Đề tài Phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat

MỤC LỤCDANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT 4 1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT. 4 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 4 1.1.2. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 5 1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY SEABOAT. 9 1.2.1. Đặc điểm về vốn. 9 1.2.2. Đặc điểm về nhân lực. 11 1.2.3 Đặc điểm về cơ sở vật chất. 13 1.3 NHỮNG NHÂN TỐ BÊN NGOÀI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY. 14 1.3.1. Thị trường thế giới. 14 1.3.2. Thị trường nội địa. 15 1.3.3. Thách thức từ môi trường cạnh tranh. 15 1.3.4. Cơ chế chính sách Nhà nước. 16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT. 17 2.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY. 17 2.1.1. Đặc điểm của sản phẩm nhập khẩu. 17 2.1.2. Quy mô các mặt hàng nhập khẩu của Công ty. 20 2.1.3. Cơ cấu các sản phẩm nhập khẩu. 23 2.1.4. Thị trường nhập khẩu của Công ty. 26 2.2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY. 30 2.3 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT. 34 2.3.1. Ưu điểm trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 34 2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 37 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 39 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT ĐẾN NĂM 2016. 42 3.1 PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT ĐẾN NĂM 2016. 42 3.1.1. Mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016. 42 3.1.2. Phươnghướng phát triển hoạt độngkinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016. 43 3.2 TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH VÀ SẢN XUẤT SEABOAT. 44 3.2.1 Giai đoạn sống của sản phẩm. 44 3.2.2 Năng lực của Công ty. 45 3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHĂM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT. 46 3.3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả chỉ đạo của bộ máy tổ chức và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên trong cho Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 46 3.3.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường. 48 3.3.3. Huy động tối đa nguồn vốn kinh doanh. 49 3.3.4 Đổi mới cơ cấu mặt hàng kinh doanh nhập khẩu. 51 3.3.5. Phát triển thương mại điện tử. 51 3.4 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC. 52 3.4.1. Hoàn thiện, thống nhất hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu. 53 3.4.2. Kiến nghị về chính sách thuế nhập khẩu của Nhà nước. 53 3.4.3. Có chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý. 54 3.4.4. Tổ chức hội thảo và trao đổi thông tin. 55 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài. Hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, nó là nhân tố phát huy sức mạnh nền kinh tế trong nước.Trong những năm qua, nước ta đang thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu bằng hàng trong nước, tuy nhiên không vì thế mà bỏ qua nhập khẩu.Nhập khẩu hàng hoá là một phần không thể thiếu trong ngoại thương. Nhập khẩu được cho phép bổ sung những sản phẩm chưa sản xuất được trong nước hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Đặc biệt là đối với Việt Nam đang tiến lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong khi sản xuất công nghiệp chưa phát triển thì nhu cầu hàng nhập khẩu ngày càng tăng. Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu linh kiện, máy móc, thiết bị, xuồng cao tốc, xuồng cao su, áo lặn . Vì được thành lập chưa lâu nên hiện tại Công typhải đối mặt với rất nhiều khó khăn từ vốn, kinh nghiệm kinh doanh, thị trường cung cấp sản phẩm, quá trình đàm phán ký kết và ký kết hợp đồng kinh doanh .Nhưng vấn đề khó khăn nhất của công ty vẫn là vấn đề về nhập khẩu.Đây cũng là những vấn đề đang được Công ty đặc biệt quan tâm.Sau một thời gian thực tập tại Công ty TNHH Sản xuất và thương mại Seaboat qua việc nghiên cứu tài liệu về hoạt động của công ty, kết hợp với vốn kiến thức đã được trang bị tại trường Đại học kinh tế quốc dân, em đã chọn để tài:“Phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat’’ làm đề tài thực tập cuối khóa của chuyên ngành mình. 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Nhằm đưa ra giải pháp, kiến nghị để phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat . 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Để có thể đạt được các mục đích nghiên cứu trên, nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung làm sáng tỏ các vấn đề sau: - Tìm hiểu rõ về Công tyTNHH sản xuất và thương mại Seaboat. - Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. - Phương hướng phát triển và một số giải pháp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. 3.2. Phạm vi nghiên cứu. 3.2.1. Không gian nghiên cứu. - Chỉ nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat - Không nghiên cứu những hoạt động khác ở Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại SeaBoat. 3.2.2. Thời gian nghiên cứu. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat giai đoạn 2007- 2011 và đề xuất giải pháp đến năm 2016 4. Kế cấu của đề tài. Đề tài em thực hiện gồm Phần mở đầu, kết luận và 3 chương nội dung, cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan về Công tyTNHH sản xuất và thương mại Seaboat. Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. Chương 3: Phương hướng phát triển và một số giải pháp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016.

docx74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2415 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường mà công ty mới đặt quan hệ từ năm 2007. Tuy giá trị kim ngạch nhập khẩu tại thị trường này còn chưa cao, nhưng trong tương lai Công ty sẽ có chiến lược phát triển mạnh hơn nữa quan hệ buôn bán với các nước này. Như vậy sẽ làm phong phú hơn chủng loại các mặt hàng nhập khẩu của công ty. 2.2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY. Quan sát một cách tổng quát, trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty diễn ra tương đối đều, đạt kết quả cao. Kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian qua được thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 2.3: Bảng các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận của công ty Seaboatgiai đoạn 2007 – 2011. Đơn vị: Tỷ VND. STT Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 Gía trị Giá trị Tỷ lệ tăng(%) Giá trị Tỷ lệ tăng (%) Giá trị Tỷ lệ tăng (%) Giá trị Tỷ lệ tăng (%) 1 DTNK 23,52 23,57 2,12  28,81 22,23 33,41 15,96 38,23 14,42 2 CFNK 19 19,1 0,52  24 25,65 27,9 16,25 31,1 11,47 3 LNNK 4,52 4,47 -1,1  4,81 7,6 5,51 14,55 7,13 29,4 4 TSLN theo DTNK (%) 19,2 18,9 20,06 19,74 22,95 5 TSLN theo CFNK (%) 23,8 23,4 25,1 24,6 29,8 Nguồn: Phòng tài chính kế toán 2.2.1. Về chỉ tiêu lợi nhuận của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Căn cứ vào bảng số liệu trên có thể thấy rằng, trong giai đoạn 2007 – 2011.Công ty luôn đạt mức lợi nhuận dương. Qua các năm, giá trị tuyệt đối lợi nhuận của Công ty có xu hướng tăng, trừ năm 2008 là lợi nhuận giảm. Cụ thể, năm 2007 hoạt động nhập khẩu mang lại cho Công ty 4,52 tỷ VND, năm 2008 là 4,47 tỷ VND giảm 1,1% so với năm 2007, năm 2009 tăng lên là 4,81 tức là tăng 7,6% so với năm 2008, năm 2010 tăng lên đến 5,51 tỷ VND, tăng 14,55% so với năm 2009, đến năm 2011 tăng lên đến 7,13 tỷ VND, tăng lên 29,4% so với năm 2010 và gấp trên 4 lần so với năm 2008. Điều này được thể hiện rõ hơn qua hình dưới đây: Nguồn: Phòng tài chính kế toán Hình 2.3: Lợi nhuận của công ty Seaboat qua các năm 2007- 2011. Tuy nhiên, sau một năm kinh doanh tức là vào năm 2008 kinh tế thế giới bị ảnh hưởng bới cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Kinh tế đất nước rơi vào tình trạng khó khăn, đời sống người dân bị giảm sút, nhu cầu tiêu dùng giảm, lạm phát tăng vọt khiến cho nhà nước phải sử dụng các biện pháp thắt chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát. Lãi suất cơ bản được nâng lên, tín phiếu bắt buộc được phân bổ, biện pháp hạn chế tín dụng “hà khắc” được áp đặt lên các ngân hàng thương mại. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Do đó, giá trị tuyệt đối lợi nhuận nhập khẩu của công ty bị giảm sút, thấp nhất trong giai đoạn 2006 – 2009. Bước sang năm 2009, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty cũng đạt được những kết quả đáng kể. Có thể nói, kinh doanh hàng hóa năm 2009 thuận lợi nhất kể từ khi cổ phần hóa. Năm 2009 để khắc phục suy giảm kinh tế và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, Chính phủ đã có chính sách kích cầu đầu tư, tiêu dùng như: giảm lãi suất tiền vay ngân hàng từ 10,5%/năm xuống còn 6,5%/năm, giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho một số mặt hàng như: đồng, thép… giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhờ có sự ưu đãi này, năm 2009 việc kinh doanh nhập khẩu của công ty gặp rất nhiều thuận lợi. 2.2.2.Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu. Thông qua bảng số liệu trên đây ta thấy rằng tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu của công ty có sự biến đổi theo từng năm. Sự biến đổi này được thể hiện qua Hình 2.4 dưới đây: Đơn vị: % Nguồn: Phòng tài chính kế toán Hình 2.4. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu và chi phí giai đoạn 2008– 2011. Từ hình trên ta thấy rằng, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu của Công ty giảm từ năm 2007 sang năm 2008. Trong năm 2007, cứ 1 đồng doanh thu nhập khẩu thì công ty thu được 0,192 đồng lợi nhuận hay cứ trong 1000 đồng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu thì công ty thu được 192 đồng lợi nhuận. Sang năm 2008, tỷ lệ này đã giảm xuống đôi chút, còn 18,9%, có nghĩa là trong 1000 đồng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu công ty thu được 189 đồng lợi nhuận. Nhưng đến năm 2009 thì chỉ tiêu này đã tăng đáng kể và nó đã tăng lên là 20,6%, có nghĩa là trong 1000 đồng doanh thu nhập khẩu công ty thu được 206 đồng lợi nhuận.Năm 2010 thì chỉ số này đã giảm xuống một chút và còn 19,74%. Bước qua năm 2011, chỉ số này tăng vọt lên đáng kể, đạt mức 22,95%, tức là trong 1000 đồng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu thì công ty thu được 229,5 đồng lợi nhuận. 2.2.3. Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu. Thông qua bảng số liệu trên ta có thể thấy, cũng giống như chỉ tiêu (2.2.2) chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu cũng có sự biến đổi theo từng năm kinh doanh. Từ hình trên ta thấy, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu của công ty giảm đôi chút từ năm 2007 sang 2008, bắt đầu tăng đôi chút trong năm 2009 ,tuy nhiên lại giảm trong năm 2010 và tăng mạnh vào năm 2011. Năm 2007 thì cứ một đồng chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu thì công ty thu về được 0,238 đồng lợi nhuân, nói cách khác cứ bỏ ra 1000 đồng chi phí cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu ta có thể thu về 238 đồng lợi nhuận. Năm 2008, cứ một đồng chi phí bỏ ra cho hoạt động nhập khẩu thì công ty có thể thu về 0,234 đồng lợi nhuận, nói cách khác, cứ bỏ ra 1000 đồng chi phí cho hoạt động nhập khẩu công ty có thể thu về 234 đồng lợi nhuận. Con số này tăng lên thành 251 đồng trong năm 2009, đến năm 2010 giảm xuống còn 246 đồng và sang năm 2011 tăng lên đến 298 đồng. Cũng như tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu cho thấy, hiệu quả kinh doanh của công ty được nâng cao từ năm 2008 sang năm 2009, giảm xuống năm 2010 và cải thiện mạnh trong năm 2011. 2.3 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT. 2.3.1. Ưu điểm trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đã khẳng định được vị thế nhất định của mình trong hoạt động kinh doanh, nhất là hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Công ty đã dần khẳng định được uy tín của mình trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và do công ty có sự tự chủ, năng động trong kinh doanh nên công ty đã không ngừng mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Với sự nỗ lực cố gắng của các thành viên trong Công ty, giai đoạn 2007 – 2011 công ty đã đạt được một số kết quả như sau: Thứ nhất, doanh thu nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat trong giai đoạn này có xu hướng tăng lên. Nếu như trong năm 2007, 2008 doanh thu nhập khẩu mới chỉ đạt khoảng 23 tỷ VND, thì sang năm 2011 nó đã tăng lên 38 tỷ VND, đó là một kết quả đáng khích lệ cho cán bộ công nhân viên của công ty. Giai đoạn này lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu có xu hướng tăng lên qua các năm. Mức lợi nhuận năm 2007 đến 2011 lần lượt là 4,52 tỷ VND, 4,47 tỷ VND, 4,81 tỷ VND, 5,51 tỷ VND, đến năm 2011 tăng mạnh lên 7,13 tỷ VND. Với mức lợi nhuận cao dần qua các năm, Công ty đã có thêm nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thành lập các quỹ theo quy định như quỹ dự phòng rủi ro, quỹ công đoàn…và có đủ tiềm lực tài chính phục vụ cho việc đầu tư vốn cho hoạt động kinh doanh, phân chia lợi tức cho các thành viên góp vốn chủ sở hữu và góp phần nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên. Không chỉ có được kết quả cao về doanh thu, lợi nhuận nhập khẩu, công ty còn hoàn thành các nghĩa vụ thuế với nhà nước, đóng góp hàng tỷ đồng tiền thuế góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ hai, Công ty đã tạo được mối quan hệ và uy tín với nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng và bảo hiểm lớn của Việt Nam. Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn…là một trong những tổ chức đó. Mối quan hệ lâu dài và tốt đẹp này tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong hoạt động vay vốn kinh doanh, thực hiện các giao dịch tài chính cho mình. Việc có quan hệ đối tác với những tổ chức có uy tín như vậy đã tạo ra sự tin tưởng cho những doanh nghiệp có mối quan hệ hợp tác với Công ty. Thứ ba, Nguồn nhân lực của Công ty có chất lượng tương đối tốt. Công ty Seaboat đã xây dựng cho mình một đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ ngoại thương tốt. Họ là những người nhiệt tình với công việc, có tinh thần trách nhiệm và luôn gắn kết với nhau tạo ra sự thành công trong doanh nghiệp; đây là nguồn lực mạnh của công ty trong thời gian tới. Công ty có chính sách cử cán bộ đi đào tạo thêm để nâng cao trình độ chuyên môn, đảm bảo kết quả công việc, công ty thực hiện tuyển chọn những người có năng lực tốt, đúng ngành nghề vào các vị trí phù hợp. Trong quá trình làm việc, Công ty đã tạo điều kiện cho nhân viên chuyên trách về ngoại thương nâng cao trình độ thực tế bằng việc mời các chuyên gia nước ngoài về hợp tác. Ngoài ra, Ban lãnh đạo Công ty luôn có thái độ hòa nhã, động viên cán bộ công nhân viên của công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ, luôn tạo không khí làm việc nghiêm túc nhưng hòa đồng, có chính sách khen thưởng kịp thời, do đó cán bộ công nhân viên trong công ty luôn nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc được giao. Thứ tư, Đời sống của cán bộ công nhân viên trong Công ty được cải thiện đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người tăng lên qua các năm, từ năm 2008 là 2.500.000 đồng đến năm 2011 là 4.500.000 đồng. Mức thu nhập bình quân năm 2011 vượt kế hoạch đã đề ra do Công ty đã áp dụng quy chế trả lương mới và kết quả kinh doanh tốt hơn. Đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty luôn được quan tâm, thể hiện ở chính sách khen thưởng và công ty thường tổ chức cho cán bộ công nhân viên đi du lịch hàng năm. Thứ năm, Chất lượng hàng hóa nhập khẩu đảm bảo. Hàng hoá nhập khẩu của Công ty nhìn chung bảo đảm về chất lượng, giữ được uy tín đối với khách hàng, đa dạng hoá chủng loại. Công ty cũng đã chú trọng hơn đến vấn đề mở rộng thêm các mặt hàng nhập khẩu, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở thị trường trong nước. Chính điều đó đã đem lại hiệu quả lớn hơn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Thứ sáu, Là có uy tín trong hoạt động nhập khẩu. Khi giao dịch với các đối tác kinh doanh nước ngoài, ngân hàng, Công ty đã tạo được những mối quan hệ tốt, có độ tin cậy cao, uy tín do thực hiện hợp đồng nhập khẩu một cách nhanh gọn, đúng thủ tục, không để xảy ra sai sót dẫn đến khiếu nại hoặc phải bồi thường. Thứ bảy, Là có kế hoạch trong tổ chức, thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty lên kế hoạch và phân công giao trách nhiệm cho từng khâu nghiệp vụ, từng phòng ban và cá nhân. Từ đó làm cho việc điều hành và giám sát được chặt chẽ, kịp thời. Do vậy, các mặt hàng nhập khẩu của Công ty không những đủ tiêu chuẩn chất lượng theo hợp đồng mà còn không vi phạm những quy định của Bộ Thương mại hay luật pháp quốc tế về ngoại thương. Đạt được kết quả như vậy là tổng hợp tất cả sự nỗ lực, phấn đấu của các thành viên trong Công ty Seaboat, đặc biệt là phòng kinh doanh và phòng nhập khẩu. 2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. Mặc dù công ty đã đạt được nhiều thành công rực rỡ trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình, nhưng bên cạnh đó Công ty vẫn còn nhiều điểm chưa làm được và cần phải có những biện pháp kịp thời để khắc phục tình trạng trên, nhằm hoàn thiện và mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn nữa cho Công ty. Cụ thể một số mặt chưa làm được trong công tác nhập khẩu như sau: Thứ nhất, Công tác nghiên cứu thị trường và dự báo nhu cầu của Công ty còn hạn chế. Vấn đề này được thể hiện thông qua việc có nhiều cơ hội kinh doanh của công ty đã bị bỏ qua và công ty chưa thực sự chú trọng đến những mảng thị trường còn nhiều tiềm năng trong nền kinh tế Việt Nam, như các hoạt động kinh doanh nhập khẩu để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Công tác nghiên cứu thị trường của công ty không chỉ thụ động với thị trường trong nước, mà với cả thị trường nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế do thiếu thông tin liên quan tới các đối tác. Việc dự báo nhu cầu thị trường của Công ty có nhiều bất cập vì còn phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác trong ngành. Thứ hai, Nguồn nhân lực chưa được khai thác triệt để. Dù nguồn nhân lực của công ty đã được sử dụng và đã mang lại hiệu quả kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng, nhưng có thể nói rằng vẫn còn có hạn chế trong công tác quản trị nguồn nhân lực. Công ty chưa khai thác hết tiềm năng của nhân viên trong công ty. Điều này dẫn đến sự lãng phí nguồn lực cho doanh nghiệp và cho đất nước, công ty vẫn còn có chế độ ưu tiên cho người nhà của cán bộ trong công ty vào những vị trí làm việc chưa thích hợp và có chế độ đãi ngộ có phần thiên lệch. Công ty cần chú trọng hơn nữa để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của mình. Thứ ba, Quy mô nhập khẩu chưa tương xứng với công ty. Trong những năm qua, tuy kim ngạch nhập khẩu của Công ty tăng lên hàng năm nhưng quy mô nhập khẩu của Công ty chưa lớn, chưa tương xứng với thế mạnh của Công ty trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Do công ty còn phải tập trung nguồn vốn cho các hoạt động kinh doanh hàng hóa nội địa, kinh doanh tài chính, xây dựng… Thứ tư, Thị trường nhập khẩu chưa được mở rộng. Công ty mới chỉ dừng lại ở một số thị trường nhập khẩu truyền thống có quan hệ đối tác lâu dài như Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, chưa tận dụng khai thác được nhiều thị trường mới. Do Công ty chưa chú trọng đầu tư nhiều cho công tác xúc tiến nghiên cứu thị trường nước ngoài, tìm kiếm đối tác mới. Thứ năm, Là việc thực hiện hợp đồng vẫn còn tồn tại nhiều sai sót. Sai sót xảy ra khi làm việc với hải quan do thủ tục kê phức tạp. Việc tiếp nhận hàng hóa chưa được phân công chặt chẽ, thiếu phương án đề phòng rủi ro, giải quyết tranh chấp khi phát sinh. Thứ sáu, Công tác đàm phán, ký kết hợp đồng đạt hiệu quả chưa cao. Năng lực đàm phán hợp đồng của Công ty còn hạn chế, không tránh khỏi nhiều lần bị đối tác chèn ép, gây bất lợi hoạt động đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu. Thứ bảy, là bị động về thời gian giao hàng do các yếu tố khách quan. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty vẫn còn bị động về thời gian nhận hàng do nhiều yếu tố khách quan là phải qua những bước thủ tục hay vận chuyển trong thời gian dài. Vì vậy nhiều khi ảnh hưởng đến kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 2.3.3.1. Những nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất, hoạt động marketing và nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng, công tác nghiên cứu thị trường chưa được chú trọng nhiều, hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu trên thị trường quốc tế chưa được chú trọng, nguồn nhân lực thực hiện hoạt động marketing chưa được chú trọng đầu tư. Mặc dù đã thành lập nhiều năm nhưng công ty cũng chưa chú trọng đến việc phát triển thương hiệu của mình. Đây là mặt mà Công ty cần cải thiện hơn nữa để tăng hiệu quả kinh doanh trong thời kỳ hội nhập và cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay. Thứ hai, Công ty thành lập chưa lâu nên bước đầu phải tổ chức lại mạng lưới kinh doanh, bố trí nhân sự, sắp xếp lại lao động. Tuy đã có sự chuẩn bị trước, chủ động triển khai nhưng cũng gặp những khó khăn và ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của Công ty và ở các đơn vị trực thuộc. Thứ ba, Công ty có nguồn vốn kinh doanh còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh nhập khẩu với quy mô lớn. Mặt