguồn
lực này. Thái Lan có các trƣờng đào tạo chuyên nghiệp cũng nhƣ có các khóa
học để không ngừng nâng cao nhận thức cũng nhƣ chuyên môn nghiệp vụ cho
lực lƣợng lao động trong ngành du lịch.
Trong khi đó, nguồn nhân lực phục vụ du lịch quốc tế của chúng ta
thiếu về số lƣợng và yếu về chất lƣợng. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta
phải phát huy những thành tích đã đạt đƣợc và hạn chế những khuyết điểm,
yếu kém trong việc đào tạo nhân lực.
Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật, các cơ chế chính sách và quy chế quản lý hoạt động đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực du lịch, chế độ đãi ngộ nhân tài và quy định về lƣơng, thƣởng
phù hợp. Thực hiện chƣơng trình phát triển nhân lực dài hạn giai đoạn 2002 –
2015. Bên cạnh đó hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách đào tạo, bồi dƣỡng
nguồn nhân lực du lịch. Tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra các hoạt động đào tạo,
bồi dƣỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch, từng bƣớc hiện đại hóa công tác
thống kê nhân lực du lịch và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về đào
tạo, bồi dƣỡng du lịch.
Thứ hai, tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực du lịch. Chúng ta cần xây dựng
hệ thống tiêu chuẩn đối với các chức danh và cấp bậc ngành nghề du lịch nhƣ
tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo cấp vụ, giám đốc sở, giám đốc doanh nghiệp
du lịch, tiêu chuẩn nghề du lịch làm cơ sở cho ngƣời học, cơ sở đào tạo và
ngƣời sử dụng lao động.
Thứ ba, chúng ta phải xây dựng quy hoạch mạng lƣới cơ sở đào tạo du
lịch toàn quốc. Trƣớc hết, thành lập các trƣờng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ du
lịch. Song song việc đào tạo là nâng cấp cơ sở đào tạo hiện có, đầu tƣ mới
một số cơ sở đào tạo trọng điểm đạt tiêu chuẩn quốc tế ở các địa phƣơng là
trọng điểm du lịch và nơi có xu hƣớng phát triển mạnh du lịch. Đồng thời,
hình thành bộ phận đào tạo du lịch ở các trƣờng nghề ở địa phƣơng và khuyến
khích mở các cơ sở đào tạo du lịch ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài. Phối hợp các công tác trên với việc tăng cƣờng liên kết các cơ sở
đào tạo du lịch trong và ngoài mạng lƣới.
Thứ 4, tăng cƣờng xã hội hóa mạnh công tác đào tạo du lịch. Sử dụng
hiệu quả ngân sách nhà nƣớc và khuyến khích các thành phần kinh tế, nhân
dân, ngƣời lao động đóng góp công sức tiền của cho đào tạo, bồi dƣỡng
nguồn nhân lực du lịch. Đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo du lịch
lập cơ sở dịch vụ phù hợp ngành nghề đào tạo để sinh viên, học sinh thực
hành, hoạt động với thuế suất ƣu đãi để tạo thêm kinh phí hoạt động cho đào
tạo. Một biện pháp hữu hiệu nữa là đa dạng hóa sở hữu các loại hình cơ sở
đào tạo, bồi dƣỡng bên cạnh việc huy động kiến thức và kinh nghiệm của các
nhà khoa học đầu ngành trong nƣớc cũng nhƣ nƣớc ngoài để phục vụ công tác
phát triển nguồn nhân lực du lịch. Song song với những công tác trên cần tăng
cƣờng phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với cơ quan quản lý nhà nƣớc về
du lịch và doanh nghiệp du lịch để đào tạo, mở rộng và tăng cƣờng liên kết
giữa cơ sở đào tạo với các ngành, địa phƣơng, các điểm, khu du lịch, các
doanh nghiệp du lịch.
2. Kinh nghiệm từ những mặt hạn chế trong quá trình phát triển du
lịch Thái Lan
2.1. Du lịch sex và những tác động tiêu cực
Hiện nay trên thế giới có không ít các quốc gia kinh doanh loại hình du
lịch này. Thái Lan là một trong số các nƣớc đó.
Thái Lan đã phát triển ngành công nghiệp không khói dựa trên nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú và chất lƣợng các dịch vụ hoàn hảo. Bên
cạnh đó, Thái Lan còn thu hút một lƣợng lớn khách du lịch đến với loại hình
du lịch sex.
Xuất phát từ nhu cầu lớn của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch
châu Âu, coi sex nhƣ một nhu cầu cơ bản không thể thiếu trong đời sống,
Thái Lan đã biến nhu cầu này trở thành một ngành công nghiệp. Ngành công
nghiệp sex tại Thái Lan đƣợc công khai, thừa nhận trƣớc pháp luật và đƣợc
nhà nƣớc quản lý. Có thể nói, ngành công nghiệp này đã mang về cho Thái
Lan không ít du khách mà đi kèm theo đó là lợi nhuận. Tuy nhiên mặt trái của
loại hình du lịch ăn khách này là nạn mại dâm tràn lan trong xã hội, là đại
dịch AIDS và khai thác tình dục trẻ em. Thái Lan là quốc gia ảnh hƣởng bởi
bệnh AIDS nhiều nhất tại châu Á. Theo thống kê của tổ chức sức khoẻ thế
giới (WHO), mỗi năm tại Thái Lan có khoảng 60.000 ngƣời chết vì bệnh
AIDS và khiến cho khoảng 300.000 trẻ mồ côi. Theo những con số đƣợc Bộ
Y Tế Thái Lan cung cấp, tính đến tháng 5 năm 2003, Thái Lan có khoảng
217.000 ngƣời bị nhiễm virus HIV.
Tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em cũng diễn ra tƣơng tự. Thái Lan là
một trong số các nƣớc trên thế giới có tỷ lệ trẻ vị thành nhiên hành nghề mại
dâm lớn nhất. Theo thống kê của Quỹ nhi đồng thế giới UNICEF, số trẻ em
hành nghề mãi dâm ở Thái Lan vào khoảng 60.000 đến 200.000 em. Đây là
con số đáng báo động đối với chính quyền Thái Lan.
Hiện tại Thái Lan đã nhận ra những điều tệ hại của hình thức du lịch
này. Mặc dù không loại bỏ loại hình du lịch này nhƣng Thái Lan đang cố
gắng kéo du khách tham gia vào các loại hình du lịch lành mạnh khác.
Hiện tƣợng này ở Việt Nam không phải là không có. Nó hoạt động ít lộ
liễu công khai, trá hình rất tinh vi dƣới nhiều hình thức linh hoạt. Để ngăn
chặn mầm mống cũng nhƣ sự phát triển của hiện tƣợng này trong quá trình
phát triển kinh tế nói chung, du lịch quốc tế nói riêng, Việt Nam phải có
những biện pháp cứng rắn để ngăn ngừa mầm mống phát triển của loại hình
du lịch này cũng nhƣ ngăn ngừa những tác hại của du lịch đến đời sống kinh
tế xã hội. Đặc biệt tăng cƣờng vai trò quản lý của Nhà nƣớc cũng nhƣ các bộ
ngành, địa phƣơng về vấn đề này.
2.2. Vấn đề vệ sinh môi trường trong quá trình phát triển du lịch
Thực tế cho thấy, phát triển kinh tế thƣờng đi kèm với những tác động
đến môi trƣờng. Hoạt động phát triển du lịch đồng nghĩa với việc gia tăng
lƣợng khách du lịch tới các địa điểm tham quan du lịch, tăng cƣờng phát triển
cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên. Từ đó dẫn đến
sự gia tăng gây áp lực đến môi trƣờng.
Từ trƣớc tới nay, các nƣớc đang phát triển đều “mang tiếng” với vấn đề
bảo vệ môi trƣờng trong quá trình phát triển. Mặc dù đã có rất nhiều biện
pháp trong quá trình phát triển du lịch, Thái Lan cũng không nằm ngoài
những nƣớc đang phát triển không kiểm soát nổi vấn đề môi trƣờng của mình.
Tài nguyên thiên nhiên là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch.