khác do Công ty phân bổ nguồn lực kinh doanh cho nhiều lĩnh vực khác như kinh doanh nội địa hay đầu tư tài chính, xây dựng cho nên nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu còn hạn chế. Thứ tư, bộ máy quản trị dù đã được cải tổ theo hướng chuyên môn hóa nghiệp vụ kinh doanh nhưng vẫn chưa thu được kết quả như ý. Tuy đã tổ chức bộ máy quản trị theo hướng phân công nhiệm vụ cụ thể cho các phòng chuyên ngành nhưng vẫn có một số hạn chế trong phối hợp giữa các phòng chuyên môn. 2.3.3.2. Những nguyên khách quan. Thứ nhất, nền kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam có sự biến động hết sức phức tạp, vì thế trong những năm qua làm giá cả các mặt hàng nhập khẩu của công ty biến động thất thường. Trong những năm gần đây, có nhiều biến động với nền kinh tế thế giới và Việt Nam, điều này đã làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Đó là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã ảnh hưởng lớn đến kinh tế toàn cầu và thương mại quốc tế và do vậy ảnh hưởng tới doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi hoàn toàn cuộc khủng hoảng này. Đời sống nhân dân do bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế trở nên khó khăn đã gây ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, thị trường biến động thất thường cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tiêu thụ hàng nhập khẩu. Nếu doanh nghiệp không dự báo được chính xác thời điểm, giá cả và mặt hàng nhập thì rất dễ bị thua lỗ. Thứ hai, là chính sách của Nhà nước và Bộ Thương mại một mặt tạo điều kiện cho Công ty, mặt khác có lúc gây khó khăn không ít cho hoạt động nhập khẩu. Nhiều khi chính sách thuế quan, việc cấp hạn ngạch không đáp ứng đủ so với năng lực của Công ty; sự thay đổi quá nhiều và liên tục trong khoảng thời gian ngắn làm cho định hướng kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc xin giấy phép cũng còn nhiều phiền hà, rắc rối, cơ quan Hải quan còn gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết thủ tục nhận hàng.... Thứ ba, nhiều đối thủ cạnh tranh có tiềm lực tài chính lớn, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trong nước và quốc tế, có uy tín trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng mà công ty kinh doanh nhập khẩu. Ngoài ra còn phải kể đến hàng hóa sản xuất trong nước đang ngày càng được cải thiện về chất lượng, mẫu mã, giá cả đang dần thay thế hàng nhập khẩu. Những hàng hóa này sẽ cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nhập khẩu của công ty. Thứ tư, ngành ngân hàng tài chính Việt Nam hoạt động thiếu sự ổn định. Điều này thể hiện ở hàng loạt những biến động liên quan tới lãi suất vay tiền phục vụ cho hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Lãi suất ngân hàng năm 2008 cho các doanh nghiệp vay thì đã được điều chỉnh cao tới mức là 21% đối với Việt Nam đồng sau khi nền kinh tế Việt Nam bị rơi vào lạm phát những tháng đầu năm 2008. Điều này làm cho chi phí vay ngân hàng bị đẩy lên và rõ ràng là ảnh hưởng tới doanh nghiệp. Tỷ giá hối đoái trên thị trường lúc cao lúc thấp không kiểm soát được, cũng gây nên thiệt hại cho doanh nghiệp. Thủ tục tiến hành vay vốn ngân hàng còn nhiều bất cập gây khó khăn cho doanh nghiệp. Nói tóm lại, thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat có nhiều ưu điểm vì thế công ty cần phất huy tối đa những ưu điểm trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mìn), tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có nhiều điểm yếu cần phải có biện pháp khắc phục. Chương 2 đã đặt ra các vấn đề về thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty, đưa ra các đánh giá về ưu điểm, hạn chế của hoạt động kinh doanh này, lý giải “nút thắt”của các vấn đề trên bằng các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cách giải quyết các “nút thắt” này sẽ được giải đáp trong chương 3. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT ĐẾN NĂM 2016. Chương 2 của chuyên đề đã đi sâu vào phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty, đồng thời cũng đã rút ra được những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế đó trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty, qua đó giúp người đọc đánh giá được năng lực trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Trong chương 3 này, chuyên đề sẽ xin được đề xuất những phương hướng phát triển và một số giải pháp mang tính khả thi nhằm phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty đến năm 2016, theo nguyên tắc duy trì và phát triển những ưu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế chưa giải quyết được trong giai đoạn 2007 – 2011. Những giải pháp đó được đưa ra căn cứ vào nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty, những giải pháp này sẽ kết hợp hài hoà với những phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói chung, hoạt động kinh doanh của công ty nói riêng. Theo đó chương 3 đuợc kết cấu thành 4 phần chính: (3.1): Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016. (3.2): Triển vọngphát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. (3.3): Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. (3.4): Những kiến nghị với các cơ quan Nhà nước. 3.1 PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT ĐẾN NĂM 2016. 3.1.1. Mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016. Bảng 3.1: Cho thấy mục tiêu trước mắt mà công đã đề ra và phải đạt được trong 5 năm tới. Năm 2012 2013 2014 2015 2016 Chỉ tiêu Giá trị (tỷ VND) Tỷ lệ tăng (%) Giá trị (tỷ VND) Tỷ lệ tăng (%) Giá trị (tỷ VND) Tỷ lệ tăng (%) Giá trị (tỷ VND) Tỷ lệ tăng (%) Doanh thu 48,3 15 56,8 17,7 67 18 80,4 20 Lợi nhuận 6,5 8,3 7,5 11,5 8,5 13,8 15,8 15 Nguồn: Phòng kinh doanh Công ty Seaboat Căn cứ vào các mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty trong 5 năm tới từ 2012-2016, ta có biểu đò mục tiêu về doanh thu và lợi nhuận qua các năm như sau: Hình 3.1: Biểu đồ mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh 2012-2016. Về chỉ tiêu tổng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu Công ty đặt mục tiêu giữ vững mức tăng trưởng cao qua các năm, nhất là năm 2016 phải đạt được mức tăng trưởng cao nhất là 20%, cùng với đó là mức tăng lợi nhuận sau thuế đạt 15%. Bên cạnh các mục tiêu cụ thể phải đạt được như đã nêu trên, thì Công ty đã đặt ra cho mình mục tiêu lâu dài đó là: không ngừng nâng cao uy tín, thế lực của Công ty, mở rộng thị trường mục tiêu, tăng thị phần, hạn chế đến mức tối đa độ rủi ro, mạo hiểm trong kinh doanh và cố gắng vươn lên là đơn vị dẫn đầu về nhập khẩu máy móc, thiết bị, linh kiện. 3.1.2. Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016. Nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng phát triển trong điều kiện môi trường kinh doanh biến động không ngừng và để khẳng định được vị thế của công ty trên thị trường với số lượng đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều và tiềm lực ngày càng mạnh như hiện nay. Công ty đã đề ra một số phương hướng và nhiệm vụ cho giai đoạn 2011-2016 như sau: Trước mắt là tập trung giải quyết khó khăn, hạn chế còn tồn tại, không ngừng hoàn thiện và nâng cao uy tín của công ty, giữ vững quan hệ bạn hàng với các đối tác trong nước và đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó không ngừng tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ và thị trường nhập khẩu, nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng nhu cầu trong nước để có kế hoạch nhập khẩu phù hợp, phát huy hiệu quả hoạt động của cửa chi nhánh bằng cách mở rộng hình thức tiêu thụ, mở rộng cách thức bán hàng linh hoạt với giá cả cạnh tranh và phương thức thanh toán hợp lý. Với phương châm lấy sự hài lòng của khách hàng là mục tiêu hoạt động hàng đầu, công ty sẽ xây dựng và hoàn thiện hơn nữa quy trình nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu của công ty. Tầm nhìn đến 2016 khẳng định vị thế là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp trang thiết bị y tế. Bên cạnh nhập khẩu trực tiếp, cần tiếp tục chú ý và khai thác hình thức nhập khẩu ủy thác nhằm mang lại lợi nhuận cao hơn, có thêm nhiều kinh nghiệm hoạt động hơn….Tuy nhiên không nên đầu tư tràn lan gây lãng phí vốn và chậm quay vòng vốn. Vì vậy cần xem xét cẩn thận về hoạt động kinh doanh của Công ty ủy thác, đồng thời tìm hiểu kỹ về mặt hàng mà khách hàng muốn ủy thác cho Công ty Seaboat nhập khẩu. Trên cơ sở chủ sở hữu đầu tư các công trình, các xí nghiệp mới thành lập thường không có nhiều kinh nghiệm cần thiết cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị. Công ty cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tư vấn đầu tư và thương mại, cố vấn cho khách hàng để tạo lòng tin và có thể thuyết phục khách hàng mua các sản phẩm của Công ty. Thắt chặt và tăng cường hình thức liên doanh với Công ty khác để dự các gói thầu cung cấp toàn bộ thiết bị, bởi vì khi áp dụng hình thức này sức mạnh, uy tín và lợi thế liên doanh nhà thầu tăng lên rất nhiều lần, đảm bảo tốt các yêu cầu khắt khe về khả năng tài chính, kỹ thuật cũng như tư cách pháp nhân nhà thầu trong các gói thầu lớn. Bởi điểm yếu của các nhà thầu Việt nam thời gian qua chính là sự liên kết với nhau, điều này đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam ít có cơ hội làm nhà thầu chính trong tất cả các dự án lớn có nguồn vốn của nước ngoài. Do vậy hình thức liên doanh nhà thầu là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục yếu điểm trên. 3.2 TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH VÀ SẢN XUẤT SEABOAT. 3.2.1 Giai đoạn sống của sản phẩm. Nhu cầu sử dụng linh kiện, máy móc, thiết bị bán dẫn, thiết bị đo lường, xuồng cao tốc, xuồng cao su, áo lặn... ngày càng tăng và việc nhập khẩu những mặt hàng này để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng phát triển trong tương lai. Mặt khác, tuy số lượng sản phẩm thay thế những mặt hàng trên của công ty là rất lớn, nhưng những sản phẩm này của công ty vẫn thường được những cá nhân tổ chức tiêu dùng trong nước sử dụng và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nó là một trongnhững phị kiện chính trong thành phần cấu tạo của những cỗ máy móc hiện đại cho ngành công nghiệp và dịch vụ cho nên có thể dự báo rằng những sản phẩm trên của công ty đang trong giai đoạn phát triển trong chu kì sống của sản phẩm. 3.2.2 Năng lực của Công ty. Về nguồn nhân lực. Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat chính thức tách từ bộ phận xuất nhập khẩu của Công ty cổ phần Nam Bình và thành lập công ty TNHH vào năm 2008. Với tổng số nhân viên là 60 người năm 2011, trong đó công ty có khoảng 23 người phụ trách mảng kinh doanh nhập khẩu và công ty cũng có những bộ phận cung cấp thông tin cho hoạt động này. Với nguồn nhân lực như trên công ty đã có đủ nhân lực phụ trách hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong công ty. Về đối thủ cạnh tranh. Linh kiện, máy móc, thiết bị bán dẫn, thiết bị đo lường, xuồng cao tốc, xuồng cao su, áo lặn.... Sau khi nhập khẩu được công ty chuyển đến những khách hàng có nhu cầu và có đơn đặt hàng trước ở Công ty. Nên Công ty tiết kiệm được phần chi phí lưu kho, cho nên giá cả sản phẩm trên thị trường sẽ rẻ hơn của đối thủ cạnh tranh một chút ít. Vì thế công ty có khả năng cạnh tranh về giá so với các đối thủ khác như: Phát Minh, Mitsubishi Electric.... Bên cạnh đó, theo khảo sát của phòng Marketing, hầu hết các khách hàng của công ty đều chấp nhận mua lại những sản phẩm trên của Công ty. Từ đó có thể thấy sản phẩm của công ty có khả năng cạnh tranh với đối thủ khác cùng ngành. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh những sản phẩm của công ty. Hoạt động kinh doanh linh kiện, máy móc, thiết bị bán dẫn, thiết bị đo lường, xuồng cao tốc, xuồng cao su, áo lặn...là những mảng kinh doanh truyền thống kết hợp với hiện đại của Công ty. Mặc dù vậy theo Bảng 2.3 thì lợi nhuận mà hoạt động kinh doanh nhập khẩu đóng góp cho Công ty là không hề nhỏ. Từ đó cho thấy , hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty là một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng tại công ty và kinh doanh có hiệu quả. Từ các Bảng và các Hình phân tích trong Chương 1, Chương 2 hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat sẽ phát triển trong tương lai .Bởi vì nhu cầu tiêu dùng tại thị trường nội địa càng ngày càng tăng và số lượng sản phẩm thay thế càng ngàng càng giảm. Và hơn thế nữa sản phẩm đang trong giai đoạn phát triển của chu kỳ sống cộng với năng lực hoạt động tốt tại công ty đã chứng minh dự báo trên. 3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHĂM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI SEABOAT. 3.3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả chỉ đạo của bộ máy tổ chức và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên trong cho Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. Công tác tổ chức quản lý của Công ty Seaboat hiện nay như vậy là tương đối hợp lý, tương ứng với một công ty nhỏ với số lượng cán bộ dưới 40 người. Mọi hoạt động đều nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc. Các phòng chức năng phụ trách từng khu vực và quản lý theo sự phân công lãnh đạo của Công ty. Tuy nhiên, công ty cũng nên có một vài thay đổi để thích ứng với điều kiện hiện nay. Cụ thể là: - Thứ nhất là xuất phát từ thực tế đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường thuộc phòng kinh doanh của Công ty Seaboat hoạt động rời rạc, thiếu tính ổn định, thiếu tính chuyên nghiệp. Trong khi đó, công tác nghiên cứu thị trường rất quan trọng đối với các công ty nhập khẩu nói chung và Công ty Seaboat nói riêng, nên việc thành lập phòng Marketing có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường mạnh mẽ hơn để trợ giúp Ban giám đốc trong các quyết định chiến lược Marketing. Hiện nay, công việc này do phòng kinh doanh đảm nhiệm, do còn đảm nhận là đơn vị kinh doanh và đề ra các kế hoạch, chiến lược cho hoạt động kinh doanh nên bộ phận này không thể chuyên sâu nghiên cứu thị trường được. Vậy cần thiết phải lựa chọn được những nhân viên phù hợp, am hiểu về các sản phẩm thiết bị sản xuất mà Seaboat đang kinh doanh, tiến hành tuyển mộ những nhân viên mới có kinh nghiệm, kiến thức về marking về nghiên cứu thị trường về phòng Marketing này. - Thứ hai là việc sắp xếp, tổ chức, quản lý