Chính nhu cầu về sự thay đổi môi trƣờng đã tạo ra dòng luân chuyển của du
khách ngày càng mạnh mẽ trong những năm qua. Lƣợng khách tham quan du
lịch lớn đã mang lại những tác động ngoài mong muốn tới môi trƣờng: ảnh
hƣởng tới nhu cầu và chất lƣợng nƣớc sạch, tăng lƣợng nƣớc thải và rác thải,
ô nhiễm không khí, tiếng ồn…Du lịch đã mang đến cho Thái Lan nguồn lợi
nhuận khổng lồ nhƣng đồng thời cũng phần nào phá huỷ môi trƣờng cảnh
quan của Thái Lan. Có những bãi biển ở Pattaya không thể tắm đƣợc nữa vì ô
nhiễm quá nặng nề. Bãi biển Patong nổi tiếng ở Phuket đã ô nhiễm tới mức
cácc loài cá và hải sản không thể sống đƣợc. Kênh đào Mae Kah ở trung tâm
Chiang Mai cũng đen đặc rác thải và ô nhiễm nặng nề.
Đó chỉ là những ví dụ rất điển hình về sự ảnh hƣởng của hoạt động du
lịch tới môi trƣờng của đất nƣớc Thái Lan. Do những ảnh hƣởng tiêu cực này
mà đã làm giảm sự hấp dẫn của các điểm du lịch đối với du khách.
Việt Nam cũng đang trong quá trình phát triển du lịch và vấn đề môi
trƣờng cũng là một vấn đề nóng bỏng. Sớm nhận thức đƣợc tầm quan trọng
của vấn đề môi trƣờng du lịch, Chính phủ đã có những chỉ thị cũng nhƣ các
chƣơng trình hành động nhằm giữ gìn trật tự, trị an, vệ sinh môi trƣờng tại các
điểm tham quan du lịch. Nhƣng thực tế sau một thời gian triển khai và thực
hiện các chƣơng trình bảo vệ môi trƣờng du lịch thì kết quả không đƣợc nhƣ
mong muốn. Vì vậy, để công tác bảo vệ môi trƣờng du lịch có hiệu quả thiết
nghĩ cần làm ngay những vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ quan có trách nhiệm cần ban hành ngay hệ thống tiêu
chuẩn chất lƣợng môi trƣờng du lịch Việt Nam trong từng lĩnh vực.Từ đó tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý chung và hoạt động kiểm tra, giám sát
của cơ quan nhà nƣớc nói riêng đối với vấn đề bảo vệ môi trƣờng du lịch.
Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nƣớc về du lịch từ trung ƣơng đến địa
phƣơng cần tăng cƣờng phối hợp thực hiện bảo vệ môi trƣờng du lịch. Đặc
biệt cần có một số chế tài chính, bộ máy, con ngƣời cụ thể thực hiện công tác
này.
Thứ ba, cần tổ chức tuyên truyền việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi
trƣờng du lịch đến toàn bộ các đơn vị quản lý khu, điểm du lịch, các đơn vị
kinh doanh trong lĩnh vực du lịch . Đồng thời tăng cƣờng ý thức bảo vệ môi
trƣờng trong cộng đồng dân cƣ.
Bảo vệ môi trƣờng du lịch là một nhiệm vụ sống còn của ngành du lịch.
Môi trƣờng du lịch không tách rời khỏi môi trƣờng chung của xã hội, bởi vậy
công việc này là trách nhiệm của các ngành, các cấp và của cộng đồng dân cƣ,
nhƣng trách nhiệm chính thuộc về ngành du lịch.
KẾT LUẬN
Trong phạm vi trình bày của ba chƣơng, đến đây đề tài có thể chốt lại
các vấn đề cốt lõi sau đây:
Thứ nhất, những năm gần đây ngành du lịch phát triển với tốc độ vƣợt
bậc, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nhiều
quốc gia cũng nhƣ trong nền kinh tế toàn cầu. Nhu cầu về du lịch của con
ngƣời ngày càng tăng cao kéo theo những sự phát triển của ngành cũng nhƣ
làm thay đổi xu hƣớng phát triển của du lịch trên thế giới. Đồng thời, làm
phát sinh nhiều loại hình du lịch mô hình kinh doanh du lịch mới. Bên cạnh
những tác động tích cực do sự phát triển của hoạt động du lịch mang lại cho
nền kinh tế và xã hội cũng có không ít những tác động tiêu cực đến kinh tế, xã
hội và môi trƣờng.
Thứ hai, Thái Lan và Việt Nam là hai đất nƣớc giàu tài nguyên thiên
nhiên, có một nền văn hóa dân tộc đậm đà bản sắc dân tộc, nguồn nhân lực
dồi dào để phát triển hoạt động du lịch quốc tế. Cả hai nƣớc đã đạt đƣợc
những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển du lịch của mình, nhƣng
xét một cách toàn diện ngành du lịch của Thái Lan phát triển vƣợt trội hơn
hẳn Việt Nam. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn mà chúng ta phải trả lời: cùng
có một xuất phát điểm nhƣ nhau, tại sao Thái Lan lại đạt đƣợc những thành
tựu to lớn khiến cả thế giới biết đến và khâm phục còn ngành du lịch Việt
Nam vẫn mãi chỉ là tiềm ẩn.
Thứ ba, du lịch Việt Nam nhìn chung còn hoạt động tự phát, phần lớn
dƣới sự bảo hộ của Nhà nƣớc, việc khai thác các nguồn lực không hiệu quả,
không có kế hoạch và nhiều khi gây lãng phí. Quan điểm và định hƣớng phát
triển ngành du lịch của Đảng và Nhà nƣớc ta rất hợp lý nhƣng việc biến
những quan điểm, mục tiêu đó thành hiện thực lại là một điều xa vời. Những
giải pháp nêu ra trong Chƣơng III dựa trên cơ sở tham khảo những bài học
kinh nghiệm từ sự thành công cũng nhƣ những hạn chế trong quá trình phát
triển du lịch quốc tế của Thái Lan - đất nƣớc có nhiều điểm tƣơng đồng với
Việt Nam nhƣng hoạt động kinh doanh du lịch của họ lại phát triển hơn chúng
ta rất nhiều. Hy vọng những giải pháp đó sẽ thúc đẩy quá trình phát triển của
hoạt động du lịch quốc tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức thƣơng mại thế giới (WTO) thì càng có nhiều vấn đề đặt ra đối với nền
kinh tế quốc dân nói chung, ngành dịch vụ du lịch nói riêng. Việt Nam sẽ có
rất nhiều cơ hội cũng nhƣ phải đối mặt với không ít thách thức. Điều quan
trọng là Việt Nam phải nắm bắt đƣợc cơ hội, phát huy lợi thế, đẩy lùi thách
thức và hạn chế những yếu kém để biến ngành du lịch Việt Nam trở thành
một ngành công nghiệp thực sự, là ngành kinh tế mũi nhọn đáp ứng đƣợc nhu
cầu của nền kinh tế quốc dân. Và để ngành du lịch của Việt Nam khẳng định
đƣợc thƣơng hiệu của mình trên trƣờng quốc tế, sánh ngang và vƣợt các nƣớc
trong khu vực trong lĩnh vực này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thế Đạt, (2005), "Tài nguyên du lịch Việt Nam", NXB Chính trị
quốc gia.
2. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Anh Tuấn, (2007), "Nâng cao năng lực
cạnh tranh của du lịch Việt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số
3/2007.
3. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa, (2004), "Giáo trình kinh tế
du lịch", NXB Lao động - xã hội.
4. Tú Anh, (2006), "Ứng dông c«ng nghÖ th«ng tin trong c«ng t¸c
tuyªn truyÒn qu¶ng b¸ du lÞch ViÖt Nam", T¹p chÝ du lÞch ViÖt Nam,
sè 9/2006.
5. Hƣơng Bình, (2006), "Công tác tiêu chuẩn hóa trong ngành du
lịch", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 10/2006.
6. Thái Bình, (2006), "Phát triển nguồn nhân lực du lịch trong hội
nhập sâu và toàn diện sau khi gia nhập WTO", Tạp chí Du lịch Việt
Nam số 11/2006.
7. Vũ Thế Bình, (2006), "Du lịch với công tác bảo vệ môi trường", Tạp
chí du lịch Việt Nam, số 8/2006.
8. Trần Vĩnh Bảo, (2005), "Một vòng quanh các nước: Thái Lan",
NXB Văn hóa thông tin.
9. Phạm Huỳnh Côn, (2006), "Để bảo vệ môi trờng du lịch", số 5/2006.
10. Phong Châu, (2006), "Đẩy mạnh các hoạt động và giải pháp phòng
chống tệ nạn mại dâm”, T¹p chÝ du lÞch ViÖt Nam, sè 9/2006.
11. Trịnh Xuân Dũng, (2004), "Tiêu chuẩn để đánh giá du lịch là một
ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 10/2004.