đội ngũ cán bộ trong cơ cấu công ty. Công ty nên có những quy định tăng cường ý thức trách nhiệm của các cán bộ trong khi làm việc, đặc biệt là khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Có thể sử dụng phương pháp đánh vào kinh tế, chẳng hạn như, nếu cán bộ, nhân viên nào vi phạm những quy định của Công ty thì tùy theo mức độ thiệt hại do vi phạm đó gây ra mà phải đền bù những khoản tiền khác nhau. Trong quá trình tổ chức quản lý, lãnh đạo cũng nên đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân, để sắp xếp công việc cho phù hợp, có chế độ lương thưởng kịp thời. - Thứ ba là xuất phát từ đòi hỏi cao về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của hoạt động xuất nhập khẩu. Trong khi thực tế thì chuyên môn và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên thuộc phòng xuất nhập khẩu Công ty Seaboat còn hạn chế nên công tác đào tạo đội ngũ cán bộ càng phải được quan tâm sâu sắc. Công ty cần tăng cường tổ chức những buổi giao lưu học hỏi kinh nghiệm với cán bộ, nhân viên trong toàn Công ty hoặc với các công ty bạn; tham gia các buổi hội thảo, hội trợ hoặc đi đào tạo, học hỏi kinh nghiệm bên nước ngoài. Cụ thể là tăng cường kỹ năng, kinh nghiệm kinh doanh; kinh nghiệm quản lý; kiến thức về kỹ thuật, nghiệp vụ ngoại thương, pháp lý và đặc biệt là ngoại ngữ. Làm được như thế không những Công ty sẽ có được những cán bộ chuyên môn có năng lực để phục vụ cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà còn thể hiện được sự quan tâm của Công ty với tập thể lao động, có thể tạo được tinh thần làm việc tốt cho từng cá nhân và tạo được bầu không khí làm việc tốt cho toàn thể Công ty. 3.3.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường. Phải duy trì và củng cố mối quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng cũ, cần có biện pháp mở rộng thị trường mới, tích cực tạo mối quan hệ và uy tín với khách hàng mới. Ngoài một số đối tác nhập khẩu truyền thống từ Trung Quốc, Đức,… cần tạo mối quan hệ làm ăn với các đối tác đến từ khu vực Asean, tận dụng lợi thế khi gia nhập AFTA. Vì mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng, nên phải thu thập những thông tin cần thiết về thị trường. Công tác điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu cần bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Điều tra nghiên cứu hàng hoá nhập khẩu của thị trường đó. Trên cùng một thị trường hàng hoá ở nước ngoài có tiêu thụ hàng hoá cùng loại của các nước; trong số hàng hoá cùng lọai này, thường là hàng hoá của một số nước chiếm phần nhiều thị trường, một số hàng hoá chiếm phần ít thị trường. Điều này có quan hệ mật thiết đến chất lượng, quy cách, chủng loại của hàng hoá có thích ứng với thị trường hay không. Công ty cần làm rõ tình hình tiêu thụ của thị trường các hàng hoá có chủng loại khác nhau này, đặc biệt cần nghiên cứu đặc điểm của các loại hàng bán chạy trên thị trường nhằm chủ động tích cực thích ứng với nhu cầu của thị trường. Điều tra quan hệ cung cầu của thị trường. Cung, cầu và mối quan hệ của chúng trên thị trường hàng hoá quốc tế thường thay đổi. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ này như : chu kỳ sản xuất, chu kỳ tiêu thụ, tập quán tiêu dùng. Cần phải căn cứ vào quy luật biến động cung cầu của thị trường. Đồng thời tìm hiểu nhu cầu thực tế nhập khẩu của nước mình để có kế hoạch nhập khẩu hợp lý. Điều tra nghiên cứu giá cả thị trường hàng hoá quốc tế. Giá cả của các loại hàng hóa trên thị trường thế giới có xu hướng biến động rất phức tạp. Có lúc tăng, lúc giảm, cá biệt có trường hợp ổn định nhưng nói chung xu hướng đó có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán được biến động của giá cả theo từng loại hàng hoá trên thị trường thế giới, phải dựa vào kết qủa nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá chính xác các nhân tố tác động đến xu hướng biến động giá cả. Nhìn một cách tổng quan, trong công tác nghiên cứu thị trường công ty cần có những cán bộ chuyên sâu, có khả năng phân tích và đưa ra những nhận định chính xác trên cơ sở lập kế hoạch về nhu cầu nhập. Phải dự đoán được xu thế biến động của tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và tác động của nó đến giá cả hàng hoá nhập khẩu. Hơn thế nữa, thông tin có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Có thể nói nhờ có thông tin mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh được, do vậy trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu thông tin càng vô cùng quan trọng. Nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội trong kinh doanh. 3.3.3. Huy động tối đa nguồn vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là một điều kiện hết sức quan trọng, nó quyết định vận mệnh của công ty. Nếu nguồn vốn thấp thì công ty mất quyền chủ động trong kinh doanh, bỏ lỡ các cơ hội trong làm ăn, khả năng cạnh tranh kém. Vì vậy việc huy động vốn trong kinh doanh là rất quan trọng. Huy động vốn thông qua huy động vốn cổ phần của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và của cán bộ công nhân viên của công ty. Vay vốn từ các ngân hàng, trong quan hệ với các ngân hàng công ty cần phải tạo niềm tin và chữ tín với họ thì mới có thể tăng mức tín dụng hàng năm, nhằm đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh. Tạo những mối quan hệ tốt với các đối tác để lấy uy tín, từ đó bằng uy tín của mình có thể thoả thuận được trong việc thanh toán chậm. Như vậy, công ty sẽ tận dụng vốn kinh doanh, nếu tiêu thụ sớm đạt kết quả thu hồi sẽ đỡ phải đi vay ngân hàng, giảm bớt chi phí ngân hàng. Hiệu quả sử dụng đồng vốn vay của công ty còn quá yếu, vì thế các biện pháp kiện toàn công tác tài chính đối với công ty là hết sức cần thiết. Trước hết, công ty cần có sự quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của các đơn vị kinh doanh. Trách nhiệm này thuộc về ban lãnh đạo công ty, không nên tuỳ tiện giao vốn cho cán bộ kinh doanh mà không biết họ sử dụng đồng vốn như thế nào, có đảm bảo đem lại lợi nhuận cho công ty hay không. Cần ban hành quy định về quản lý tiền vốn, quy chế về hoạt động tài chính và hoạt động kinh doanh; triệt để thực hành tiết kiệm chi dùng, tiết kiệm chi phí. Theo dõi chặt chẽ công nợ của công ty, có kế hoạch thu chi tiền mặt và các hình thức thanh toán một cách rõ ràng hợp lý. Kiểm tra hướng dẫn sát sao các đơn vị, các phòng ban trong việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sử dụng các loại vốn, vốn vay, vốn cố định. Tổ chức nghiêm túc việc quyết toán theo quý, sáu tháng, một năm đúng tiến độ. Hạch toán lỗ lãi cho từng đơn vị, phòng ban giúp giám đốc nắm chắc nguồn vốn và lời lãi. Trang bị, đào tạo thêm cho đội ngũ nhân viên kế toán sử dụng thành thạo máy vi tính, phục vụ tốt nhất cho công tác quản lý tài chính. Là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, khi có nguồn vốn mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động nhập khẩu; công ty cần có chiến lược hoàn thiện hơn nữa công tác tài chính, tranh thủ huy động và có các biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nhất đồng vốn vay để đưa công ty phát triển hơn nữa chứ không phải chỉ để phục vụ cho việc duy trì hoạt