12. Nguyễn Mạnh Hiền, (2006), "Một thoáng Thái Lan", Tạp chí du lịch
Việt Nam, số 10/2006.
13. Phạm Quang Hƣng, (2007), "Du lịch Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 7/2004.
14. Đỗ Thanh Hoa, (2007), "Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát
triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường", Tạp chí Du lịch Việt Nam,
số 3/2007.
15. Nguyễn Phi Lân, (2006), "Phát triển các địa bàn du lịch trọng điểm
ở Việt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 7/2006.
16. Phạm Trung Lƣơng, (2007), "Cần phát triển loại hình du lịch hoa",
Tạp chí du lịch Việt Nam, số 6/2007.
17. Phan Đức Mấn, (2007), "Tìm tòi đa dạng hóa sản phẩm du lịch",
Tạp chí du lịch Việt Nam, số 2/2007.
18. Phạm Hữu Minh, (2006), "Đổi mới cơ chế xúc tiến quảng bá du lịch
Việt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 12/2006.
19. Phạm Ngọc Thắng, (2006), "Một số giải pháp phát triển du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí du lịch Việt Nam, số
8/2006.
20. Võ Thị Thắng, (2006), "Cơ hội, thách thức và giải pháp phát triển
du lịch sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO", Tạp chí du lịch
Việt Nam, số 12/2006..
21. Võ Thị Thắng, (2006), "Phát huy truyền thống 45 năm du lịch Việt
Nam vững bớc tiến lên trong thế kỷ 21", Tạp chí du lịch Việt Nam,
số 1/2006.
22. Võ Thị Thắng, (2007), "Phát huy truyền thống 46 năm, quyết tâm
đẩy mạnh phát triển du lịch nhanh và bền vững tron giai đoạn cách
mạng mới", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 1/2007.
23. Trịnh Đăng Thanh, (2006), "Để du lịch Việt Nam nâng cao sức cạnh
tranh", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 3/2007.
24. Hoàng Thị Diệu Thúy, (2006), "Thái Lan, những kế hoạch lớn nhằm
gia tăng lượng khách du lịch", Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 7/2006.
25. Nguyễn Hoài Thu, (2007), "Đặc thù hóa sản phẩm du lịch để nâng
cao sức cạnh tranh", số 4/2007.
26. Vũ Quốc Trí, (2006), "Tác động kinh tế của du lịch", Tạp chí du lịch
Việt Nam, số 4/2006.
27. Đào Duy Tuấn, (2006), "Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch
Việt Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 9/2006.
28. Nguyễn Anh Tuấn, (2007), "Phát triển du lịch mạo hiểm ở Việt
Nam", Tạp chí du lịch Việt Nam, số 7/2007.
29. Đỗ Thị ánh Tuyết, (2007), "Bài học kinh nghiệm về tổ chức và quản
lý phát triển du lịch của một số nước", Tạp chí du lịch Việt Nam, số
2/2007.
30. Phan Huy Xu, Mai Phú Thanh, 2005, "Địa lý Đông Nam Á, nh÷ng
vÊn ®Ò kinh tÕ x· héi", NXB Gi¸o dôc 2005.
31. Bùi Thị Hải Yến, (2004), "Tuyến điểm du lịch Việt Nam", NXB Giáo
dục.
32. Tạp chí du lịch Việt Nam, (2005), "Kết luận của Phó thủ tướng Vũ
Khoan: đa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào
2010", số 10/2005.
33. Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2005), "Tăng cường đẩy mạnh bồi dư-
ỡng phát triển nhân lực du lịch", số 7/2005.
34. Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2006), "Du lịch Việt Nam đang trên
đường hội nhập", số 6/2005.
35. Tạp chí Du lịch Việt nam, (2007), "Kinh nghiệm quản lý Nhà nước
về du lịch ở Thái lan", số 8/2007.
36. Luật Du lịch Việt Nam
37.
38.
39. www.nciec.gov.vn
40. www.vietnamtourism.gov.vn/
41. www.dulichvn.org.vn
42. www.tuoitre.com.vn
43. www.gso.gov.vn
44. www.cpv.org.vn
45. www.vneconomy.com.vn
46. www.vista.gov.vn/
47. www.tourismthailand.org
48. www.thailandtourismdirectory.com/
49. www.thailandtravelsearch.com
50. www.tatnews.org
51.
52. www.unwto.org
53. www.world-tourism.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3753_3775.pdf