động như tình hình hiện nay của công ty. 3.3.4 Đổi mới cơ cấu mặt hàng kinh doanh nhập khẩu. Trong điều kiện ngày nay, chế độ chính sách của nhà nước ta đối với mặt hàng kinh doanh nhập khẩu đang có nhiều biến động. Mặt hàng linh kiện máy móc, thiết bị bán dẫn là mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chủ lực của công ty. Mặc dù nước ta đang từng bước thực hiện tự do hóa thương mại, nhưng việc bảo hộ một số ngành trong nước vẫn ở một mức độ nhất định. Do đó, công ty cần luôn chú trọng vào việc thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu nếu không hàng nhập về sẽ khó tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được . Tuy nhiên, việc thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn phụ thuộc vào phần nào nguồn hàng nhập khẩu từ các thị trường khác nhau. Mặt khác, định hướng thay đổi cơ cấu hàng nhập khẩu của công ty còn phụ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường trong nước. Công việc này đòi hỏi tính thời cơ và sự đồng ý của các cơ quan hữu trách, nhưng cũng cần phải chú trọng đến một số vấn đề sau khi thay đổi cơ cấu hoặc bổ sung mặt hàng mới: Các đặc tính của chủng loại hàng hoá đó. Chính sách của nhà nước hiện tại và tương lai đối với mặt hàng đó. Những doanh nghiệp nào đã và đang kinh doanh mặt hàng này với số lượng bao nhiêu. Số bạn hàng sẵn sàng mua mặt hàng đó. Vì thế chúng ta có thể nói rằng, việc bổ sung và hoàn thiện cơ cấu mặt hàng nhập khẩu cũng là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hoá ở Công ty TNHH thương mại và sản xuất Seaboat. 3.3.5. Phát triển thương mại điện tử. Giải pháp này xuất phát từ những yếu kém trong thu thập, xử lý, ứng dụng công nghệ thông tin tại Seaboat. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như hiện nay, thì thương mại điện tử là xu thế tất yếu. Nhờ vào thương mại điện tử mà doanh nghiệp có thể thu thập được chính xác hiệu quả thông tin về đối tác, bạn hàng; dễ dàng tạo dựng và củng cố được các mối quan hệ làm ăn, rút ngắn được quy trình sản xuất. Để ứng dụng được thương mại điện tử Công ty cần: Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, công nghệ phải hiện đại và có tính phổ cập. Đội ngũ kinh doanh phải được phổ cập kiến thức về loại hình kinh doanh này, để có thể đáp ứng được nhu cầu khách hàng trong phạm vi mình quản lý, giảm chi phí đi lại và nâng cao hiệu quả làm việc của nhân viên. Lựa chọn tuyển dụng những cán bộ có chuyên môn về công nghệ thông tin, đồng thời nẵm vững về các lĩnh vực kinh doanh của Công ty. Bồi dưỡng các kỹ thuật mạng, tra cứu thông tin cho các cán bộ văn phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng mạng, thông tin hiện đại có độ an toàn cao. Hiện nay Công ty chưa có bộ phận chuyên trách về quản lý Website và mảng thương mại điện tử của doanh nghiệp, nên nếu có các đơn đặt hàng và các dịch vụ trực tuyến thì Công ty chưa thể giải quyết một cách hiệu quả, chuyên nghiệp. Xây dựng và phát triển Website riêng của Công ty, tiến tới áp dụng thương mại điện tử trong tất cả các khâu của quá trình kinh doanh từ chào hàng, quảng cáo sản phẩm, đặt hàng, thanh toán. 3.4 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC. Trong quá trình kinh doanh nhập khẩu thực sự Công ty Seaboat vẫn gặp rất nhiều vướng mắc từ phía Nhà nước: những quy định chồng chéo, những thủ tục phiền hà, mất nhiều thời gian đã gây gây không ít khó khăn cho hoạt động của Công ty. Vậy khi vấn đề này được giải quyết triệt để thì sẽ tạo thuận lợi rất nhiều cho hoạt động nhập khẩu của Công ty nói chung và các công ty xuất nhập nói riêng. Sau đây là một số ý kiến đối với Nhà nước về các chính sách, những quy định trong lĩnh vực nhập khẩu linh kiện, máy móc, thiết bị. 3.4.1. Hoàn thiện, thống nhất hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu. Nhìn một cách tổng quan nhất thì hệ thống văn bản pháp luật của Việt nam về lĩnh vực này tỏ ra còn nhiều thiếu sót và còn chưa thực sự đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế; điều này khiến cho nhiều đơn vị làm công tác nhập khẩu máy móc, thiết bị phải chịu thua thiệt khi làm việc với đối tác nước ngoài và bản thân bạn hàng nước ngoài cũng gặp phải nhiều vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh ở Việt nam. Tuy nhiên, không nên chuyển đổi theo hướng áp dụng nguyên mẫu mà chuyển đổi dần dần. Xây dựng hành lang pháp lý thống nhất không chỉ phù hợp pháp luật quốc tế mà còn phù hợp với những đặc thù riêng của nền kinh tế- xã hội nước ta. Nước ta ban hành các văn bản pháp quy cần tham khảo ý kiến của các Bộ, Ngành cũng như các chuyên gia đủ năng lực, các đơn vị mà phạm vi hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu. Đặc biệt cần có văn bản quy định thống nhất quyền hạn của các Bộ, Ngành tương ứng, tránh những vướng mắc khi có sự mâu thuẫn giữa các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền tương đương (do hiện nay thẩm quyền của các Bộ có sự chồng chéo lẫn nhau). Cùng một vấn đề nhưng có nhiều quan điểm về cách giải quyết giữa các Bộ khiến cho người thực thi không biết phải theo ai, dẫn đến việc giảm hiệu quả sử dụng đồng vốn nhập khẩu và gây ách tắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.4.2. Kiến nghị về chính sách thuế nhập khẩu của Nhà nước. Vẫn biết rằng thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, là một biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước. Tại các nước phát triển thuế thu nhập có vai trò rất quan trọng còn ở nước ta thuế xuất nhập khẩu lại chiếm phần lớn trong nguồn thu của ngân sách. Từ thực tế hiện nay thì hệ thống thuế của nước ta có nhiều vấn đề bất cập cần xem xét. Chúng ta chủ yếu tiến hành đánh thuế theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với tổng giá trị hàng hoá tính theo giá CIF. Trong khi đó, các công ty nhập khẩu ở nước ta nói chung và Công ty Seaboat nói riêng thường nhập khẩu theo giá CIF, lại nhập khẩu với giá trị lớn nên mức thuế phải nộp khá nhiều. Trong khi đó các công ty ở khu công nghiệp, khu chế xuất được quyền nhập khẩu máy móc, thiết bị với thuế suất bằng, điều này không tạo được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Nhà nước cần điều chỉnh để tạo được sự công bằng trong kinh doanh. Với mức độ của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, thì thuế nhập khẩu chỉ làm hạn chế việc nhập khẩu máy móc, thiết bị mà không có ý nghĩa bảo hộ sản xuất trong nước vì đây là loại hàng hoá mà nước ta không sản xuất được. Xu hướng giảm thuế quan đang được thực hiện rộng rãi trên khắp thế giới để khuyến khích trao đổi mua bán giữa các nước. Đồng thời, đây cũng là yêu cầu bắt buộc để Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO hay tham gia vào khu vực mậu dịch tự do của khu vực ASEAN (AFTA). Như vậy, cho thấy Nhà nước cần nghiên cứu để sửa đổi thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp, để tạo điều kiện cho Công ty thực hiện tốt việc nhập khẩu linh kiện, máy móc, thiết bị. 3.4.3. Chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý. Chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến việc kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, chủ trương của Đảng là hướng mạnh ra xuất khẩu. Gần đây đồng đôla lên giá không ngừng tạo điều kiện tốt cho xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, điều này lại gây thiệt hại lớn cho các Công ty chuyên kinh doanh nhập khẩu. Những biến động mạnh của tỷ giá hối đoái gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế nói chung, cũng như các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng; nếu tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và nội tệ tăng đột ngột thì hàng nhập khẩu sẽ tăng giá đồng thời các khoản nợ của nước ta cũng tăng lên. Còn ngược lại các khoản thu từ xuất khẩu lại giảm xuống và dẫn đến tình trạng nhập siêu. Điều này dẫn đến Nhà nước phải can thiệp để giữ tỷ giá bán sao cho nhỏ nhất. 3.4.4. Tổ chức hội thảo và trao đổi thông tin. Tổ chức các cuộc hội thảo, hỗ trợ vốn, tăng cường liên doanh liên kết giữa các thành viên trong hoạt động nhập khẩu các mặt hàng như: linh kiện điện tử, hàng tiêu dùng, thiết bị bán dẫn…. Do tình hình tài chính chung của nước ta đang khó khăn nên các ngân hàng thương mại đã hạn chế các món vay trung và dài hạn, mà quan tâm nhiều đến món vay ngắn hạn với luận điểm là quay vòng vốn nhanh hơn và tích lũy được cho xã hội. Trong khi đó, đa phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vay ngắn hạn được. Rõ ràng điều đó đang làm doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn đã yếu càng thêm khó. Kiến nghị nhà nước nới lỏng các quy định và có biện pháp ưu tiên để doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vay vốn của ngân hàng khi nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Bên cạnh đó, có một thực tế đáng buồn hiện này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không có cơ quan quản lý. Hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ quan đầu mối liên lạc giữa các doanh nghiệp với bên ngoài, nhưng vì không có tiền nên việc hỗ trợ các doanh nghiệp cũng chỉ dừng lại ở mức độ tư vấn, cung cấp thông tin. Vì vậy, việc thu hút các hội viên cũng hạn chế và Hội cũng không có số liệu chính xác về doanh nghiệp, lao động, v.v.... Vì vậy, kiến nghị nhà nước cần quan tâm đầu tư thích đáng tăng cường mối quan hệ giữa nhà nước và các doanh nghiệp, và giữa các doanh nghiệp với nhau tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tóm lại, ở Chương 3 đã nghiên cứu về phương hướng phát triển và một số giải pháp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty đến năm 2016.Trên cơ sở đó, em đã đề xuất những giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat đến năm 2016, đồng thời gợi ý những kiến nghị với các cơ quan Nhà nước hỗ trợ tạo điều kiện để phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu. KẾT LUẬN Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Sự gia nhập tổ chức thương mại Thế giới WTO mở ra những cơ hội và thách thức lớn cho sự phát triển Đất nước nói chung và từng ngành từng lĩnh vực nói riêng. Cùng với xu thế chung đó, lĩnh vực xuất nhập khẩu được coi là một trong những lĩnh vực – là cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Một lĩnh vực kinh tế năng động và luôn đi trước trong sự phát triển của Đất nước đặc biệt trong giai đoạn phát triển về thương mại toàn cầu như hiện nay. Ngay từ khi thành lập Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Seaboat đã đạt được một số thành tựu nhất định. Công ty đã có hoạt động kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân cũng như nhu cầu cho sản xuất. Hoạt động nhập khẩu đã đóng góp đáng kể vào doanh thu, lợi nhuận của công ty, từ đó đảm bảo và nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Những kết quả đạt được trên đã thể hiện sự phấn đấu cố gắng nỗ lực của Công ty trong điều kiện canh tranh gay gắt như ngày nay. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công này Công ty vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, đó là yêu cầu lớn về đầu tư nguồn vốn và chất lượng nguồn nhân lực của Công ty. Với sự đổi mới và những định hướng trong chiến lược kinh doanh trong thời gian tới của ban lãnh đạo công ty, hy vọng là kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty sẽ đạt được khả quan hơn, nâng vị thế của Công ty lên tầm cao mới trước thềm hội nhập với nền kinh tế thế giới. Do thời gian hạn hẹp cũng như kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế, vì thế trong bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót, tồn tại một số vấn đề về giải pháp về phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Seabaot hiện chưa giải quyết tốt. Em rất mong được sự quan tâm chỉ bảo, hướng dẫn nhận xét của TS. Đàm Quang Vinh và các thầy cô giáo trong khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế, đồng thời hy vọng sau này sẽ có người tiếp tục chuyên đề này để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn nữa! Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình "Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài -tập1" PGS.TS Nguyễn Thị Hường, NXB thống kê Hà Nội năm 2002. Giáo trình "Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài -tập2" PGS.TS Nguyễn Thị Hường, NXB thống kê Hà Nội năm 2004. Giáo trình "Quản trị doanh nghiệp" PGS.TS Lê Văn Tâm, TS Ngô Kim Thanh, NXB Lao động - Xã hội năm 2004 Giáo trình "Kinh doanh quốc tế - tập1" PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, NXB. Lao Động Xã Hội, 2001. Giáo trình "Kinh doanh quốc tế - tập2" PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, NXB. Lao Động Xã Hội, 2003. Báo cáo Kết quả kinh doanh – Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat. Luật thương mại Việt Nam (2008) , Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Tạp chí Kinh tế và phát triển. Tạp chí Thương mại. Các trang web www.vietnamnet.vn www.vneconomy.vn www.vnep.org.vn CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THÝÕNG MẠI SEABOAT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM PHÒNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU Độc lập-Tự do-Hạnh phúc BẢN NHẬN XÉT THỰC TẬP Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Seaboat nhận xét về quá trình thực tập của sinh viên: Họ và tên : Nguyễn Văn Chức Lớp : Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế 50B Khoa : Thương Mại và Kinh Tế Quốc Tế Trường : Đại học Kinh Tế Quốc Dân - Hà Nội Trong quá trình thực tập tại Phòng Kinh doanh Xuất, Nhập của Công ty từ 15/8/2011 đến 15/12/2011, sinh viên Nguyễn Văn Chức đã nghiêm túc chấp hành nội qui và qui định của công ty Seaboat, có thái độ tích cực và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Với đề tài: “Phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat’’, Sinh viên Nguyễn Văn Chức đã đi sâu vào nghiên cứu phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Seaboat và đưa ra một số giải pháp có tính khả thi đối với việc phát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty đến năm 2016. Hà Nội, tháng 12 năm 2011 CÁN BỘ HƯỚNG DẪN XÁC NHẬN CỦA TRUNG TÂM NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ... Hà Nội, ngày … tháng … năm 2011

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxPhát triển hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Seaboat.docx
Luận văn liên quan